Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Giải pháp để phát triển thị trường chứng khoán ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 104 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
3. Phương pháp nghiên cứu
4. Kết cấu của đề tài
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ CHỨNG KHOÁN VÀ THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯƠNG CHỨNG KHOÁN
1.2. VỊ TRÍ, CHỨC NĂNG CỦA HỆ THỐNG TÀI CHÍNH, THỊ TRƯỜNG TÀI
CHÍNH
1.3. CÁC CÔNG CỤ TÀI CHÍNH VÀ CÁC GIAO DỊCH TÀI CHÍNH
1.4. CẤU TRÚC, CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
2.1. LÔGIC CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM
2.2. THỰC TRẠNG VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM
2.3. HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT
NAM: BỐI CẢNH, VẤN ĐỀ

CHƯƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT
NAM
3.1. MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM


3.2. CÁC CHÍNH SÁCH VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG

KẾT LUẬN


MỞ ĐẦU
Công cuộc đổi mới kinh tế để này của nước ta trong những năm qua đã
và kéo theo hàng loạt những thay đổi tích cực tạo nên những cơ sở quan trọng
ban đầu để tiến tới một thị trường tài chính đảm bảo cho sự tăng trưởng và
phát triển kinh tế một cách bền vững.
Để có thể xây dựng và phát triển một nền kinh tế với sự tham gia của
nhiều thành phần kinh tế như ở nước ta hiện nay đòi hỏi ngày càng nhiều vốn. Bên
cạnh vốn của Nhà nước cần phải huy động vốn của dân cư trong nước và nước
ngoài. Vấn đề huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một trong
những nhiệm vụ chiến lược quan trọng. Thực tiễn sinh động của công cuộc
đổi mới ỏ nước ta đã chỉ ra rằng để đáp ứng yêu cầu về vốn đặc biệt là vốn
trung và dài hạn nhằm thực hiện sự nghiêp CNH- HĐH đất nước thì việc xây
dựng TTCK ở nước ta trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết như trong Nghị
quyết đại hội Đảng VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định “phải xây
dựng thị trường vốn từng bước hình thành TTCK”. Việt Nam hiện nay tín dụng
thương mại về cổ phiếu mới ra đời TTCK chính thức hoạt động từ tháng
7/ 2000 chính là sự đòi hỏi cấp thiết của đời sống kinh tế những kiến thức về
TTCK- một vấn đề bức xúc đang được rất nhiều các ngành các cấp, các nhà nghiên
cứu, các doanh nghiệp và sinh viên quan tâm. Thị trường vốn nói chung và
TTCK nói riêng là một thực thể phức tạp và là hình thức phát triển cao của
kinh tế đối với nước ta.Nhóm em chọn đề tài: ‘’Giải pháp để phát triển Thị
trường chứng khoán ở Việt nam’’, trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu
không thể tránh được những hạn chế và sai sót,chúng em rất mong sự quan
tâm góp ý, giúp đỡ của cô.


1. Lý do chọn đề tài
Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh đã chính thức đi vào hoạt
động nhưng, thiết nghĩ, đề tài “Các giải pháp thúc đẩy sự hình thành và phát triển Thị
trường chứng khoán Việt Nam” vẫn mang tính thời sự bởi lẽ:
Một là, Thị trường chứng khoán Việt Nam không phải và không thể chỉ là Trung tâm

1


giao dịch chứng khoán. Để hoàn thiện và phát triển thị trường chứng khoán, cần thiết
phải nghiên cứu để hình thành và phát triển nhiều bộ phận khác thị trường thứ nhất (sở
giao dịch chứng khoán), thị trường thứ hai (thị trường OTC), cũng như các định chế có
liên quan khác (hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán, hiệp hội các nhà tư vấn, các
Quỹ đầu tư).
Hai là, ý tưởng cơ bản để thiết lập trung tâm giao dịch chứng khoán tại thành phố Hồ
Chí Minh là thiết lập một sàn giao dịch thử nghiệm để tập dượt và tạo bước đệm cho viêc
hình thành Sở giao dịch chính thức. Và, do vậy, cần phải tổng kết để đánh giá đúng thực
trạng hoạt động của mô hình thử nghiệm nhằm đúc rút những kinh nghiệm cho việc xây
dựng và phát triển một cơ Sở giao dịch chứng khoán chính thức, hiện đại trong tương lai.
Ba là, do quá kỳ vọng vào vai trò của thị trường, chứng khoán, Trung tâm giao dịch đã
khai trương trong bối cảnh các hạ tầng cơ sở cần thiết cho thị trường vẫn chưa được
chuẩn bị đầy đủ. Hậu quả là, sau một năm hoạt động, Trung tâm giao dịch chứng khoán
đang đối mặt với nhiều nguy cơ khủng khoảng: khủng hoảng lòng tin, khủng hoảng thiếu
chứng khoán, nguy cơ biến Trung tâm thành một sòng bạc kiểu mới, nguy cơ thao túng
thị trường bởi giao dịch tay trong (nội gián) ... Những nguy cơ này đã và đang là những
mầm mống phát sinh những yếu tố bất ổn đe doạ đến tính công bằng, minh bạch vào sự
tồn tại và phát triển bền vững trong tương lai của thị trường, để khắc phục các nguy cơ
này, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cần phải tiếp tục làm rõ nhằm tránh các rủi ro khi
trang bị lại các hệ thống giao dịch, hệ thống thanh toán, lưu ký cho Sở giao dịch cũng
như hoạch định một chiến lược phát triển bền vững tổng thể cho thị truờng chứng khoán

Việt Nam trong tương lai.
Bốn là, theo kinh nghiệm của nhiều nước, ngay cả trong trường hợp thiết lập xong Sở
giao dịch chứng khoán, từ khi thiết lập cho đến khi Sở giao dịch chính thức khẳng định vị
thế trên thị trường tài chính cũng phải mất khoảng vài chục năm. Trong thời khoảng ấy,
nhiều vấn đề phát sinh cần phải được nghiên cứu, xử lý để bảo đảm thị trường hoạt động
ổn định và có hiệu quả.

2


2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Lựa chọn chủ đề “Các giải pháp hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở
Việt Nam”, đề tài này đặt ra 3 nhiệm vụ:
Một, nghiên cứu một cách có hệ thống nền tảng của chứng khoán và thị trường chứng
khoán, phân tích các rủi ro gắn liền với các loại chứng khoán, để làm cơ sở luận giải một
cách khoa học những vấn đề lý luận và thực tiễn về hình thành và phát triển thị trường
chứng khoán tại Việt Nam.
Hai, đánh giá hiện trạng hạ tầng cơ sở của mô hình thử nghiệm (khung pháp lý, hệ
thống giao dịch, hệ thống thanh toán, hệ thống lưu ký) và phát triển thị trường chứng
khoán Việt Nam.
Ba, nghiên cứu các giải pháp hình thành và phát triển các khu vực thị trường khác
cũng như chiến lược phát triển và hoàn thiện thị trường chứng khoán ở Việt Nam.

3. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài này, ngoài các phương pháp nghiên cứu truyền thống (duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, diễn dịch, quy nạp), đề tài còn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp mô hình hoá, phương pháp kinh tế
lượng....
4. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phần phụ lục,nội dung đề tài được xây dựng

theo kết cấu truyền thống 3 chương:
Chương 1. Tổng quan về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Chương 2. Thực trạng hình thành và phát triển Thị trường chứng khoán Việt Nam.
Chương 3. Các giải pháp thúc đẩy sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán
Việt Nam.

