Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý ngân sách nhà nước cấp xã trên địa bàn thành phố cẩm phả, tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 107 trang )

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
TW Trung ương
TP Thành phố
HĐND Hội đồng nhân dân
UBND Ủy ban nhân dân
TC-KH Tài chính Kế hoạch
CNH & HĐH Công nghiệp hóa và hiện đại hóa
GPMB Giải phóng mặt bằng
GTGT Giá trị gia tăng
GTSX Giá trị sản xuất
KHCB Khấu hao cơ bản
NSNN Ngân sách nhà nước
NSĐP Ngân sách địa phương
NSX Ngân sách xã
NS Ngân sách
QLNS Quản lý ngân sách
QLNSNN Quản lý ngân sách nhà nước
NXB Nhà xuất bản
PTNT Phát triển nông thôn
SHNN Sở hữu nhà nước
SXKD Sản xuất kinh doanh
PTCS Phổ thông cơ sở
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
XDCB Xây dụng cơ bản
XHCN Xã hội chủ nghĩa
XNQD Xí nghiệp quốc doanh
i
DANH MỤC CÁC BẢNG
ii


DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
SƠ ĐỒ
iii
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống tài chính quốc gia, ngân sách nhà nước (NSNN) là bộ phận
quan trọng, không những là điều kiện vật chất cần thiết để Nhà nước có thể thực
hiện được các chức năng nhiệm vụ của mình, mà còn là công cụ để Nhà nước tác
động điều tiết vĩ mô. Ở Việt Nam, chính quyền cấp xã là chính quyền cơ sở, nơi
trực tiếp nắm bắt, giải quyết các nguyện vọng của nhân dân, trực tiếp tổ chức và
lãnh đạo nhân dân triển khai thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách và pháp
luật của Nhà nước. Các nội dung công việc của chính quyền cấp xã cần một nguồn
lực tài chính rất lớn và có ý nghĩa tiên quyết mà chủ yếu NSNN đảm bảo.
Ngân sách xã, phường, thị trấn (ngân sách xã) là một bộ phận của NSNN; Là
một cấp ngân sách nằm trong hệ thống NSNN, là ngân sách của chính quyền cơ sở
nên có tầm quan trọng đặc biệt. Ngân sách xã (NSX) vừa là phương tiện vật chất
bằng tiền, vừa là công cụ tài chính quan trọng để chính quyền cơ sở thực hiện chức
năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội đảm bảo an ninh - quốc
phòng trên địa bàn. Để quản lý và sử dụng có hiệu quả NSX, đòi hỏi trước hết phải
nhận thức một cách đầy đủ vai trò của NSX trong việc phát triển kinh tế - xã hội,
đảm bảo an ninh - quốc phòng.
Cẩm Phả là Thành phố công nghiệp thuộc tỉnh Quảng Ninh gồm 03 xã và 13
phường; kinh tế, xã hội trong những năm quan phát triển với tốc độ cao so với mặt
bằng chung của Tỉnh. Qua khảo sát cho thấy việc quản lý ngân sách (QLNS) nói
chung và QLNS cấp xã nói riêng đã đáp ứng được cơ bản các yêu cầu theo đúng
quy định của Luật NSNN và các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật NSNN; Sau gần
10 năm thực hiện Luật NSNN được Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ 2 thông qua ngày
16/12/2002 và có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 2004, cân đối ngân sách của
Thành phố nói chung và của các xã, phường trên địa bàn Thành phố nói riêng đang
ngày càng được cải thiện, nguồn thu ngân sách ngày càng tăng, từng bước đảm bảo

đáp ứng được những yêu cầu chi thiết yếu của bộ máy quản lý nhà nước, sự nghiệp
kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng mà còn dành phần đáng kể cho đầu
tư phát triển.
1
Tuy nhiên, công tác QLNS của thành phố nhất là QLNS cấp xã trên địa bàn
Thành phố vẫn còn nhiều khiếm khuyết, hạn chế trong khâu tổ chức lập, phân bổ dự
toán, chấp hành và quyết toán NSNN. Nhiều nội dung chi tiêu ngân sách còn sai chế
độ, lãng phí; trình độ quản lý tài chính của các xã, phường hạn chế dẫn đến nhiều
sai sót; mặt khác do còn mang nặng tư tưởng bao cấp của cơ chế "xin - cho" nên
chưa thực sự chủ động trong quản lý chi tiêu tài chính, chưa phát huy được hiệu quả
khi sử dụng NSNN. Việc phân cấp QLNS còn nhiều bất cập… Để góp phần hoàn
thiện hơn nữa Luật NSNN nói chung và công tác QLNS trên địa bàn Thành phố
Cẩm Phả đặc biệt là tại các xã, phường nói riêng, chúng tôi chọn đề tài: “Giải pháp
hoàn thiện công tác quản lý ngân sách nhà nước cấp xã trên địa bàn Thành phố
Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh’’ để nghiên cứu, làm sáng tỏ những những vấn đề đã
đạt được và những tồn tại, hạn chế được của công tác QLNS cấp xã cả về phương
diện pháp lý liên quan đến công tác chỉ đạo điều hành, từ đó đề xuất một số giải
pháp nhằm hoàn thiện Luật, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội trong thời kỳ
đổi mới, nâng cao hiệu quả của NSNN trong phát triển kinh tế - xã hội theo những
mục tiêu đã đặt ra.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quản lý NSNN nói chung và quản lý NSNN cấp xã nói riêng đã và đang
được rất nhiều nhà quản lý kinh tế nghiên cứu. Có một số công trình nghiên cứu đã
công bố liên quan đến quản lý NSNN như:
- Tào Hữu Phùng và Nguyễn Công Nghiệp (1992), Tác phẩm "Đổi mới ngân
sách nhà nước", NXB Thống kê, Hà Nội.
- Dương Đức Quân (2005), Hoàn thiện quản lý ngân sách nhà nước trên
địa bàn tỉnh Ninh Bình, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị - Quốc gia
Hồ Chí Minh.
- Trần Văn Lâm (2006), Giải pháp tăng cường quản lý ngân sách địa

