LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay đời sống của con người ngày càng cao, họ không những có
nhu cầu đầy đủ về vật chất mà còn có nhu cầu được thoả mãn về tinh thần như
vui chơi, giải trí và du lịch. Do đó, du lịch là một trong những ngành có triển
vọng.
Ngành du lịch Việt Nam ra đời muộn hơn so với các nước khác trên
thế giới nhưng vai t
rò
c
ủ
a nó thì không thể phủ nhận. Du lịch là một ngành
“công nghiệp không có ống khói”, mang lại
thu
nhập
GDP lớn cho nền kinh
tế, giải quyết công ăn việc làm cho hàng vạn lao động, góp phần truyền bá
hình ảnh Việt Nam ra toàn thế giới. Nhận thức được điều này, Đảng và nhà
nước đã đưa ra mục tiêu xây dựng ngành du lịch thành ngành kinh tế mũi
nhọn.
Việc nghiên cứu về du lịch trở nên cấp thiết, nó giúp chúng ta có một
cái nhìn đầy đủ, chính xác về du lịch. Điều này có ý nghĩa cả về phương diện
lí luận và thực tiễn. Nó giúp du lịch Việt Nam đạt được những thành tựu mới,
khắc phục được những hạn chế, nhanh chóng đưa du lịch phát triển đúng với
tiềm năng của đất nước, nhanh chóng hội nhập với du lịch khu vực và thế
giới.
Bài thảo luận của nhóm em đề cập đến những nhận thức cơ bản về
"Thực trạng, thuận lợi, khó khăn và giải pháp phát triển du lịch ở Việt
Nam". Do sự hạn chế về kiến thức và thời gian nên không tránh khỏi những
thiếu sót, em mong nhận được sự đóng góp chỉ bảo của cô giáo.
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA DU LỊCH
VIỆT NAM
1.1. Khái quát về sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam trước khi hội nhập
WTO
1.1.1 Lịch sử hình thành ngành du lịch
Ngành Du lịch tại Việt Nam chính thức có mặt khi Quốc trưởng Bảo Đại cho
lập Sở Du lịch Quốc gia ngày 5/6/1951.
Chuyển tiếp sang thời kỳ Việt Nam Cộng hòa, Nha Quốc gia Du lịch điều hành
việc phát triển các tiện nghi du lịch trong nước ở phía nam vĩ tuyến 17 cùng tăng
cường hợp tác quốc tế như việc gửi phái đoàn tham dự Hội nghị Du lịch Quốc tế
ở Brussel năm 1958.
Năm 1961 Nha Du lịch cổ động du lịch "Thăm viếng Đông Dương"với ba chí
điểm: Nha Trang, Đà Lạt và Vũng Tàu. Vì chiến cuộc và thiếu an ninh ngành du
lịch bị hạn chế nhưng chính phủ vẫn cố nâng đỡ kỹ nghệ du lịch như việc phát
hành bộ tem "Du lịch" ngày 12 Tháng Bảy năm 1974.
Đối với miền Bắc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì ngày thành lập ngành Du
lịch Việt Nam được tính là ngày 09/7/1960.
Ngày 9/4/1990 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 119-HĐBT thành
lập Tổng công ty Du lịch Việt Nam.
Ngày 26/10/1992 Chính phủ ban hành Nghị định số 05-CP thành lập Tổng cục
Du lịch.
Ngày 25/12/2002 Bộ Nội vụ ban hành Quyết định số 18/2002/QĐ-BNV về
việc cho phép thành lập Hiệp hội Du lịch Việt Nam.
1.1.2 Quá trình phát triển ngành du lịch trước khi gia nhập WTO
Từ năm 1960 đến 1975: Du lịch Việt Nam hoạt động chủ yếu là đón tiếp các
đoàn khách của Đảng và Nhà nước phục vụ cho quan hệ hợp tác quốc tế, góp
phần đấu tranh giải phóng miền Nam và xây dựng đất nước.
