Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Đánh giá tình hình lạm phát của việt nam trong những năm qua (2008 2011) các giải pháp kiểm soat lạm phát mà chính phủ việt nam đã và đang thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (494.74 KB, 21 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU.

Bất kỳ nền kinh tế nào, từ mô hình tập trung quan liêu bao cấp đến kinh tế thị
trường, muốn phát triển vững mạnh đều phải quan tâm đặc biệt tới tam giác: tăng trưởng,
thất nghiệp và lạm phát. Chúng liên kết hay đối lập, chúng liên hợp những nhịp độ của
tăng trưởng, sự tăng lên hay tụt xuống của những lớp thất nghiệp dưới làm sóng lạm phát.
Lạm phát, đó là hiện tượng mất cân bằng kinh tế phổ biến, là căn bệnh kinh niên của kinh
tế thị trường. Tuy nhiên lạm phát cũng có tính chất hai mặt của nó. Một mặt nó kích thích
nền kinh tế phát triển nếu tốc độ tăng của nó phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Mặt
khác, nếu tốc độ lạm phát tăng cao sẽ gây ra những biến động kinh tế hết sức nghiêm
trọng, như biến dạng cơ cấu sản xuất về việc làm, thu nhập bất bình đẳng, tỷ lệ thất
nghiệp tăng....
Vì vậy, để có thể ổn định kinh tế ở một mức nhất định, lạm phát cần giảm xuống ở
mức có thể chấp nhận được, nên muốn ổn định đất nước cả về kinh tế và xã hội, để đảm
bảo quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi người dân thì vấn đề tăng trưởng kinh tế và chống lạm
phát phải được thực hiện một cách thống nhất. Vậy thực trạng lạm phát những năm qua ở
Việt Nam diễn biến như thế nào và Chính phủ đã và đang thực hiện những biện pháp nào
để kiểm soát lạm phát?

1


B. NỘI DUNG.
I.

Cơ sở lý luận.
1.1. Khái niệm và các mức độ lạm phát.
1.1.1. Khái niệm
Cho đến nay, tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về lạm phát. Xét trên góc độ dấu
hiệu biểu hiện và nguyên nhân chính của lạm phát, người ta thường đề cập đến các quan
điểm thông dụng về lạm phát như sau:


- Quan điểm đồng nhất giữa lạm phát và sự tăng giá - gọi là lạm phát giá cả. Theo quan
điểm này thì lạm phát là sự tăng giá nói chung của hàng hoá. Khi đó, giá cả của hàng hoá
không phản ánh đúng giá trị của chúng (giá cả cao hơn giá trị thực của hàng hoá), điều đó
có nghĩa sức mua của đồng tiền bị giảm sút.
- Lạm phát lưu thông tiền tệ: Đây là quan điểm cho rằng lạm phát là kết quả của việc gia
tăng khối lượng tiền trong lưu thông với một tỷ lệ cao, ngược lại lạm phát cao kéo theo
một sự tăng trưởng tiền tệ cao.
- Lạm phát nhu cầu: là lạm phát do cầu quá mức- gọi là lạm phát cầu kéo. Lạm phát này
xảy ra khi các hiện tượng của nền kinh tế làm tăng tổng cầu tiền, dẫn dến tăng tổng cung
tiền, trong điều kiện tăng trưởng kinh tế không tương xứng đã dẫn đến lạm phát. Lạm
phát nhu cầu có thể bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là tăng cầu tiền do
thâm hụt ngân sách hay tăng cầu tiền bắt nguồn từ nhu cầu về hàng hóa.
- Lạm phát chi phí: là lạm phát do chi phí tăng trong khi khối lượng sản xuất không tăng
hoặc tăng ít- gọi là lạm phát chi phí đẩy. Chi phí sản xuất tăng lên khiến cho mức cung
tiền vượt quá nhu cầu, đã dẫn đến lạm phát. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát phí
đẩy, như là: tăng lương vượt quá mức tăng năng suất lao động xã hội; đầu tư cơ bản sử
dụng vốn từ NSNN và vốn tín dụng kém hiệu quả; nguyên liệu đầu vào của một số sản
phẩm thiết yếu tăng lên; sự lãng phí quá mức trong tiêu dùng xã hội; nghiệp vụ chiết khấu
và tái chiết khấu các chứng từ có giá bị lạm dụng;…
Tóm lại, có thể hiểu lạm phát là hiện tượng phát hành tiền vào lưu thông quá
lớn, vượt quá số lượng tiền cần thiết trong lưu thông, làm cho sức mua của đồng tiền
giảm sút không phù hợp với giá trị danh nghĩa mà nó đại diện.
1.1.2. Các mức độ lạm phát.
Lạm phát là thuật ngữ chung để chỉ sự mất giá của giấy bạc. Tùy theo mức độ biểu
hiện và ảnh hưởng của nó đối với sự phát triển kinh tế xã hội, lạm phát được chia thành
các loại sau đây:
2


Có 3 mức độ lạm phát:

- Lạm phát vừa phải: Đây là lạm phát mà tỷ lệ tăng giá của hàng hoá trong khoảng dưới
10%/ năm, còn gọi là lạm phát 1 con số.
Loại lạm phát này thường thấy ở các nước có nền kinh tế phát triển. Nguyên nhân của loại
lạm phát này có thể do:
+ Hiện tượng kinh tế tự nhiên: sút giảm sản lượng nông nghiệp cục bộ, khắc phục
hậu quả thiên tai một vùng...
+ Nhà nước điều chỉnh chỉ tiêu phát triển kinh tế vĩ mô, như tăng lương, tăng giá
thu mua nông phẩm, khởi công những công trình quốc gia...
+ Chính phủ duy trì mức độ lạm phát này với mục đích riêng.
Lạm phát vừa phải không ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển kinh tế xã hội. Thậm
chí nó còn tác động ngược lại làm cho nền kinh tế xã hội năng động hơn. Vì vậy mà nhiều
chính phủ còn có kế hoạch duy trì lạm phát vừa phải trong kế hoạch phát triển kinh tế xã
hội của mình.
- Lạm phát phi mã: là lạm phát xảy ra khi giá cả hàng hoá bắt đầu tăng với tỷ lệ hai hoặc
ba con số (tối đa là 200%).
Thông thường lạm phát phi mã có ảnh hưởng xấu đến sự phát triển kinh tế xã hội. Nếu
không có biện pháp khắc phục kịp thời thì lạm phát này sẽ là cơ sở dẫn đến lạm phát cao
hơn.
- Siêu lạm phát: là loại lạm phát mà giá cả hàng hoá tăng với tỷ lệ trên 200%. Khi đó giá
cả của tất cả các hàng hóa tăng cao gấp nhiều lần lạm phát phi mã. Loại lạm phát này có
tốc độ tăng rất nhanh, liên tục và không thể kiềm chế được.
Loại lạm phát này ảnh hưởng xấu đến sự phát triển kinh tế xã hội. Nó phá vỡ hầu hết các
quan hệ cân đối kinh tế quốc dân. Nếu không có những giải pháp đột phá thì không thể
khắc phục được tình trạng siêu lạm phát này.
1.2. Nguyên nhân chủ yếu dẫn tới lạm phát.
Khi xem xét nguyên nhân dẫn đến lạm phát, người ta thường chia thành các nhóm
nguyên nhân như sau:
- Nhóm nguyên nhân liên quan đến các chính sách của Nhà nước: Lạm phát do nguyên
nhân này thường xảy ra khi có những thay đổi về chính sách tài chính-tiền tệ của Chính
phủ như chính sách thu chi NSNN, chính sách tiền tệ, chính sách giá cả, chính sách tỷ giá,