phương góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Tài chính Hà Nội.
2
- Nguyễn Thanh Toản (2007), Đổi mới quản lý ngân sách nhà nước trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Phúc góp phần thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luận văn thạc sỹ
kinh tế, Học viện Chính trị - Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Lương Ngọc Tuyền (2005), Hoàn thiện công tác kiểm soát chi thường
xuyên của ngân sách nhà nước qua Kho bạc Nhà nước, Luận văn Thạc sỹ kinh tế,
Đại học Kinh tế TP.HCM.
Phần lớn các công trình nghiên cứu và các bài viết trên đều tập trung nghiên
cứu về các chính sách tài chính vĩ mô và quản lý NSNN nói chung hoặc quản lý
NSNN tại một địa phương đơn lẻ hoặc mới chỉ ra giải pháp QLNS áp dụng cho
từng vùng, miền cụ thể, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều khía
cạnh khác nhau về quản lý NSNN nhưng những vấn đề nghiên cứu đã khá lạc hậu
so với tình hình hiện nay. Đặc biệt là với Thành phố Cẩm Phả chưa có công trình
nào nghiên cứu về quản lý NSNN cấp xã trên địa bàn Thành phố.
Đề tài nghiên cứu của luận văn được thực hiện trên cơ sở kế thừa và phát
triển những thành quả của các đề tài trước.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu thực trạng, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện công
tác QLNS cấp xã trên địa bàn Thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh để góp phần
vào việc quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn ngân sách trên địa bàn Thành phố
Cẩm Phả.
3.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa và làm rõ được cơ sở lý luận và thực tiễn về ngân sách và
công tác quản lý ngân sách xã.
- Đánh giá được thực trạng công tác quản lý NSX trên địa bàn Thành phố
Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2010 - 2012. Trên cơ sở nghiên cứu tìm ra
điểm hợp lý và chưa hợp lý trong quản lý NSX trên địa bàn Thành phố Cẩm Phả.

- Đề xuất được các giải pháp hoàn thiện phù hợp với điều kiện của Thành
phố Cẩm Phả trong thời gian tới.
3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu trong luận văn là thực trạng công tác quản lý NSNN ở
cấp xã trên địa bàn TP Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh theo Luật NSNN năm 2002.
Phạm vi nghiên cứu trong luận văn chỉ giới hạn ở việc QLNS của TP Cẩm
Phả đối với các xã, phường thuộc thành phố, bao gồm cả nội dung quản lý ngân
sách của các xã, phường trong thành phố.
Thời gian khảo sát thực trạng quản lý NSNN cấp xã trên địa bàn Thành phố
Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh giới hạn trong giai đoạn 2010 - 2012 và đề xuất định
hướng, giải pháp cho giai đoạn 2013 - 2015.
5. Đóng góp mới của luận văn
- Đánh giá có hệ thống về tiềm năng, thế mạnh cũng như thực trạng công tác
quản lý ngân sách nhà nước cấp xã trên địa bàn Thành phố Cẩm Phả.
- Rút ra 5 thành công, 3 nhóm với 12 hạn chế và 02 nhóm nguyên nhân hạn
chế trong quản lý NSNN cấp xã ở Thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh từ năm
2010 tới nay.
- Đề xuất 11 nhóm giải pháp, 2 nhóm kiến nghị điều kiện nhằm hoàn thiện
quản lý NSNN cấp xã phù hợp với điều kiện của Thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng
Ninh đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020. Luận văn là tài liệu tham khảo hữu
ích cho các nhà hoạch định chính sách ở Tỉnh, Thành phố và tài liệu nghiên cứu cho
học sinh, sinh viên.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, nội dung luận văn gồm 4 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý ngân sách nhà nước cấp xã.
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu.
Chương 3: Thực trạng quản lý ngân sách nhà nước cấp xã ở TP Cẩm Phả.
Chương 4: Các giải pháp hoàn thiện quản lý ngân sách nhà nước cấp xã trên
địa bàn Thành phố Cẩm Phả.

4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CẤP XÃ
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Bản chất và vai trò của NSNN trong nền kinh tế thị trường
1.1.1.1. Khái niệm NSNN
Ngân sách nhà nước ra đời khi có sự xuất hiện của Nhà nước nhằm đáp ứng
các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Ngân sách nhà nước là mắt khâu quan trọng
nhất giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống tài chính công.
Theo quan điểm của Nga: NSNN là bảng thống kê các khoản thu và chi bằng
tiền của nhà nước trong một giai đoạn nhất định. Người Pháp cho rằng: NSNN là
toàn bộ tài liệu kế toán mô tả và trình bày các khoản thu và kinh phí của nhà nước
trong một năm.
Có thể thấy rằng các quan điểm trên đều cho thấy biểu hiện bên ngoài của
NSNN và mối quan hệ mật thiết giữa nhà nước và NSNN. Trong hệ thống tài chính,
NSNN là khâu chủ đạo, đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc duy trì sự tồn tại
của bộ máy quyền lực nhà nước.
Tại Việt Nam, định nghĩa về NSNN được Luật NSNN (2002) nêu rõ: Ngân
sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu và chi của Nhà nước trong dự toán đã được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để
đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Từ định nghĩa trên, ta có thể hiểu ngân sách nhà nước trên các khía cạnh:
+ Thứ nhất, ngân sách nhà nước là kế hoạch tài chính cơ bản hay rõ hơn là
bản dự toán thu, chi tài chính của nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định;
+ Thứ hai: ngân sách nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống tài chính;
+ Thứ ba: ngân sách nhà nước là quỹ tiền tệ của nhà nước hay còn gọi là quỹ
ngân sách phục vụ việc thực hiện chức năng của nhà nước.
1.1.1.2. Khái niệm ngân sách xã
Theo quy định thì NSX là một cấp ngân sách hoàn chỉnh trong hệ thống

NSNN hiện nay. NSX là một bộ phận của NSNN, là ngân sách của chính quyền cấp
5
cơ sở do UBND xã xây dựng, tổ chức quản lý và thực hiện dưới sự giám sát của
HĐND xã. NSX được xây dựng từ các nguồn thu, được phân cấp và các nội dung
chi để thực hiện các công việc thuộc chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cấp xã.
Theo Luật NSNN (2002): “NSX là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh
trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ của chính quyền nhà nước
cấp xã nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng của Nhà nước cấp cơ sở
trong khuôn khổ đã được phân công, phân cấp quản lý”.
1.1.1.3. Phân cấp quản lý NSNN
Ngân sách nhà nước là một hệ thống bao gồm các cấp ngân sách phù hợp với
hệ thống chính quyền nhà nước các cấp. Do bộ máy nhà nước được thiết lập theo
nhiều hình thức khác nhau nên ngân sách nhà nước cũng được tổ chức cho phù hợp.
Thông thường, hệ thống chính quyền nhà nước được tổ chức thành nhiều cấp
và mỗi cấp đều được phân giao những nhiệm vụ nhất định. Để thực hiện những
nhiệm vụ đó, mỗi cấp lại được phân giao những quyền hạn cụ thể về nhân sự, kinh
tế, hành chính và ngân sách. Việc hình thành hệ thống ngân sách nhà nước gồm
nhiều cấp thì việc phân cấp ngân sách nhà nước là một tất yếu khách quan. Bởi vì
mỗi cấp ngân sách nhà nước đều có nhiệm vụ thu, chi mang tính độc lập. Trong
việc tổ chức quản lý tài chính nhà nước nếu cơ chế phân cấp quản lý ngân sách nhà
nước được thiết lập phù hợp thì tình hình quản lý tài chính và ngân sách nhà nước
sẽ được cải thiện góp phần thúc đẩy sự phát triển ổn định của nền kinh tế xã hội.
Theo tác giả Lê Chi Mai (2006) cho rằng: Phân cấp quản lý NSNN là sự
phân chia quyền hạn, trách nhiệm giữa các cấp chính quyền trong việc quản lý, điều
hành NSNN.
Nói đến phân cấp quản lý ngân sách nhà nước, người ta thường nghĩ ngay
đến việc có bao nhiêu cấp ngân sách và mối quan hệ lẫn nhau giữa các cấp đó như
thế nào. Điều quan tâm tiếp theo là từng cấp được quyền huy động những khoản thu
nào cho riêng cấp mình, những khoản thu đó dùng để đáp ứng những nhiệm vụ chi
nào mà cấp đó phải đảm nhiệm.