Từ năm 1975 đến 1990: Ngành Du lịch đã làm tốt nhiệm vụ tiếp quản, bảo
toàn và phát triển các cơ sở Du lịch ở các tỉnh, thành phố vừa giải phóng; lần lượt
mở rộng, xây dựng thêm nhiều cơ sở, thành lập các doanh nghiệp du lịch nhà
nước trực thuộc Tổng cục Du lịch và Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố và đặc
khu. Tháng 6 năm 1978, Tổng cục Du lịch Việt Nam được thành lập trực thuộc
Hội đồng Chính phủ, đánh dấu một bước phát triển mới của ngành Du lịch .
Trong giai đoạn này, du lịch đã góp phần tích cực tuyên truyền giới thiệu về
đất nước, con người Việt Nam với bạn bè thế giới và tổ chức cho nhân dân đi du
lịch giao lưu hai miền Nam - Bắc, thiết thực góp phần giáo dục tinh thần yêu
nước, tinh thần tự hào dân tộc. Ngành Du lịch đã phát triển thêm một bước, hoạt
động có kết quả tốt, đặt nền móng cho ngành Du lịch bước vào giai đoạn mới.
Giai đoạn từ 1990 đến nay: Cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước ngành Du
lịch đã khởi sắc, vươn lên đôi mới quản lý và phát triển, đạt được những thành
quả ban đầu quan trọng, ngày càng tăng cả quy mô và chất luợng, dần khẳng định
vai trò, vị trí của mình. Năm 2001 đến 2007, tuy phải đối mặt với rất nhiều khó
khăn như chiến tranh, khủng bố, dịch SARS và cúm gia cầm, nhưng do năng
động, cố gắng vượt khó, chủ động áp dụng các biện pháp tháo gỡ táo bạo, kịp
thời, nên lượng khách và thu nhập hàng năm vẫn tăng trưởng 2 con số.
• Dưới đây là số liệu thống kê về một số chỉ tiêu trong du lịch trong giai
đoạn từ 1990 đến 2006:
* Năm 1990: cả nước chỉ có 350 cơ sở lưu trú du lịch với 16.700 buồng, thu
nhập xã hội từ du lịch mới đạt 1.350 tỷ đồng, chỉ đón hơn 200.000 lượt khách
quốc tế, cả khách quốc tế và nội địa là 250.000
*Giai đoạn từ 1995 đến 2003: lượng khách quốc tế đến Việt Nam du lịch tăng từ
610.000 lên 1.238.500 lượt khách.
* N ăm 2004 : Trong tháng 12 lượng khách quốc tế đến Việt Nam đạt khoảng
283.626 lượt người. Cả năm 2004, lượng khách quốc tế đến Việt Nam đạt
2.927.876 lượt người, tăng 20,5% so năm 2003.
* Năm 2005: Trong tháng 12/2005 lượng khách quốc tế đến Việt Nam ước đạt
308.257 lượt. Trong cả năm 2005 lượng khách quốc tế đến Việt Nam đạt
3.467.757 lượt, tăng 18,4% so với năm 2004.
* Năm 2006: Trong tháng 12/2006 lượng khách quốc tế đến Việt Nam ước đạt
324.625 lượt. Tổng cộng trong 12 tháng lượng khách quốc tế ước đạt 3.583.486
lượt, tăng 3% so với cùng kỳ năm 2005.
Lượng khách du lịch (bao gồm của khách quốc tế và nội địa) tăng không ngừng
từ 250.000 khách quốc tế năm 1990 lên hơn 3,58 triệu lượt khách vào năm 2006.
Thu nhập từ du lịch năm 1990 đạt 13 ngàn tỷ đồng, đến năm 2006, thu nhập từ du
lịch đạt 51 nghìn tỷ đồng.
• Khẩu hiệu ngành du lịch
2001-2004: Việt Nam - Điểm đến của thiên niên kỷ mới
2004-2005: Hãy đến với Việt Nam
2006 - nay: Việt Nam - Vẻ đẹp tiềm ẩn
1.2. Sự phát triển du lịch Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế
Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nhiều lĩnh vực kinh tế khác
và những thuận lợi khi Việt Nam gia nhập WTO thì ngành du lịch Việt nam đã
khởi sắc và ngày càng có tác động tích cực đến đời sống kinh tế xã hội của đất
nước. Số doanh nghiệp du lịch tăng đặc biệt là hệ thống cơ sở lưu trú du lịch với
sự góp mặt của nhiều thành phần kinh tế đã phát huy được hiệu quả tích cực góp
phần vào sự phát triển chung của ngành du lịch.