…làm cho khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế biến động hay làm cho giá ngoại tệ tăng
lên. Nhìn chung, Chính phủ chỉ ra những quyết định thay đổi các chính sách trên nhằm
3


mục đích điều tiết vĩ mô theo hướng có lợi cho nền kinh tế, nhưng đôi khi do không lường
trước được những biến động thực tế nên đã gây ra tình trạng lạm phát. Chẳng hạn, trong
một số trường hợp do sự thay đổi chính sách thu chi NSNN của Chính phủ đã dẫn đến
tình trạng bội chi ngân sách và buộc phải phát hành tiền để bù đắp. Do phát hành vượt
quá lượng tiền cần thiết nên lạm phát đã xảy ra; hoặc những thay đổi trong chính sách tiền
tệ tín dụng: ngân hàng trung ương ra quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã làm gia tăng
khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế, nếu lượng tiền gia tăng này quá lớn, vượt quá
nhu cầu của nền kinh tế sẽ dẫn đến lạm phát xảy ra.
- Nhóm nguyên nhân liên quan đến các chủ thể kinh doanh: Trong thực tế, do quản lý
điều hành kinh doanh yếu kém, các cơ sở kinh doanh có thể làm tăng giá cả các yếu tố
đầu vào. Khi giá cả của các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất tăng lên, đặc biệt là giá
các nguyên nhiên vật liệu cơ bản của nền sản xuất (xăng, dầu, sắt, thép, xi-măng,...) gia
tăng sẽ đội giá thành sản phẩm và làm cho giá bán sản phẩm tăng lên. Khi giá bán của các
các sản phẩm thiết yếu tăng lên, sẽ gây ra hiệu ứng tăng giá dây chuyền trên diện rộng.
Lúc này, nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát.Trong trường hợp này, khi giá cả của
hàng hóa tăng lên trên diện rộng sẽ có tác động ngược trở lại đối với giá cả các yếu tố đầu
vào. Quá trình này cứ tiếp diễn sẽ gây ra vòng xoáy lạm phát. Lạm phát ở mức độ cao đều
ẩn chứa các nguyên nhân này.
- Nhóm nguyên nhân liên quan đến điều kiện tự nhiên: Khi xảy ra những rủi ro như dịch
bệnh, hạn hán, lũ lụt, động đất, núi lửa,... trên diện rộng thường để lại hậu quả nghiêm
trọng đối với nền kinh tế xã hội và để khắc phục đòi hỏi Nhà nước cần chi một lượng tiền
không nhỏ vào lưu thông. Bên cạnh đó, tình trạng khan hiếm hàng hóa cục bộ và nhất thời
cũng là một hiện tượng tất yếu của hậu thiên tai, dịch bệnh. Lúc này, nếu Chính phủ
không có những kế sách khắc phục những rủi ro này một cách phù hợp thì chính những
hiện tượng này đã đẩy khu vực đó và nền kinh tế rơi vào lạm phát. Tuy nhiên, lạm phát

bắt nguồn từ nguyên nhân này hầu như chỉ xảy ra ở những nền kinh tế yếu kém.
Ngoài những nhóm nguyên nhân trên, lạm phát còn có thể xảy ra bởi một số
nguyên nhân khác như là: xảy ra chiến tranh, bất ổn chính trị, xảy ra khủng hoảng tài
chính tiền tệ,…
Thông thường, một nền kinh tế xảy ra lạm phát không thể chỉ bắt nguồn bởi một
hoặc một nhóm nguyên nhân, mà sẽ là kết quả của tổng hợp tác động của nhiều nguyên
nhân nêu trên.

4


1.3. Ảnh hưởng của lạm phát đến nền kinh tế.
Nhìn chung, lạm phát có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển kinh tế xã hội tuỳ
theo mức độ của nó.
- Nếu lạm phát ở mức độ vừa phải thì nó sẽ có tác dụng kích thích nền kinh tế xã hội phát
triển. Thậm chí nhiều nước còn coi đây là như là một chính sách của Nhà nước để thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Vì khi đó, cung hàng hoá sẽ nhỏ hơn cầu hàng hoá ở mức vừa
phải dẫn đến sẽ kích thích sản xuất trong nước phát triển, giảm tình trạng thất nghiệp,….
Mặt khác, khi đó, giá trị của đồng nội tệ bị mất giá nhẹ so với đồng ngoại tệ, điều này sẽ
kích thích hoạt động xuất khẩu, hạn chế hoạt động nhập khẩu,....
- Tuy nhiên, nếu lạm phát ở mức độ quá cao (lạm phát phi mã và siêu lạm phát) thì lại có
ảnh hưởng xấu đến các lĩnh vực của nền kinh tế:
+ Trong lĩnh vực sản xuất, lạm phát làm cho giá cả vật tư, nguyên liệu, hàng hoá
tăng từ đó dẫn đến lợi nhuận ngày càng giảm sút và không chính xác, qui mô sản xuất
ngày càng bị thu hẹp, gia tăng tình trạng phát triển không đều, mất cân đối giữa các ngành
sản xuất.
+ Trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá, lạm phát làm rối loạn quá trình lưu thông
hàng hoá, kích thích tâm lí đầu cơ tích trữ hàng hoá, tạo nên nhu cầu giả tạo, làm cho sự
mất cân đối giữa cung và cầu ngày càng gia tăng.
+ Trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng, lạm phát phá vỡ các chức năng của tiền tệ, làm

cho sức mua của đồng tiền giảm sút một cách nhanh chóng, hoạt động của hệ thống tín
dụng ngân hàng rơi vào tình trạng khủng hoảng → ảnh hưởng lớn đến vai trò điều hoà lưu
thông tiền tệ của ngân hàng.
+ Trong lĩnh vực tài chính Nhà nước, lạm phát làm cho nguồn thu NSNN ngày
càng bị thu hẹp dẫn đến tình trạng bội chi NS ngày càng tăng.
+ Đối với tiêu dùng và đời sống của người lao động, lạm phát làm cho tiêu dùng
thực tế giảm, đời sống dân cư trở nên khó khăn, tình trạng thất nghiệp ngày càng gia tăng.
Tóm lại, hậu quả của lạm phát là rất nặng nề và nghiêm trọng, ảnh hưởng đến toàn
bộ đời sống kinh tế xã hội của đất nước.
1.4. Các biện pháp kiểm soát lạm phát.
Về dài hạn, việc kiềm chế lạm phát, giữ giá trị tiền tệ ổn định sẽ tạo điều kiện tăng
sản lượng thực tế và giảm thất nghiệp. Vì thể duy trì sự ổn định tiền tệ là mục tiêu dài hạn
của bất kỳ nền kinh tế nào. Nhưng trong từng thời kỳ việc lựa chọn cac giải pháp kiềm
chế lạm phát cũng như mức độ tác động của nó phải phù hợp với yêu cầu tăng trưởng và
5