3


CHƯƠNG

1

TỔNG QUAN VỀ CHỨNG KHOÁN VÀ THỊ
TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN
1.1. Những vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán.
1.1.1 Khái niệm và quá trình hình thành, phát triển thị trường chứng khoán.
a. Khái niệm.
Khái niệm về thị trường chứng khoán rất đa dạng và phong phú cho đến
nay chưa có một định nghĩa chung cho “thị trường chứng khoán (TTCK)”.
Theo nghiên cứu của các nhà chuyên môn thì thị trường chứng khoán có
tiếng Latinh là Btursa, có nghĩa là “cái ví đựng tiền! Còn gọi là “Sở giao dịch
chứng khoán”. Đó là một thị trường có tổ chức và hoạt động có điều khiển (The
Stock Exchange- dịch ra tiếng Việt là thị trường chứng khoán, theo chữ Hán là
chứng khoán giao dịch sở, Sở là nơi chốn, còn giao dịch là hoạt động mua bán trao
đổi).
Theo “Longman Dictionary of Business English-1985” thì TTCK được
định nghĩa như sau: “An organized market Where Securities are Bought Sold
undiel fixed rule”. Dịch ra tiếng Việt đó là một thị trường có tổ chức là nơi chứng

khoán được mua bán tuân theo những qui tắc đã ấn định. Định nghĩa này đã đưa ra
một định nghĩa nêu lên được các loại chứng khoán (Securities) đó là cổ phiếu
(Share) và trái phiếu (Bond). Chứng khoán thực ra là từ ghép của hai từ đồng
nghĩa. Chứng và khoán đều có nghĩa là bằng cứ (Evidence). Trong tiếng Anh
người ta dùng từ Secueitier có nghĩa Writen Evidence of Ownership. Từ những
phân tích trên có thể hiểu một cách căn bản “chứng khoán” là bằng chứng giấy
trắng mực đen về quyền sở hữu.
Cùng với sự phát triển đổi mới của thị trường vốn, thị trường tiền tệ, sự đa
4


dạng hoá trong đời sống kinh tế. Thuật ngữ thị trường chứng khoán đã
thoát ly định nghĩa ban đầu và có thêm những nội dung mới.

5


Dù có rất nhiều định nghĩa về “TTCK” nhưng mỗi định nghĩa chỉ cung cấp
một khái niệm tổng quát về một vấn đề nào đó. Vì vậy sẽ thật là thiếu sót khi 0ta
nghiên cứu về “TTCK” mà chỉ đứng trên góc độ một định nghĩa nào đó mà muốn
hiểu được vấn đề thì phải nghiên cứu quá trình phát sinh và phát triển lâu dài của
nó.
b. Lịch sử hình thành phát triển “TTCK”
Lịch sử loài người đã ra đời và tồn tại hàng ngàn năm nay. Trong đó lịch sử
phát triển xã hội loài người đã trải qua các hình thái xã hội khác nhau từ thấp đến
cao. ứng với mỗi hình thái xã hội khác nhau thì có một lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất khác nhau tương ứng với chúng xã hội muốn tồn tại thì phải lao động
sản xuất ra hàng hoá, của cải vật chất phục vụ nhu cầu con người.
Trong đó thị trường chứng khoán là hình thức phát triển cao của nền sản
xuất hàng hoá. Thị trường chứng khoán nguyên thuỷ đã tồn tại hàng trăm năm nay.

Vào khoảng giữa thế kỷ XI ở tại những thành phố trung tâm buôn bán ở phương
Tây, các thương gia thường tụ tập tại các quán Cafe để thương lượng việc mua
bán, trao đổi các loại hàng hoá (nông sản, khoáng sản, ngoại tệ và giá khoán động
...). Điểm đặc biệt là tại các cuộc thương lượng này, các thương gia chỉ dùng lời
nói để trao đổi với nhau, không có hàng hoá, ngoại tệ, giá khoán động sản, hay bất
cứ một loại giấy tờ nào. Những cuộc thương lượng này nhằm thống nhất với nhau,
hợp đồng mua bán, trao đổi. Không biết do sự phát triển của các thương gia hay
hiệu quả của kiểu “thương lượng” này mà số lượng người tham gia ngày càng
đông lên. Đến cuối thời Trung cổ, phiên chợ riêng này trở thành một thị trường và
khoảng cách các phiên chợ ngày càng rút ngắn. Những qui ước trao đổi dần dần
được tu bổ thành các qui tắc có giá trị bắt buộc đối với người tham gia. Từ đó thị
trường chứng khoán bắt đầu được hình thành.
Đến 1986 ở một số nước, các giá trị động sản đã lần lượt được yết giá trên
hệ thống vi tính các (yết giá liên tục) như vậy việc yết giá cổ phiếu, trái phiếu,
6


không còn được tập trung nữa, không được giao dịch dưới dạng giao miệng. Các
nhà giao dịch sẽ truyền lệnh cho công ty chứng khoán của mình thông qua điểm
cuối mạng vi tính.
Năm 1991, hệ thống RELIT đã tiêu chuẩn hoá tiến trình thanh toán tiền và
giao dịch chứng khoán. Sau khi đã giao dịch thương lượng trên thị trường.
+ Thành lập các thị trường biến tướng: 1986 ở Pháp lập thị trường Matif,
1987 thị trường Monep. Các thị trường này lập ra cho các nhà quản lý hồ sơ chứng
khoán phòng ngừa các rủi ro liên quan đến biến động về cổ phiếu, tỉ lệ lãi suất, tỉ
giá hối đoái. Và thị trường này cũng có mục đích tăng vốn khả duy trên thị trường
giao ngay qua khả năng kinh doanh chênh lệch giá. Và đây cũng là thị trường thực
sự trong thời đại mới.
Sự hình thành của “TTCK” trên thế giới vào thế kỉ 15 và cùng với thăng
trầm của lịch sử nó vẫn tồn tại đến ngày nay. Sau nhiều năm chờ đợi và chuẩn bị

vào ngày 11.7.1998. Chính phủ nước ta đã ký nghị định 18/CP ban hành về chứng
khoán và thị trường chứng khoán. Và ngày đó cũng là ngày đánh dấu sự ra đời của
thị trường chứng khoán Việt Nam.
1.1.2. Vai trò TTCK trong nền kinh tế thị
trường.
Với quá trình phát triển lâu dài của mình, TTCK đã cho thấy vị trí không
thể thiếu của mình trong nền kinh tế thị trường. Nó có vai trò quan trọng trong sự
nghiệp phát triển kinh tế của các nước có nền kinh tế thị trường. TTCK là kênh bổ
sung nguồn vốn trung và dài hạn cho Nhà nước và các doanh nghiệp. Nó là yếu tố
hạ tầng quan trọng nhất một công cụ đem lại nhiều lợi ích. Vai trò của TTCK thì
rất là nhiều nhưng nhìn chung lại thì nó có các vai trò chủ yếu sau:
a) Tạo vốn cho nền kinh tế quốc dân.
Như ta đã thấy trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung không có khái
niệm về giao lưu vốn và cũng không có nhu cầu về tiền và vốn để đầu tư cho sản
7