6
1.1.1.4. Vai trò của NSNN trong nền kinh tế thị trường
- Cơ chế thị trường: Trong nền kinh tế hàng hoá có những quy luật kinh tế
vốn có của nó hoạt động như: quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh
tranh, quy luật lưu thông tiền tệ…và lợi nhuận là động lực cơ bản của sự vận động
đó. Các quy luật biểu hiện sự tác động của mình thông qua thị trường. Nhờ sự vận
động của hệ thống giá cả thị trường mà diễn ra sự thích ứng tự phát giữa khối lượng
và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội. Có thể hiểu cơ
chế thị trường là cơ chế tự điều tiết kinh tế hàng hoá do sự tác động của các quy luật
kinh tế, cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là sản xuất cái gì,
như thế nào và cho ai. Cơ chế thị trường bao gồm các nhân tố cơ bản là cung cầu và
giá cả thị trường (Sử Đình Thành, 2006).
NSNN là một trong những công cụ hữu hiệu để Nhà nước điều chỉnh vĩ mô
nền kinh tế, xã hội. NSNN ngoài việc duy trì sự tồn tại của bộ máy nhà nước còn
phải xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội để tạo ra môi trường thuận lợi cho các
doanh nghiệp hoạt động. NSNN được sử dụng như là công cụ tác động vào cơ cấu
kinh tế nhằm đảm bảo cân đối hợp lý của cơ cấu kinh tế và sự ổn định của chu kỳ
kinh doanh. Trước xu thế phát triển mất cân đối của các ngành, lĩnh vực trong nền
kinh tế, thông qua quỹ ngân sách, Chính phủ có thể áp dụng các chính sách ưu đãi,
đầu tư vào các lĩnh vực mà tư nhân không muốn đầu tư vì hiệu quả đầu tư thấp;
hoặc qua các chính sách thuế bằng việc đánh thuế vào những hàng hoá, dịch vụ của
tư nhân có khả năng thao túng trên thị trường; đồng thời, áp dụng mức thuế suất ưu
đãi đối với những hàng hoá mà Chính phủ khuyến dụng. Nhờ đó mà có thể đảm bảo
sự cân đối, công bằng trong nền kinh tế.
Một vai trò được coi là không kém phần quan trọng của NSNN là giải quyết
các vấn đề xã hội: bất công, ô nhiễm môi trường…Chẳng hạn trước vấn đề công
bằng xã hội. Chống lại sự bất công là cần thiết cho một xã hội văn minh và ổn định,
Chính phủ thường sử dụng các biện pháp tác động tới thu nhập để thiết lập lại sự
công bằng xã hội. Điều chỉnh thu nhập của các nhóm dân cư khác nhau bằng cách
7

trợ cấp thu nhập cho những người có thu nhập thấp hoặc hoàn toàn không có thu
nhập. Một cách khác, Chính phủ có thể sử dụng biện pháp tác động gián tiếp đến
thu nhập bằng cách tạo khả năng tạo thu nhập cao hơn dựa vào năng lực của bản
thân, đây là biện pháp tích cực nhất, đồng thời làm tăng thu nhập quốc dân; nói cách
khác, nó làm cho một số người dân giàu lên mà không ai nghèo đi; hoặc qua chính
sách thuế thu nhập, sử dụng mức thuế suất cao đối với người có thu nhập cao và
ngược lại. Như vậy, vai trò của NSNN là rất lớn. Vấn đề đặt ra là việc tổ chức quy
mô, cơ cấu và quản lý NSNN như thế nào để phát huy được vai trò của nó (Nguyễn
Hữu Tài, 2002).[16]
1.1.2. Hệ thống, phân cấp, năm ngân sách và chu trình NSNN
1.1.2.1. Hệ thống ngân sách nhà nước
Hệ thống NSNN là tổng thể các cấp ngân sách có mối quan hệ hữu cơ với
nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu, chi của mỗi cấp ngân sách. Tại nước
ta, tổ chức hệ thống NSNN gắn bó chặt chẽ với việc tổ chức bộ máy nhà nước và
vai trò, vị trí của bộ máy đó trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước
theo Hiến pháp. Mỗi cấp chính quyền có một cấp ngân sách riêng cung cấp phương
tiện vật chất cho cấp chính quyền đó thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trên
vùng lãnh thổ. Việc hình thành hệ thống chính quyền nhà nước các cấp là một tất
yếu khách quan nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trên mọi vùng
lãnh thổ của đất nước. Chính sự ra đời của hệ thống chính quyền nhà nước nhiều
cấp đó là tiền đề cần thiết để tổ chức hệ thống NSNN nhiều cấp. Cấp ngân sách
được hình thành trên cơ sở cấp chính quyền nhà nước, phù hợp với mô hình tổ chức
hệ thống chính quyền nhà nước ta hiện nay, hệ thống NSNN bao gồm ngân sách
trung ương và ngân sách địa phương:
* Ngân sách trung ương phản ánh nhiệm vụ thu, chi theo ngành và giữ vai
trò chủ đạo trong hệ thống NSNN. Nó bắt nguồn từ vị trí, vai trò của chính quyền
trung ương được Hiến pháp quy định đối với việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế,
chính trị, xã hội của đất nước. Ngân sách trung ương cấp phát kinh phí cho yêu cầu
8
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trung ương (sự nghiệp văn hoá, sự