các áp lực xã hội mà nền kinh tế phải gánh chịu. Chính phủ các nước có thể chọn chiến
lược giảm lạm phát từ từ, ít gây biến động cho nền kinh tế hoặc chiến lược giảm tỷ lệ lạm
phát nhanh chóng tạo nên sự giảm mạnh về sản lượng trong quá trình điều chỉnh.
a. Giải pháp cấp bách:
Đây được coi là những giải pháp tình thế, được áp dụng với mục đích giảm tức
thời "cơn sốt" lạm phát để có cơ sở áp dụng các giải pháp chiến lược lâu dài.
- Biện pháp về tiền tệ- tín dụng: Mục đích là giảm bớt lượng tiền mặt trong lưu thông, và
kiểm soát được quá trình lưu thông tiền tệ.
+ Quản lí chặt chẽ việc cung ứng tiền, thực hiện chính sách đóng băng tiền tệ.
+ Quản lí và hạn chế thật mạnh khả năng "tạo tiền" của NHTM bằng cách tăng tỷ
lệ dự trữ bắt buộc, xiết chặt tín dụng,…
+ Nâng cao lãi suất tín dụng: Để biện pháp này thật sự có hiệu quả thì mức lãi suất
phải đủ "hấp dẫn" và biến động theo tỷ lệ lạm phát, đảm bảo lãi suất thực phải lớn hơn 0.

+ Các NHTM phải đa dạng hoá các hình thức huy động vốn nhàn rỗi trong công
chúng: phát hành các loại trái phiếu, tín phiếu ngân hàng,…
- Biện pháp về tài chính ngân sách: Mục đích là làm giảm bớt tình trạng mất cân đối trong
thu chi NS tiến tới cân bằng ngân sách.
+ Tiết kiệm chi NS bằng cách cắt giảm các khoản chi không tác động một cách
trực tiếp đến sự phát triển có hiệu quả của nền kinh tế: chi cho bộ máy quản lí hành chính,
chi phúc lợi xã hội,…
+ Tăng cường và nâng cao hiệu quả thu của NSNN bằng cách: cải cách chính sách
thuế theo hướng mở rộng và nuôi dưỡng nguồn thu (chống thất thu thuế, thu đúng, thu đủ,
công bằng để không gây ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và đời sống).
+ Thực hiện chính sách thu bù đắp thiếu hụt ngân sách: Vay (trong và ngoài nước,
viện trợ,..)
- Các biện pháp khác:
+ Nhà nước phải thực hiện chính sách kiểm soát giá cả và có biện pháp điều tiết
giá cả thị trường đối với một số mặt hàng thiết yếu của sản xuất và đời sống, như: trợ giá,
qui định mức giá trần, điều tiết thông qua quĩ dự trữ,..
+ Khuyến khích tự do mậu dịch, nới lỏng thuế quan nhằm mục đích tăng quĩ hàng
hoá tiêu dùng, giảm bớt sự mất cân đối giữa tiền và hàng trong lưu thông.
6


+ Nhà nước phải có biện pháp để ổn định giá vàng và ngoại tệ nhằm tạo tâm lí ổn
định giá cả các mặt hàng khác trong thị trường, như: tung quĩ dự trữ ngoại hối ra để điều
tiết thị trường, kiểm soát chặt chẽ ngoại hối,...
b. Giải pháp ổn định tiền tệ chiến lược:
Đây là biện pháp có tác động lâu dài đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
- Xây dựng kế hoạch tổng thể phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá của nền kinh tế
quốc dân, vì xuất phát từ nguyên lí "lưu thông hàng hoá là tiền đề của lưu thông tiền tệ" ,
nên nếu quĩ hàng hoá được tạo ra với số lượng lớn, phong phú về chủng loại, giá cả ổn
định,… sẽ là tiền đề vững chắc để ổn định lưu thông tiền tệ.

- Điều chỉnh cơ cấu kinh tế phát triển ngành hàng hoá "mũi nhọn" cho xuất khẩu. Mục
đích: vừa đáp ứng các nhu cầu cơ bản đời sống và việc làm của nhân dân lao động, vừa
tạo nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia, vừa tác động đến các hoạt động của các ngành kinh
tế khác, do đó là cơ sở để ổn định lưu thông tiền tệ trong nước.
- Nâng cao hiệu lực của bộ máy quản lí Nhà nước, vì vai trò của Nhà nước đối với quản lí
kinh tế vĩ mô là rất to lớn. Nhà nước là người duy nhất đảm bảo tính công bằng và ổn
định trong kinh tế, đồng thời Nhà nước có thể tác động để thúc đẩy hiệu quả và tăng
trưởng kinh tế.
Để thực hiện được mục tiêu này cần phải tinh giản biên chế, kiện toàn bộ máy
hành chính,.. từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng các khoản chi NSNN, ổn định ngân sách
vững chắc và ổn định tiền tệ.
II. Thực trạng lạm phát tại Việt Nam trong những năm qua.
2.1. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn 2008-2011.
Lạm phát là sự tăng lên của mức giá chung của nền kinh tế trong một thời hạn nhất
định. Lạm phát có thể được đo lường bằng nhiều cách khác nhau. Tuy vậy, ở nước ta,
cách phổ biến cho đến nay là dựa vào chỉ số giá tiêu dùng (CPI), phản ánh biến động về
giá cả chung qua thời gian của một số lượng hàng hóa, dịch vụ đại diện cho tiêu dùng
cuối cùng phục vụ đời sống bình thường của người dân.
Nhìn chung, lạm phát ở nước ta từ năm 2004 đến nay luôn ở mức khá cao. Từ năm
2007 đến nay, lạm phát luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế: Tốc độ tăng trưởng GDP
bình quân hàng năm giai đoạn 2006-2010 khoảng 7,1%, trong khi đó lạm phát bình quân
hàng năm khoảng gần 11%.

7


Biểu đồ tỷ lệ tăng trưởng GDP qua các năm

Đường biểu diễn tỷ lệ lạm phát qua các năm


Mức lạm phát nói trên ở nước ta cũng cao hơn nhiều so với lạm phát của các nước
trong khu vực. Ví dụ, lạm phát bình quân hàng năm ở Trung Quốc giai đoạn 2006-2009
khoảng 3%, ở Indonesia khoảng 8,4%, Thái Lan khoảng 3,1%, Malaysia khoảng 2,7% và
Philipine khoảng 5,8%,v.v… Bốn tháng đầu năm 2012, lạm phát ở nước ta vẫn ở mức cao
và diễn biến phức tạp.