xuất. Nền kinh tế hoạt động như một cỗ máy chứng nhắc dưới sự chỉ đạo tập trung
của Nhà nước. Cơ chế phân phối bình quân theo giá cả bao cấp đã làm tê liệt chức
năng của đồng tiền phá vỡ quan hệ cung cầu và qui luật giá trị. Nền kinh tế phát
triển què quặt.
Khi chuyển sang chơ chế thị trường doanh nghiệp chủ động trong sản xuất
kinh doanh các vấn đề đều do thị trường quyết định. Tạo môi trường cạnh tranh
cho các doanh nghiệp. Nhu cầu giao lưu về vốn đã xuất hiện, phản ánh qui luật
cung cầu và qui lụât giá trị. Nhu cầu này bắt nguồn từ hai phía: người cần vốn và
người có vốn.
Người ta ví thị trường chứng khoán, như một trung tâm thu gom mọi nguồn
vốn tiết kiệm lớn nhỏ của từng bộ phận dân cư, như một nam châm cực mạnh thu
hút nguồn vốn to lớn từ nước ngoài, thu hút nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các
doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ, tạo thành một nguồn vốn khổng lồ

cho nền kinh tế quốc dân. Đồng thời nó tạo ra cho các doanh nghiệp có vốn để mở
rộng sản xuất kinh doanh và thu được lợi nhuận nhiều hơn, kích thích doanh
nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả bằng cách vừa sản xuất vừa mua bán chứng
khoán. TTCK giúp Nhà nước giải quyết các vấn đề cơ bản như ngân sách, hạ tầng
cơ sở, trực tiếp cải thiện đời sống của người tiêu dùng.
b. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sử dụng vốn
kinh doanh và có hiệu quả hơn.
Khả năng linh động tức thì của chứng phiếu là một yếu tố rất cần đối với
nhà đầu tư khi đầu tư vốn.
Thị trường chứng khoán giúp doanh nghiệp sử dụng vốn linh hoạt và tối
ưu. Khi một doanh nghiệp cần vốn để mở rộng qui mô doanh nghiệp có thể phát
hành các loại chứng khoán để huy động vốn. Phương thức này còn gọi là “vay vốn
qua phát hành”. Doanh nghiệp vay vốn của người có tiền tích luỹ. Những người
8


này mong muốn đầu tư tiền nhàn rỗi vào giá trị động sản. Doanh nghiệp phát hành
cổ phiếu hoặc trái phiếu để người dân ghi mua, phát hành cổ phiếu doanh nghiệp
tăng vốn tự có bằng cách góp vốn, cổ phiếu. Khi phát trái phiếu doanh nghiệp đã
tăng nguồn vốn vay dân.
Ngược lại khi doanh nghiệp chưa có cơ hội sản xuất kinh doanh, doanh
nghiệp có thể dự trữ chứng khoán như một tài sản kinh doanh.
Mặt khác TTCK còn giúp doanh nghiệp xâm nhập lẫn nhau thông qua việc
mua bán cổ phiếu việc sát nhập mở rộng hợp đồng kinh doanh của doanh nghiệp
đều được thực hiện thông qua TTCK.
Mặc dù các chứng khoán được mua bán trên thị trường như mua bán tài sản
doanh nghiệp, nhưng vốn khả dụng của nền kinh tế luôn được phát triển và duy trì.
Thậm chí khi một doanh nghiệp bị phá sản nó cũng không mất đi nó sẽ bám vào
tay một cổ đông khác và cổ đông này sẽ duy trì và phát triển các HDDN.
c. Công cụ đánh giá doanh nghiệp, dự đoán tương lai.

Thị trường chứng khoán biến động rất phức tạp và nhanh chóng. Để lựa
chọn phương án đầu tư thích hợp người ta phải có phương pháp xác định cho từng
tình hình cụ thể với tham vọng theo dõi sự biến động chung của giá cả của chứng
khoán người ta đã cố gắng tìm các biện pháp xác định khác nhau. Đó là lí do ra đời
chỉ số thị trường (market index) các chỉ số cung cấp thông tin về thị trường nói
chung.
Sự hình thành thị trường chứng khoán của một doanh nghiệp trên thị
trường chứng khoán đã bao hàm sự đánh giá thực trạng của doanh nghiệp đó.
Trong hiện tại và dự đoán trong tương lai. Thị trường cổ phiếu cao hay thấp biểu
hiện mức độ đầu tư tài chính. Trạng thái kinh tế của doanh nghiệp đặc biệt là mức
độ cổ tức mà các cổ đông được hưởng và giá thặng dư của cổ phiếu thể hiện ở khả
năng mang lại lợi tức và thu nhập cho doanh nghiệp cho cổ đông của mình.
9


Thuờng những doanh nghiệp làm ăn tốt, thì có khả năng trả lợi tức cổ phần cao và
chỉ có doanh nghiệp có quản lý tốt mới ăn lên làm ra. Tuy nhiên có những cổ phiếu
cổ tức khiêm tốn vẫn có giá trị thị trường cao. Vì đó là doanh nghiệp có nhiều triển
vọng trong tương lai.
Nhìn chung thị trường chứng khoán còn vốn vào các chức năng khác như
chức năng TTCK khuyến khích dân chúng tiết kiệm và sử dụng nguồn vốn tiết
kiệm vào công cuộc đầu tư. TTCK là công cụ làm giảm áp lực lạm phát, TTCK
đảm bảo tính thanh khoản cho số tiền tiết kiệm đầu tư dài hạn TTCK tạo thói quen
đầu tư... nhưng ba chức năng trên là ba chức năng quan trọng đặc biệt, dù để ý ở
tầm vi mô hay vĩ mô.
1.1.3. Nguyên tắc hoạt động và điều kiện cho sự hình thành
TTCK
a. Nguyên tắc hoạt động.
Sự hoạt động của TTCK là rất phức tạp, nhưng nhìn chung nó hoạt động
tuân theo các nguyên tắc sau:

+ Nguyên tắc trung gian thị trường chứng khoán hoạt động không phải trực
tiếp do những người muốn mua hay bán chứng khoán thực hiện mà do người môi
giới trung gian thực hiện. Đây là nguyên tắc trung gian cơ bản cho tổ chức và hoạt
động của thị trường chứng khoán.
Nguyên tắc trung gian nhằm bảo đảm các loại chứng khoán được giao dịch
là chứng khoán thực và thị trường chứng khoán hoạt động lành mạnh, đều đặn, hợp
pháp và ngày càng phát triển, bảo vệ lợi ích của người đầu tư. Trong đó có môi
giới trung gian và thương gia chứng khoán.
* Nguyên tắc đấu giá: mọi việc mua bán chứng khoán đều phải tuân thủ
theo nguyên tắc đấu giá. Vì vậy không phải bạn muốn mua là mua được ngay mà
nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Hiện nay có ba hình thức đấu giá cơ bản.
10


+ Đấu giá trực tiếp: các nhà môi giới trực tiếp gặp nhau. Thông qua một
trung gian (chuyên gia chứng khoán tại quầy giao dịch trong sân).
+ Đấu giá gián tiếp: là hình thức các môi giới không trực tiếp gặp nhau.
+ Đấu giá tự động: là hình thức đấu giá qua hệ thống Computer nối mạng
giữa máy chủ và các cơ sở giao dịch với hệ máy và công ty chủ máy khoán thành
viên.
* Nguyên tắc công khai: là nguyên tắc mà tất cả các hoạt động trên thị
trường chứng khoán ra công chúng đều được công khai, như là các loại chứng
khoán trên thị trường chứng khoán, tình hình tài chính. Kết quả kinh doanh của các
công ty có chứng khoán đăng ký niêm yết trên thị trường, số lượng và giá cả từng
loại chứng khoán đã mua bán đều được thông báo công khai trên thị trường và trên
các phương tiện thông tin đại chúng.
b) Điều kiện cho sự hình thành TTCK
Không phải bất kì lúc nào ta muốn thành lập TTCK là có thể thành lập
được ngay. Mà muốn thành lập TTCK và hoạt động có hiệu quả thì phải đảm bảo
một số những điều kiện nhất định.

