Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM SAU MỘT NĂM RA NHẬP WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.39 KB, 49 trang )

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA
VIỆT NAM SAU MỘT NĂM RA NHẬP WTO
1. Xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam qua các thời kỳ
1.1. Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản
Thời kỳ 2002 - 2007, xuất khẩu hàng nông sản đã đạt được bước tiến đáng
khích lệ. Kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này (không kể thủy sản) đạt khoảng
5.5 tỷ USD và tăng đều qua các năm, cùng với đó các mặt hàng nông sản xuất
khẩu cũng đa dạng hơn:
Bảng 5: Biểu xuất khẩu một số mặt hàng nông sản của Việt Nam (Triệu USD)
Năm
Mặt hàng
2003 2004 2005 2006 2007
Gạo 564 263 1291 2024 3035
Cà phê 601 1211 1490 1594 2691
Cao su 190 654 785 1012 1165
Chè 614 726 748 1050 1546
Điều 426 844 1133 1017 1293
Hồ tiêu 318 415 463 564 838
Nguồn: Niên giám thống kê 2007
Bảng 6: Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam từ năm 2002 - 2007
Năm
Chỉ tiêu
Đơn vị 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Kim ngạch xuất khẩu hàng
nông sản
Triệu
tấn
3.24 3.92 4.06 5.23 5.37 5.46
Triệu
USD
608 693 859 1390 1450 1500


Nguồn: Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của ta mới chỉ đạt 3.24 triệu
tấn tương đương với 608 triệu USD, nhưng những năm tiếp theo, kim ngạch xuất
khẩu mặt hàng này đã tăng rất nhanh đặc biệt là sau một năm vào WTO, kim
ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam đã lên tới 5.46 triệu tấn tương ứng
với 1500 triệu USD.
Năm 2004, hầu hết các mặt hàng nông sản chủ lực đều tăng mạnh cả về sản
lượng và kim ngạch xuất khẩu: gạo tăng 23%, cà phê tăng 33%, cao su tăng 31%,
chè tăng 31%…Tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt khoảng 4 tỷ USD tăng 30% so
với năm 2003. Ngành chế biến điều lần đầu tiên đạt tới con số 100.000 tấn nhân
điều xuất khẩu/năm và kim ngạch 400 triệu USD/năm. Xuất khẩu gạo cũng thuận
lợi, sản lượng lúa cả năm của cả nước tăng thêm trên 1.2 triệu tấn. Sau khi Chính
phủ cho phép tiếp tục xuất khẩu gạo, các doanh nghiệp đã ký thêm được nhiều
hợp đồng với các nước châu Phi và một số nước trong khu vực như Malaysia,
Philippines... Cộng giá xuất khẩu gạo tăng cao nên tổng sản lượng xuất khẩu 3.9
triệu tấn (tương đương với năm 2003) nhưng kim ngạch xuất khẩu tăng gần 23%,
đạt trên 900 triệu USD. Bên cạnh đó, một số mặt hàng nông sản quan trọng khác
như hồ tiêu, cao su, chè cũng đang thuận lợi về giá cả và thị trường để đạt kim
ngạch tăng trưởng khá. Riêng mặt hàng cà phê, mặc dù giá xuống thấp nhưng do
sản lượng xuất khẩu cả năm tăng gần 40% (đạt khoảng 900000 tấn), nên kim
ngạch xuất khẩu cà phê vẫn tăng trên 30%. Xuất khẩu chè cũng đạt sản lượng
900000 tấn (tăng 300.000 tấn so với năm 2003) và đạt kim ngạch gần 90 triệu
USD.
Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng nông sản chủ lực
đều tăng mạnh mà yếu tố chi phối lớn nhất là giá xuất khẩu và sản lượng đạt
được. Cụ thể, lượng gạo xuất khẩu cả năm 2005 đạt gần 5.2 triệu tấn - mức cao
nhất từ trước tới nay, đạt giá trị khoảng 1.39 tỷ USD, tăng 27.1% về lượng và đến
45.5% về giá trị. Điểm nhấn chính là giá xuất khẩu tăng mạnh, bình quân đạt mức
268 USD/tấn, tăng 14.4% so với năm 2004. Ngoài các thị trường truyền thống
như Cu Ba và Philipines chiếm trên 40% tổng lượng xuất khẩu, các thị trường

khác cũng có những chuyến biến tích cực như Nhật Bản tăng 4 lần, Nam Phi tăng
4 lần…Riêng mặt hàng cao su năm nay đã vươn lên vị trí thứ 2 với mức 772 triệu
USD khi xuất khẩu được 564000 tấn, tăng 10% về lượng và 29.4% giá trị.