Biểu đồ tỷ lệ lạm phát của Việt Nam

Biểu đồ tỷ lệ lạm phát của Việt Nam so với

so với các nước khác

các nước khác đến tháng 4/2011

Vào năm 2008, tỷ lệ lạm phát trung bình của năm là 22,97%, mức lạm phát ở thực
phẩm đã lên đến 40%. Việc Việt Nam chỉ nhắm vào các con số tăng trưởng kinh tế, thâm
hụt mậu dịch cao và cơ cấu quản lý yếu kém chính là những nguyên nhân chính dẫn đến
lạm phát tăng vọt trong năm những năm gần đây.
Năm 2009, lạm phát của cả năm dừng ở mức 6,88%, đạt chỉ tiêu Chính Phủ đề ra.

8


Lạm phát năm 2010 của cả nước lên tới 11,75%, đã vượt xa chỉ tiêu lạm phát
Quốc hội giao cho Chính phủ hồi đầu năm là không quá 7%, chỉ tiêu được điều chỉnh là
không quá 8%.
Lạm phát cuối tháng 4 năm 2011 so với tháng 12 năm 2010 đã tăng 9,64%; tăng
17,51% so với tháng 4 năm 2010; lạm phát 4 tháng đầu năm 2011 so với cùng kỳ năm
2010 tăng 13,95% và dừng lại ở con số 18,58% cho chỉ tiêu hằng năm.


Bảng so sánh tỷ lệ lạm phát qua các năm (thu thập tới năm 2011)

Những tháng đầu năm 2012 đang cho thấy khả năng hiện thực hóa mục tiêu kiềm
chế lạm phát xuống còn khoảng 9-9,5%, được xác lập bởi những nhân tố tích cực như
nhận thức và quyết tâm chính trị mới từ cấp cao nhất; sự nhất quán chính sách tài chínhtiền tệ linh hoạt và thận trọng, theo hướng tiếp tục thắt chặt, nâng cao hiệu quả đầu tư
công; đổi mới mô hình và cơ chế phát triển...
2.2. Đánh giá thực trạng lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn 2008-2011.
2.2.1. Nguyên nhân gây ra lạm phát tại Việt Nam.
Thực trạng lạm phát tại Việt Nam còn rất cao so với một số nước trong khu vực và
trên thế giới như Trung Quốc, Indonesia, Mỹ, Nhật Bản. Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến
lạm phát của Việt Nam tăng cao? Có thể đề cập đến hai nhóm nguyên nhân: các nhân tố
tác động từ kinh tế toàn cầu, và các nhân tố từ nội tại nền kinh tế Việt Nam, cụ thể như
sau:
 Các nguyên nhân chính từ bối cảnh kinh tế toàn cầu:
9


Thứ nhất: Giá dầu và giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào của sản xuất liên tục gia
tăng. Điển hình là chỉ trong 2 tháng trở lại đây, giá xăng đã tăng liên tục từ 20.800đ lên
22.900đ/lit tại thời điểm những ngày đầu tháng 3, và tiếp tục tăng thêm 800đ/lit trong
trung tuần tháng 4/2012.
Thứ hai: Giá lương thực, thực phẩm liên tục gia tăng: xuất phát từ quá trình biến
đổi khí hậu toàn cầu, thiên tai dịch bệnh diễn ra liên tiếp, cùng với những năm tăng
trưởng kinh tế mạnh trên thế giới. Tất cả những điều trên làm sản lượng lương thực – thực
phẩm ngày càng giảm mạnh.
Thứ ba: Một khối lượng tiền lớn được đưa ra nền kinh tế toàn cầu: Trước việc giá
dầu và giá lương thực – thực phẩm liên tục leo thang đã tạo nên cú sốc cung rất lớn đẩy
lạm phát toàn cầu tăng cao, tình hình này đã buộc các ngân hàng trung ương phải tăng các
mức lãi suất chủ chốt để kiềm chế lạm phát, cụ thể: Nhật Bản tăng 1 lần từ 0,25%0,5%/năm; khu vực đồng Euro tăng 2 lần từ 3,5%-3,75%-4,0%/năm; Anh tăng 3 lần từ
5%-5,5%/năm; Trung Quốc tăng 6 lần từ 6,12-7,47%/năm.

 Các nguyên nhân chính từ nội tại nền kinh tế Việt Nam:
Thứ nhất: Chi phí sản xuất tăng cao: Trước bối cảnh lạm phát toàn cầu gia tăng đã
tác động làm giá hầu hết các nhóm hàng nhập khẩu của Việt Nam gia tăng mạnh mẽ như
xăng dầu, sắt thép, phân bón, thuốc trừ sâu – là những nguyên nhiên vật liệu đầu vào
chính của sản xuất. Mặc dù Chính phủ đã cố gắng kiểm soát giá xăng dầu, nhưng từ đầu
năm 2012 đến nay, giá xăng dầu đã phải điều chỉnh tăng 2 lần. Điều này đã tác động làm
chi phí sản xuất tăng cao.
Thứ hai: Giá lương thực, thực phẩm tăng cao: biến đổi khí hậu toàn cầu trên thế
giới không những tác động đến nhiều quốc gia mà Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nặng nề.

Biểu đồ biểu diễn CPI chung và của nhóm hàng lương thực – thực phẩm (tính đến năm 2011)

10


Thứ ba: Chính sách tài chính, tiền tệ được thực hiện trong nhiều năm liền nhưng
quản lý chưa chặt chẽ, và đây cũng là nhân tố góp phần khiến lạm phát bình quân từ 2008
đến 20011 tăng.

Thứ tư: Luồng vốn nước ngoài vào Việt Nam gia tăng mạnh:
Bắt đầu từ cuối năm 2006 khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ
chức thương mại thế giới (WTO), cùng với những cải cách về cơ chế chính sách và môi
trường đầu tư đã tạo điều kiện cho các luồng vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng mạnh.

Biểu đồ luồng vốn FDI vào Việt nam qua các năm

Đứng trước bối cảnh này, Ngân hàng nhà nước đã phải cung ứng một lượng lớn
tiền VND để mua ngoại tệ vào nhằm mục tiêu ổn định và phá giá nhẹ tỷ giá để hỗ trợ xuất
khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và điều này làm cho tổng phương tiện thanh toán tăng
cao, tác động làm lạm phát gia tăng.

Ngoài ra, trong buổi giao lưu trực tuyến trên VnEconomy chiều ngày 6/5/2011,
theo ý kiến của ông Huỳnh Thế Du - Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright và ông
Nguyễn Đình Cung - Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương,
nguyên nhân cơ bản của lạm phát ở Việt Nam chính là yếu tố tiền tệ, được đo lường chủ
yếu bằng các chỉ tiêu CPI.