* Điều kiện về cổ phần hoá có nền kinh tế ổn định rồi vấn đề tạo nguồn
hàng cho thị trường. Gắn liền với lĩnh vực này là chương trình cổ phần hoá và việc
phát hành trái phiếu công ty cũng như trái phiếu chính phủ.
Để tạo môi trường cho cổ phần hoá chúng ta phải: xây dựng cơ sở dữ liệu
để phân loại các doanh nghiệp Nhà nước, trên cơ sở đó quản lý và áp dụng hình
thức cổ phần hoá cho từng loại hình. Xử lý vấn đề nợ tồn đọng, trên cơ sở nâng cao
tài sản có của doanh nghiệp tạo điều kiện cho quá trình cổ phần.
Xây dựng hệ thống kế toán và đánh giá giá trị doanh nghiệp.

11


* Điều kiện pháp lý: thị trường chứng khoán liên quan đến vấn đề sở hữu,
quan hệ vay mượn và quan hệ kinh tế giữa chủ thể và toàn bộ đời sống kinh tế xã
hội. Bởi vậy có rất nhiều văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động của TTCK. Do
nhu cầu về vốn cao nên trong giai đoạn đầu TTCK hoạt động sẽ không có tổ chức
nếu không có hệ thống pháp lí điều chỉnh kịp thời. Vì vậy xây dựng hệ thống pháp
lý là điều kiện quan trọng tạo hành lang pháp lý cho TTCK phát triển là tiêu đề duy
trì lòng tin và bảo vệ các nhà đầu tư.
Có nhiều văn bản pháp lí được xây dựng.
+ Luật /pháp lệnh nghị định về CK và TTCK.
+ Luật /nghị định về lưu giữ CK.
+ Luật/ nghị định về Uỷ ban CK quốc gia.
+ Quy định về niêm yết, giao dịch, quĩ đầu tư...
Những văn bản gián tiếp tác động đến TTCK:
+ Luật dân sự
+ Luật thương mại.
+ Luật Thuế.
+ Luật doanh nghiệp.
+ Luật đầu tư.

* Điều kiện kĩ thuật và tổ chức.
Để giúp cho hoạt động trên thị trường diễn ra trôi chảy, hiệu quả cần xây
dựng một hệ thống giao dịch, hệ thống xử lý dữ liệu, hệ thống thông tin, hệ thống
thanh toán bù trừ, lưu giữ chứng khoán với mô hình và mức độ tự động hoá thích
hợp đáp ứng được khối lượng giao dịch ban đầu, mặt khác tính được xu hướng mở

12


rộng của thị trường và khả năng có thể nâng cấp trên cơ sở có sẵn. Bên cạnh xây
dựng cơ sở hạ tầng cho TTCK cần phát triển các tổ chức hoạt động trên thị trường.
+ Các công ty bảo hành phát hành CK.
+ Các công ty môi giới CK.
+ Các công ty giao dịch CK cho chính mình.
+ Các quĩ đầu tư.
+ tổ chức tư vấn.
+ Nhân viên giao dịch C/I.
Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn kế toán quốc tế áp dụng thống nhất trong
toàn ngành. Đồng thời phát triển các công ty kiểm toán trong và ngoài nước đáp
ứng yêu cầu thẩm định cả hai phía các tổ chức CK các tổ chức KDCK.
* Điều kiện về con người.
Nhân tố con người đóng vị trí hết sức quan trọng đối với sự thành công của
TTCK. Vì đây là một ngành mới, rủi ro cao nên phải có đội ngũ cán bộ nhanh
nhậy, tinh thông nghiệp vụ và có tư cách. Vì vậy cần đào tạo cán bộ cho TTCK,
cần thực hiện trước khi thành lập TTCK khoảng ba năm các đối tượng cán bộ cần
đào tạo.
+ Cán bộ quản lý giám sát thị trường, công tác tại Ủy ban chứng khoán.
+ Cán bộ quản lý, điều hành tại sở giao dịch CK và tại các hệ thống phụ
trợ.
+ Nhân viên KDCK tại các công ty KDCK.

1.1.4. Ưu và nhược điểm của TTCK.
a. Những ưu điểm.

13


+ Thị trường chứng khoán khuyến khích dân chúng tiết kiệm và thu hút
mọi nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu tư. Nhờ TTCK mà đại đa số dân chúng đều có thể
tha gia được và công cuộc đầu tư ít ỏi của mình làm cho vốn đầu tư sẽ sinh lời và
lại làm cho kích thích ý thức tiết kiệm để đầu tư trong dân chúng.
+ Thị trường chứng khoán là phương tiện huy động vốn. Trước đây các đơn
vị kinh doanh phụ thuộc lớn vào ngân này để có vốn kinh doanh. Ngày nay các
đơn vị kinh doanh cũng như Nhà nước huy động vốn trực tiếp từ các nguồn tiết
kiệm bằng cách phát hành cổ phiếu hay trái phiếu.
+ Thị trường chứng khoán là công cụ giúp Nhà nước thực hiện chương
trình phát triển kinh tế xã hội về mặt kinh tế Nhà nước vay tiền của dân là thiết
thực và lành mạnh. Vì chính phủ không phải thông qua ngân hàng để phát hành
thêm tiền vào lưu thông. Tạo ra sức ép lạm phát thông qua TTCK việc phát hành
trái phiếu hết sức thuận lợi.
+ TTCK là công cụ kiểm soát thu hút vốn đầu tư nước ngoài. TTCK là
công cụ cho phép kiểm soát vốn ĐTNN tốt nhất vì nó hoạt động công khai.
+ TTCK lưu động hoá mọi nguồn vốn trong nước. Một khi việc đầu tư vào
doanh nghiệp là có lợi cho tầng lớp dân từ thì qua TTCK các khoản tiết kiệm sẵn
sàng từ bỏ bất động hoá, chấp nhận vào quá trình đầu tư.
+ Thị trường CK là điều kiện cho quá trình cổ phần hoá: cổ phần hoá là quá
trình chuyển từ doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần. Đòi hỏi phải có
TTCK, TTCK là cơ sở, là tiền đề vật chất cho quá trình cổ phần hoá đi đúng trật tự
pháp luật, phù hợp với tâm lý người đầu tư.
+ TTCK kích thích doanh nghiệp hoạt động đàng hoàng hơn: Nhờ TTCK
các doanh nghiệp mới có thể đem bán phát hành cổ phiếu; trái phiếu của họ mà ban

quản lý TTCK chỉ chấp nhận cổ phiếu, trái phiếu hợp lệ: như kinh doanh hợp pháp,


tài chính lành mạnh... dân chúng cũng mua cổ phiếu của công ty thành đạt. Vì vậy sẽ
kích thích doanh nghiệp hoạt động đàng hoàng hơn.
b. Những nhược điểm.
Như đã nêu trên TTCK có vai trò tích cực trong huy động vốn song nó chỉ
phát huy khi hoạt động tốt, đảm bảo lành mạnh cần thiết.
Nhưng bên cạnh đó TTCK có nhiều mặt tiêu cực cần tránh để hạn chế thấp nhất
những rủi ro tạo điều kiện cho nó phát huy hết vai trò của nó.
+ Yếu tố đầu cơ: yếu tố này làm ảnh hưởng dây truyền làm cho cổ phiếu có thể
tăng giá cao giả tạo, điều này có thể dẫn đến sự khan hiếm hay thừa thãi làm cho
giá cổ phiếu tăng giảm đột biến.
+ Mua bán nội gián: Đây là hiện tượng một cá nhân nào đó lợi dụng việc
làm thu được những thông tin nội bộ của một đơn vị kinh tế để mua hoặc bán cổ phiếu
của đơn vị đó nhằm thu lợi cho mình, gây ảnh hưởng giá cổ phiếu trên thị trường đó.
+ Mua bán cổ phiếu ngoài TTCK luật về TTCK cũng đã hạn chế các nhà
môi giới mua bán cổ phiếu ngoài thị trường chứng khoán, vì nếu để việc này xảy ra sẽ
gây hậu quả khó lường. Vì bộ phận quản lý không hề nào biết được việc chuyển
nhượng quyền sở hữu cổ phiếu của đơn vị đó. Mọi sự mua bán ngoài có khả năng
tạo áp lực cho các nhà đầu tư khác.
1.2. VỊ TRÍ, CHỨC NĂNG CỦA HỆ THỐNG TÀI CHÍNH, THỊ TRƯỜNG TÀI
CHÍNH