• Sự phát triển đó được thể hiện dựa trên các số liệu về lượng du khách,
doanh thu và các hoạt động về du lịch mà Việt Nam đã tổ chức được.
*Năm 2007: Nước ta lần đầu tiên đạt 4,23 triệu lượt khách quốc tế. GDP du lịch
chiếm khoảng 4% GDP cả nước (theo cách tính của WTO thì con số này là 9%).
Trong tháng 12/2007 lượng khách quốc tế đến Việt Nam ước đạt 354.000 lượt.
Tổng cộng trong cả năm lượng khách quốc tế ước đạt 4.171.564 lượt, tăng 16,0%
so với năm 2006.
Du lịc nước Ta trong năm này đã có 10 sự kiện tiêu biểu:
• Thành công của Năm du lịch quốc gia "Về thủ đô gió ngàn - Chiến khu
Việt Bắc"
• Ngành du lịch đón vị khách quốc tế thứ 4 triệu
• Quảng bá du lịch Việt Nam trên kênh truyền hình quốc tế CNN
• Tổ chức thành công Hội nghị Bộ trưởng Du lịch VN - Lào - Campuchia và
Hội chợ Du lịch chủ đề "3 quốc gia, 1 điểm đến"
• Chương trình vận động bầu chọn cho vịnh Hạ Long
• Khảo sát xây dựng sản phẩm, các tour du lịch mới
• Festival hoa Đà Lạt thành công
• Bùng nổ các dự án đầu tư FDI vào du lịch
• Mười năm hoạt động của trang web ngành
• Khách du lịch đến miền Trung tăng trưởng cao.
* Năm 2008:Trong tháng 12/2008 lượng khách quốc tế đến Việt Nam ước đạt
375.995 lượt. Tổng cộng trong cả năm 2008 lượng khách quốc tế ước đạt
4.253.740 lượt, tăng 0,6% so với năm 2007.
Những sự kiện tiêu biểu năm 2008 là:
• Năm du lịch miệt vườn: Sự kiện chủ đạo, xuyên suốt về du lịch năm 2008
là Du lịch miệt vườn sông nước Cửu Long. Đến với Cần Thơ, du khách
thăm vùng châu thổ trù phú, sông rạch chằng chịt với hệ sinh thái đa dạng,
những di tích văn hóa phong phú của cộng đồng dân tộc Hoa, Khmer,
Chăm.
• Du lịch về cội nguồn: Đây là năm thứ tư, Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai phối
hợp tổ chức du lịch về cội nguồn, quảng bá các sự kiện văn hóa du lịch độc
đáo của vùng.
• Festival Huế 2008
• Bầu chọn Vịnh Hạ Long trở thành kỳ quan thiên nhiên thế giới.
• Bắn pháo hoa quốc tế dọc hai bên bờ sông Hàn vào thời điểm TP Đà Nẵng
tổ chức các lễ hội như Liên hoan Văn hóa Du lịch biển, lễ hội "Gặp gỡ Bà
Nà"...
• Thi hoa hậu du lịch 2008
• Hoa hậu Hoàn vũ quốc tế tại thành phố Nha
• Diễn đàn du lịch các nước ASEAN và TRAVEX 2009: Đây là sự kiện
thường niên về du lịch có uy tín và quy mô lớn nhất trong khu vực.
*Năm 2009: Trong tháng 12, lượng khách quốc tế đến Việt Nam ước đạt 376,400
lượt. Tính chung cả năm 2009, lượng khách quốc tế ước đạt 3.772.359 lượt, giảm
10,9% so với năm 2008.
Các hoạt động du lịch tiêu biểu năm 2009 là:
• Diễn đàn Du lịch ASEAN 2009 (ATF-09). Chương trình kích cầu du
lịch "Ấn tượng Việt Nam".