Tiếp theo vẫn là các mặt hàng truyền thống như hạt điều với lượng xuất khẩu
103000 tấn và giá trị đạt 481 triệu USD (tăng trên 10%), hạt tiêu với lượng 106000
tấn và giá trị 146 triệu USD, rau quả đạt giá trị kim ngạch gần 235 triệu USD và
tăng 31,1% so với năm 2004, riêng mặt hàng lâm sản đạt 1.74 tỷ USD và tăng
44.2% so với nắm trước.
Sau một năm gia nhập WTO, năm 2007, xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt kết
quả cao với tổng giá trị xuất khẩu ước đạt 12.6 tỷ USD, tăng 20% so với năm
2006, chiếm 25% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước và vượt mục tiêu đề ra cho
năm 2010 tới 1.5 tỷ USD. Hầu hết các mặt hàng nông sản đều được giá nên giá
trị xuất khẩu tăng mạnh với nhiều mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu 1 tỷ USD trở
lên như thủy sản, gạo, cà phê, cao su, sản phẩm gỗ. Trong đó kim ngạch nông
sản ước đạt khoảng 6.2 tỷ USD, so với kế hoạch tăng 26.7%, so với năm trước
tăng 22.5%. Trong năm 2007, cả nước có 9 mặt hàng có giá trị kim ngạch xuất
khẩu trên 1 tỷ USD, ngành nông nghiệp chiếm 5 mặt hàng. Các mặt hàng xuất
khẩu nông sản chủ lực như ( gạo, cao su, cà phê, tiêu, điều) đều đang đứng vị trí
hạng cao và có thế mạnh cạnh tranh trên thế giới, đem lại kim ngạch xuất khẩu
lớn. Về tốc độ tăng trưởng kim ngạch năm nay của các mặt hàng nông sản so với
năm trước, mặt hàng cà phê có tốc độ tăng cao nhất với mức tăng gần 50%. Năm
2007, lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu cà phê vượt qua mặt hàng gạo. Cà phê là
mặt hàng về đích sớm với khoảng 1.8 tỷ USD, tăng gần 50% so với năm 2006.
Mặt hàng gỗ chế biến đạt khoảng 2.34 tỷ USD, tăng 21% so với năm 2006, cao su
trên 1.4 tỷ USD, tăng 10%, gạo là 1.48 tỷ USD, tăng 16%, trong khi đó thủy sản
vẫn dẫn đầu với mốc 3.75 tỷ USD. Ngoài ra, hàng loạt nông sản khác cũng được
cải thiện đáng kể về chất lượng, giá trị mà đáng chú ý nhất là hồ tiêu với giá xuất
khẩu bình quân 3500 USD/tấn, vì vậy, dù lượng xuất khẩu năm 2007 giảm khoảng
15% so với năm 2006, nhưng kim ngạch vẫn đạt 300 triệu USD, tăng 57.9%.
Những nỗ lực của ngành chè trong việc đầu tư phát triển các cơ sở công nghiệp

chế biến theo quy hoạch, tăng nhanh tỷ lệ các sản phẩm chè tinh chế, có chất
lượng cao đã cải thiện đáng kể giá chè xuất khẩu của Việt Nam với mức tăng
khoảng 25%, tương ứng với 270 - 280 USD/tấn. Kim ngạch xuất khẩu đạt 130
triệu USD, tăng 18%. Ước xuất khẩu tháng 12 năm 2007 đạt 60 ngàn tấn, kim
ngạch đạt trên 29 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước tăng 35% về lượng và 2.1
lần về giá trị. Lượng gạo xuất khẩu năm 2007 ước đạt 4.5 triệu tấn, kim ngạch
1.46 tỷ USD, so với năm 2006 giảm 30% về lượng, nhưng tăng 14.4% về giá trị.