1.2.1. Các dòng lưu chuyển trong nền kinh tế
Chức năng cơ bản của mọi nền kinh tế là sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn lực
khan hiếm để sản xuất hàng hoá và dịch vụ mà xã hội cần. Kết hợp các yếu tố đầu vào là
lao động, đất đai, tài nguyên thiên nhiên, thiết bị sản xuất, cơ sở hạ tầng và vốn để tạo ra
các đầu ra là các sản phảm hàng hoá, dịch vụ hữu ích cho tiêu dùng hoặc cho quá trình
sản xuất khác, nền kinh tế tạo ra hai dòng lưu chuyển đối ứng: lưu chuyển của dòng sản

phẩm hàng hoá, dịch vụ từ các đơn vị sản xuất - nơi sử dụng các yếu tố đầu vào - đến
các đơn vị tiêu dùng - nơi tiêu thụ các đầu ra và lưu chuyển của dòng tiền thanh toán từ


các đơn vị tiêu thụ tới các đơn vị sản xuất. Trong hầu hết các nền kinh tế đương đại,
chính các đơn vị tiêu thụ (chủ yếu là các hộ gia đình) là người cung cấp các dịch vụ sản
xuất cho các đơn vị sản xuất (chủ yếu là các doanh nghiệp và chính phủ) để đổi lấy thu
nhập dưới hình thức tiền lương, tiền công và cũng chính các đơn vị sản xuất sử dụng
phần lớn thu nhập để mua sắm hàng hoá, dịch vụ hoặc đóng thuế cho chính phủ. Kết quả
của việc trao đổi này là hình thành hai dòng lưu chuyển đổi ứng khác: lưu chuyển của
dòng dịch vụ sản xuất từ các đơn vị tiêu thụ tới đơn vị sản xuất. Trong nền kinh tế tiền
tệ, dưới sự chi phối của cơ chế thị trường, các dòng chu chuyển sản phẩm và thu nhập
này diễn ra liên tục, không ngừng và có quan hệ tác động qua lại, phụ thuộc lẫn nhau.
Hình 1.1. Chu chuyển của các dòng thu nhập, thanh toán, sản phẩm, dịch vụ.
Dòng chi phí tiêu thụ và thuế

Dòng sản phẩm hang hóa và dịch vụ

Các đơn vị sản
xuất (Chủ yếu là
doanh nghiệp và
chính phủ)

Các đơn vị sản
xuất (chủ yếu là
hộ gia đình)

Dòng dịc vụ sản xuất

Dòng thu nhập



1.2.2. Thị trường và vai trò của thị trường trong nền kinh tế
Mười năm trở lại đây, sau sự sụp đổ của Liên xô và Đông Âu, một lần nữa, cơ chế thị
trường đã khẳng định sức sống mãnh liệt của nó trong một thế giới đầy rẫy những biến
động. Sau nhiều thập kỷ ngợi ca tính ưu việt của nền kinh tế chỉ huy với cơ chế kế hoạch
hoá tập trung, bức tranh kinh tế nghèo nàn, ảm đạm và không gì sáng sủa đã buộc Nga và
hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã từng tự hỏi “chúng ta là ai và chúng ta
đang ở đâu” để rồi đoạn tuyệt với cơ chế quản lý cũ, thực hiện những bước chuyển đổi
mạnh mẽ từ nền kinh tế chỉ huy sang một nền kinh tế thị trường. Trong khi vẫn kiên trì
theo việc xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc, bằng việc
mở cửa của thị trường chứng khoán Thượng Hải vào năm 1990 và thị trường chứng
khoán Thẩm Quyến vào năm 1992, Trung Quốc cũng đã chính thức mở cửa để thừa nhận
và kết hợp các yếu tố của nền kinh tế thị trường ngay trong lòng của nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa theo chủ nghĩa thực dụng của Đặng Tiểu Bình. Nhiều quốc gia đang phát triển
khác như Thái lan, Hàn quốc.... cũng đang có sự gia tăng nhanh chóng về tổng sản phẩm
và mức thu nhập bình quân đầu người bởi việc cải tổ mạnh mẽ nền kinh tế và thiết lập
một thể chế phù hợp với kinh tế của thị trường, giảm thiểu vai trò của Chính phủ trong
nền kinh tế. Khác hẳn với những nền kinh tế nói trên, Cuba, Bắc Triều Tiên là những nền
kinh tế đang gặp phải nhiều khó khăn do nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chủ yếu
vẫn là chưa thừa nhận hoàn toàn kinh tế thị trường và mở cửa nền kinh tế. Vậy thì thị
trường là gì và tại sao và bằng cách nào thị trường có sức mạnh như vậy?
Theo nghĩa gốc, thị trường chỉ một địa điểm cụ thể để người mua và người bán tập
hợp lại để trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Thế nhưng, ngày nay, cùng với sự phát triển của
nền kinh tế hàng hoá, nội hàm của khái niệm thị trường đã được mở rộng hơn nhiều.
Trong kinh tế học hiện đại, thị trường không chỉ là một địa điểm mua bán tập trung mà
một cơ chế mà theo đó người mua và người bán tiếp xúc với nhau để trao đổi hàng hoá và
dịch vụ. Đó có thể một thị trường giao dịch không có địa điểm giao dịch cụ thể nào hết vì
các giao dịch, trao đổi trên thị trường này được thực hiện thông qua điện thoại, telex, máy
điện toán và các trang thiết bị khác. Mặc dù cơ chế thị trường hoạt động chưa thật sự

hoàn hảo theo nguyên lý bàn tay vô hình của Adam Smith nhưng trong các nền kinh tế
hiện đại, thị trường đã chứng minh những hiệu quả to lớn trong việc giải quyết ba vấn đề
cơ bản của mọi nền kinh tế: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? và, Sản xuất cho ai?
Một mặt, thông qua sự thay đổi của giá trị cả hàng hoá và dịch vụ trên thị trường, thị
trường sẽ tự động xác định loại hàng hoá và dịch vụ gì cần được sản xuất mở rộng và loại
hàng hoá nào sẽ bị thu hẹp. Mặt khác bằng sự điều tiết của động lực lợi ích (thị phần, uy
tín, hình ảnh, thu nhập và bằng những lợi ích kinh tế khác), tính sẽ nhạy cảm đối với nhu
cầu của người tiêu dùng, sự năng động trong việc lựa chọn loại công nghệ sản xuất và


phương thức quản lý có hiệu quả sẽ được nhiều cá nhân, doanh nghiệp sử dụng và khai
thác một cách triệt để nhằm sản xuất ngày một nhiều hơn các hàng hoá và dịch vụ mà xã
hội cần. Lợi ích kinh tế ở đây có giá trị bằng muôn lời hiệu triệu, vạn lời động viên, kêu
gọi có tính chung chung mà thông thường chỉ tỏ ra có hiệu quả trong các nền kinh tế thời
chiến. Đó là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển một cách mạnh mẽ.