• 10. Vịnh Hạ Long vào vòng chung kết Cuộc bầu chọn 7 kỳ quan thiên
nhiên của thế giới. Vịnh Lăng Cô (Thừa Thiên - Huế) được công nhận
và xếp hạng vịnh đẹp thế giới.
• Năm Du lịch Tây Nguyên với chương trình Lễ hội Festival hoa Đà Lạt
năm 2009.
• Lễ hội cồng chiêng Gia Lai
• Lễ hội cà phê Đắc Lắc lần thứ 2
• Lễ hội Rượu trắng Đắk Nông; Cuộc thi pháo hoa Quốc tế tại Đà Nẵng
• Lễ hội biển Nha Trang
• Những ngày văn hóa du lịch Mê Công - Nhật Bản ở Cần Thơ
• Đại hội Thể thao trong nhà châu Á lần thứ 3
• Hội chợ thực phẩm và khách sạn TP Hồ Chí Minh
• Chương trình "3 nước Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia - một điểm đến" tại
TP Hồ Chí Minh.
* Tính đến tháng 8/ 2010: Lượng khách quốc tế đến Việt Nam ước đạt
427.935 lượt, tăng 37,7% so với cùng kỳ năm 2009. Tính chung 8 tháng
năm 2010 ước đạt 3.348.456 lượt, tăng 35,2% so với cùng kỳ năm 2009.
• Năm 2010 cũng diễn ra nhiều sự kiện quan trọng:
Sự kiện "Năm Hà Nội", Lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội
• Festival Huế
• Cuộc thi Hoa hậu Thế giới tại Nha Trang
• Liên hoan phim quốc tế
• Liên hoan múa rối và xiếc quốc tế
Thu nhập từ du lịch năm 1990 đạt 13 ngàn tỷ đồng, đến năm 2009, thu nhập từ
du lịch tăng từ 6,5 đến 9% so với năm 2008, đạt từ 68.000 đến 70.000 tỉ đồng.
Tổng cục Du lịch dự kiến, trong năm 2010, ngành du lịch cả nước sẽ đón khoảng
từ 4,5 đến 4,6 triệu lượt khách quốc tế, tăng từ 18 đến 21% so với năm 2009;
Lượng khách nội địa trong năm 2010 sẽ đạt khoảng 28 triệu lượt khách.
Hệ thống cơ sở lưu trú du lịch ngày càng phát triển và đa dạng các loại hình. Đến
nay, cả nước có 8.556 cơ sở lưu trú du lịch với tổng số 170.551 buồng, tăng 25
lần so với năm 1990 với tốc độ tăng trưởng bình quân là 12,6%/năm (trong khi đó
trên phạm vi toàn thế giới tốc độ tăng cơ sở lưu trú du lịch bình quân 3% ).
Cùng với sự phát triển về số lượng, hệ thống cơ sở lưu trú du lịch Việt đã có
những chuyển biến mạnh về chất lượng. Đến nay, cả nước đã có tổng số 4.283 cơ
sở lưu trú du lịch được xếp từ hạng đạt tiêu chuẩn kinh doanh LTDL đến hạng 5
sao, cụ thể: 25 khách sạn 5 sao với 7.167 buồng, 69 khách sạn 4 sao với 8.800
buồng, 144 khách sạn 3 sao với 10.307 buồng, 590 khách sạn 2 sao với 24.041
buồng, 632 khách sạn 1 sao với 16.976 buồng và 2.830 khách sạn đạt tiêu chuẩn
tối thiểu với 42.697 buồng
Toàn ngành du lịch hiện có 230.000 lao động trực tiếp trong đó lao động làm việc
trong trong hệ thống cơ sở lưu trú du lịch là 120.000.