nghiệp an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, đầu tư phát triển…). Nó còn là
trung tâm điều hoà hoạt động ngân sách của địa phương. Trên thực tế, ngân sách
trung ương là ngân sách của cả nước, tập trung đại bộ phận nguồn tài chính quốc
gia và đảm bảo các nhiệm vụ chi tiêu có tính chất huyết mạch của cả nước.
* Ngân sách địa phương là tên chung để chỉ các cấp ngân sách của các cấp
chính quyền phù hợp với địa giới hành chính gồm có: Ngân sách tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương (gọi chung là ngân sách tỉnh); ngân sách huyện, thị xã, thành
phố trực thuộc tỉnh (gọi chung là ngân sách huyện); ngân sách xã, phường, thị trấn
(gọi chung là ngân sách xã). Ngoài NSX chưa có đơn vị dự toán, các cấp ngân sách
khác đều bao gồm một số đơn vị dự toán của cấp ấy hợp thành.
- Ngân sách cấp tỉnh, cấp huyện phản ánh nhiệm vụ thu, chi theo lãnh thổ,
đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ tổ chức quản lý toàn diện kinh tế, xã hội của chính
quyền cùng cấp. Chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện cần chủ động, sáng tạo trong việc
động viên khai thác các thế mạnh trên địa bàn để tăng nguồn thu, đảm bảo chi và
thực hiện cân đối ngân sách cấp mình.
- Ngân sách xã có tầm quan trọng đặc biệt và cũng có đặc thù riêng: nguồn
thu được khai thác trực tiếp trên địa bàn và nhiệm vụ chi cũng được bố trí để phục
vụ cho mục đích trực tiếp của cộng đồng dân cư xã, phường mà không thông qua
một khâu trung gian nào. NSX là cấp ngân sách cơ sở trong hệ thống NSNN, đảm
bảo điều kiện tài chính để chính quyền xã, phường chủ động khai thác các thế mạnh
để phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới, thực hiện các chính sách xã
hội, giữ gìn an ninh, trật tự, xây dựng các công trình phúc lợi trên địa bàn.
Đối với nước ta hiện nay hệ thống chính quyền nhà nước được phân
thành bốn cấp. Vì vậy ứng với mỗi cấp chính quyền thì có một cấp ngân sách
tương ứng, do đó hệ thống ngân sách của nước ta gồm các cấp được thể hiện trên
Sơ đồ 1.1 sau:
9
Sơ đồ 1.1. Hệ thống Ngân sách nhà nước
1.1.2.2. Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
* Yêu cầu của phân cấp quản lý NSNN:

- Đảm bảo tính thống nhất của NSNN, nguồn thu và nhiệm vụ chi cho mỗi
cấp chính quyền được ổn định theo luật định.
- Phân cấp quản lý NSNN phải phù hợp với phân cấp các lĩnh vực khác của
Nhà nước, xác định rõ các mối quan hệ giữa ngân sách cấp trên và ngân sách cấp
dưới, quan hệ giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương.
- Nội dung phân cấp quản lý NSNN phải phù hợp với hiến pháp và luật pháp
quy định chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cấp chính quyền,
đảm bảo mỗi cấp ngân sách có các nguồn thu, nhiệm vụ chi, quyền hạn và trách
nhiệm về ngân sách tương xứng nhau.
- Quốc hội là cơ quan quyết định dự toán NSNN, phân bổ ngân sách Trung
ương, phê chuẩn quyết toán NSNN, Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp được chủ
động quyết định dự toán và phân bổ dự toán ngân sách địa phương.
Ngân sách nhà nước
Ngân sách Trung ương
Ngân sách địa phương
NS tỉnh và
thành phố
trực thuộc
Trung
ương
NS huyện,
quận, thị
xã, thành
phố thuộc
tỉnh
NS xã,
phường,
thị trấn
10
* Nội dung phân cấp quản lý NSNN: Đây chính là việc giải quyết các mối

quan hệ về quyền lực, quan hệ vật chất giữa các cấp chính quyền trong quá trình
quản lý và sử dụng NSNN bao gồm các nội dung sau:
- Giải quyết mối quan hệ giữa các cấp chính quyền trong việc ban hành các
chính sách, chế độ thu, chi và chế độ quản lý NSNN.
- Giải quyết mối quan hệ mật thiết trong quá trình giao nhiệm vụ chi, nguồn
thu và cân đối NSNN.
- Giải quyết mối quan hệ trong quá trình thực hiện quy trình NSNN.
* Nguyên tắc phân cấp quản lý NSNN:
- Phân cấp ngân sách phải được tiến hành đồng bộ với phân cấp kinh tế và tổ
chức bộ máy hành chính.
- Đảm bảo thể hiện vai trò chỉ đạo của ngân sách Trung ương và vị trí độc
lập của ngân sách địa phương trong hệ thống NSNN thống nhất.
- Đảm bảo nguyên tắc công bằng trong phân cấp ngân sách.
Ngân sách Trung ương giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ
chiến lược, quan trọng của quốc gia và hỗ trợ những địa phương chưa cân đối được
thu chi ngân sách.
Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu đảm bảo chủ động trong
thực hiện nhiệm vụ được giao; tăng cường nguồn lực cho NSX. HĐND tỉnh quyết
định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách các cấp chính quyền địa
phương phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và trình
độ quản lý của mỗi cấp trên địa bàn.
1.1.2.3. Năm ngân sách và chu trình ngân sách
a. Năm ngân sách: Năm ngân sách chỉ khoảng thời gian mà trong đó dự toán
thu, chi ngân sách đã được phê chuẩn có hiệu lực thực hiện. Thông thường trên thế
giới năm ngân sách có thời gian là 12 tháng nhưng khác nhau về thời điểm bắt đầu
và kết thúc. Ở Việt Nam, năm ngân sách gồm 12 tháng, bắt đầu từ 1/1 đến 31/12
(tính theo năm dương lịch), (Lê Chi Mai, 2006).
11
b. Chu trình ngân sách: Chu trình ngân sách gồm ba giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Hình thành kế hoạch NSNN (thu, chi)

- Giai đoạn 2: Chấp hành NSNN (thực hiện kế hoạch thu, chi)
- Giai đoạn 3: Quyết toán NSNN.
1.1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý ngân sách
Theo tác giả Nguyễn Hữu Tài (2002) cho rằng các nhân tố ảnh hưởng chính
đến quản lý ngân sách, gồm:
a. Nhân tố về chế độ quản lý tài chính công: Đó là sự ảnh hưởng của những
văn bản của Nhà nước có tính quy phạm pháp luật chi phối hoạt động của các cơ
quan Nhà nước trong quá trình QLNS. Cụ thể là các văn bản quy định phạm vi, đối
tượng thu, chi ngân sách của các cấp chính quyền; quy định, chế định việc phân
công, phân cấp nhiệm vụ QLNS của các cấp chính quyền; quy định quy trình, nội
dung lập, chấp hành và quyết toán ngân sách; quy định chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền của cơ quan Nhà nước trong quá trình QLNS và sử dụng quỹ ngân sách; quy
định, chế định những nguyên tắc, chế độ, định mức chi tiêu Các văn bản này có
ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả QLNS trên một địa bàn nhất định, do vậy đòi hỏi
Nhà nước phải ban hành những văn bản đúng đắn, phù hợp với thực tế thì công tác
quản lý NSNN mới đạt được hiệu quả.
b. Nhân tố về bộ máy và cán bộ quản lý NSNN: Việc phân định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cấp, các bộ phận trong tổ chức bộ máy và cán bộ
quản lý; việc quy định mối quan hệ phối hợp giữa các bộ phận và cán bộ quản lý
thu, chi, giữa bộ phận này với bộ phận khác, giữa cấp trên với cấp dưới trong quá
trình phân công, phân cấp quản lý có ảnh hưởng rất lớn đến quản lý NSNN. Nếu
việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền cấp tỉnh không rõ
ràng, cụ thể thì dễ xảy ra tình trạng thiếu trách nhiệm, hoặc lạm dụng quyền hạn
trong việc quản lý NSNN. Nếu bộ máy và cán bộ có năng lực trình độ thấp, đạo đức
bị tha hoá thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả quản lý NSNN.
c. Nhân tố về trình độ phát triển kinh tế và xã hội: Quản lý ngân sách chịu
ảnh hưởng của trình độ phát triển kinh tế xã hội và mức thu nhập của người dân trên
12
địa bàn. Khi trình độ phát triển kinh tế xã hội và mức thu nhập bình quân của người
dân tăng thì huy động ngân sách cũng tăng, do đó quản lý NSNN ít phải đối mặt với