1.2.3. Chức năng của hệ thống tài chính và thị trường tài chính
Tồn tại một quy luật trong cuộc sống và sinh hoạt đời thường là, giữa mức thu nhập và
chi tiêu của các tác nhân kinh tế không phải bao giờ cũng có sự ăn khớp với nhau cả về
mặt thời gian cũng như định lượng. Tại một thời điểm nào đó, khi một tác nhân kinh tế có
nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi chưa cần sử dụng, tác nhân này sẽ có nhu cầu cho vay các
tác nhân khác trong hệ thống tài chính. Trái lại, tại một thời điểm khác, khi nhu cầu chi
tiêu và đầu tư vượt quá các nguồn thu nhập hiện tại, tác nhân kinh tế này sẽ trở thành tác
nhân đi vay trên thị trường tài chính. Như vậy, trong một nền kinh tế tiền tệ, nhu cầu trao
đổi, mua bán các nguồn vốn tiền tệ là nhu cầu thiết yếu. Và chính đó là lý do tồn tại của
thị trường tài chính và hệ thống tài chính.
Hệ thống tài chính là tập hợp tất cả các loại thị trường tài chính, các định chế tài
chính, các luật lệ, quy tắc, các kỹ thuật để tạo lập, phân phối, định giá, mua bán, trao đổi
các sản phẩm và dịch vụ tài chính giữa các tác nhân kinh tế (doanh nghiệp, hộ gia đình,
chính phủ) trong nền kinh tế. Là một trong những phát minh quan trọng nhất của xã hội

hiện đại, hệ thống tài chính có nhiệm vụ chủ yếu là cung cấp các kênh dẫn vốn để chuyển
tải các quỹ cho vay khan hiếm từ những người tiết kiệm - tác nhân cho vay - sang những
người cần tiền - tác nhân đi vay - để đầu tư sản xuất hoặc mua sắm hàng hoá dịch vụ.
Trong nền kinh tế hiện đại, tầm quan trọng của hệ thống tài chính thể hiện ở việc thực
hiện các chức năng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, hệ thống tài chính tạo ra những công cụ tài chính để chuyển dịch rủi ro từ
những người tiết kiệm (hoặc người cho vay) - người không thích sự không chắc chắn về
lợi tức hoặc các khoản thanh toán - sang mhững người tiết kiệm hoặc những nhà đầu tư
sẵn sàng chấp nhận rủi ro. Bằng việc cung cấp cho các nhà đầu tư nhiều loại tài sản tài
chính để nắm giữ, thay vì chỉ nắm giữ một loại tài sản tài chính, nhà đầu tư thích có sự ổn
định về số lợi tức thu được có thể phân bổ số của cải hiện có của mình trong tập hợp các
tài sản tài chính khác nhau để phân tán rủi ro. Mặc dù kết quả đầu tư vào một tài sản tài
chính này có thể là tốt và tài sản kia có thể là không tốt lắm nhưng tính chung, thông
thường tổ hợp các tài sản (danh mục đầu tư) được chọn bao giờ cũng có mức lợi tức
trung bình.


Thứ hai, cùng với việc tạo ra các tài sản tài chính, hệ thống tài chính cung cấp một hệ
thống giao dịch để gia tăng tính lưu chuyển (liquidity) của các tài sản tài chính. Theo
quan điểm của người có tiền nhàn rỗi, tính lưu chuyển của tài sản được xem là một lợi
ích bởi vì không ai muốn vốn đầu tư của mình bị bất động vào một loại tài sản nhất định.
Bằng cách tạo ra các tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, tài khoản tiền giửi không
kỳ hạn, thị trường tài chính cho phép nhà đầu tư nắm giữ các tài sản tài chính thích ứng
nhanh nhạy với những cơ hội đầu tư mới hoặc những sự kiện bất trắc, không dự đoán
trước hơn là những nhà đầu tư phân bố tài sản của mình vào bất động sản, nhà máy, máy
móc thiết bị bởi vì, bán một tài sản tài chính để mua tài sản khác hoặc mua hàng hoá bao
giờ cũng dễ dàng và nhanh chóng hơn.
Thứ ba, hệ thống tài chính còn có chức năng khác là tập hợp thông tin và cung cấp
thông tin. Những thông tin mà hệ thống tài chính tập hợp và cung cấp là những thông tin
hữu ích đối với người tiết kiệm lẫn người có nhu cầu vay mượn. Khi thực hiện chức năng

tập hợp thông tin, hệ thống tài chính xác định các thông tin về những người có nhu cầu
vay mượn trong tương lai và mục đích sử dụng nguồn ngân quỹ vay mượn này. Những
thông tin này rất hữu ích đối với người có tiền nhàn rỗi để cân nhắc trước khi quyết định
cho vay nhằm bảo vệ các khoản đầu tư của mình. Để có được những nguồn thông tin này
những người muốn đầu tư riêng rẽ (cho vay) số tiền tiết kiệm của mình phải mất chi phí
giao dịch (kể cả thời gian). Đôi khi thu nhập mang lại do cho vay trực tiếp có thể không
đủ trang trải các phí giao dịch nay. Thông qua hệ thống tài chính chi phí giao dịch sẽ
được giảm thiểu một cách đáng kể bởi vì quy mô giao dịch lớn sẽ cho phép có được mức
tiết kiệm do khối lượng giao dịch lớn (economies of scale).
Dịch vụ thông tin thứ hai mà hệ thống tài chính cung cấp là cung cấp thông tin. Bằng
cách chuyển tải các thông tin về tình trạng tài chính của các doanh nghiệp vào trong giá
cả và mức sinh lời của các công cụ tài chính, thị trường tài chính cho phép người đi vay
và người cho vay có đủ cơ sở để đưa ra các quyết định của mình.

1.2.4. Các loại thị trường tài chính trong hệ thống tài chính
Tồn tại nhiều thị trường tài chính trong hệ thống tài chính. Tương ứng với các tiêu
thức phân loại khác nhau, có nhiều loại thị trường tài chính khác nhau.
Theo bản chất của các công cụ tài chính, vốn lưu chuyển trên thị trường tài chính
thông qua thị trường các chứng khoán vay nợ và thị trường các chứng khoán góp
vốn.
Theo kỳ hạn của các công cụ tài chính, vốn có thể lưu chuyển thông qua thị trường tiền
tệ và thị trường vốn trong hệ thống tài chính. Theo quy ước, thị trường tiền tệ là thị


trường giao dịch các công cụ tài chính có kỳ hạn dưới một năm và thị trường vốn là thị
trường giao dịch các công cụ tài chính có kỳ hạn trên một năm.
Theo mức độ công khai của các giao dịch, vốn lưu chuyển thông qua thị trường mở và
thị trường thương lượng. Thị trường mở là thị trường mua bán các công cụ tài chính mà
bất cứ cá nhân và các định chế tài chính nào cũng có thể tham gia. Ngược lại, trong thị
trường thương lượng, các công cụ tài chính được trao đổi theo những điều khoản mua