CHƯƠNG II
NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN KHI DU LỊCH VIỆT NAM HỘI
NHẬP THẾ GIỚI
2.1.THUẬN LỢI
2.1.1 Tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng
Việt Nam nằm trên bán đảo Đông Dương, gần trung tâm Đông Nam
Á, vừa có biên giới lục địa, vừa có hải giới rộng lớn, là cửa ngõ đi ra Thái
Bình Dương của một số nước và của vùng Đông Nam Á. Nước ta nằm ở vành
đai nhiệt đới bắc bán cầu, đúng vào khu vực gió mùa Đông Nam Á, do đó,
mang lại đặc trưng khí hậu nhiệt đới gió mùa Châu Á. Nhờ đó mà Việt Nam
có hệ thống động thực vật phong phú, đa dạng. Việt Nam còn có những danh
thắng đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới như vịnh Hạ
Long, phố cổ Hội An, cố đô Huế, thánh địa Mỹ Sơn, vườn quốc gia Phong
Nha- Kẻ Bảng ngoài ra còn có di sản văn hoá thế giới phi vật thể là nhã nhạc
Huế. Chúng ta còn thu hút du khách nước ngoài bằng hàng loạt các điểm du
lịch sinh thái kéo dài khắp ba miền tổ quốc: Bản Gốc, Mẫu Sơn, Sa Pa, Thác
Mơ, hồ Ba Bể, vườn quốc gia Ba Vì, Mai Châu, Tam Cốc- Bích Động, Cát
Tiên, khu ngập nước Văn Long, Bà Nà, Đồng Tháp Mười, địa đạo Củ Chi, U
Minh… Hiện nay, du lịch sinh thái đang được nhiều du khách quan tâm nên
đây là điều kiện tốt để du lịch Việt Nam khai thác tiềm năng sẵn có. Mặt khác
lãnh thổ nước ta kéo dài từ Bắc vào Nam tiếp giáp với biển cũng tạo cho
chúng ta những bãi biển cát mịn và đẹp như Trà Cổ, Bãi Cháy, Đồ Sơn, Sầm
Sơn, Nha Trang, Vũng Tàu…
Ngoài những thắnh cảnh tươi đẹp, Việt Nam còn có rất nhiều các làng
nghề, lễ hội truyên thống. Tiềm năng phát triển du lịch làng nghề truyền thống
của nước ta rất lớn, mỗi làng nghề gắn với một vùng văn hoá, hệ thống di tích
và truyền thống riêng, với cung cách sáng tạo sản phẩm riêng của mình. Du
khảo hết các làng nghề truyền thống, du khách có thể thấy rõ bản sắc cũng
như đặc trưng của bộ mặt nông thôn Việt Nam. Hiện nay, cả nước đã có hơn
2000 làng nghề thủ công thuộc 11 nhóm nghề chính như: cói, sơn mài, mây
tre đan, gốm sứ, thêu ren, dệt, gỗ, đá, giấy, tranh dân gian. Đi dọc Việt Nam
du khách có thể thấy nhiều vùng quê mà mật độ làng nghề truyền thống dày
đặc rải từ bắc vào nam. Những cái nôi của làng nghề là Hà Nôi, Hà Tây,
Hả
i
Dương,
Hưng Yên, Bắc Ninh, Thừa Thiên Huế… Thực tế, hiện nay du khách
muốn đến tận làng nghề nhìn cảnh cây đa, bến nước, sân đình, thăm các di
tích của một làng nghề truyền thống Việt Nam, tìm hiểu các vị tổ làng nghề
hoặc các danh nhân văn hoá. Làng nghề truyền thống Việt Nam chứa đựng
ti
ềm
năng
dồi dào về du lịch còn bởi vì du khách muốn đến tận nơi xem các
công đoạn nghệ nhân làm ra sản phẩm và cũng muốn tận tay tham gia làm sản
phẩm theo trí tưởng tượng của riêng mình. Tìm hiểu về văn hoá và truyền
thống làng nghề là điều mà du khách trong và ngoài nước quan tâm.
Việt Nam còn có các tài nguyên có giá trị lịch sử, các tài nguyên có
giá trị văn hoá thu hút khách du lịch với mục đích tham quan, nghiên cứu. Với
lịch sử hơn 4000 năm dựng nước và giữ
nước,
Việ
t Nam đã tạo dựng được
một nền văn hoá phong phú và độc đáo. Không những vậy 54 dân tộc anh em
cùng chung sống trên một mảnh đất, lại có bao phong tục, tập quán, lễ hội
khác nhau tạo nên sự đa dạng cho sản phẩm du lịch Việt Nam.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã và đang xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng, không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ. Đặc
biệt con người Việt Nam thân thiện, hiếu khách đã tạo sự thoải mái cho du
khách.