Khoảng cách giá gạo xuất khẩu của Việt Nam với Thái Lan đã thu hẹp, có thời
điểm đạt ngang giá. Giá gạo xuất khẩu bình quân năm 2007 đạt khoảng 300
USD/tấn, tăng 17.5% so với năm trước. Được biết, giá gạo trên thế giới đang tăng
do cầu lớn hơn cung, do đó giá lúa trong nước năm nay cũng sẽ tăng lên khoảng
4000 đồng/kg, tăng 800 đồng/kg so với năm 2007. Lượng điều xuất khẩu năm
2007 ước đạt 150 ngàn tấn, kim ngạch đạt 641 triệu USD, so với năm trước tăng
18% về lượng và tăng 27% về giá trị. So với kế hoạch năm, điều xuất khẩu vượt
43% về lượng và 28% về kim ngạch. Để đạt mức xuất khẩu trên, ngành điều đã
phải nhập lượng điều thô lớn để đáp ứng cho chế biến xuất khẩu. Giá hạt điều
xuất khẩu bình quân năm 2007 đạt khoảng 4274 USD/tấn, cao hơn năm 2006 là
8%, năm 2005 là 11%.
Năm 2007, hầu hết các mặt hàng nông sản đều lên ngôi, trong đó 6 mặt
hàng gạo, cao su, cà phê, điều, tiêu, rau quả đạt kim ngạch xuất khẩu gần 6 tỷ
USD, chiếm 47.23% tổng giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản, tăng gần 30% so
với năm 2006.
Để phục vụ cho xuất khẩu, nhiều vùng nông sản xuất khẩu tập trung quy mô
lớn đã được hình thành như gạo và hoa quả tại khu vực Đồng bằng sông Cửu
Long, cà phê tại khu vực Tây Nguyên và Lâm Đồng là chè, rau quả. So với năm
2005, tới nay hầu hết các mặt hàng nông sản xuất khẩu đều có sự gia tăng khá về
sản lượng và lượng xuất khẩu, như gạo tăng thêm khoảng 2 triệu tấn, cà phê và
hạt điều tăng hơn 4 lần, cao su tăng hơn 3 lần, điều này thể hiện rõ sự chuyển
dịch cơ cấu sản xuất hướng về xuất khẩu.
Cùng với sự gia tăng về lượng xuất khẩu, thị trường xuất khẩu hàng nông

sản cũng được mở rộng đáng kể. Từ chỗ chỉ phụ thuộc chủ yếu vào thị trường
Liên Xô cũ và Đông Âu vào những năm 1990, đến nay, hàng nông sản Việt Nam
đã có mặt trên 100 quốc gia, trong đó có các thị trường lớn như Trung Quốc, Nhật
Bản, EU, ASEAN, Mỹ.
Trên thực tế, một số mặt hàng nông sản đã chiếm giữ được vị thế quan trọng
như gạo đứng thứ 2 sau Thái Lan, cà phê đứng thứ 2 sau Brazil, hạt tiêu đứng
thứ 3 sau Ấn Độ và Indonesia, nhưng thị phần các mặt hàng này vẫn còn khiêm
tốn, đối với các mặt hàng như thịt và rau quả thị phần hầu như không đáng kể.
Hiện mặt hàng gạo mới chiếm khoảng 20 - 25% thị phần thị trường gạo, cà phê
chiếm khoảng 15 - 20% thị phần thương mại cà phê, hạt tiêu chiếm 30% thị phần
mậu dịch hạt tiêu và hạt điều chiếm khoảng 25% thị phần hạt điều thế giới. Còn
cao su và chè chỉ chiếm khoảng 10% thị phần thế giới. Ở Đồng bằng sông Cửu
Long có trái ngon, nhiều loại đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, nhưng năng suất kém, độ
đồng đều thấp, không đủ số lượng để đưa ra thị trường thế giới, nhất là công
nghệ sau thu hoạch gần như bị bỏ quên.
Đồng bằng sông Cửu Long, mỗi năm sản lượng lương thực đạt khoảng 20
triệu tấn nhưng công suất hệ thống kho chứa bảo quản trong toàn vùng chỉ đạt
35000 tấn. Số lượng còn lại đều do nông dân tự lo. Yếu tố này đã làm hao hụt một
lượng khá lớn nông sản. Theo ước tính của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn, hiện thất thoát nông sản dạng hạt bình quân vào khoảng 18%/năm, dạng
quả và củ trên 22%/năm. Đây là tỷ lệ khá cao so với mức hao hụt bình quân 10%
của các nước trong khu vực. Các chuyên gia nông nghiệp đã ước tính, chỉ cần
giảm mức hao hụt nông sản sau thu hoạch xuống 10% thì có thể tăng sức cạnh
tranh lên 7% và nông dân tăng thu nhập hơn 3%.
