Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Hoàn thiện công tác quản lý ngân sách nhà nước cấp huyện (85 trang)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.25 KB, 72 trang )

MỤC LỤC

Lời mở đầu............................................................................................. 3
Chương I: Quản lý và hiệu quả quản lý ngân sách.............................4
1.1. Khái quát NSNN, tổ chức hệ thống NSNN và phân cấp quản lý.....5
1.1.1. Tổ chức hệ thống NSNN...............................................................5
1.1.2 Phân cấp ngân sách nhà nước.......................................................8
1.2 Ngân sách Quận – Huyện và quản lý ngân sách Quận- Huyện......12
1.2.1 Ngân sách Quận- Huyện..............................................................12
1.2.2 Quản lý ngân sách Quận, Huyện................................................24

Chương II: Thực trạng công tác quản lý ngân sách Huyện Quế Võtỉnh Bắc Ninh........................................................................................ 32
2.1 Một số đặc trưng về kinh tế, văn hóa, xã hội huyện Quế Võ...........32
2.2 Thực trạng quản lý Ngân sách huyện Quế Võ..................................36
2.2.2.1 Công tác thu ngân sách.............................................................38
2.2.2.2 Công tác chi ngân sách.............................................................46
Kế toán ngân sách là công cụ rất quan trọng đối với công tác quản lý
ngân sách. Hàng năm căn cứ vào thông tư hướng dẫn việc khóa sổ và
lập quyết toán năm của Bộ Tài chính và các chỉ đạo hướng dẫn của Sở
Tài chính- Kế hoạch tỉnh Bắc Ninh, phòng Tài chính- Kế hoạch Quế
Võ đã có các văn bản hướng dẫn việc lập quyết toán cho các phòng,
ban, cơ quan huyện, các xã, thị trấn; Hướng dẫn cụ thể các yêu cầu
mới bổ sung thêm để quyết toán.Từ đó đảm bảo thích ứng với đặc
điểm kinh tế tài chính của năm quyết toán: Thanh toán cuối năm, đối
chiếu cuối số liệu và điều chỉnh số liệu trước khi nên quyết toán chính
thức, giải quyết kinh phí thừa, biểu mẫu lập quyết toán và thời gian
lập quyết toán từ cơ sở đến các cơ quan chủ quản và cơ quan tài chính
các cấp........................................................................................................51
1



2.3.1 Những thành tựu..........................................................................52
2.3.2 Hạn chế..........................................................................................56
2.3.3 Nguyên nhân của những hạn chế................................................58

Chương III: Biện pháp hoàn thiện công tác quản lý Ngân sách
Huyện Quế Võ...................................................................................... 61
3.1 Định hướng chung...............................................................................61
3.2 Một số giải pháp..................................................................................62
3.3 Kiến nghị..............................................................................................70
Hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý Ngân sách Nhà nước tạo thế
chủ động tối đa cho chính quyền cơ sở nói chung và chính quyền
Huyện nói riêng.....................................................................................70
3.3.1 Kiến nghị với Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ.....................70
3.3.2. kiến nghị với các cơ quan Tài chính cấp trên...........................71

2


Lời mở đầu
Đất nước ta đã bước sang năm thứ ba kể từ khi nước ta chính thức ra
nhập Tổ chức Thương mại Quốc tế ( ngày 07/11/2006). Trong những năm
qua xã hội, nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến lớn để hội nhập cùng

3


với kinh tế quốc tế; đời sống của nhân dân ta cũng đã có nhiều tiến bộ hơn
trước.
Trong những năm tới đây, nhiệm vụ phát triển kinh tế vẫn được đặt lên
hàng đầu. Chúng ta đang đẩy mạnh cải cách, phát triển tài chính nhằm tạo

dựng nền tài chính quốc gia vững mạnh, cơ chế tài chính phù hợp với điều
kiện kinh tế thị trường và hội nhập mở cửa.
Ngân sách nhà nước với đặc thù là nội lực tài chính để phát triển trong
thời gian qua đã thể hiện được vai trò của mình đối với toàn bộ nền kinh tế
quốc dân, nguồn vốn đầu tư vào nền kinh tế hàng năm lên đến hàng nghìn tỷ
đồng.
Trên tinh thần phát triển kinh tế của Đại hội Đảng X ngân sách Nhà
nước hơn lúc nào hết thể hiện rõ trách nhiệm, vai trò của mình trong tình hình
mới, là động lực của sự phát triển.
Với chủ trương phát triển toàn diện của Đảng, cấp ngân sách QuậnHuyện đang ngày càng thể hiện rõ chức năng, vai trò, nhiệm vụ của mình trên
địa bàn quận, huyện.
Sau ba tháng thực tập tại phòng Tài chính- Kế hoạch huyện Quế Võ, tỉnh
Bắc Ninh em đã tiếp thu được rất nhiều kiến thức thực tế để củng cố thêm các
lý luận đã học của mình. Nhận thấy vai trò, tầm quan trọng cũng nhưng
những đòi hỏi về Ngân sách em xin mạnh dạn đi vào nghiên cứu đề tài:
“Hoàn thiện công tác quản lý ngân sách huyện Quế Võ, tình Bắc Ninh”

Chương I: Quản lý và hiệu quả quản lý ngân sách
Quận – Huyện

4


1.1. Khái quát NSNN, tổ chức hệ thống NSNN và phân cấp quản lý
Trong thời kì mở cửa hội nhập cùng kinh tế quốc tế ở nước ta như hiện
nay không những đòi hỏi sự chuyển đổi về thể chế và cơ cấu kinh tế nói
chung mà còn đòi hỏi những chuyển biến cần thiết về cả nhận thức và thể chế
tài chính, ngân sách. Do đó việc nhận thức đúng đắn bản chất, chức năng
NSNN sẽ giúp cho chúng ta sử dụng nhạy bén công cụ NSNN trong điều
hành chính sách kinh tế vĩ mô.

Ở Việt Nam chúng ta cũng có rất nhiều quan điểm khác nhau về NSNN
tuy nhiên theo luật Ngân sách Nhà nước Việt Nam thì: “Ngân sách Nhà nước
là toàn bộ các khoản thu- chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm
bảo thực các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”.
Như vậy, Ngân sách nhà nước phản ánh các mối quan hệ kinh tế giữa
một bên là Nhà nước với một bên là các chủ thể khác trong xã hội. Các quan
hệ kinh tế này phát sinh trong quá trình Nhà nước tham gia phân phối các
nguồn tài chính quốc gia phục vụ cho việc thực hiện các chức năng của mình.
Các quan hệ đó biểu hiện thông qua các nội dung thu- chi của Ngân sách nhà
nước, phù hợp với các điều kiện kinh tế xã hội và nhiệm vụ của Nhà nước
trong mỗi thời kì tương ứng.