Chính tất cả những tiềm năng trên là một nền tảng để du lịch Việt
Nam phát triển, hội nhập với các nước trên thế giới. Nhưng vấn đề là chúng ta
tận dụng những tiềm năng đó như thế nào nó
phụ
thuộ
c vào cách làm của
chúng ta.
2.1.2 Chính sách khuyến khích phát triển du lịch của Nhà nước
Những năm gần đây du lịch đã được nhà nước chú trọng phát triển bởi tiềm
năng lợi ích mà du lich mang lại là rất lớn.
- Giao thông thuận tiện giúp du khách thuận tiện đi lại và giảm chi phí đi
lại, nhiều công trình như đường hầm, cáp treo .. được xây dựng.
- Các di tích, di sản, tài nguyên rừng, tài nguyên biển được tôn tạo, bảo tồn
và phát triển.
- Nhiều khu vui chơi, giải trí được xây dựng tại các địa điểm du lich hấp dẫn.
- Có chính sách phát triển du lịch cho từng địa phương.
- Tổ chức các sự kiện , các chương trình lớn kích cầu về du lịch.
- Mở trường , mở khoa đào tạo về khách sạn du lịch.
- Tạo dựng hình ảnh , quảng bá văn hóa , thắng cảnh của Việt Nam ra thế
giới nhằm thu hút khách quốc tế.
2.1.3 Thị trường du lịch ngày càng được mở rộng
Đời sống của nhân dân hiện nay ngày càng được nâng cao vì thế nhu cầu về du
lịch ngày càng nhiều, hơn thế nhận thức của người dân cũng cao hơn, mong muốn
có sức khỏe tốt, muốn khám phá thế giới, vui chơi giải trí. Cuộc sống thành thị ồn
ào, ngột ngạt, căng thẳng cũng khiến con người ta có nhu cầu tìm đến những nơi
trong lành, thoải mái, yên tĩnh...
Việc quảng bá hình ảnh Việt Nam cũng tạo thuận lợi cho việc chúng ta khai
thác thị trường ngoài nước góp phần tăng nguồn ngoại tệ và phát triển thương
hiệu du lich Việt Nam.
2.1.4 Các loại hình du lịch ngày càng đa dạng hóa và phát triển hơn.
Nằm trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam được thiên nhiên ban tặng nguồn
tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng với những danh lam, thắng cảnh nổi tiếng.
Bên cạnh đó, lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của cha ông đã để lại
cho chúng ta những di tích lịch sử- văn hóa quý giá. Bởi vậy loại hình du lịch đã
và đang phát triển đầu tiên phải kể đến là:
* Tham quan di tích - thắng cảnh như: Vịnh Hạ Long, động Phong Nha, đền Ngọc
Sơn, và hồ Hoàn Kiếm, chùa Trấn Quốc và Hồ Tây…
* Du lịch lễ hội: Festival Huế, hội chùa Hương, hội Lim…Du lịch phố cổ: Hội
An, Hà Nội, phố Hiến - Hưng Yên…
* Du lịch sinh thái: Nhà vườn Huế, bãi biển Lăng Cô, rừng Cúc Phương, hồ Ba
Bể…
* Du lịch nghỉ dưỡng và chữa bệnh: tắm nước khoáng Kim Bôi - Hòa Bình, nhà
nghỉ ở Phan Thiết, Nha Trang, châm cứu ở Hà Nội…
* Du lịch MICE, tức là loại hình du lịch theo dạng gặp gỡ xúc tiến, hội nghị, hội
thảo, du lịch chuyên đề ở Vũng Tàu, Đà Nắng…
* Du lịch dựa vào cộng đồng vì người nghèo nhằm mục tiêu xóa đói giảm nghèo
như ở Hà Nội, Lào Cai, Sa Pa…
* Du lịch hoa ở Đà Lạt, Hà Nội, TPHCM…
* Tham quan các trại điêu khắc ở Huế, Đà Nẵng, Phú Thọ…
* Du lịch bụi bằng xe đạp, xe máy, ô tô buýt, xích lô ở Hà Nội, xe trâu ở làng
gốm Bát Tràng, cưỡi ngựa ở Lâm Đồng, cưỡi voi ở Tây Nguyên, du thuyền trên
sông Hồng, sông Cửu Long…
* Du lịch cuối tuần ở TPHCM, Hà Tây, Vũng Tàu…
* Du lịch tuần trăng mật ở Đà Lạt, Sa Pa, Tam Đảo…
* Du lịch tham quan các bảo tàng ở các thành phố lớn.