Trong thời kỳ vừa qua, Việt Nam được mùa về xuất khẩu các mặt hàng nông
sản với kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh, các mặt hàng nông sản xuất khẩu ngày
càng đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng các mặt hàng nông sản
xuất khẩu cũng được nâng cao...Tuy nhiên, theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn, nhìn một cách tổng quát thì nền nông nghiệp của nước ta vẫn có
năng suất,chất lượng và hiệu quả cạnh tranh thấp so với nhiều nước trên thế giới.

Việc thực hiện chủ trương nâng cao năng xuất, chất lượng, hạ giá thành, tăng sức
cạnh tranh của các sẩn phẩm nông lâm thủy sản chưa được nhiều. Vấn đề dịch
bệnh trên cây trồng, gia xúc, gia cầm vệ sinh an toàn thực phẩm đang đặt ra nhiều
bức xúc, thêm vào đó thời tiết diễn biến hết sức phức tạp đã gây ra nhiều khó
khăn cho nông nghiệp. Nhằm khắc phục từng bước những vấn đề còn đang tồn
tại trong những năm vừa qua, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã đưa ra
nhóm nhiệm vụ cấp bách cần tập trung chỉ đạo trong năm 2008 và những năm tới
để đạt mục tiêu năm 2008 kim ngạch xuất khẩu đạt 13.5 tỷ USD. Theo đó, diện
tích đất nông nghiệp trồng cây lương thực như (lúa, ngô...) sẽ tiếp tục giảm do
chuyển đổi mục đích sử dụng nên công tác giống, phòng chống sâu bệnh được
đặt lên hàng đầu để sản lượng của 7.25 triệu ha lúa đạt 36 - 36.5 triệu tấn, sản
lượng ngô đạt 5 triệu tấn. Các loại cây công nghiệp chủ lực như ( cà phê, cao su,
chè, mía, điều...) duy trì diện tích hiện tại, chỉ phát triển mới ở những khu vực có
điều kiện thuận lợi, tập trung chủ yếu vào cải tạo, đưc ác giống mới để cải thiện
năng suất, chất lượng. Diện tích các loại cây ăn quả đặc sản sẽ được mở rộng
theo hướng xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung, thực hiện quy trình sản xuất
GAP với diện tích dự kiến khoảng 800000 ha. Trên cơ sở nhận diện những điều
kiện thuận lợi và hạn chế sau một năm gia nhập WTO, Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn xác định tiếp tục xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng
hóa có năng xuất, chất lượng, hiệu quả và có sức cạnh tranh cao gắn với hội
nhập kinh tế quốc tế.
1.2. Thị trường xuất khẩu hàng nông sản
Trong quá trình đổi mới về kinh tế, nông nghiệp là lĩnh vực đạt được những
thành tựu hết sức to lớn. Sản xuất lương thực, chăn nuôi, rau quả và cây công
nghiệp đều có những bước phát triển mạnh mẽ. Liên tục trong nhiều năm, nông
nghiệp đạt mức tăng trưởng trên 4.5%/năm. Cùng với việc đáp ứng ngày càng tốt
hơn yêu cầu thị trường nội địa, xuất khẩu nông sản cũng tăng nhanh cả về sản
lượng và kim ngạch.
Thị trường xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong những năm qua đã được
mở rộng đáng kể, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế

giới WTO. Ngoài các thị trường truyền thống như Trung Quốc, ASEAN, Nga, các
nước Đông Âu, hàng hóa nông sản Việt Nam bước đầu đã thâm nhập vào những
thị trường đầy tiềm năng và cũng rất khó tính như EU, Mỹ, Châu Phi...
Sau đây là thị trường xuất khẩu một số mặt hàng nông sản của Việt Nam:
Thị trường xuất khẩu cà phê:
Bảng 7: Thị trường xuất khẩu cà phê
Thị trường xuất khẩu Đức Mỹ Anh Bỉ Italia Nhật
Thị phần (%) 17.8 13.8 12.7 7.3 5.6 3.2
Nguồn: Thời báo kinh tế 2007
Về xuất khẩu cà phê, Việt Nam đã mở rộng thị trường xuất khẩu sang nhiều
nước trên thế giới, nhất là khi vào WTO như: Đức: 17.8%; Mỹ: 13.8%; Anh:
12.7%; Bỉ: 7.3%; Tâ; Nhật: 3.2%...Tuy nhiên điểm đáng yếu nhất của việc xuất
khẩu cà phê Việt Nam là chất lượng cà phê. Trong thời gian qua, chất lượng cà
phê của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu của thị trường bên ngoài như: Nhật, EU, Mỹ…Điều này làm cho giá cà phê
của Việt Nam thường thấp hơn so với các mặt hàng cùng loại với nước ngoài.