mâu thuẫn giữa nhu cầu chi cao mà nguồn thu thấp như ở các địa phương có trình
độ phát triển kinh tế thấp. Khi ý thức tuân thủ pháp luật và các chính sách Nhà nước
của các tổ chức, cá nhân được nâng cao, năng lực sử dụng NSNN tại các tổ chức và
cá nhân thụ hưởng NSNN được cải thiện thì việc sử dụng NSNN sẽ có hiệu quả cao
hơn, mức độ vi phạm cũng sẽ thấp hơn. Ngược lại, khi trình độ phát triển kinh tế và
mức thu nhập bình quân trên địa bàn còn thấp, cũng như ý thức về sử dụng NSNN
chưa cao thì sẽ tồn tại tình trạng ỷ lại Nhà nước, lạm dụng chi NSNN… làm cho
quá trình quản lý NSNN khó khăn, phức tạp hơn.
Những nhân tố kể trên đều tác động ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phân
cấp quản lý ngân sách Nhà nước.
1.1.3. Quản lý ngân sách cấp xã
1.1.3.1. Chính quyền nhà nước cấp xã
Ngay từ khi mới giành được chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan
tâm, chú trọng đến hệ thống tổ chức quản lý bộ máy nhà nước. Trong Hiến pháp
nước Cộng hoà XHCN Việt Nam đã quy định hệ thống tổ chức quản lý bộ máy nhà
nước bao gồm bốn cấp: Cấp Trung ương - cấp tỉnh - cấp huyện - cấp xã. Cấp xã là
đơn vị hành chính cơ sở của nhà nước, bao gồm HĐND và UBND.
Chính quyền cấp xã thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau: Xây dựng và
thực hiện các phần kế hoạch kinh tế xã hội do xã phụ trách; Quản lý dân số, lao
động, hộ tịch, hộ khẩu, sinh tử, giá thú theo quy định hiện hành; Quản lý và thực
hiện chính sách tài chính, thu thuế, thu nợ cho Nhà nước, xây dựng và QLNS cấp xã
theo đúng luật, chế độ, thể lệ của Nhà nước, theo quy định cụ thể của UBND cấp
tỉnh; Kiểm tra đôn đốc các hộ, các cá nhân và các cơ sở sản xuất kinh doanh, chấp
hành tốt các chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với
Nhà nước; Thực hiện chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định
hướng Xã hội chủ nghĩa (XHCN), chính sách quản lý thị trường, ngăn chặn mọi
hành vi kinh doanh, buôn bán trái phép, đầu cơ tích trữ; Giữ gìn an ninh trật tự và
an toàn xã hội, bảo vệ tài sản XHCN và tính mạng cho nhân dân.
13
1.1.3.2. Bản chất, đặc điểm ngân sách xã

a. Bản chất của ngân sách xã: Là hệ thống những mối quan hệ kinh tế nhà
nước và xã hội trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài chính
nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức năng của nhà nước. Các quan hệ kinh tế
này bao gồm: Quan hệ kinh tế giữa chính quyền cấp xã và các tổ chức, hộ sản xuất,
kinh doanh trên địa bàn; quan hệ giữa NSX với các tổ chức tài chính trung gian với
quỹ tín dụng nhân dân; quan hệ kinh tế giữa ngân sách xã và các tổ chức xã hội;
quan hệ kinh tế giữa ngân sách xã và các hộ gia đình.
b. Đặc điểm của ngân sách xã: Là một bộ phận trong hệ thống NSNN và là
cấp ngân sách của chính quyền cơ sở, ngân sách xã có những đặc điểm sau:
- Hoạt động thu, chi NSX luôn gắn chặt với quyền lực kinh tế, chính trị của
chính quyền cấp xã và được tổ chức thực hiện trên cơ sở những quy định, luật lệ
thống nhất được Nhà nước ban hành.
- Thu chi NSX gắn với hoạt động của chính quyền cơ sở do vậy NSX là một
cấp ngân sách đặc biệt trong hệ thống NSNN, bởi vì: Với vị trí là một cấp ngân sách
hoàn chỉnh, NSX là toàn bộ dự toán thu, chi ngân sách một năm đã được HĐND xã
quyết định và giám sát thực hiện. Mặt khác do cấp xã là cấp cơ sở, dưới đó không
còn đơn vị dự toán, các đơn vị thụ hưởng ngân sách trực thuộc nên NSX cũng chính
là đơn vị dự toán; Với tư cách là một cấp ngân sách, NSX có chức năng và nhiệm
vụ của một cấp ngân sách; đồng thời với tư cách là một đơn vị dự toán ngân sách,
NSX có nhiệm vụ chấp hành các chính sách, chế độ của Nhà nước trong quá trình
chi ngân sách. Hai tư cách quản lý lại phải thống nhất trong một bộ máy quản lý, vì
vậy nó ảnh hưởng đến nhiều nội dung quản lý NSX như tổ chức bộ máy quản lý,
chế độ kế toán NSX và công khai ngân sách xã (Sử Đình Thành, 2006).
1.1.3.3. Vai trò của ngân sách xã trong hệ thống NSNN và trong đời sống kinh tế xã
hội ở địa phương
a. Với tư cách là một bộ phận của NSNN, NSX có vai trò sau:
- NSX là công cụ huy động các nguồn lực tài chính để đảm bảo nhu cầu chi
tiêu của chính quyền cấp xã. Vai trò của NSX được xác định trên bản chất kinh tế
của Nhà nước.
14