1.1.1. Tổ chức hệ thống NSNN

Hệ thống NSNN là tổng thể các cấp Ngân sách gắn bó hữu cơ với nhau
trong quá trình thực tiện nhiệm vụ thu, chi của mỗi cấp ngân sách. Cấp ngấn
sách được hình thành trên cơ sở cấp chính quyền nhưng phải đảm bảo hai
điều kiện cơ bản là:
- Nhiệm vụ của cấp chính quyền được giao phó tương đối toàn diện
nghĩa là chính quyền cấp đó không chỉ có nhiệm vụ phát triển nhanh chính
sách xã hội mà còn có nhiệm vụ tổ chức quản lý và phát triển kinh tế trên
vùng lãnh thổ và cấp chính quyền đó.
5


- Khả năng nguồn thu trên vùng lãnh thổ và chính quyền đó quản lý có
thể đáp ứng được phần lớn nhu cầu chi tiêu của chính quyền cấp đó.
Như vậy để có một cấp Ngân sách trước hết phải có một chính quyền với
những nhiệm vụ phát triển toàn diện, đồng thời phải có khả năng nhất định về

nguồn thu trên vùng lãnh thổ đó.
Nguyên tắc tổ chức hệ thống Ngân sách ở mỗi nước có sự khác biệt
riêng nhưng đều có những nét chung cơ bản là:
- Tính tập trung, thống nhất: bắt nguồn từ yêu cầu của việc tổ chức hệ
thống chính quyền.
- Tính tự chủ, chịu trách nhiệm của mỗi cấp Ngân sách xuất phát từ yêu
cầu nâng cao trách nhiệm của các cấp chính quyền trong việc thực hiện các
nhiệm vụ chung của quốc gia.

Sơ đồ hệ thống ngân sách nhà nước
6


Ngân sách Nhà nước

Ngân sách địa phương

Ngân sách cấp tỉnh

Ngân sách cấp huyện

Ngân sách huyện

Ngân sách xã

Tổ chức hệ thống ngân sách ở nước ta là hệ thống các ngân sách trong hệ
thống đều có mối liên hệ hữu cơ gắn bó với nhau thông qua việc thực hiện
nhiệm vụ thu, chi. Ở nước ta, việc tổ chức hệ thống Ngân sách Nhà nước gắn
bó với việc tổ chức bộ máy Nhà nước và vai trò, vị trí của bộ máy đó trong
quá trình phát triển của đất nước.

Như vậy NSNN bao gồm: Ngân sách Trung ương và Ngân sách các cấp
chính quyền địa phương.
Ngân sách các cấp chính quyền địa phương bao gồm:
- Ngân sách cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ( gọi chung là
ngân sách cấp tỉnh).

7


- Ngân sách cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh ( gọi chung là
ngân sách cấp huyện)
- Ngân sách cấp xã, phường, thị trấn ( gọi chung là ngân sách xã)
Ngân sách Trung ương: phản ánh nhiệm vụ thu, chi theo ngành, tập
trung các nguồn lực cơ bản để đảm bảo thực hiện các mục tiêu trọng yếu trên
phạm vi cả nước và giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống Ngân sách nhà nước.
Ngân sách địa phương: Phản ánh nhiệm vụ thu, chi theo lãnh thổ, bảo
đảm thực hiện các nhiệm vụ tổ chức quản lý toàn diện kinh tế, xã hội của
chính quyền cấp tỉnh, thành phố.
Ngân sách cấp huyện: Phản ánh nhiệm vụ thu, chi theo lãnh thổ bảo đảm
thực hiện các nhiệm vụ tổ chức quản lý toàn diện kinh tế xã hội của chính
quyền cấp huyện.
Ngân sách cấp xã: Nhằm đảm bảo điều kiện tài chính để chính quyền xã
chủ động khai thác các thế mạnh đất đai, lao động phát triển kinh tế, xã hội
đặc biệt là xây dựng, phát triển nông thôn mới, thực hiện các chính sách xã
hội giữ gìn an ninh trật tự địa phương.
1.1.2 Phân cấp ngân sách nhà nước
1.1.2.1 sự cần thiết và tác dụng của phân cấp NSNN
Ngân sách Nhà nước được phân cấp quản lý giữa Chính phủ và các cấp chính
quyền địa phương là một tất yếu khách quan khi tổ chức hệ thống ngân sách
nhà nước bao gồm nhiều cấp. Mỗi cấp chính quyền đều có nhiệm vụ phát

triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng...nên cần phải có nguồn tài chính
nhất định.
Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là xác định phạm vi trách nhiệm
và quyền hạn của chính quyền nhà nước các cấp trong việc quản lý, điều hành
thực hiện nhiệm vụ thu, chi của ngân sách. Phân cấp quản lý ngân sách là
cách tốt nhất để gắn các hoạt động của NSNN với các hoạt động kinh tế - xã
hội một cách cụ thể và thực sự nhằm tập trung đầy đủ, kịp thời, đúng chính
sách chế độ các nguồn tài chính quốc gia và phân phối, sử dụng chúng công

8


bằng, hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả cao phục vụ các mục tiêu, nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước đúng đắn và hợp lý không chỉ
đảm bảo phương tiện tài chính cho việc duy trì, phát triển hoạt động của các
cấp chính quyền nhà nước từ Trung ương đến các địa phương mà còn tạo điều
kiện phát huy được các lợi thế nhiều mặt của từng vùng, từng địa phương
trong cả nước và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Nó cho phép quản lý và kế hoạch
hoá ngân sách nhà nước được tốt hơn, điều chỉnh mối quan hệ giữa các cấp
chính quyền cũng như mối quan hệ giữa các cấp ngân sách được tốt hơn để
phát huy vai trò là công cụ điều chỉnh vĩ mô của ngân sách nhà nước. Đồng
thời, phân cấp quản lý ngân sách còn có tác động thúc đẩy phân cấp quản lý
kinh tế - xã hội ngày càng hoàn thiện hơn.