Mặt khác, chủng loại cà phê xuất khẩu ta vẫn chưa phù hợp với thị hiếu tiêu dùng
trên thế giới. Hiện nay, thị trường thế giới có nhu cầu lớn về cà phê ARABICA
chiếm 70 - 80% nhưng diện tích cà phê ở Việt Nam lại chiếm tới 65% là cà phê
Rubusta. Vì vậy, trong thời gian tới, Việt Nam cần phải chuyển đối cơ cấu cà phê
cho phù hợp với nhu cầu trên thế giới.
Thị trường xuất khẩu rau quả:
Bảng 8: Thị trường xuất khẩu rau quả 12/2007
Thị trường
T12/07
(USD)
So T11/07
(%)
So T12/06
(%)

12 T/07
(USD)
So 12T/06
(%)
Trung Quốc 2367719 7.72 -40.58 24614107 -29.56
Nhật 2248131 -6.51 15.39 27572623 -4.89
Mỹ 1984159 3.81 3091 18400506 39.87
Nga 1732790 12.29 -10.88 22070119 23.81
Đài Loan 1592824 -13.78 -21.56 27156778 1.07
Singapore 804293 21.95 -2.94 7916870 19.59
Đức 461268 28.84 4100 2948459 -19.05
Anh 276689 38.73 -3.29 2579913 28.81
Nam phi -100.00 570248 -56.10
Ấn độ 2889118 92.32
Malaixia 355877 74.91 0.81 4196830 -0.84
Nguồn: Niên giám thống kê
Xuất khẩu ra quả của nước ta những năm qua tăng mạnh, theo số liệu Hải
quan thì trong thang 12/2007, xuất khẩu rau quả cả nước đạt 20.95 triệu USD.
Như vậy, trong năm 2007, kim ngạch xuất khẩu rau quả của nước ta đạt 259.08
triệu USD, tăng 10.02% so với năm 2006 và tăng 44.865 so với năm 2005.
Trong tháng 12/2007, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu rau quả lớn nhất
của Việt Nam, với kim ngạch đạt 2.36 triệu USD, tăng trên 7% so với thang
11/2007. Cũng trong thời gian này, xuất khẩu rau quả của nước ta sang các nước
khác cũng tăng mạnh như: Nga, Singapore, Anh, Mỹ, Nhật…
Nhật, Đài loan, Trung quốc. Nga, Mỹ là năm thị trường xuất khẩu rau quả lớn
nhất của Việt Nam. Trong đó, thị trường Nga có tốc độ tăng trưởng khá cao, lần
lượt tăng 23.7% và tăng 39.8% so với năm 2006, còn thị trường Trung quốc giảm
gần 30% so với năm 2006.
Thị trường xuất khẩu gao:
Philippine, Malaysia, Cuba, Indonexia và Bờ Biển Ngà lần lượt là năm thị

trường nhập khẩu gạo lớn nhất trong năm 2006 của nước ta. Riêng xuất khẩu tới
Philippin đã đạt hơn 1.5 triệu tấn, gần bằng 1/3 trong tổng lượng gạo xuất khẩu
của Việt Nam, và cao hơn hẳn (gấp 3 lần) so với khối lượng xuất khẩu tới thị
trường lớn tiếp theo là Malaixia. Tuy nhiên, giá xuất khẩu tới Philippin trong năm
qua không được cao, trong khi khối lượng xuất khẩu tăng 15% so với năm 2005
thì kim ngạch thu được lại giảm hơn 7%. Trong khi đó, xuất khẩu sang Indonexia
đạt mức tăng trưởng cao, tăng tới 245.8% về lượng và tăng tới 283.1% về trị giá
so năm 2005. Ngược lại, xuất khẩu sang Bờ Biển Ngà lại giảm 35.3% về lượng và
giảm 31.7% về trị giá so năm 2005..
Ngoài ra, xuất khẩu gạo của ta trong năm 2006 sang một số thị trường như
Thổ Nhĩ Kỳ, Irắc, Đài Loan, Georgia, Litva, Mỹ…cũng tăng mạnh. Ngược lại, xuất
khẩu sang Etiôpia, Hà Lan, Xenegan, Modambic…lại giảm khá mạnh so năm
2005.