- NSX huy động mọi nguồn thu trên địa bàn đã được phân cấp cho chính
quyền cấp xã quản lý, cân đối thu, chi để đảm bảo nhu cầu chi tiêu, thực hiện mối
quan hệ giữa nhân dân với Nhà nước và ngược lại, nhờ đó mọi chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước được truyền đạt và phổ biến rộng rãi đến nhân dân.
b. Vai trò của NSX biểu hiện thông qua quá trình thu và quá trình chi.
- Thông qua thu giúp chính quyền cấp xã thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát,
điều chỉnh các hoạt động kinh doanh, dịch vụ và các hoạt động khác đi đúng hành
lang pháp luật; Thu NSX góp phần thực hiện các chính sách xã hội như đảm bảo
công bằng giữa những người có nghĩa vụ đóng góp cho NSX, đồng thời có sự trợ
giúp cho những đối tượng nộp khi họ gặp khó khăn hoặc thuộc diện ưu đãi theo
chính sách của Nhà nước thông qua xét miễn, giảm số thu; Thu tiền phạt đối với cá
nhân, tổ chức vi phạm trật tự an toàn xã hội để đưa người dân nghiêm chỉnh thực
hiện tốt nghĩa vụ trước cộng đồng.
- Thông qua chi NSX mà các hoạt động của cấp ủy, chính quyền, các đoàn
thể ở xã được duy trì phát triển một cách liên tục và ổn định, nhờ đó nâng cao hiệu
lực quản lý Nhà nước ở cơ sở; Chi NSX góp phần nâng cao dân trí, nâng cao sức
khoẻ cho mọi người dân biểu hiện thông qua NSX chi cho sự nghiệp giáo dục, sự
nghiệp y tế. Chi NSX thực hiện chính sách xã hội tại địa bàn mỗi xã như NSX chi
cứu tế xã hội, chi thăm hỏi, trợ cấp cho gia đình thương binh, liệt sĩ trong xã.
1.1.3.4. Chức năng quản lý ngân sách xã
Theo tác giả Nguyễn Hữu Tài (2002), chức năng quản lý NSX [16], gồm:
a. Chức năng quản lý ngân sách của Hội đồng nhân dân xã
- Quyết định dự toán và phân bổ ngân sách xã, giám sát thực hiện NSNN trên
địa bàn và phê chuẩn quyết toán ngân sách xã.
- Quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách xã khi cần thiết.
- Đề ra các chủ trương, biện pháp để triển khai thực hiện ngân sách xã.
- Quyết định thu các khoản đóng góp của nhân dân trên địa bàn xã. (theo
phân cấp của cấp có thẩm quyền).
15
b. Chức năng quản lý ngân sách của Uỷ ban nhân dân xã

- Lập dự toán NSX, lập phương án phân bổ NSX, điều chỉnh NSX trong
trường hợp cần thiết trình HĐND cấp xã quyết định và báo cáo UBND cấp huyện
và Phòng Tài chính - Kế hoạch cấp huyện.
- Tổ chức thực hiện dự toán ngân sách đã được HĐND xã phê chuẩn.
- Lập quyết toán NSX hàng năm trình HĐND cấp xã phê chuẩn, báo cáo
UBND cấp huyện và Phòng Tài chính - Kế hoạch cấp huyện.
- Chỉ đạo Ban tài chính, kế toán xã trong thực hiện chế độ kế toán NSX,
thống kê và tổ chức quản lý tài chính trên địa bàn xã theo quy định.
- Công khai thu, chi ngân sách, chi đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn đóng
góp của nhân dân theo đúng quy định của quy chế dân chủ ở cơ sở.
1.1.3.5. Nội dung chính của công tác quản lý ngân sách xã
a. Về thu: Nguồn thu ngân sách xã gồm:
- Các khoản thu ngân sách xã được hưởng 100%: Các khoản thu NSX
hưởng 100% là các khoản thu dành cho xã sử dụng toàn bộ để chủ động về nguồn
tài chính đảm bảo các nhiệm vụ chi thường xuyên, đầu tư phát triển. Căn cứ vào
nguồn thu, chế độ phân cấp quản lý kinh tế - xã hội và nguyên tắc đảm bảo tối đa
nguồn tại chỗ cân đối cho các khoản thu, chi thường xuyên, khi phân cấp nguồn thu
HĐND cấp tỉnh xem xét dành cho NSX hưởng 100% các khoản thu dưới đây:
+ Thu về xử lý vi phạm hành chính.
+ Thu về phí, lệ phí theo thẩm quyền của xã.
+ Thu từ các hoạt động sự nghiệp của xã, phần nộp vào NSX theo quy định.
+ Các khoản thu đóng góp của các tổ chức, các cá nhân cho xã gồm: Các
khoản huy động, vận động đóng góp của tổ chức, cá nhân theo pháp luật quy định;
các khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức cá nhân để đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng do HĐND cấp xã quyết định đưa vào NSX quản lý và các khoản đóng góp tự
nguyện khác.
+ Thu về quản lý, sử dụng tài sản công.
+ Viện trợ của các tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp cho cấp xã.
16
+ Các khoản thu khác của xã theo quy định của pháp luật.

+ Thu kết dư ngân sách năm trước.
- Các khoản thu ngân sách xã được hưởng, phân chia theo tỉ lệ phần trăm
(%) giữa ngân sánh xã với ngân sách cấp trên: Theo quy định của Luật NSNN thì
các khoản thu này gồm: Thuế nhà đất; thuế môn bài thu từ cá nhân, hộ kinh doanh;
thuế sử dụng đất nông nghiệp thu từ hộ gia đình; Lệ phí trước bạ.
Các khoản thu trên tỷ lệ NSX được hưởng tối thiểu là 70%. Căn cứ vào
nguồn thu và nhiệm vụ chi của xã HĐND cấp tỉnh có thể quy định tỷ lệ ngân sách
xã được hưởng cao hơn, đến tối đa là 100%. Ngoài các khoản thu phân chia như
trên NSX còn được HĐND các cấp bổ sung thêm các nguồn thu phân chia sau khi
các khoản thuế, phí, lệ phí phân chia theo luật ngân sách nhà nước đã dành 100%
cho NSX và các khoản thu NSX được hưởng 100% nhưng vẫn chưa cân đối được
nhiệm vụ chi.
Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ % này được điều chỉnh theo từng giai
đoạn để phù hợp cho mỗi cấp ngân sách ở địa phương.
- Thu bổ sung cân đối từ ngân sách cấp trên cho ngân sách xã gồm: Thu bổ
sung để cân đối ngân sách là mức chênh lệnh giữa dự toán chi được giao và dự toán
thu từ các nguồn thu được phân cấp (gồm các khoản thu 100% và các khoản thu
phân chia theo tỷ lệ). Số bổ sung cân đối này được xác định từ đầu thời kỳ ổn định
ngân sách và được giao từ 3 đến 5 năm; Thu bổ sung có mục tiêu là các khoản bổ
sung theo từng năm để hỗ trợ xã thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể.
b. Về chi: HĐND cấp tỉnh quyết định phân cấp nhiệm vụ chi cho NSX. Căn
cứ vào chế độ phân cấp quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước, các chính sách, chế
độ về hoạt động của các cơ quan Nhà nước ở xã và nhiệm vụ phát triển kinh tế xã
hội của xã khi phân cấp nhiệm vụ chi cho ngân sách xã, HĐND tỉnh xem xét cho
NSX thực hiện các nhiệm vụ chi dưới đây:
* Chi thường xuyên: Là các khoản chi cho hoạt động của các cơ quan nhà
nước ở xã; chi cho công tác quốc phòng an ninh; chi cho công tác xã hội; chi hoạt
động văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, phát thanh truyền hình do xã quản lý; chi
17
hỗ trợ các hoạt động giáo dục, y tế thuộc trách nhiệm của chính quyền xã trên địa