1.1.2.2 Nội dung phân cấp Ngân sách
Phân cấp NSNN chính là giải quyết mối quan hệ giữa các cấp chính
quyền trong việc sử dụng NSNN. Trong quá trình quản lý và sử dụng NSNN
giữa các cấp chính quyền thường nảy sinh các mối quan hệ quyền lực và quan
hệ vật chất… Giải quyết mối quan hệ đó được coi là nội dung của phân cấp

ngân sách. Cụ thể phân cấp ngân sách bao gồm các nội dung sau:
- Giải quyết mối quan hệ quyền lực giữa các cấp chính quyền trong việc
ban hành các chính sách chế độ thu- chi, quản lý ngân sách. Đây là nội dung
cốt yếu của phân cấp NSNN. Qua phân cấp phải xác định rõ quyền hạn và
trách nhiệm ban hành các chính sách, chế độ tiêu chuẩn thuộc về ai; phạm vi,
mức độ quyền hạn của mỗi cấp trong việc ban hành chính sách chế độ. Có
như vậy, việc quản lý và điều hành NSNN mới đảm bảo tính ổn định, tính
pháp lý, tránh được tư tưởng cục bộ địa phương.
- Giải quyết mối quan hệ vật chất trong quá trình phân giao nhiệm vụ
thu, chi và cân đối ngân sách.Đây là mối quan hệ phức tạp trong phân cấp
NSNN vì đây là mối quan hệ lợi ích. Để giải quyết mối quan hệ này trong
phân cấp ngân sách cần phải xác định rõ ràng nhiệm vụ kinh tế, chính trị của
mỗi cấp chính quyền địa phương; khả năng tạo ra nguồn thu trên từng địa
9


bàn mà chính quyền đó quản lý, đồng thời nghiên cứu các biện pháp có thể áp
dụng để điều hòa được mối quan hệ này.
- Giải quyết mối quan hệ trong quá trình thực hiện chu trình ngân sách,
chu trình ngân sách chính là chu trình lập, chấp hành và quyết toán ngân sách.
Phân cấp NSNN phải xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các cấp chính
quyền trong việc lập, chấp hành và quyết toán ngân sách và kiểm tra ngân
sách sao cho vừa nâng cao được trách nhiệm của chính quyền Trung ương,
vừa phát huy được tính năng động sáng tạo của chính quyền địa phương, cơ
sở.
1.1.2.3 Các nguyên tắc phân cấp ngân sách
Luật ngân sách năm 2002 quy định chế độ phân cấp quản lý ngân sách
rất cụ thể, giao quyền chủ động cho các cấp chính quyền địa phương. Trung
ương chỉ thực hiện phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi cho ngân sách Trung
ương và ngân sách địa phương, việc phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi cho

các cấp ngân sách địa phương do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định nhưng
phải đảm bảo tốt các nguyên tắc sau:
a. Nguyên tắc phân cấp quản lý ngân sách phải phù hợp với phân cấp
quản lý kinh tế - xã hội của đất nước.
Phân cấp quản lý ngân sách phải phù hợp với phân cấp kinh tế - xã hội
Phân cấp quản lý ngân sách của các cấp chính quyền không tách rời phân cấp
quản lý kinh tế - xã hội.Quán triệt nguyên tắc này tạo cơ sở cho việc giải
quyết mối quan hệ vật chất giữa các cấp chính quyền bằng việc xác định rõ
nguồn thu và nhiệm vụ chi của các cấp. Mặt khác, nguyên tắc này còn là điều
kiện đảm bảo tính độc lập tương đối trong quản lý ngân sách nhà nước ta.
b. Nguyên tắc ngân sách Trung ương giữ vai trò chủ đạo, tập trung các
nguồn lực cơ bản để đảm bảo thực hiện các mục tiêu trọng yếu trên phạm vi
cả nước.
Cơ sở của nguyên tắc này xuất phát từ vi trí quan trọng của nhà nước
Trung ương trong quản lý kinh tế - xã hội của cả nước cũng như điều tiết vĩ

10


mô nền kinh tế mà hiến pháp đã quy định và từ tính chất xã hội hoá của các
nguồn lực tài chính quốc gia.
Nguyên tắc này được thể hiện
Thứ nhất mọi chính sách, chế độ quản lý ngân sách nhà nước được ban
hành thống nhất và dựa vào chủ yếu trên cơ sở quản lý ngân sách Trung ương.
Chính phủ ban hành định mức phân bổ ngân sách cho các đơn vị sử dụng
ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương, định mức phân bổ ngân sách
cho các cấp ngân sách địa phương do Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành.
Thứ hai ngân sách Trung ương chi phối và quản lý các khoản thu, chi
lớn trong nền kinh tế và trong xã hội. Các khoản thu chủ yếu, có tỷ trọng lớn
phải được tập trung vào ngân sách Trung ương, các khoản chi có tác động đến

quá trình, phát triển kinh tế - xã hội của cả nước phải do ngân sách Trung
ương đảm nhiệm.
Ngân sách Trung ương chi phối hoạt động của ngân sách các địa
phương, điều hoà hoạt động ngân sách địa phương, đảm bảo tính công bằng
giữa các địa phương.
Trong khi khuyến khích chính quyền địa phương phát huy tính độc lập,
tự chủ trong quản lý ngân sách của cấp mình, luôn luôn phải đảm bảo vai trò
chủ đạo của ngân sách Trung ương. Trong bất kỳ trường hợp nào,kết quả
phân cấp quản lý ngân sách không được làm suy yếu vai trò chủ đạo của ngân
sách Trung ương trong hệ thống ngân sách nhà nước thống nhất.
c. Nguyên tắc phân định rõ nhiệm vụ thu, chi giữa các cấp
Phân cấp quản lý ngân sách phải phân định rõ nhiệm vụ thu, chi giữa
các cấp và ổn định tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu, số bổ sung từ
ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới từ 3 đến 5 năm. Hàng năm chỉ
xem xét điều chỉnh số bổ sung một phần khi có trượt giá và một phần theo tốc
độ tăng trưởng kinh tế.
Chế độ phân cấp ngân sách nhà nước ta xác định rõ khoản nào ngân
sách địa phương được thu, khoản nào ngân sách địa phương phải chi. Có như
vậy mới tạo điều kiện nâng cao tính chủ động cho các địa phương trong bố trí
11


kế hoạch kinh tế - xã hội. Đồng thời là điều kiện để xác định rõ trách nhiệm
của địa phương và Trung ương trong quản lý ngân sách nhà nước, tránh sự co
kéo trong quá trình xây dựng kế hoạch ngân sách như trước đây, cũng như tư
tưởng trông chờ, ỷ lại ngân sách cấp trên.
d. Nguyên tắc đảm bảo công bằng trong phân cấp quản lý ngân sách.
Phân cấp ngân sách phải căn cứ vào yêu cầu cân đối chung của cả
nước, nhưng phải cố gắng hạn chế thấp nhất sự chênh lệch về kinh tế, văn hoá
xã hội giữa các vùng lãnh thổ, ưu tiên ngân sách cho các tỉnh vùng sâu, vùng

xa để có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội.