Bảng 9: Thị trường xuất khẩu gạo năm 2006
Thị trường
Năm 2006 So 2005
Lượng (tấn) Trị giá (USD)
Lượng
(%)
Trị giá (%)
Philippine 1509854 429249075 14.97 -7.15
Malaixia 504622 139550798 11.59 19.92
Cuba 453100 131240402 6.89 -4.37
Inđônêxia 339830 104616910 245.81 283.10
Bờ Biển Ngà 213550 5114867 -35.32 -31.70
Angola 181708 47547856 -10.83 -11.30
Nhật Bản 165222 43095581 -16.06 -19.33
Ghana 115718 28538890 63.11 64.33
Nam Phi 104653 24907944 -58.58 -56.56
Singapore 103151 26753028 147.97 154.87

Trung Quốc 43218 12442030 -10.49 3.98
Đài Loan 9132 2383100 966.82 614.17
Nguồn: Viện chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn
Về chủng loại xuất khẩu:
Gạo 5% tấm, 25% tấm, 15% tấm…tiếp tục là những chủng loại xuất khẩu
nhiều nhất của nước ta trong năm 2006. So với năm 2005, xuất khẩu gạo 5% tấm
và 15% tấm tăng lần lượt về lượng là 13.10% và 5.91%; về trị giá là 17.12% và
4.85%; chủ yếu xuất sang các thị trường Malaysia, Angola, Bờ Biển Ngà, Cuba,
Indonexia, Philipine. Ngược lại, xuất khẩu gạo 25% đã giảm 9.50% về lượng và
giảm 5.89% về trị giá so với năm 2005.
Trong năm 2006, bên cạnh việc xuất khẩu một số chủng loại như gạo tám,
gạo 35% tấm, gạo thơm 100% tấm…có mức tăng trưởng khá cao, thì xuất khẩu
các loại như gạo giống Nhật 5% tấm, gạo lứt, gạo 10% tấm lại giảm so năm 2005.
Bảng 10: Chủng loại gạo xuất khẩu trong năm 2006
Chủng loại
Năm 2006 So với năm 2005
Lượng (tấn) Trị giá (USD) Lượng (%) Trị giá (%)
Gạo 5% tấm 1567535 410989013 13.10 17.12
Gạo 25% tấm 1322833 369360849 -9.50 -5.89
Gạo 15% tấm 1314061 363537289 5.91 4.85
Gạo 100% tấm 75696 15826093 -58.52 -58.46
Gạo 10% tấm 68688 19005308 -65.65 -67.13
Gạo 20% tấm 66401 17796727 36.71 50.03
Gạo nếp 10% tấm 65250 25696103 8.94 63.62
Gạo thơm 5% tấm 38481 12474986 -9.92 -4.65
Gạo tám 17897 3740888 2104.04 1695.96
Gạo 35% tấm 8789 2083548 796.84 781.89
Gạo nếp 5% tấm 4633 1792657 -40.64 -19.96
Nguồn: Viện chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn
Khác với không khí trầm lắng cũng những tháng đầu năm 2006, từ giữa

tháng 5 trở lại đây, thị trường gạo xuất khẩu của Việt Nam đã sôi động hẳn. Hiện
nay, xuất khẩu mặt hàng gạo đã đạt 50% mục tiêu về khối lượng và trên 50% mục
tiêu về kim ngạch xuất khẩu.Viện Nghiên cứu Thương mại cho biết, trong 6 tháng
đầu năm 2006, xuất khẩu gạo đạt 2.94 triệu tấn, kim ngạch đạt 795 triệu USD,
tăng 7,8% về khối lượng và 4.3% về kim ngạch xuất khẩu. Trong đó, Châu Á là thị
trường xuất khẩu lớn nhất của nước ta, hiện chiếm tới 75% lượng gạo xuất khẩu
của cả nước.Sau một thời gian chuyển sang mua gạo của Pakistan, các khách
hàng Châu Phi đã quay lại với nguồn cung ứng từ Việt Nam. Philippines cũng
đang có kế hoạch mua thêm 100 nghìn tấn gạo Việt Nam để đảm bảo nguồn cung
cho thị trường trong 3 tháng giáp hạt sắp tới. Đặc biệt, mới đây, vụ trúng thầu xuất
khẩu 50000 tấn gạo loại 5% tấn với giá tới 270 USD/tấn (giá FOB) vào thị trường
Iraq cũng góp phần làm "nóng" thêm bầu không khí thu mua, chế biến, xuất khẩu
gạo ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long.Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam tiếp
tục đà tăng mạnh do nhu cầu nhập khẩu gạo Việt Nam từ một số thị trường có xu
hướng tăng.