* Du lịch làng nghề: gốm Bát Tràng, tơ lụa Vạn Phúc - Hà Đông…
* Du lịch mua sắm bắt đầu phát triển ở TPHCM, Hà Nội, Huế…
* Du lịch ẩm thực: tiệc cung đình Huế hay ẩm thực Hà Nội.
* Du lịch mạo hiểm: lặn biển ở Nha Trang, leo núi Tây Bắc, xuyên rừng Cúc
Phương…
* Du lịch thể thao: dù lượn ở Nha Trang, Tuần Châu, sân gôn Đồng Mô…
Với sự đa dạng về loại hình du lịch ngành du lịch Việt Nam đã phát triển
vượt bậc cũng có nghĩa đã đáp ứng được nhiều hơn nhu cầu du lịch của khách
trong nước cũng như khách quốc tế.
2.2 KHÓ KHĂN
2.2.1 Khó khăn trong quy hoạch
Được coi là điểm sáng của năm 2005 tốc độ tăng trưởng được duy trì ở mức
cao (trên 20%), thu hút hơn 3,4 triệu khách quốc tế và 16 triệu khách nội địa. Tuy
nhiên, so với các nước trong khu vực, số khách du lịch quốc tế đến Việt Nam vẫn
còn nhỏ bé.
“Hiện chúng ta đang thiếu các điểm du lịch quy mô, “ra tấm ra miếng”. Thực
trạng đầu tư manh mún, nhỏ lẻ, chạy theo số lượng mà không chú ý đến tính
chuyên nghiệp” - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch Phạm Từ thừa nhận,
“một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do qui hoạch du lịch
tổng thể, chi tiết từng vùng chưa được thực hiện tốt”.
Vấn đề đặt ra là nêu chúng ta không có biện pháp quy hoạch ngay thì liệu một
thời gian nữa còn có chỗ mà quy hoạch không và du lịch có thật sự được phát
triển .
2.2.2 Khủng hoảng kinh tế, kinh tế suy thoái, dịch bệnh, thiên tai.
Năm 2009, khủng hoảng kinh tế toàn cầu điều đó ảnh hưởng rấ lớn tới các
nước lớn, chi tiêu của người dân hạn hẹp vì thế mà lượng khách nước ngoài đến
Việt Nam giảm sút, khách du lịch trong nước cũng theo đà giảm theo. Điều đó
khẳng định tình hình kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển của du lịch
Hơn thế nữa, cùng với sự nóng lên của trái đất làm cho dịch bệnh và thiên tai
hoành hành ở nhiều nơi không những làm hư hại tài nguyên du lịch mà còn hạn
chế lượng khách du lịch tơi các nơi thiên tai, dịch bệnh do e ngại về sự an toàn và
sức khỏe của họ.
2.2.3 Ý thức người dân và việc bảo vệ môi trường
Hiện nay có một tình trạng là khách du lịch đi đến các điểm du lịch xả rác bừa
bãi gây mất cảnh quan và ô nhiễm môi trường, trước tình hình đó ngành du lịch
phải có biện pháp cụ thể để ngăn chặn nếu không sẽ để lại hình ảnh xấu trong
mắt khách du lịch quốc tế và ảnh hưởng tới môi trường sống .
- Vấn đề nữa là người dân chưa có ý thức bảo vệ tại nguyên du lịch, chưa
nhận biết tầm quan trọng của việc bảo vệ tài nguyên du lịch, khiến việc
tu sửa, bảo tồn, phát triển gặp khó khăn. Tài nguyên và môi trường đang
có sự suy giảm do khai thác, sử dụng thiếu hợp lý và những tác động
của thiên thai ngày càng tăng và diễn ra ở nhiều vùng, nhiều địa phương
trong nước.