Như vậy phân cấp NSNN là một tất yếu khách quan, nó bắt nguồn từ sự
phân cấp kinh tế và hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước. Phân cấp
ngân sách trước hết là xác định quyền lực của các cấp chính quyền trong việc
ban hành các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức liên quan đến ngân
sách; Phân cấp ngân sách còn là việc giải quyết mối quan hệ vật chất giữa các
cấp chính quyền, đồng thời xác định quyền lợi và nghĩa vụ của các cấp chính
quyền trong việc thực hiện chu trình ngân sách.
1.2 Ngân sách Quận – Huyện và quản lý ngân sách Quận- Huyện
1.2.1 Ngân sách Quận- Huyện
1.2.1.1 Khái niệm vâ lịch sử hình thành
Trong thời kì kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, NSNN của nước ta
tổ chức thành hai cấp: Ngân sách Trung ương và Ngân sách tỉnh, thành phố.
Việc phân cấp là phù hợp vơi nhiệm vụ của mỗi cấp chính quyền trong việc
huy động tối đa nguồn lực tài chính. Ở thời kì này ngân sách quận, huyện chỉ
đóng vai trò là một cấp dự toán.
Ngày 15/05/1978, với chủ trương xây dựng quận, huyện thành một cấp
có cơ cấu hoàn chỉnh, có tư cách là một đơn vị kinh tế công nông nghiệp phát
triển toàn diện, Hội đồng Chính phủ đã ra Nghị quyết 108/CP xác định quyền
hạn và trách nhiệm của chính quyền địa phương cấp Quận, huyện về quản lý
tài chính, ngân sách. Nghị quyết có quy định khoản thu, chi ngân sách Quận12


Huyện. Tiếp đó đến ngày 19/11/1983 Hội đồng bộ trưởng ra Nghị quyết số
138/HĐBT về việc cải tiến ngân sách địa phương, nói rõ hơn về quyền hạn và
trách nhiệm của Ngân sách Quận, Huyện.
Sau Đại hội Đảng lần thứ VI nền kinh tế nước ta chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng XHCN. Cùng với
sự đổi mới của nền kinh tế đất nước, Ngân sách Quận, Huyện cũng được xác

định lại vai trò, nhiệm vụ của mình. Cụ thể là ngày 27/11/1989 Hội đồng bộ
trưởng đã ra Nghị quyết số 186/ HĐBT về phân cấp quản lý ngân sách địa
phương trong đó có ngân sách Quận, Huyện. Ngày 16/02/1992 Hội đồng bộ
trưởng ban hành Nghị quyết số 186/HĐBT sửa đổi bổ sung cho Nghị quyết
186/HĐBT ngày 27/11/1989.
Kỳ họp Quốc hội khóa IX đã khẳng định: “ Quận, Huyện là một cấp
chính quyền có Ngân sách, ngân sách Quận- Huyện là một bộ phận hợp thành
ngân sách địa phương thuộc hệ thống NSNN “.
Như vậy ngân sách Quận- Huyện là một cấp ngân sách thực hiện vai trò
chức năng, nhiệm vụ của NSNN trên phạm vi địa bàn Quận, Huyện.
Tìm hiểu qua trình hình thành ngân sách Quận- Huyện ta có thể thấy
ngân sách Quận- Huyện từ một cấp dự toán đã trở thành một cấp ngân sách có
nguồn thu và nhiệm vụ chi riêng. Đó là một hướng đi đúng đắn trong quá
trình phát triển nền tài chính quốc gia. Trước tiên nó giúp ngân sách cấp tỉnh,
Trung ương giảm được khối lượng công việc, bên cạnh đó nó cũng giúp các
cấp chính quyền có thể nắm bắt được tình hình kinh tế nói chung và tài chín
nói riêng từ cơ sở.
Ngân sách Quận- Huyện mang bản chất của NSNN, đó là mối quan hệ
giữa ngân sách Quận- huyện với các tổ chức, cá nhân trên địa bàn quận,
huyện trong quá trình phân bổ sử dụng các nguồn lực kinh tế của Quận,
Huyện. Mối quan hệ đó được điều chỉnh, điều tiết sao cho phù hợp với bản
chất Nhà nước XHCN. Đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nhà nước Việt Nam là nhà nước của công
nhân và nhân dân lao động- bộ phận chiếm tuyệt đối đại đa số trong xã hội.

13


Do vậy lợi ích của Nhà nước XHCN Việt Nam không có gì hơn ngoài mong
muốn được phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Có thể nói việc ngân sách Quận – Huyện trở thành một cấp ngân sách đã
làm cho bộ mặt NSNN mang một diện mạo, sắc thái mới, nền tài chính quốc
gia trở nên lành mạnh hơn. Thực tế đã chứng minh trong những năm qua, xét
ở cấp độ Quận, Huyện tình hình kinh tế- kinh tế tài chính có những bước tiến
đáng kể. Ngoài ra, Ngân sách Quận- Huyện còn thể hiện bản chất chính trị
của Nhà nước ta thông qua việc thực hiện đúng đắn, hiệu quả, có sáng tạo các
chủ trương chính sách cảu Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên bên cạnh những
điểm đã phát huy được là một loạt những hạn chế cần khắc phục kịp thời, đòi
hỏi sự quan tâm, tâm huyết của các cá nhân, ban, ngành phối hợp cùng giải
quyết.
1.2.1.2 Vai trò của Ngân sách Quận- Huyện
Ngân sách Quận- Huyện có vai trò đảm bảo chức năng Nhà nước an
ninh, quốc phòng; thúc đẩy phát triển ổn định kinh tế xã hội, bù đắp những
khiếm khuyết của thị trường, giữ vững ổn định công bằng xã hội và bảo vệ
môi trường.
a/ Ngân sách Quận- Huyện bảo đảm thực hiện chức năng Nhà nước, bảo
vệ an ninh trật tự cấp Quận- Huyện.
Cấp chín quyền Quận, Huyện cũng tổ chức ra cho mình một hệ thống
các cơ quan, đoàn thể hành chính nhằm thực hiện các chức năng của Nhà
nước. Điều đó cũng có nghĩa là để cho các cơ quan đoàn thể đó hoạt động cần
phải có một quỹ tài chính tập trung cho nó- Đó chính là Ngân sách Quậnhuyện. Mặc dù không lớn mạnh như ngân sách Trung ương nhưng ngân sách
Quận- huyện cũng tạo cho mình một vị thế nhất định nhằm chủ động trong
việc chủ động trong việc thực hiện chức năng Nhà nước ở địa phương. Tùy
theo phạm vi địa lý, tình hình kinh tế xã hội trên từng Quận, Huyện mà nhu
cầu được đảm bảo là khác nhau.
Hiện nay trên nước ta có trên 1 triệu công chức đang làm việc trong bộ
máy Nhà nước. Điều đó có nghĩa là để duy trì hoạt động của bộ máy này phải
tốn một khoản ngân sách khổng lồ. Mặc dù vậy trong khi Nhà nước đang chắt
14