Đến cuối tháng 9/2007, cả nước xuất khẩu được 3.7 triệu tấn, còn 800000
tấn, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam (VN) đạt bình quân 293 USD/tấn, tăng 42
USD/tấn so với năm 2006. Điều đáng nói, lần đầu tiên, giá gạo VN xuất khẩu
ngang bằng với gạo Thái Lan cùng cấp các loại, từ 5% tấm, 10%, 15% đến 20%
tấm, và mới đây, gạo loại 25% tấm của VN đã trúng thầu cao hơn gạo Thái Lan
8USD/tấn. Giá trúng thầu rất cao 350 USD/tấn, so với Thái Lan là 342 USD/tấn.
Năm 2008, do giá gạo 5% tấm xuất khẩu tăng từng ngày và các hợp đồng
đăng ký có thời hạn giao hàng trong tháng 2/2008 đến nay số lượng đã nhiều
trong lúc thời vụ thụ hoạch đông xuân mới bắt đầu, Hiệp hội Lương thực Việt Nam
vừa đề nghị các Doanh Nghiệp thành viên tạm ngừng đăng ký tiếp các hợp đồng
gạo trắng các loại có thời hạn giao hàng trong tháng 2/2008 để chờ những mức
giá tốt hơn. Riêng nếp và gạo thơm cho đăng ký bình thường. Các hợp đồng có
thời hạn giao hàng từ tháng 3/2008 chờ hướng dẫn mới của Bộ Công thương.
Thời gian qua, việc ký kết, đấu thầu xuất khẩu gạo của các Doanh Nghiệp Việt
Nam cũng khá thuận lợi khi các Doanh Nghiệp vừa trúng thầu xuất khẩu 300000

tấn gạo sang Philippines, nâng tổng số lượng gạo đã ký hợp đồng xuất khẩu ra
nước ngoài trong năm nay lên hơn 700000 tấn. Tính đến giữa tháng 2, các Doanh
Nghiệp đã xuất khẩu được khoảng 160000 tấn gạo với mức giá tốt.
Còn đây là một số thị trường lớn của nông lâm sản xuất khẩu Việt Nam:
Bảng11: Thị trường xuất khẩu nông sản của Việt Nam (Triệu USD/năm)
Thị trường
xuất khẩu
Trung
Quốc
ASEAN
Trung
Đông
EU
Nga, Đông
âu
Mỹ Nhật
Kim ngạch
xuất khẩu
400-500 500 200 300-350 5060 100 40- 50
Nguồn: Tạp chí Thương mại 2006 - 2007
Trung Quốc (cả Hồng Kông): Với dân số hơn 1.3 tỷ người, hằng năm Trung
Quốc nhập khẩu một khối lượng nông sản rất lớn để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
trong nước. Các loại nông sản Việt Nam nhập khẩu vào thị trường Trung Quốc
bao gồm: cao su, cà phê, hạt điều, rau quả, gạo, hồ tiêu, dầu thực vật...Trong đó
nhóm hàng cao su, rau quả và hạt điều chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất
nhập khẩu hàng nông sản giữa hai nước. Đây là thị trường lớn, gần, tiêu thụ rất
nhiều loại nông sản, thị hiếu gần với sản phẩm của nước ta. Kim ngạch xuất sang
Trung Quốc thường đạt khoảng 400 - 500 triệu USD/năm. Chủ yếu là cao su trên
100.000 tấn; gạo từ vài chục ngàn tấn đến vài trăm ngàn tấn; hạt điều khoảng
10.000 tấn, rau quả các loại trên 100 triệu USD, sản phẩm chăn nuôi...

Các nước ASEAN: Gần nước ta về địa lý, nên nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng
nông sản gần gũi với Việt Nam. Gạo là mặt hàng chính xuất sang 3 nước:
Indonesia, Malaysia và Philippines từ 1 triệu tới 3 triệu tấn. Các mặt hàng khác:
cao su, hồ tiêu, hạt điều, cà phê...xuất sang các nước này chủ yếu qua trung gian
Singapore, Thái Lan...Tổng kim ngạch xuất khẩu sang ASEAN đạt gần 500 triệu
USD.