11


Biểu đồ chỉ tiêu CPI qua các tháng năm 2010 và 2011

2.2.2. Tác động của lạm phát đối với nền kinh tế Việt Nam.
 Lạm phát ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng:
Theo những phân tich của Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam
Vietinbank:
Đối với hoạt động huy động vốn: do lạm phát tăng cao, việc huy động vốn của các
ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Để huy động được vốn, các ngân hàng phải nâng lãi suất
huy động sát với diễn biến của thị trường vốn. Một cuộc chạy đua lãi suất huy động ngoài
mong đợi tại hầu hết các ngân hàng (17% - 18%/năm cho kỳ hạn tuần hoặc tháng), luôn
tạo ra mặt bằng lãi suất huy động mới, rồi lại tiếp tục cạnh tranh đẩy lãi suất huy động
lên, có ngân hàng đưa lãi suất huy động gần sát lãi suất tín dụng, kinh doanh ngân hàng lỗ
lớn nhưng vẫn thực hiện, gây ảnh hưởng bất ổn cho cả hệ thống ngân hàng thương mại.
Lạm phát tăng cao, Ngân hàng Nhà nước phải thực hiện thắt chặt tiền tệ để giảm khối
lượng tiền trong lưu thông, nhưng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và cá nhân kinh
doanh vẫn rất lớn, các ngân hàng chỉ có thể đáp ứng cho một số ít khách hàng với những
hợp đồng đã ký hoặc những dự án thực sự có hiệu quả, với mức độ rủi ro cho phép. Mặt
khác, do lãi suất huy động tăng cao, thì lãi suất cho vay cũng cao, điều này đã làm xấu đi
về môi trường đầu tư của ngân hàng, rủi ro đạo đức sẽ xuất hiện. Do sức mua của đồng
Việt Nam giảm, giá vàng và ngoại tệ tăng cao, việc huy động vốn có kỳ hạn từ 6 tháng trở
lên là khó khăn đối với mỗi ngân hàng, trong khi nhu cầu vay vốn trung và dài hạn đối

với các khách hàng rất lớn, vì vậy việc dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn tại
mỗi ngân hàng là không nhỏ. Điều này đã ảnh hưởng đến tính thanh khoản của các ngân
hàng, nên rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá xảy ra là điều khó tránh khỏi.
Do lạm phát cao, không ít doanh nghiệp cũng như người dân giao dịch hàng hóa,
thanh toán trực tiếp cho nhau bằng tiền mặt, đặc biệt trong điều kiện lạm phát, nhưng lại
12


khan hiếm tiền mặt. Theo điều tra của Ngân hàng thế giới (World Bank), ở Việt Nam có
khoảng 35% lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng, trên 50% giao dịch không qua ngân
hàng, trong đó trên 90% dân cư không thanh toán qua ngân hàng. Khối lượng tiền lưu
thông ngoài ngân hàng lớn, ngân hàng nhà nước thực sự khó khăn trong việc kiểm soát
chu chuyển của luồng tiền này, các ngân hàng thương mại cũng khó khăn trong việc phát
triển các dịch vụ phi tín dụng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Vốn tiền
thiếu, nhiều doanh nghiệp thực hiện mua chịu, bán chịu, công nợ thanh toán tăng, thoát ly
ngoài hoạt động.
Như vậy lạm phát tăng cao đã làm suy yếu, thậm chí phá vỡ thị trường vốn, ảnh
hưởng lớn đến hoạt động của các ngân hàng thương mại. Sự không ổn định của giá cả,
bao gồm cả giá vốn, đã làm suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư và dân chúng, gây khó
khăn cho sự lựa chọn các quyết định của khách hàng cũng như các thể chế tài chính - tín
dụng.
 Lạm phát ảnh hưởng tới doanh nghiệp:

Tại phiên thảo luận về kinh tế-xã hội của Quốc hội diễn ra sáng 27/10/2011, đại
biểu Mai Hữu Tín (Bình Dương) cho biết tình trạng lạm phát, đi kèm với lãi suất cao đang
khiến nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ rơi vào tình trạng hết sức
khó khăn. Đại biểu cho rằng nếu lạm phát năm 2012 không được đưa về dưới 10%, lãi
suất không hạ xuống khoảng 15% thì phần lớn số doanh nghiệp đang “sống dở, chết dở”
nói trên sẽ không còn tồn tại.
Không chỉ vướng lãi suất cao, theo đại biểu Nguyễn Cao Sơn (Hòa Bình) và Võ

Kim Cự (Hà Tĩnh) còn cho rằng doanh nghiệp hiện còn rất khó khăn trong vấn đề tiếp cận
vốn. Trích dẫn số liệu của Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ, ông cho biết hiện chỉ có
khoảng 20% các đơn vị sản xuất kinh doanh thường xuyên tiếp cận được vốn ngân hàng.
 Lạm phát ảnh hưởng tới thu chi ngân sách nhà nước:

Trong lĩnh vực tài chính nhà nước, lạm phát làm cho nguồn thu ngân sách nhà
nước ngày càng bị thu hẹp dẫn đến tình trạng bội chi ngân sách ngày càng tăng. Mặc dù
Chính phủ đã có nghị quyết về kiềm chế lạm phát, thắt chặt chi tiêu ngay từ đầu năm,
song tổng số chi ngân sách nhà nước năm 2011 vẫn đạt ở mức 70.400 tỷ đồng, vượt dự
toán gần 10%.
Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính - Ngân sách Quốc hội về kết quả thực hiện
ngân sách nhà nước năm 2011 do Chủ nhiệm Ủy ban Phùng Quốc Hiển trình bày trước
Quốc hội chiều 20/10, cho thấy công tác ngân sách năm 2011 đã bộc lộ khá nhiều những
bất cập, bao gồm cả khâu thu lẫn chi.
13


Nhìn nhận về công tác thu nội địa, cơ quan này cho rằng, mặc dù Chính phủ đánh
giá vượt 11,3% so với dự toán, tăng 19,9% so với thực hiện năm 2010. Tuy nhiên, qua
giám sát, Ủy ban Tài chính ngân sách thấy rằng, tình trạng gian lận thương mại, trốn lậu
thuế vẫn diễn ra khá phổ biến, nhất là ở một số thành phố lớn. Vẫn có thể khai thác nguồn
thu từ đất đai, kinh doanh bất động sản, từ khai thác tài nguyên khoáng sản.
Về thu cân đối xuất, nhập khẩu, báo cáo của Chính phủ đánh giá có thể tăng 3,8%
so với dự toán, Ủy ban Tài chính ngân sách cho rằng, trên cơ sở tình hình thực hiện 9
tháng và theo chu kỳ hoạt động xuất, nhập khẩu vào những tháng cuối năm, số thu có thể
tăng hơn do một số nguyên nhân như: mức nhập siêu trong năm 2011 theo dự báo có thể
cao hơn mức Chính phủ dự kiến (10,5%), vì trong quý 4/2011 nhu cầu nhập khẩu nguyên
liệu, thiết bị chuẩn bị cho sản xuất kinh doanh, tiêu dùng thường tăng mạnh...
Đặc biệt, qua thực hiện giai đoạn 2006-2010 và năm 2011 cho thấy, chính sách thu
hiện hành còn nhiều bất cập về: mức huy động, về chính sách ưu tiên và miễn, giảm, còn