chiu trong chi tiêu và sử dụng và NSNN thì ở một số đơn vị việc sử dụng
ngân sách vẫn lãng phí và còn tồn tại rất nhiều sai phạm bất cập. Do vậy, đòi
hỏi Ngân sách Quận, Huyện với tư cách là Ngân sách của các đơn vị cơ sở
cần phải quản lý chặt trẽ, cấp phát đúng chính sách, đúng chế độ và hạn mức
giúp cho bộ máy Nhà nước hoạt động tốt mà vẫn tiết kiệm, hiệu quả.
Trong các chức năng của Nhà Nước, chức năng đảm bảo an ninh trật tự,
quốc phòng đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Đây là công cụ quyền lực của
Nhà nước nhằm bảo vệ ý chí của Nhà nước, tạo điều kiện an toàn để Quận,
Huyện phát triển mọi mặt. Do vậy để có thể đảm bảo được chức năng này,
Ngân sách Quận, Huyện cần phải có kế hoạch cụ thể, chi tiết, có các khoản dự
phòng hợp lý.
b/ Ngân sách Quận, Huyện – công cụ thúc đẩy phát triển ổn định kinh tế
Để thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế- tài chính của cấp trên thì
Quận, Huyện cần phải sử dụng các công cụ sẵn có của mình để điều tiết, định
hướng. Một trong những công cụ đắc lực là Ngân sách. Các Quận, Huyện
phải căn cứ vào thế mạnh của địa phương mình để định hướng phát triển, hình
thành cơ cấu kinh tế, kích thích phát triển. Đồng thời các Quận, Huyện phải
cung cấp kinh phí, vốn đầu tư, hỗ trợ về cơ sở hạ tầng và tạo môi trường
thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động.
Quận, Huyện phải xây dựng cho mình một tiềm lực kinh tế riêng. Đó là
các doanh nghiệp Nhà nước do cấp Quận, Huyện quản lý. Loại hình doanh
nghiệp này đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế Quận, Huyện và cũng giúp
Quận, huyện chủ động trong việc xây dựng và phát triển kinh tế.
c/ Ngân sách Quận, Huyện- Phương tiện bù đắp khiếm quyết thị trường
đảm bảo công bằng xã hội và các vấn đề môi trường.
Đây là vai trò không thể thiếu đối với Ngân sách mỗi quốc gia. Nó có tác
dụng xoa dịu nền kinh tế thị trường. Như chúng ta đã biết, kinh tế thị trường
là chạy theo lợi nhuận. Do vậy mà để lại một loạt các hậu quả như: Thất
nghiệp, phân cấp giàu nghèo, các vấn đề xã hội, đời sống của nhân dân không

được quan tâm, môi trường bị ô nhiễm … Những điều đó tạo ra cho nền kinh

15


tế- xã hội một vực thẳm phía trước. Cấp Quận, Huyện theo dõi các báo cáo
tổng hợp từ cấp xã, phường phải có biện pháp quản lý giải quyết cụ thể.
Ngoài việc quan tâm đến đời sống vật chất của người lao động, Quận và
Huyện phải thường xuyên quan tâm đến đời sống văn hóa, tinh thần của quần
chúng nhân dân, xây dựng và cải tạo các khu vui chơi, giải trí lành mạnh tiến
bộ phục vụ cho nhân dân; các dịch vụ công cộng như giáo dục, y tế phải giảm
được chi phí cho người dân giúp cho đời sống của nhân dân ngày càng được
đảm bảo và nâng cao.
1.2.1.3. Nội dung Ngân sách Quận, Huyện
Trong nội dung của Ngân sách Quận, Huyện bao gồm có hai nội dung
cơ bản đó là Thu ngân sách và chi ngân sách.
a/ Nội dung thu ngân sách Quận, Huyện
Đây chính là quá trình tạo lập, hình thành ngân sách Quận, Huyện đóng
vai trò quan trọng quyết định đến khâu sau ( chi ngân sách). Để đảm bảo
nguồn thu cho ngân sách cần phải có chính sách thu hợp lý, hiệu quả.
Chính sách thu ngân sách là tập hợp các biện pháp, chủ trương nhằm huy
động nguồn thu vào cho NSNN
a.1/ Vị trí của chính sách thu ngân sách
Thứ nhất, chính sách thu Ngân sách là một bộ phận trong quản lý kinh tế
nói chung và tài chính nói riêng. Việc tăng hay giảm ở một lĩnh vực nào đó
được thực hiện theo chiến lược phát triển kinh tế, chính vĩ mô. Một khi chính
sách thu ngân sách thay đổi thì lập tức cơ cấu kinh tế dù ít hay nhiều cũng có
sự chuyển dịch. Do đối tượng thu của Ngân sách là rất đa dạng, rộng lớn
phong phú và đặt biệt nhạy cảm với các chính sách thu ( thuế, phí, lệ phí…)
Thứ hai, các chính sách thu của ngân sách có tác động đến các chính

sách quản lý kinh tế, tài chính khác. Dường như vị trí này trùng lặp với vị trí
trên nhưng nó hoàn toàn khác. Các chính sách kinh tế, tài chính khác ở đây là
thuộc các lĩnh vực ngoài Ngân sách (kinh tế, tài chính của các tổ chức, doanh
nghiệp nên NSNN có thể can thiệp sâu vào doanh nghiệp.