bán trong các hợp đồng có tính chất riêng tư đựoc thiết lập bởi các cuộc bàn thảo và thoả
thuận trực tiếp giữa người mua và người bán.
Theo thời hạn tồn tại của các công cụ tài chính kể từ đợt phát hành đầu tiên, vốn có
thể được trao đổi trên thị trường sơ cấp hoặc thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp là thị
trường mua bán các chứng khoán mới được phát hành lần đầu. Ngược lai, thị trường thứ
cấp là thị trường giao dịch các loại chứng khoán đã qua tay. Theo cấu trúc tổ chức của
thị trường, vốn đựơc chuyển tải qua thị trường đấu giá hoặc trên thị trường không chính
thức. Trong thị trường đấu giá, người đầu tư đặt giá mua cao nhất sẽ là người được
nhận chứng khoán. Trong thị trường không chính thức, các công cụ tài chính được mua
bán thông qua các nhà môi giới hoạt động bên ngoài các cơ sở giao dịch chính thức, nơi
giao dịch các công cụ tài chính của các công ty lớn nhất, có tình trạng tài chính ổn định
nhất.
Cũng có thể phân loại các thị trường tài chính theo phương thức phân phối các công
cụ tài chính sau khi thực hiện một giao dịch. Trên thị trường giao dich ngay, các công
cụ tài chính được giao ngay lập tức (thường là trong khoản vài ba ngày làm việc). Ngược
lại, trên thị trường giao sau (thị trường các công cụ tài chính phát sinh hay thị trường
các chứng khoán tuỳ thuộc: chứng khoán có giá trị tuỳ thuộc vào giá tri của một tài sản
khác như các hợp đồng trong tương lai và các hợp đồng quyền chọn), các công cụ tài
chính có thể được trao đổi tại một thời điểm nhất định trong tương lai ở một mức giá
được xác định.
1.3. CÁC CÔNG CỤ TÀI CHÍNH VÀ CÁC GIAO DỊCH TÀI CHÍNH

1.3.1. Các tài sản tài chính
Trong một nền kinh tế được tiền tệ hoá ở mức độ cao như kinh tế thị trường, khái niệm
tài sản bao hàm một nội dung kinh tế khá rộng. Một tài sản, nói theo nghĩa rộng, là bất cứ
vật sở hữu gì mà có giá trị trong trao đổi. Nói đến tài sản phải kể đến tài sản hữu hình và
tài sản vô hình. Tài sản hữu hình là tài sản có giá trị phụ thuộc vào những đặc tính vật
chất riêng biệt. Thuộc về tài sản hữu hình là nhà cửa, đất đai hoặc máy móc thiết bị. Tài
sản hữu hình có thể được phân loại thêm thành tài sản có thể tái sản xuất như máy móc
thiết bị và những tài sản không thể tái sản xuất như đất đai, hầm mỏ, tác phẩm nghệ



thuật. Khác với tài sản hữu hình, tài sản vô hình tượng trưng cho các trái quyền hợp
pháp - quyền đòi phải hoàn trả một số tiền, quyền đòi thực hiện một nghĩa vụ - đối với
các khoản lợi nhuận trong tương lai. Giá trị của các tài sản vô hình không có sự liên quan
gì tới hình thức, nội dung vật chất mà người sử dụng để ghi nhận các chứng chỉ hữu hình
nhưng tự bản thân tài sản tài chính lại không có giá trị. Đúng ra, giá trị của các tài sản tài
chính dựa trên giá trị của dòng thu nhập được tạo ra bởi các tài sản thật. Các tài sản tài
chính cũng còn được gọi là các công cụ tài chính hoặc các chứng khoán là các tài sản
vô hình.
Mặc dù có hàng nghìn loại tài sản tài chính khác nhau nhưng, theo Peter S. Rose [113,
p.24], tựu trung có thể chia các tài sản tài chính ra làm 3 nhóm: Tiền, chứng khoán góp
vốn (hay chứng khoán sở hữu), chứng khoán cho vay (hay chứng khoán nhận nợ).

1.3.1.1. Tiền
Trong các nền kinh tế tiền tệ, bất cứ tài sản tài chính nào được thừa nhận một cách
rộng rãi như một phương tiện thanh toán hàng hoá, dich vụ hoặc để thanh toán nợ nần
đều được gọi là tiền [113,p.24], [115,p.9]. Định nghĩa này nhấn mạnh yếu tố niềm tin,
yếu tố tâm lý bao hàm trong khái niệm tiền tệ. Trong lịch sử, đã có nhiều thứ hàng hoá
khác nhau được sử dụng như tiền bởi vì người ta tin tưởng vào giá trị của chúng và sẵn
sàng thừa nhận chúng khi thanh toán.
Theo truyền thống, phần lớn các nhà kinh tế đã định nghĩa tiền là tất cả các loại tiền
giấy, tiền xu do công chúng nắm giữ, tiền gửi không kỳ hạn tại các ngân hàng thương mại
và các định chế nhận tiền gửi khác. Tài sản tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế thị
trường là tiền. Tiền tự bản thân nó là một tài sản tài chính thật sự bởi vì tất cả các dạng
tiền tệ mà chúng ta sử dụng hôm nay đều là những trái quyền (quyền đòi chi trả) đối với
các định chế phát hành ra nó. Bởi vì tất cả các tài sản tài chính được đánh giá bằng tiền
và vì các dòng lưu chuyển vốn giữa người cho vay và người đi vay diễn ra qua trung gian
của tiền tệ cho nên có thể nói rằng, tài sản tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế là
tiền.


1.3.1.2. Các chứng khoán vay nợ
Loại tài sản tài chính thứ hai là các chứng khoán vay nợ. Thuộc về nhóm tài sản tài
chính này là các trái phiếu, các khoản phải thu và tiền gửi tiết kiệm. Trái phiếu là giấy
chứng nhận về một khoản vay do người cho vay (người sở hữu trái phiếu) dành cho
người đi vay (người phát hành trái phiếu). Cũng giống như vay ở các ngân hàng, theo quy
định, để có thể vay nợ thông qua việc phát hành trái phiếu, người phát hành phải đưa ra
một cam kết có tính rằng buộc về mặt pháp lý dưới hình thức một bản giao kèo ủy thác

8


tài sản hoặc một chứng thư ủy thác tài sản mà theo đó người nhận uỷ thác, thường là các
ngân hàng thương mại, để đại diện cho quyền lợi của người giữ trái phiếu. Nếu người
phát hành trái phiếu không có khả năng trả lãi và số tiền nợ gốc (mệnh giá nợ) thì người
được uỷ nhiệm có quyền đua các chủ nợ vỡ nợ ra toà.
Các chứng khoán nợ thường được phân làm hai loại: các chứng khoán nợ có thể
chuyển nhượng được và các chứng khoán nợ không thể chuyển nhượng được. Chứng
khoán nợ có thể chuyển nhượng được là chứng khoán có thể được dễ dàng chuyển
nhượng từ người sở hữu này sang người sở hữu khác như một chứng khoán khả mại.
Ngược lại, chứng khoán nợ không thể chuyển nhượng là loại chứng khoán không thể
chuyển nhượng một cách hợp pháp.

1.3.1.3. Các chứng khoán góp vốn
Các chứng khoán góp vốn, thường được gọi là cổ phiếu, tượng trưng cho những cổ
phần sở hữu trong một doanh nghiệp. Đó là “ những trái quyền (claims) đối với lợi nhuận
của một doanh nghiệp”. Giữ một chứng khoán góp vốn trong tay có nghĩa là người giữ
chứng khoán sở hữu một phần tài sản của một công ty. Cũng vì vậy, chỉ có cổ phiếu công
ty, không có cổ phiếu của chính phủ hoặc chính quyền địa phương, vì các cá nhân không
thể “sở hữu” chính phủ (ít nhất là trên phương diện pháp lý).