lồng ghép nhiều chính sách xã hội làm giảm tính trung lập của thuế.
Về thực hiện dự toán chi ngân sách nhà nước, Ủy ban Tài chính - Ngân sách nhìn
nhận, mặc dù nghị quyết 11 của Chính phủ tập trung vào việc cắt giảm chi tiêu công, tiết
kiệm thêm 10% chi thường xuyên, nhưng tổng số chi ngân sách vẫn vượt dự toán 9,7%.
Đây là mức tăng khá lớn. Nhiều ý kiến trong Ủy ban Tài chính cho rằng, mức tăng chi
trên chưa thể hiện vai trò tích cực của chính sách tài khóa trong việc kiềm chế lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô.
Khái quát chung về chính sách chi ngân sách nhà nước năm 2011, Ủy ban đúc kết:
chưa thay đổi tích cực về cơ cấu, chưa đáp ứng yêu cầu phục vụ cho tái cơ cấu nền kinh
tế; tình trạng bình quân, dàn trải, chia cắt và thiếu tập trung vẫn chưa được cải thiện; công
tác xã hội hóa còn hạn chế, gánh nặng ngân sách ngày một gia tăng.
 Lạm phát ảnh hưởng tới đời sống và tiêu dùng của người lao động:

Tuy lạm phát là hiện tượng có tác động đến tất cả mọi người tiêu dùng, nhưng tác
động của nó đến các nhóm dân cư là khác nhau, và thể hiện rõ nhất đối với những người
có thu nhập thấp. Dường như lạm phát đã làm khuynh đảo cuộc sống của họ. Đó là vì thu
nhập của những người này phụ thuộc chủ yếu vào nguồn tiền lương mà họ nhận được,
nên một khi lạm phát tăng cao, sức mua của tiền tệ bị giảm mạnh thì lập tức thu nhập thực
tế của họ bị giảm sút. Những năm gần đây Chính phủ đã cố gắng trong vấn đề cải tiến tiền
lương, tiền công nhằm cải thiện đời sống cho người lao động, nhưng vẫn không thể theo
kịp với sự thay đổi của vấn đề lạm phát. Ví dụ như và năm 2008, tiền lương của người lao
động tăng 20%, nhưng tại thời điểm đó giá cả các loại hàng hóa, dịch vụ cũng đồng loạt
tăng trung bình 20%.
14


III. Các giải pháp kiểm soát lạm phát mà chính phủ Việt Nam đã và đang thực hiện.
3.1. Các giải pháp cấp bách.
3.1.1. Thực hiện chính sách tiền tệ.
Ngân hàng nhà nước Việt Nam chủ động, linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ

chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh
toán và tổng dư nợ tín dụng nhưng đảm bảo tính thanh khoản của nền kinh tế và hoạt
động của các ngân hàng tổ chức tín dụng. Bằng việc sử dụng linh hoạt các công cụ chính
sách tiền tệ để giảm dần lãi suất huy động theo hướng thực hiện chính sách lãi suất thực
dương, nhà nước Việt Nam tăng cường kiểm soát và giám sát chặt chẽ hoạt động của các
ngân hàng thương mại để đảm bảo việc tuân thủ đúng các quy định về huy động, cho vay
và chất lượng tín dụng; kịp thời phát hiện, xử lý các vi phạm theo đúng quy định của pháp
luật để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
Việc thực hiện chính sách tiền tệ qua các năm có những tác động và ảnh hưởng
khác nhau tới nền kinh tế nói chung và tình hình kiểm soát lạm phát nói riêng.
 Năm 2008: được đánh giá là năm mà nền kinh tế trong nước có những biến động rất lớn.

Thị trường ngân hàng trong nước đã trải qua những biến động chưa từng có về lãi suất, tỷ
giá… Chính sách tiền tệ được thực hiện linh hoạt, hiệu quả, thắt chặt đầu năm và nới
lỏng vào giai đoạn cuối năm.
Để thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát, năm 2008, ngân hàng thương mại đã
thực hiện đồng thời 4 biện pháp thắt chặt tiền tệ của ngân hàng nhà nước:
- Quyết định tăng tỷ lệ dự trữ băt buộc từ 10% lên 11%, đồng thời mở rộng thêm phạm vi
tiền gửi dự trữ bắt buôc.
- Phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu ngân hàng nhà nước bắt buộc; 3 ngân hàng thương
mại nhà nước lớn nhất, mỗi ngân hàng phải mua 3000 tỷ đồng.
Các loại tín phiếu trước đây được giao dịch trên thị trường mở với ngân hàng nhà nước
không được vay tái cấp vốn.
- Từ tháng 2/2008, các loại lãi suất chủ đạo của ngân hàng nhà nước tăng.
- Ngân hàng nhà nước ban hành quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN ngày 1/2/2008 về sửa
đổi chỉ thị vê cho vay chứng khoán. Quyết định 03 còn thắt chặt về cho vay chứng khoán
hơn Chỉ thị 03 trước đây.
4 quyết định được coi là cứng rắn và kiên quyết nói trên trong điều hành chính
sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước đã gây ra tác động sốc và phản ứng tiêu cực tức thì
của thị trường tiền tệ và của ngân hàng thương mại. Có thể nói đây là một cú phanh gấp

trong quá trình tụt dốc của nền kinh tế nhằm ngăn chặn vật giá leo thang và lạm phát.
15


 Năm 2009: Ngân hàng nhà nước đã thực thi chính sách tiền tệ một cách linh hoạt phối