- Nhiều tài nguyên có tiềm năng khai thác nhưng do bị mai một, lãng
quên, và bị hủy hoại nên vẫn bỏ ngỏ.
2.2.4 Nhân lực cho ngành du lịch chưa đạt yêu cầu
Việc gia tăng lượng khách du lich hàng năm là một dấu hiệu đáng
mừng, nhưng cũng không đủ cầu và cung như thế nào để thỏa mãn nhu cầu
của cầu là một vấn đề đặt ra cho ngành du lịch, bởi đội ngũ nhân lực cho
ngành du lịch còn đang thiếu và yếu về chuyên môn, yếu về ngoại ngữ. Nguồn
nhân lực đóng vai trò quan trọng quyết định đến sự phát triển thì cho đến
nay, chúng ta vẫn chưa đào tạo được đội ngũ nhân viên du lịch (lái xe, tiếp
viên, hướng dẫn viên…) có nghiệp vụ, có văn hoá, biết ngoại ngữ đủ để
đáp ứng yêu cầu của thị trường đang ngày càng tăng. Hoạt động du lịch
ngày càng đa dạng hoá về sản phẩm du lịch, loại hình du lịch và chất lượng
các sản phẩm du lịch. Điều này đòi hỏi đội ngũ lao động phải không ngừng
nâng cao trình độ nghiệp vụ.
Những
ngườ
i làm công tác quản lý trong
ngành du lịch có trình độ không đồng đều, một số chưa qua đào tạo về quản
lý doanh nghiệp du lịch. Tuy tiềm năng du lịch rất lớn nhưng hệ thống cơ sở
đào tạo du lịch
còn
quá
ít.
Trong khi nguồn nhân lực có chuyên môn, nghiệp vụ còn thiếu thì sự
sắp xếp bộ máy cán bộ không hợp lý, rườm rà gây ra lãng phí rất nhiều nhân
lực. Do đó, kiện toàn sắp xếp lại đội ngũ cán bộ là một đòi hỏi cần phải giải
quyết ngay.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị đào tạo mới ở các trường và đào tạo lại, bồi
dưỡng ở các cơ quan, doanh nghiệp, mặc dù đã được đầu tư xây dựng, trang bị
mới và nâng cấp nhưng vẫn thiếu, không đồng bộ, nhất là ở các cơ sở đào tạo mới
tham gia vào đào tạo du lịch. Đội ngũ giáo viên, giảng viên và đào tạo viên du
lịch hạn chế về số lượng, chất lượng. Đặc biệt, thiếu giáo viên tay nghề cao. Số
giảng viên sử dụng thành thạo ngoại ngữ không nhiều. Phương pháp đào tạo nặng
về lý thuyết, độc thoại. Lực lượng giáo viên cơ hữu mỏng và rất khác nhau giữa
các trường. Các trường ngoài công lập và trường mới thành lập có mở ngành du
lịch tỷ lệ giáo viên cơ hữu rất thấp, thường dưới 50% .
2.2.5 Công tác marketing chưa được triển khai toàn diện
Hoạt động Marketing cho ngành du lịch bao gồm rất nhiều hoạt động từ
xúc tiến quảng cáo ở nước ngoài cho tới thu thập thông tin về các thị trường và
khách hàng tiềm năng và hiện tại, thúc đẩy từng loại hình và dịch vụ du lịch.
Chúng ta chưa đầu tư đầy đủ vào hoạt động marketing giới thiệu về Việt Nam
như một điểm đến của du lịch ở nước ngoài và vẫn chưa có được một chiến lược
để khai thác tối đa tiềm năng du lịch của Việt Nam. Mặc dù có các chương trình
khuyếch chương ở trong nước nhưng các chương trình này không giúp thu hút
được được khách du lịch mới đến Việt nam vì chúng hướng vào những khách du
lịch đang ở Việt Nam rồi. Hơn nữa, hoạt động xúc tiến quảng cáo ở Việt Nam