Có hai loại cổ phiếu là cổ phiếu thường và cổ phiến ưu đãi. Thông thường, tất cả các
công ty đều phát hành cổ phiếu thường. Về bản chất, cổ phiếu thường tượng trưng cho
quyền sở hữu chủ yếu đối với một công ty vì loại cổ phiếu này cho phép các cổ đông
được quyền bỏ phiếu bầu các thành viên của Hội đồng quản trị và xác định các chính
sách của công ty. Đổi lại, người sở hữu cổ phiếu này chỉ có quyền hưởng lợi tức sau khi
cả các loại chứng khoán khác đã được trả. Vì vậy, trong trường hợp một công ty bị giải
thể thì người sử hữu cổ phần thường là người có những quyền sau cùng đối với tài sản
của công ty. Nếu một công ty bị buộc phải phá sản thì những người nắm giữ những
chứng khoán cao cấp như các trái phiếu sẽ có quyền ưu tiên được chia những tài sản còn
lại của công ty.
Khác với cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi hơn hẳn cổ phiếu thường ở hai điểm: (1)
được ưu tiên nhận lãi theo một tỷ lệ đã được ấn định trước khi cổ tức được chi trả cho các
cổ phiếu thường và (2) quyền ưu tiên đối với phần tài sản còn lại của công ty nếu công ty
được đặt trong tình trạng phá sản. Như vậy, cổ phiếu ưu đãi giống như một loại trái
phiếu cấp thấp nhưng không có bảo đảm giống như bảo đảm của trái phiếu và cổ phiếu
ưu đãi cũng không có sự hấp dẫn giống như cổ phiếu thường.

9


1.3.2. Các hình thức tài trợ trên các thị trường tài chính
Các chủ thể tham gia các giao dịch tài chính giữ các vai trò khác nhau trên thị trường
tài chính. Một cách tổng quát, có thể chia các chủ thể tham gia vào thị trường tài chính
theo ba nhóm vai trò khác nhau: các đơn vị thặng dư hoặc thâm hụt; các trung gian tài
chính và ngân hàng trung ương.
Nhóm các đơn vị thặng dư hoặc thâm hụt là các hộ gia đình, các doanh nghiệp, chính
phủ và người nước ngoài. Khi ở vị thế thặng dư vốn, các chủ thể thặng dư có thể cho vay
phần vốn chưa cần dùng đến của mình trên thị trường tài chính và trở thành người cho
vay. Ngược lại, khi ở trong tình trạng thâm hụt, chủ thể này sẽ có nhu cầu vay mượn
phần thiếu hụt tạm thời trên thị trường tài chính và trở thành người đi vay. Nhóm giữ vai

trò trung gian tài chính là các định chế tài chính. Đây là các chủ thể có chức năng chuyển
tải vốn từ đơn vị thặng dư tới đơn vị thâm hụt. Là ngân hàng của các ngân hàng, để thực
hiện chức năng hoạch định chính sách tiền tệ, bảo vệ và duy trì sự phát triển bền vững
của nền kinh tế, ngân hàng trung ương phát hành và mua các công cụ tài chính. Đây là
chủ thể duy nhất trên thị trường tài chính có chức năng này.
Trong thực tế, để chuyển tải vốn tiết kiệm từ các đơn vị thặng dư sang các đơn vị thâm
hụt, các hệ thống tài chính đã sử dụng nhiều kênh dẫn vốn khác nhau. Thích ứng với
những tiến bộ vượt bật trong công nghệ thông tin (thông tin vệ tinh, cáp quang, la-de, fax,
internet....), sự thay đổi của luật lệ và đòi hỏi ngày càng khắt khe của công chúng, các
định chế tài chính đã phát triển nhiều phương thức giao dịch để lưu chuyển ngày càng tốt
hơn khối lượng quỹ cho vay khan hiếm từ các đơn vị thặng dư đến các đơn vị thâm hụt.
Trong thực tế, nguồn vốn có thể sử dụng để cho vay được trao đổi giữa người đi vay và
người cho vay thông qua ba hình thức tài trợ khác nhau.

11


Hình1.2. Các hình thức tài trợ chu chuyển của vốn và chứng khoán
Trong hình thức tài trợ trực tiếp, người đi vay và người cho vay có thể liên lạc, tiếp
xúc trực tiếp với nhau mà không có sự trợ giúp của một trung gian tài chính hoặc của bất
cứ một định chế tài chính nào khác. Bằng hình thức tài trợ này, sau khi đã thoả thuận một
giao dịch, để nhận được vốn, người đi vay trao cho người cho vay một tài sản chính (cổ
phiếu, trái phiếu, các giấy tờ nhận nợ khác....) chứng tỏ rằng người cho vay có quyền đòi
nợ hợp pháp đối với các khoản thu nhập trong tương lai hoặc hiện có của mình.
Tài trợ trực tiếp là phương pháp đơn giản nhất để thực hiện các giao dịch tài chính.
Tuy nhiên, hình thức này cũng có một hạn chế. Hạn chế dễ thấy nhất phải có sự chấp
thuận một cách tự nguyện giấy nhận nợ của người đi vay. Hạn chế thứ hai, quan trọng
hơn, là người đi vay và người cho vay phải cùng có nhu cầu trao đổi cùng một số tiền và
cùng vào một thời điểm. Rõ ràng , không có sự trùng hợp cơ bản này, giao dịch theo
phương thức tài trợ trực tiếp khó có thể thực hiện được. Hạn chế thứ ba là, để có thể tìm

biết nhu cầu của nhau, cả người cho vay và người đi vay phải chịu thêm một khoản chi
phí được gọi là chi phí thông tin. Dĩ nhiên là để có thể tìm được người cho vay có đúng
số tiền và sẵn sàng chấp thuận giấy nhận nợ của người đi vay, người đi vay phải liên hệ
và tiếp xúc với nhiều người có quỹ cho vay thặng dư.
Những hạn chế nói trên đã thúc đẩy sự ra đời của hình thức tài trợ một phương pháp
giao dịch khác là tài trợ bán trực tiếp. Trong hình thức lưu chuyển vốn này, tiến trình
cho vay giữa người cho vay và người đi vay có sự can thiệp của bên thứ ba - các nhà môi
giới, các nhà kinh doanh, các ngân hàng đầu tư, các ngân hàng cầm cố.
Ra đời sau, tài trợ bán trực tiếp đã khắc phục được vài nhược điểm cố hữu của phương
thức tài trợ trực tiếp. Đóng góp dễ thấy của hình thức tài trợ bán trực tiếp là bằng sự tham
gia của các nhà môi giới và các nhà kinh doanh trong các giao dịch, hình thức tài trợ này
đã tiết giảm được các chi phí giao dịch và chi phí tìm kiếm các chủ thể tham gia trong các
quan hệ giao dịch trên thị trường tài chính. Mặt khác, với sự góp mặt của các nhà môi
giới, kinh doanh chứng khoán và của các ngân hàng đầu tư, thị trường bán lại (thị trường
thứ cấp) các chứng khoán do người đi vay phát hành đã có được mức tăng trưởng đáng
kể. Thông qua sự vận hành của thị trường thứ cấp, vốn cho vay không còn bị kẹt khi phải
nắm giữ các chứng khoán và chờ đến ngày đáo hạn. Các chứng khoán của người đi vay
có thể dễ dàng được bán lại cho các nhà đầu tư tiềm năng thông qua các nhà môi giới
hoặc kinh doanh chứng khoán miễn là người đi vay có uy tín đủ tốt.
Mặc dù đã có sự cải thiện đáng kể hiệu quả vận hành của hệ thống tài chính thông qua
những đóng góp quan trọng của các nhà môi giới và kinh doanh chứng khoán, hình thức

12


×