hợp đồng bộ với nhiều giải pháp khác để giữ bình ổn thị trường.
Từ đầu năm 2009, ngân hàng nhà nước đã hạ thấp lãi suất chỉ đạo từ 14% xuống
17%, hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 11% xuống 5%, đồng thời yêu cầu các ngân hàng
thương mại nhà nước giảm lãi suất cho vay và huy động bằng ngoại tệ (lãi suất cho vay
giảm từ 6-6,5%/năm xuống mức không quá 3%/năm kể từ ngày 1/6/2009, lãi suất huy
động giảm xuống mức không quá 1,5%/năm kể từ ngày 1/6/2009)
Do tình hình cung cầu ngoại tệ trở nên căng thẳng, ngân hàng nhà nước đã liên tục
điều chỉnh biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD/VND của các ngân hàng thương mại từ
+/-3% lên +/-5%, và tiếp tục giảm xuống mức +/-3% vào ngày 26/11, đồng thời yêu cầu
các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm biên độ giá; điều hòa ngoại tệ trên thị trường ngoại
tệ trên ngân hàng.
 Năm 2010: Ngân hàng nhà nước đã điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và
thận trọng, phù hợp với Nghị quyết Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ và bám sát tình hình
thực tế.
Với mục tiêu kiểm soát lạm phát, chủ động đối phó với diễn biến phức tạp của thị
trường tài chính và kinh tế thế giới, Ngân hàng nhà nước đã quyết định điều chỉnh lãi suất
cơ bản tăng từ 7%/năm lên 8%/năm, tăng lãi suất tái cấp vốn từ 7%/năm lên 8%/năm, lãi
suất chiết khấu tăng từ 5%/năm lên 6%/năm, kết hợp với điều hành linh hoạt nghiệp vụ
thị trường mở và giám sát việc thực hiện các tỷ lệ an toàn của tổ chức tín dụng.
Tháng 11, 12/2010, Ngân hàng nhà nước điều chỉnh lãi suất cơ bản và tái cấp vốn
tăng 1%/năm, kết hợp với điều hành chặt chẽ lượng tiền cung ứng, quy định trần lãi suất
huy động VNĐ 14%/năm để ổn định thị trường tiền tệ.
 Năm 2011:
Ngày 8/3/2011 Ngân hàng nhà nước ban hành Quyết định số 379/QĐ-NHNN, quy

định các mức lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong
thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ
đối với các ngân hàng là 12%/năm.
Ngày 9/4/2011, Ngân hàng nhà nước Việt Nam ban hành Quyết định số 750/QĐNHNN điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ từ 4% lên 6% đối với các tổ
chức tín dụng.
 Những tháng đầu năm 2012: Theo Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 03/01/2012, Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương:
- Điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, linh hoạt, phối hợp hài hòa giữa
chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra. Điều
hành chủ động và linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, nhất là chính sách lãi suất, cho
16


vay tái cấp vốn và nghiệp vụ thị trường mở, kiểm soát mức tăng trưởng tín dụng cả năm
2012 khoảng 15% - 17%.
- Điều hành tỷ giá, thị trường ngoại hối linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường
và tình hình cung - cầu ngoại tệ, góp phần khuyến khích xuất khẩu, giảm nhập siêu, cải
thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại hối nhà nước.
- Quản lý chặt chẽ hoạt động chi tiêu thu đổi ngoại tệ trên thị trường. Tích cực thu
hút ngoại tệ trong dân bằng việc khuyến khích gửi tiết kiệm ngoại tệ với lãi suất hấp dẫn;
thực hiện tỷ giá hối đoái linh hoạt giữa tiền Việt với một số ngoại tệ.

3.1.2. Kiểm soát chặt chẽ, nâng cao hiệu quả chi tiêu công.
Nhà nước Việt Nam chủ trương điều hành chính sách tài khóa theo hướng tiết kiệm
chi tiêu thường xuyên, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách; kiểm soát chặt chẽ đầu
tư của các doanh nghiệp nhà nước.
Năm 2008, nhà nước thực hiện cắt giảm, sắp xếp lại vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ
nguồn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ, tín dụng đầu tư nhà nước và đầu tư của
doanh nghiệp nhà nước, trước hết là các công trình đầu tư kém hiệu quả, các công trình
chưa thực sự cần thiết.

Đồng thời, Chính phủ và các cơ quan nhà nước thực hiện chính sách tiết kiệm
đồng bộ, chặt chẽ, nghiêm ngặt trong tất cả các cấp, các ngành, trong toàn bộ hệ thống
chính trị.
Cho đến những tháng đầu năm 2012, Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ
quan, địa phương:
- Thực hiện các biện pháp thích hợp để tiết kiệm chi, tăng thu ngân sách nhà nước. Phối
hợp chặt chẽ chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ và các chính sách khác để kiềm
chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
- Tăng cường quản lý thu ngân sách nhà nước, chống thất thu, thu hồi số tiền nợ đọng
thuế, nhất là các khoản thu liên quan đến đất đai, tài nguyên, hàng hóa nhập khẩu, chuyển
giá. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ việc kê khai nộp thuế. Đẩy mạnh công tác
thanh tra, kiểm tra thuế, chống chuyển giá. Phấn đấu tăng thu ngân sách nhà nước để ưu
tiên giảm bội chi và dành để trả nợ.
- Tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra các khoản chi trong cân đối ngân sách nhà
nước, các khoản chi được quản lý qua ngân sách nhà nước; vay về cho vay lại; bảo lãnh
vay của Chính phủ; các khoản chi từ các quỹ tài chính Nhà nước; các khoản vay, tạm ứng
17


của các Bộ, địa phương. Thực hiện minh bạch hóa chi tiêu của ngân sách nhà nước và đầu
tư công.
- Tiếp tục rà soát, hoàn thiện thể chế, thực hiện quản lý, giám sát chặt chẽ và cơ cấu lại nợ
công, nợ Chính phủ, nợ quốc gia, bảo đảm nợ trong giới hạn an toàn, giảm thiểu nghĩa vụ
nợ và hạn chế rủi ro; hạn chế nợ dự phòng, kiểm soát chặt chẽ các khoản vay về cho vay
lại và bảo lãnh của Chính phủ.

Đặc biệt năm 2012 không ứng trước vốn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ
cho các công trình, dự án, trừ các dự án phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch
bệnh, quốc phòng, an ninh cấp bách.
3.1.3. Các giải pháp liên quan đến chính sách giá cả.

Năm 2011, Bộ Tài chính đề xuất điều hành giá điện, xăng dầu, than bán cho sản
xuất điện theo nguyên tắc điều chỉnh tăng ở mức độ có kiềm chế, giảm một bước bao cấp
qua giá và không đẩy chỉ số giá tăng quá cao. Cụ thể, Bộ điều chỉnh tăng giá bán điện từ
ngày 1/3 là 15,28%, trong khi nếu tính đủ thì giá bán điện phải tăng 49%. Với điều hành
giá xăng dầu thì có tăng có giảm nhưng cơ bản là giữ vững bình ổn giá thông qua việc áp
dụng các biện pháp sử dụng Quỹ bình ổn giá và giảm thuế nhập khẩu xăng, madut. Mặt
hàng than bán cho sản xuất điện tăng 5%, chỉ tính bằng khoảng 57% - 63% giá thành tiêu
thụ than năm 2010 và chưa thực hiện được theo nguyên tắc giá bán than cho các đối
tượng tiêu thụ than tối đa bằng khoảng 90% giá than xuất khẩu cùng loại.
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính cũng đã thực hiện các biện pháp để giữ ổn định giá
nhiều loại hàng hóa, dịch vụ thiết yếu quan trọng khác; áp dụng đồng bộ các biện pháp
18