bàn xã; chi sự nghiệp kiến thiết kinh tế; các khoản chi thường xuyên khác ở xã theo
quy định của pháp luật.
* Chi đầu tư phát triển: Là khoản chi để sử dụng vào các công việc như xây
dựng, cải tạo đường giao thông, công trình nước sạch, bảo vệ môi trường, các công
trình phúc lợi; chi để xây dựng sửa chữa các công trình văn hoá, thể thao, khu vui
chơi giải trí trên địa bàn xã. Ngoài ra khoản chi này còn được sử dụng để xây dựng,
sửa chữa, cải tạo trụ sở HĐND, UBND.
Các khoản chi đầu tư phát triển khác theo quy định của pháp luật. Khoản chi
này chủ yếu nhằm phục vụ các chức năng của cơ quan chính quyền ở địa phương
nhằm duy trì và phát triển hoạt động bình thường tại xã.
1.1.3.6. Những nguyên tắc cơ bản về quản lý ngân sách xã
a. Nguyên tắc đầy đủ: Điều 6 Luật ngân sách nhà nước quy định: “Tất cả
các khoản thu, chi của ngân sách Nhà nước phải được hạch toán kế toán, quyết
toán đầy đủ, kịp thời, đúng chế độ”. Thực hiện nguyên tắc trên tất cả các khoản thu
chi NSX đều phải được hạch toán đầy đủ vào ngân sách theo đúng Luật NSNN quy
định: Quản lý NSX đảm bảo cho các hoạt động thu, chi đúng chính sách chế độ quy
định, các khoản thu phải đảm bảo thu đúng, thu đủ, kịp thời và nộp đầy đủ vào ngân
sách nhà nước và hạch toán đúng mục lục ngân sách, đúng chế độ kế toán, đồng
thời khai thác triệt để mọi nguồn thu, bồi dưỡng phát triển các nguồn thu, phát triển
kinh tế xã hội ở xã, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển tạo thêm nhiều nguồn
thu mới cho ngân sách xã. Các khoản chi phải đúng chế độ, tiêu chuẩn định mức,
phải có dự toán được duyệt và được kiểm soát chi qua Kho bạc Nhà nước.
b. Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả: Việc sử dụng nguồn lực tài chính phải
tính đến hiệu quả kinh tế xã hội. Tăng cường kỷ luật tài chính, thực hiện tốt kiểm
soát chi một cách đồng bộ từ cơ chế chính sách, dự toán, phân bổ ngân sách đến
việc cấp phát ngân sách. Thực hiện tiết kiệm triệt để trong chi tiêu ngân sách nhất là
trong quản lý hành chính và chi đầu tư XDCB.
c. Nguyên tắc “Nhà nước và nhân dân cùng làm”: Cùng với sự hỗ trợ của
Nhà nước, phải đảm bảo động viên tối đa nguồn lực trong nhân dân để giảm nhẹ
18

gánh nặng cho NSNN và nâng cao trách nhiệm giám sát của nhân dân đối với chi
tiêu của NSNN nhất là trong chi đầu tư XDCB để xây dựng kết cấu hạ tầng nông
nghiệp, nông thôn, nông dân.
d. Nguyên tắc ổn định ngân sách và chính quyền cấp xã phải tự chiu trách
nhiệm trước pháp luật và Nhà nước về quản lý ngân sách: Tỷ lệ điều tiết và bổ sung
ngân sách được giao ổn định từ 3 đến 5 năm (gọi là thời kỳ ổn định ngân sách).
Trong những năm này chính quyền xã phải chủ động bố trí ngân sách, xây dựng dự
toán thu, chi trên cơ sở nhiệm vụ cấp trên giao và tiềm năng thế mạnh của xã, để
khai thác hiệu quả các nguồn thu, xây dựng phương án thu ngân sách hàng năm để
đáp ứng tốt các nhu cầu chi của xã nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của xã
trong năm và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về QLNS ở xã mình.
e. Nguyên tắc công khai tài chính ngân sách: Việc thực hiện công khai tài
chính phải được thực hiện theo Thông tư số 01/2002/TT-BTC Của Bộ Tài chính là
phải công khai dự toán, quyết toán thu trên địa bàn, tỷ lệ điều tiết, số thu bổ sung
ngân sách cấp trên, công khai chi tiết và kết quả hoạt động của các hoạt động tài
chính khác hàng năm của xã. Với các hình thức công khai là niêm yết tại trụ sở
UBND xã, thông báo trước kỳ họp HĐND xã, và gửi UBND cấp huyện, Phòng Tài
chính - Kế hoạch cấp huyện trực tiếp quản lý.
1.1.3.7. Trình tự lập, chấp hành và quyết toán ngân sách xã
a. Trình tự lập và căn cứ lập dự toán ngân sách xã
- Lập dự toán NSX là quá trình phân tích, đánh giá, tổng hợp nhằm xác lập
các chỉ tiêu thu, chi NSX dự kiến có thể đạt được kỳ kế hoạch xác lập các biện pháp
chủ yếu về kinh tế, tài chính và hành chính để đảm bảo cho việc thực hiện thắng lợi
các chỉ tiêu đó.
- Các căn cứ chủ yếu để lập dự toán ngân sách xã :
+ Căn cứ nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn xã kỳ kế hoạch.
Hàng năm phải dựa vào mức tăng trưởng của mỗi ngành nghề để dự đoán mức độ
gia tăng của mỗi nguồn thu cho NSX.
+ Căn cứ những quy định chung về phân cấp quản lý kinh tế xã hội và phân
cấp quản lý NSNN hiện đang có hiệu lực.