16


a.2/ Các quan điểm cần quán triệt khi xây dựng và thực hiện các chính
sách thu Ngân sách
Một là, các chính sách thu phải góp phần vào khuyến khích và phát triển
sản xuất kinh doanh, mở rộng lưu thông hàng hóa và thúc đẩy cạnh tranh lành
mạnh giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Việc đánh thuế có
những tác động rất nhạy cảm đến các đối tượng trong nền kinh tế. Và việc thu
thuế là có giới hạn nghĩa là thu từ thuế chỉ đạt được hết hiệu quả tối đa tại một
điểm thuế suất nào đó. Khi chính phủ cứ tăng thuế để tăng nguồn thu thì sẽ có
những tác động rất tiêu cực làm trì trệ tình hình sản xuất, bên cạnh đó còn có
xuất hiện hiện tượng trốn thuế, tiêu cực thuế…
Hai là, chính sách phải đảm bảo tập trung quản lý vốn hợp lý nguồn thu
cho ngân sách, đồng thời bảo đảm mức sống hợp lý cho các đối tượng dân cư
dưới tác động của chính sách thu.
Theo quy định của Nhà nước ta thì tất cả các khoản thu đều được tập
trung vào kho bạc Nhà nước cùng với sự phối hợp của Ban Tài chính cơ quan
Thuế và Hải Quan.
Ba là, chính sách thu phải đảm bảo công bằng xã hội công bằng cho các
tầng lớp dân cư. Ở đây bao gồm cả công bằng theo chiều dọc và công bằng
theo chiều ngang.
Công bằng theo chiều dọc nghĩa là đối tượng nào có khả năng nộp thuế
nhiều hơn sẽ phải nộp nhiều hơn. Còn công bằng theo chiều ngang nghĩa là
các đối tượng có khả năng nộp thuế như nhau sẽ phải nộp thuế như nhau.

Bốn là, chính sách thu phải đảm bảo tính quần chúng. Do trình độ của
các đối tượng nộp thuế là khác nhau, thậm chí chênh lệch nhau rất lớn nhưng
việc đưa các chính sách thuế vào áp dụng phải có được tính quần chúng có
nghĩa là các chính sách thu phải thật đơn giản, dễ hiểu, dễ dàng thực hiện
được thực hiện.
a.3/ Các khoản thu của Ngân sách Quận- Huyện
Theo quy định của Pháp luật nước ta hiện nay, Ngân sách Quận- Huyện
có các những nguồn thu như sau:
17


*/ Các khoản thu 100%
- Thuế môn bài thu từ các doanh nghiệp, hợp tác xã và các hợp tác xã
sản xuất kinh doanh ngoài quốc doanh gồm:
+ Từ bậc 1 đến bậc 3 thu trên địa bàn xã, thị trấn
+ Từ bậc 1 đến bậc 6 thu trên địa bàn phường.
- Thuế phát sinh thu từ các doanh nghiệp giết mổ gia trên địa bàn
phường.
- Các khoản phí và lệ phí từ các hoạt động do cơ quan thuộc cấp QuậnHuyện quản lý.
- Tiền thu từ hoạt động sự nghiệp của các đơn vị do cấp Quận- huyện
quản lý.
- Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức, cá nhân từ nước ngoài cho cấp
Quận , Huyện theo quy định của Pháp luật.
- Đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân ở cho Ngân sách Quậnhuyện.
- Thu từ xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thu từ hoạt động chống
buôn lậu và kinh doanh trái pháp luật theo phân cấp của tỉnh.
- Thu kết dư ngân sách cấp huyện.
- Bổ sung từ ngân sách cấp tỉnh.
- Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật
*/ Các khoản thu được phân chia theo tỉ lệ phần trăm giữa ngân sách cấp

tỉnh và ngân sách Quận- Huyện và Ngân sách xã, phường, thị trấn:
- Thuế chuyển quyền sử dụng đất
- Thuế nhà đất.
- Tiền sử dụng đất.
- Các khoản thu phân chia theo tỉ lệ phần trăm giữa ngân sách cấp tỉnh và
ngân sách Trung ương, do tỉnh quy định trong phạm vi được phân cấp.

18


- Các khoản thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế tài nguyên, lệ phí trước
bạ nhà đất, thuế tiêu thụ đặc biệt hàng sản xuất trong nước thu vào mặt hàng
thuốc lá vàng mã, hàng mã và các dịch vụ kinh doanh vũ trường, mát- xa,
karaoke, kinh doanh gôn, kinh doanh casino…
Riêng đối với thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh: Được phân chia thêm
một phần theo tỉ lệ với lệ phí trước bạ không kể lệ phí trước bạ nhà đất phát
sinh nộp trên địa bàn và được tiến hành lập quỹ đầu tư theo quy định của
Chính phủ.
b/ Nội dung chi của Ngân sách Quận- Huyện
Nếu như thu ngân sách là quá trình tạo lập hình thành Ngân sách thì chi
ngân sách lại là quá trình sử dụng ngân sách. Nó không hoàn toàn ngược lại
với quá trình thu nhưng lại chịu sự điều khiển của quá trình thu tức là không
thể chi nhiều trong khi thu ít và ngược lại, đồng thời tạo thêm nguồn thu nhờ
việc chi vào đầu tư ngân sách nhàn rỗi vào sản xuất kinh doanh.
Chi ngân sách là quá trình sử dụng quỹ NSNN theo nguyên tắc không
hoàn trả trực tiếp nhằm thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội của
Nhà nước.
b.1/ Đặc điểm chi Ngân sách Quận- Huyện
Với tư cách là một quá trình sử dụng quỹ NSNN chi ngân sách có các
đặc điểm sau:

Một là, chi tiêu ngân sách luôn gắn liền với nhiệm vụ kinh tế, chính trị,
xã hội mà Nhà nước đảm nhiệm trong mỗi thời kì. Đặc điểm này có thể nhìn
ra tù vai trò của Ngân sách và bản chất NSNN. Ngân sách nhà nước mang bản
chất chín trị, duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nước, ổn định phát triển kinh
tế, đảm bảo xã hội ổn định, phát triển.
Hai là, tác dụng của các khoản chi ngân sách bao giờ cũng được xem xét
ở tầm vĩ mô bởi vì thông thường những khoản chi ngân sách sẽ phát huy tác
dụng trong phạm vi nhất định. Việc chi tiêu ngân sách Quận- Huyện phải phát
huy được tác dụng trong phạm vi Quận, Huyện.