bình ổn giá như bảo đảm cân đối cung cầu hàng hóa, dịch vụ; các biện pháp tài khóa, tiền
tệ.... Đồng thời, kiểm soát chặt chẽ phương án giá của các hàng hóa, dịch vụ chi từ nguồn
ngân sách nhà nước; hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký giá, kê khai giá; kiên
quyết dừng các trường hợp tăng giá bất hợp lý so với biến động tăng của các yếu tố đầu
vào. Bộ Tài chính áp dụng có hiệu quả các biện pháp bình ổn giá khi thị trường có biến
động bất thường theo quy định của Pháp lệnh giá, thực hiện cơ chế doanh nghiệp tự định
giá, cạnh tranh về giá theo quy định của pháp luật đối với đại bộ phận hàng hóa, dịch vụ
trong nền kinh tế. Nhà nước chỉ áp dụng các biện pháp kinh tế gián tiếp để tác động vào
sự hình thành và vận động của giá cả hàng hóa dịch vụ trên thị trường và mặt bằng giá
nhằm thực hiện mục tiêu bình ổn giá, kiểm soát chặt chẽ giá độc quyền, cạnh tranh không
lành mạnh về giá, chống bán phá giá và chuyển giá nội bộ theo quy đinh của pháp luật.
3.1.4. Các giải pháp khác.
Bộ Công thương chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương:
- Tổ chức thực hiện Kế hoạch tổng thể đàm phán Hiệp định thương mại tự do (FTA); phổ
biến, hướng dẫn, có giải pháp phù hợp hỗ trợ, tạo điều kiện để các doanh nghiệp hoạt
động hiệu quả tại các thị trường đã có FTA; chủ động, tích cực trong đàm phán FTA nhằm

mở rộng thị trường xuất khẩu.
- Điều hành chính sách thuế linh hoạt nhằm khuyến khích sản xuất kinh doanh, xuất khẩu,
kiểm soát và hạn chế nhập khẩu, giảm nhập siêu; giảm dần, hạn chế xuất khẩu các loại
khoáng sản, nông, lâm sản… thô chưa qua chế biến. Tiếp tục cải cách thủ tục thuế và
thông quan, tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng hóa.
Đặc biệt Trong quý I/2012, Bộ Tài chính đã tiếp tục thực hiện rà soát, nghiên cứu
bổ sung, điều chỉnh các chính sách về thuế, phí và chế độ thu phù hợp với nhiệm vụ ổn
định kinh tế vĩ mô, khuyến khích xuất khẩu và cam kết hội nhập; theo đó, về chính sách
thuế xuất khẩu cơ bản tiếp tục duy trì như năm 2011; về thuế nhập khẩu, đối với các mặt
hàng thuộc diện không khuyến khích nhập khẩu đều được quy định mức thuế suất cao
nhất bằng với mức cam kết trần trong WTO; các mặt hàng trong nước đã có sản xuất và
đáp ứng được phần lớn nhu cầu trong nước cũng được điều chỉnh tăng thuế để góp phần
hạn chế nhập siêu, khuyến khích sử dụng hàng sản xuất trong nước thay thế hàng nhập
khẩu. Tiếp tục đẩy mạnh và đổi mới, cải tiến các hoạt động xúc tiến thương mại. Đa dạng
hóa mặt hàng xuất khẩu để phát triển thêm các mặt hàng xuất khẩu mới có tiềm năng.
Ngành Hải quan tiếp tục tăng cường kiểm tra, giám sát việc nhập khẩu hàng tiêu
dùng, nhất là các mặt hàng không khuyến khích nhập khẩu, như rượu, mỹ phẩm, điện
thoại di động…; kiểm tra chặt chẽ việc nhập khẩu hàng hoá, vật tư, thiết bị của các dự án
sử dụng vốn ngân sách nhà nước.
19


3.2. Các giải pháp chiến lược.
3.2.1. Tập trung sức phát triển sản xuất công nghiêp, nông nghiệp và dịch vụ, đảm bảo
cân đối cung cầu về hàng hóa.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì phối hợp với các địa phương ngăn chặn
và nhanh chóng khắc phuc hậu quả của thiên tai và dịch bênh khi bùng phát, nhằm đẩy
mạnh sản xuất nông nghiệp.
- Bộ trưởng các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Công Thương, Tài nguyên và Môi trường,…,
Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố chỉ đạo quyết liệt, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng

mắc về thủ tục hành chính để giải quyết nhanh việc tiếp cận, sử dụng vốn, đất đai, ở rộng
thị trường nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì việc tiếp tục rà soát, xóa bỏ các quy định không phù hợp,
gây cản trở cho các hoạt động đầu tư, kinh doanh, tạo thuận lợi cho các thành phần kinh
tế.
3.2.1. Tăng cường công tác quản lý thị trường chống đầu cơ buôn lậu và gian lận
thương mại, kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà nước về giá.
- Bộ Công Thương chủ trì triển khai các giải pháp đảm bảo cân đối cung cầu hàng hóa;
đồng thời tăng cường chỉ đạo thực hiện quản lý thị trường, nhất thiết không để xảy ra tình
trạng lạm dụng các biến động về nguồn hàng, giá cả trên thị trường để đầu cơ, nâng giá.
Phối hợp với chính quyền địa phương chỉ đạo các cơ quan chức năng tăng cường các biện
pháp ngăn chặn tình trạng gian lận thương mại, trốn lậu thuế và buôn lậu qua biên giới,
đặc biệt là buôn lậu xăng dầu, khoáng sản, lương thực…
- Bộ Tài Chính tăng cường kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà nước về giá, xử lý
nghiêm các hành vi vi phạm.
- Nhà nước quy định các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải triệt để chấp
hành các quy định về quản lý giá, thường xuyên kiểm tra giá bán tại các mạng lưới bán lẻ
của doanh nghiệp mình. Chính phủ yêu cầu các hiệp hội ngành hàng tham gia tích cực,
ủng hộ các chủ trương và giải pháp bình ổn thị trường, giá cả.

20


C. KẾT LUẬN.

Lạm phát là một chỉ tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản và hết sức quan trọng mà mọi quốc
gia đều phải quan tâm trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Lạm phát là hiện tượng
kinh tế phức tạp xuất hiện khi nền kinh tế bị mất cân đối và thường xuyên gây ra hậu quả
nghiêm trọng. Ngăn chặn lạm phát không phải là dễ dàng mà đòi hỏi phải có những giải
pháp đồng bộ và khôn ngoan. Lạm phát là nhân tố vừa có tác động tích cực và tiêu cực,

trong một nền kinh tế, tăng trưởng luôn đi đôi với lạm phát. Vì vậy, việc sống chung cùng
với lạm phát là điều tất nhiên của nền kinh tế đang tăng tưởng, nên điều chỉnh lạm phát và
giải pháp cần có những bước đi đúng đắn. Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế, nên đưa ra các đường lối đúng đắn cho sự phát triển tạo tiềm lực đẩy mạnh tăng
trưởng kinh tế và khống chế đẩy lùi lạm phát.

21



×