19
+ Căn cứ các luật, pháp lệnh thuế, chế độ thu về phí, lệ phí, chế độ tiêu
chuẩn, định mức chi ngân sách do cấp có thẩm quyền quy định, các chế độ, chính
sách hiện hành làm cơ sở lập dự toán chi NSNN năm.
+ Căn cứ vào tình hình thực hiện dự toán NSX năm báo cáo và các năm
trước đó để thống kê và phát hiện ra những hiện tượng trong quá trình quản lý thu,
chi NSX thường xuyên xảy ra.
- Trình tự lập dự toán ngân sách xã:
+ Tiếp nhận số kiểm tra và các văn bản hướng dẫn lập dự toán ngân sách do
cơ quan hành chính nhà nước cấp trên giao.
+ Lập dự toán thu ngân sách xã.
+ Lập dự toán chi ngân sách xã.
b. Chấp hành dự toán ngân sách xã
Chấp hành dự toán ngân sách là quá trình sử dụng tổng hoà các biện pháp
kinh tế, tài chính, hành chính biến các chỉ tiêu đã được ghi trong dự toán trở thành
hiện thực. Trước hết phải căn cứ dự toán NSX và phương án phân bổ NSX cả năm
đã được HĐND xã quyết định, UBND xã phân bổ chi tiết dự toán chi NSX theo
mục lục NSNN, gửi Kho bạc Nhà nước nơi giao dịch để làm căn cứ thanh toán và
kiểm soát chi.
* Chấp hành thu ngân sách xã
- Tổ chức thu Ngân sách xã theo dự toán được giao theo các bước sau:
+ Ban tài chính xã có nhiệm vụ phối hợp với cơ quan thuế, đảm bảo thu
đúng, thu đủ và thu kịp thời.
+ Đơn vị, cá nhân có nghĩa vụ nộp ngân sách, căn cứ vào thông báo thu của
cơ quan thu hoặc của ban tài chính xã, lập giấy nộp tiền đến Kho bạc Nhà nước để
nộp trực tiếp vào NSNN.
- Trường hợp đối tượng phải nộp ngân sách không có điều kiện nộp tiền trực
tiếp vào NSNN tại Kho bạc theo chế độ quy định thì:
+ Đối với các khoản thu thuộc nhiệm vụ thu của cơ quan thuế, cơ quan thuế
thu, sau đó lập giấy nộp tiền vào Kho bạc nhà nước. Trường hợp cơ quan thuế uỷ

20
quyền cho Ban tài chính xã thu, thì cũng thực hiện theo quy trình trên và được
hưởng phí uỷ nhiệm thu theo chế độ quy định.
+ Đối với các khoản thu thuộc nhiệm vụ thu của Ban tài chính xã, Ban tài
chính xã thu, sau đó lập giấy nộp tiền vào Kho bạc Nhà nước hoặc nộp vào quỹ của
ngân sách xã để chi theo chế độ quy định nếu là các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa
chưa có điều kiện giao dịch với Kho bạc Nhà nước.
- Trường hợp cơ quan có thẩm quyền quyết định phải hoàn trả khoản thu
NSX, Kho bạc Nhà nước xác nhận số tiền đã thu vào NSX của các đối tượng nộp
trực tiếp hoặc Chuyển khoản vào Kho bạc, đối với đối tượng nộp qua cơ quan thu
thì cơ quan thu xác nhận để Ban Tài chính xã làm căn cứ hoàn trả.
* Chấp hành chi ngân sách xã
- Trách nhiệm của tập thể, cá nhân trong việc quản lý chi NSX:
+ Đối với các tổ chức, đơn vị thuộc xã chi đúng dự toán giao, đúng chế độ,
tiêu chuẩn, định mức, đúng mục đích, đối tượng và tiết kiệm có hiệu quả; Lập dự
toán sử dụng kinh phí hàng quý (có chia tháng) gửi Ban Tài chính xã. Khi có nhu
cầu chi làm thủ tục đề nghị Ban tài chính xã rút tiền tại Kho bạc Nhà nước hoặc quỹ
tại xã để thanh toán; Chấp hành đúng quy định pháp luật về kế toán, thống kê và
quyết toán sử dụng kinh phí với Ban Tài chính xã và công khai kết quả thu chi của
tổ chức, đơn vị.
+ Đối với Ban Tài chính xã: Thẩm tra nhu cầu sử dụng kinh phí của các tổ
chức, đơn vị, bố trí theo nguồn dự toán năm và dự toán quý để đáp ứng nhu cầu chi,
trường hợp nhu cầu chi lớn hơn thu trong quý cần có biện pháp đề nghị cấp trên
tăng tiến độ cấp bổ sung hoặc tạm thời sắp xếp lại nhu cầu chi phù hợp với nguồn
thu, theo nguyên tắc đảm bảo chi lương, có tính chất lương đầy đủ, kịp thời; Kiểm
tra giám sát thực hiện chi ngân sách, sử dụng tài sản của các tổ chức, đơn vị sử dụng
ngân sách, phát hiện và báo cáo đề xuất kịp thời Chủ tịch UBND xã về những vi
phạm chế độ, tiêu chuẩn, định mức để có biện pháp đảm bảo thực hiện đúng mục
tiêu và tiến độ quy định.
+ Đối với Chủ tịch UBND xã hoặc người được uỷ quyền quyết định chi:

Việc quyết định chi phải theo đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi trong phạm vi
21
dự toán được phê duyệt và người ra quyết định chi phải chịu trách nhiệm về quyết
định của mình.
- Việc thực hiện chi ngân sách phải đảm bảo các nguyên tắc:
+ Đã được ghi trong dự toán được giao, trừ trường hợp dự toán và phân bổ
dự toán chưa được cấp có thẩm quyền quyết định và chi từ nguồn tăng thu, nguồn
dự phòng ngân sách.
+ Đúng chế độ tiêu chuẩn, định mức quy định.
+ Được chủ tịch UBND xã hoặc người uỷ quyền quyết định chi.
c. Kiểm tra, quyết toán ngân sách xã : Quyết toán NSX là
công việc cuối cùng của chu trình quản lý NSX bao gồm: Quyết
toán thu và quyết toán chi ngân sách.
- Hàng năm Ban Tài chính và NSX có trách nhiệm lập báo cáo quyết toán
thu, chi NSX trình UBND xã xem xét để trình HĐND xã phê chuẩn, đồng thời gửi
Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện; Phòng Tài Chính - Kế hoạch có trách nhiệm
kiểm tra báo cáo quyết toán thu, chi NSX, nếu có sai sót phải báo cáo với UBND
huyện, yêu cầu HĐND xã điều chỉnh.
- Ban Tài chính xã có trách nhiệm thực hiện công tác hạch toán kế toán và
quyết toán NSX theo mục lục NSNN và chế độ kế toán NSX hiện hành (theo
Quyết định số 141/2001/QĐ-BTC ngày 21/12/2001 của Bộ Trưởng Bộ Tài Chính
về việc ban hành chế độ kế toán ngân sách và tài chính xã; Quyết định
208/2003/QĐ-BTC ngày 15/12/2003 của Bộ Trưởng Bộ Tài Chính về việc sửa
đổi bổ sung một số điểm chế độ kế toán ngân sách và tài chính xã ban hành theo
Quyết định 141/2001/QĐ-BTC ngày 21/12/2001). Thời gian chỉnh lý quyết toán
NSX hết ngày 31/01 năm sau.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Kinh nghiệm quản lý ngân sách nhà nước trên thế giới
1.2.1.1. Kinh nghiệm quản lý NSNN của tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc)
Tỉnh Quảng Đông nằm ở phía Đông Nam Trung Quốc, có đường biên giới

tiếp giáp với tỉnh Quảng Ninh (Việt Nam), diện tích 480 ngàn km
2
, dân số 80 triệu
22

×