19


Ba là, tính hiệu quả của các khoản chi được thể hiện toàn diện trên các
mặt kinh tế, chính trị, xã hội. Đặc điểm này biểu hiện mối quan hệ giữa tài
chính với kinh tế, chính trị, xã hội.
b.2/ Một số yêu cầu cần đạt được trong quá trình chi Ngân sách
Thứ nhất, khi xem xét, đánh giá tính hiệu quả của chi Ngân sách, chúng
ta phải xây dựng một loạt các chỉ tiêu, chỉ số bao gồm cả định tính và định
lượng. Điều đó sẽ giúp cho các nhà phân tích có thể đưa ra các nhận định,
đánh giá đúng đắn hơn, chính xác hơn tính hiệu quả của chi Ngân sách.
Thứ hai,trong khi thực hiện chi ngân sách vừa phải đảm bảo đúng dự
toán vừa đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả.
b.3/ Nhiệm vụ chi của Ngân sách Quận- Huyện
*/ Chi thường xuyên về:
- Các hoạt động sự nghiệp Giáo dục- Đào tạo, Y tế thực hiện theo phân
cấp của tỉnh.
- Các hoạt độn sự nghiệp văn hóa, thông tin, thể dục thể thao, xã hội và
các hoạt động xã hội khác do cơ quan cấp huyện quản lý.
- Các hoạt động sự nghiệp kinh tế do cơ quan cấp huyện quản lý:

+ Nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp thủy lợi
+ Giao thông.
+ Sự nghiệp hành chính.
+ Các sự nghiệp kinh tế khác.
+ Quốc phòng, an ninh trật tự và an toàn xã hội.
- Hoạt động của các cơ quan Nhà nước cấp huyện.
- Hoạt động của cơ quan cấp Huyện của Đảng cộng sản Việt Nam.
- Hoạt động của cơ quan cấp Huyện, của mặt trận tổ quốc Việt Nam,
Đoàn TN CSHCM, Hội LHPN VN, Hội nông dân Việt Nam.

20


- Tài trợ cho các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp cấp Quận, Huyện
theo quy định của pháp luật.
- Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
*/ Chi đầu tư phát triển
Gồm có:
- Chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội theo
phân cấp của tỉnh, thành phố.
- Chi đầu tư xây dựng các trường phổ thông quốc lập, các công trình
phúc lợi công cộng, điện chiếu sáng cấp thoát nước, giao thông nội thị, an
toàn giao thông vệ sinh đô thị.
- Chi bổ sung cho ngân sách cấp dưới.
b.4/ Cấp phát kinh phí, các khoản chi của Ngân sách Quận, Huyện
Căn cứ vào dự toán chi NSNN năm được giao và dự toán Ngân sách
từng quý; căn cứ vào yêu cầu thực hiện nhiệm chi, phòng tài chính- vật giá
tiến hành cấp phát kinh phí theo nguyên tắc cấp trực tiếp đến các đơn vị sử
dụng Ngân sách và thanh toán trực tiếp từ kho bạc Nhà nước cho người được
hưởng.

Các hình thức cấp phát kinh phí
- Cấp phát bằng hạn mức kinh phí
Đối tượng cấp phát theo hạn mức kinh phí là các khoản chi thường
xuyên của các đơn vị dự toán NSNN bao gồm: các cơ quan hành chính nhà
nước; các đơn vị sự nghiệp hoạt động dưới hình thức thu đủ, chi đủ hoặc gần
thu- bù chi; các tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội và tổ chức xã hội
nghề nghiệp thường xuyên được NSNN cấp kinh phí.
- Cấp bằng hình thức lệnh chi tiền
Áp dụng với các đối tượng là các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế- xã
hội không có quan hệ thường xuyên với ngân sách, các khoản giao dịch của
Chính phủ với các tổ chức và cá nhân nước ngoài; các khoản bổ sung từ ngân

21


sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới và một số khoản chi đặc biệt khác theo
quyết định của thủ trưởng của cơ quan tài chính.
- Cấp phát và cho vay vốn đầu tư xây dựng cơ bản: Thực hiện theo quy
trình, quy định của Chính phủ, Bộ Tài chính sẽ có những văn bản hướng dẫn
thêm.
- Cấp phát kinh phí ủy quyền
Trong trường hợp cơ quan quản lý Nhà nước ủy quyền cho cơ quan quản
lý Nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ thuộc chức năng của mình thì phải
chuyển kinh phí từ cấp trên cho cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ đó. Hình thức
chuyển kinh phí chủ yếu bằng hạn mức kinh phí.Đối với các khoản kinh phí
nhỏ, nội dung chi đã xác định rõ thì có thể chuyển kinh phí bằng hình thức
lệnh chi tiền.
- Cấp phát cho các tổ chức chính trị- xã hội và tổ chức xã hội nghề
nghiệp:
+ Đối với các tổ chức chính trị xã hội: Được ngân sách đảm bảo cân đối

chi phí hoạt động theo quy định. Sau khi được giao nhiệm vụ chi Ngân sách,
từng tổ chức chính trị- xã hội thực hiện phân bổ dự toán ngân sách ( phần
được NSNN cấp) chi tiết theo mục lục NSNN hiện hành.
+ Đối với các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp thuộc đối tượng
được Nhà nước tài trợ theo quy định: Cấp phát theo hình thức hạn mức kinh
phí như các tổ chức chính trị- xã hội nếu là tài trợ thường xuyên; cấp phát
theo hình thức ghi lệnh chi tiền nếu được tài trợ đột xuất theo mục tiêu cụ thể.
c/ Cân đối Ngân sách Quận, Huyện
Cân đối ngân sách là phương hướng xuyên suốt trong toàn bộ quá trình
tạo lập và sử dụng ngân sách. Căn cứ vào dự toán thu, cơ chế quản lý Ngân
sách mới có thể đưa ra được dự toán chi.
Tuy nhiên để an toàn, các nhà hoạch định chính sách thường đảm bảo
tổng thu lớn hơn tổng chi một lượng hợp lý để đề phòng những rủi ro có
những khoản chi đột biến. Điều 8 mục 3 luật NSNN có quy định : “Ngân sách

22


địa phương được cân đối theo nguyên tắc tổng chi không được vượt quá tổng
thu”. Quy định này nhằm đảm bảo tính ổn định cho Ngân sách địa phương.
Với tư cách là một Ngân sách địa phương, Ngân sách Quận- Huyện cũng
phải tuân thủ những quy định vể cân đối Ngân sách. Hầu hết các Quận,
Huyện đều có xu hướng khai thác tối đa các nguồn thu trên địa bàn nhằm tạo
cho ngấn sách Quận, Huyện đủ mạnh để đáp ứng nhu cầu phát triển địa
phương. Để có thể cân đối được Ngân sách chúng ta phải tìm cách khai thác
các nguồn thu do pháp luật quy định thậm chí có thể đi vay.
Số dư Ngân sách của Quận, Huyện = Tổng số thu ngân sách Quận,
Huyện – Tổng chi ngân sách Quận, Huyện.
+ Ngân sách bội thu khi số dư ngân sách Quận, Huyện > 0, tức là tổng
thu lớn hơn tổng chi.

+ Ngân sách bội chi khi số dư ngân sách Quận, Huyện < 0, tức là tổng
thu nhỏ hơn tổng chi.
Trong trường hợp bội chi ngân sách sẽ tác động xấu đến nền kinh tế và
ảnh hưởng tới cả các năm tiếp theo. Thông thường thâm hụt ngân sách xảy ra
do các nguyên nhân sau:
Một là, do Quận, Huyện thực hiện một số chủ trương, chính sách trong
việc quản lý kinh tế, quản lý tài chính. Mặc dù đã dự toán nhưng do Quận,
Huyện không khảo sát hết các khoản chi nên khi thực hiện chính sách xuất
hiện các khoản chi vượt dự toán. Nguyên nhân này xuất phát từ khâu lập dự
toán.
Hai là, do sự yếu kém trong quản lý và điều hành ngân sách. Nguyên
nhân này là một bức xúc hiện nay- cải cách hành chính. Bộ máy hành chính
cồng kềnh, công tác thu chi đều phải trải qua nhiều cửa, cán bộ quản lý yếu
kém, biến chất, cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu.
Ba là, do tác động của các yếu tố điều kiện tự nhiên. Đó là sự tăng chi
cho khắc phục những thiên tai bất thường như lũ lụt,hạn hán… Để khắc phục
nguyên nhân này cần có các khoản dự phòng ngân sách cho các vấn đề thiên
tai.
23


Bốn là, do diễn biến của chu kì kinh doanh, thông thường chi ngân sách
vận động ngược chiều với chu kì kinh doanh. Khi chu kì kinh doanh ở giai
đoạn tăng trưởng thì chi ngân sách lại ít, khi chu kì kinh doanh đang suy thoái
thì chi ngân sách tăng vì phải bơm thêm vốn vào nền kinh tế.
Như vậy, với hai nguyên nhân đầu mang tính chủ quan, xuất phát từ việc
quản lý ngân sách. Do vậy, chúng ta cần phải lập dự toán thật chi tiết từ cơ sở,
không ngừng nâng cao trình độ, năng lực cán bộ quản lý, cải cách hành chính,
cải tạo cơ sở hạ tầng. Đối với nguyên nhân thứ ba và thứ tư, chúng ta phải
luôn luôn theo dõi diễn biến, phân tích để có thể đưa ra những biện pháp

phòng chống, khắc phục.
1.2.2 Quản lý ngân sách Quận, Huyện
1.2.2.1 Tính tất yếu của công tác quản lý Ngân sách Quận, Huyện
Trong các phần đã nghiên cứu về Ngân sách Quận - Huyện, về vai trò,
chức năng, nội dung của Ngân sách Quận -Huyện. Qua đó, ta có thể hiểu rõ
được tầm quan trọng, tính phức tạp của Ngân sách Quận -Huyện.
Ngân sách Quận - Huyện là thuộc về chính quyền Quận - Huyện, nó
thể hiện tiềm lực tài chính của chính quyền Quận - Huyện. Thế nhưng tiềm
lực đó phải tương xứng với nền kinh tế của Quận - Huyện, có nghĩa là phải đủ
mạnh, đủ lớn để có thể đáp ứng được các yêu cầu kinh tế, chính trị, văn hoá,
xã hội của Quận - Huyện. Vậy làm cách nào có thể tạo dựng được một Ngân
sách Quận -Huyện đủ lớn mạnh để đáp ứng những yêu cầu trên? Không còn
cách nào khác là phải quản lý Ngân sách Quận -Huyện và không ngừng nâng
cao hiệu quả quản lý Ngân sách Quận -Huyện.
Cho nên quản lý Ngân sách Quận -Huyện là tất yếu bởi:
Thứ nhất, không có một doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nào tự nguyện
nộp thuế cho Nhà nước. Các đối tượng nộp thuế, phí luôn luôn tìm cách trốn
thuế, tránh thuế, lách thuế, thậm chí còn “rút ruột thuế”. Như chúng ta dã biết,
trong những năm qua, việc áp dụng thuế giá trị gia tăng khuyến khích xuất
khẩu đã tạo ra những “lỗ hổng”, tạo điều kiện cho kẻ xấu lợi dụng chính sách
hoàn thuế đã “rút” ngân sách đền hàng trăm tỷ đồng. Thế mà, thuế lại là

24


nguồn thu chủ yếu của Ngân sách. Nếu như chúng ta để cho các đôi tượng
nộp tự nguyện nộp thuế thì Ngân sách sẽ rỗng không. Lý do này xuất phát từ
đặc điểm “không hoàn trả trực tiếp” của thuế. Khác với phí và lệ phi, thuế
không mang tính hoàn trả trực tiếp: Nếu như các đối tượng nộp phí, lệ phí thì
họ sẽ được hưởng trực tiếp các hàng hoá, dịch vụ mà nhà nước cung cấp còn

thuế thì không, các đối tượng phải nộp thuế mà không thu được bất cứ hàng
hoá dịch vụ nào.
Thứ hai, các đối tượng được Ngân sách cấp phát chi sẽ ra sức “rút ruột”
Ngân sách để phục vụ cho tổ chức, cá nhân mình mà không nghĩ đến tổ chức
cá nhân khác. Đây là hiện tượng làm lãng phí, thất thoát Ngân sách.
Chính vì vậy, chúng ta phải quản lý Ngân sách: quản lý từ các nguồn thu
đến các khoản chi.
1.2.2.2. Nội dung quản lý ngân sách Quận- Huyện
Ở phần trên chúng ta đã nghiên cứu nội dung Ngân sách Quận- Huyện
gồm có: Thu, chi và cân đối ngân sách. Tuy nhiên ở dưới góc độ quản lý thì
Ngân sách Quận- Huyện bao gồm các khâu sau:
- Lập dự toán ngân sách Quận- Huyện.
- Chấp hành ngân sách Quận- Huyện
- Kế toán và quyết toán ngân sách Quận- Huyện.
Quản lý ngân sách Quận- Huyện là quá trình quản lý hệ thống các quan
hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ
của chính quyền Nhà nước cấp Quận- Huyện; quản lý các khoản thu, chi của
Quận- Huyện đã dự toán bởi UBND tỉnh, thành phố và được thực hiện trong
một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng nhiệm vụ của cấp trên giao và
Quận- Huyện đề ra.
a/ Lập dự toán ngân sách Quận- Huyện
a.1/ Căn cứ lập dự toán Ngân sách Quận -Huyện

25


×