Các nước Trung Đông: (Iraq, Iran...) đang tiêu thụ nhiều loại nông sản của ta
như: gạo, chè, quế, hồi...Kim ngạch đạt gần 200 triệu USD/ năm.
Các nước EU: Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang thị
trường EU những năm gần đây thường xuyên chiếm 18 - 19% kim ngạch xuất
khẩu toàn ngành nông nghiệp nước ta.
Với thị trường này, kim ngạch xuất khẩu khoảng 300 - 350 triệu USD/năm;
chủ yếu là cà phê, gạo, cao su, hồ tiêu, đồ gỗ thành phẩm, nhất là đồ gỗ ngoài
trời, hạt điều, chè và một số quả nhiệt đới đã chế biến...Những nhóm hàng có kim
ngạch xuất khẩu vào thị trương EU ổn định và liên tục tăng từ năm 2000 đến nay
như: sản phẩm gỗ 77%/năm, điều nhân 32%/năm, chè 35,8%/năm, cao su sơ chế
44,7%/năm, rau quả 35,5%/năm. Riêng cà phê đã có dấu hiệu phục hồi sau vài
năm đi xuống, cà phê là một trong những mặt hàng nông sản đang khai thác tốt
và có thị phần tương đối lớn ở khu vực này: Tại Bỉ chiếm 10,1% thị trường nhập
khẩu, Pháp chiếm 48,5%, Đức chiếm 57%, Italy chiếm 49,6%, Tây Ban Nha chiếm
53,9%, Anh chiếm 64,2%... Có những mặt hàng vẫn chưa tương xứng với tiềm
năng của nước ta, sản phẩm chè năm 2003 mới chỉ chiếm khoảng 1,8% thị phần
nhập khẩu của EU, gỗ chiếm khoảng 1%, rau quả không đáng kể.
Nga và các nước Đông Âu: Hiện nay, xuất khẩu nông sản sang các nước này
giảm đi so với trước do rủi ro cao, phải cạnh tranh với nhiều nước như EU, Mỹ,
Thỗ Nhĩ Kỳ...Kim ngạch xuất khẩu đạt khaỏng 5060 triệu USD/năm, chủ yếu là
gạo, cao su, cà phê, chè, thịt, hồ tiêu, rau quả...Đây là các thị trường truyền thống
đã từng tiêu thụ một lượng lớn hàng nông sản Việt Nam, đang phục hồi nhu cầu
tiêu dùng ngày một tăng, vì thế chính sách hỗ trợ xuất khẩu vào thị trường này đối
với một số mặt hàng như thịt, rau quả, gia vị, chè... là cần thiết.

Mỹ: Kim ngạch xuất khẩu mới đạt trên 100 triệu USD/năm, trong đó cà phê,
điều, hồ tiêu chiếm khoảng gần 90%. Dung lượng lớn, chủng loại đa dạng và yêu
cầu về tiêu chuẩn, chất lượng không quá khắt khe như các nước phát triển khác.
Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ một điều kiện thuận lợi cho hàng nông sản Việt
Nam xâm nhập thị trường này.
Nhật: Kim ngạch xuất khẩu nông sản Việt Nam vào thị trường này mới ở
mức 40 - 50 triệu USD/ năm với các mặt hàng chủ yếu là: cà phê, cao su, chè, tơ
tằm và một số rau quả chế biến, nấm, điều, lâm sản... Nhật là thị trường đòi hỏi
chất lượng cao, nghiêm ngặt về tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh dịch tễ, hàng
rào bảo hộ cho sản xuất nông nghiệp rất cao.
Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn đến năm 2010 đã đề ra mục
tiêu và biện pháp đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu trên cơ sở chuyển đổi cơ cấu
sản xuất và chuyển giao khoa học công nghệ vào sản xuất nông - lâm nghiệp, đẩy
mạnh xuất khẩu; phấn đấu đến năm 2010 có kim ngạch xuất khẩu từ 7 - 8 tỷ USD,
nâng cao vị thế của Việt Nam trong việc xuất khẩu hàng nông lâm sản trên thị
trường thế giới.
Tuy nhiên, trong cơ cấu giá trị xuất khẩu hàng hoá, tỷ trọng trị giá hàng nông
sản xuất khẩu còn chiếm vị trí khiêm tốn và có xu hướng giảm. Điều đáng quan
tâm là sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế còn
thấp kém, do vậy hiệu quả xuất khẩu chưa cao, chưa tạo được thế đứng vững
chắc trên thị trường quốc tế.
Các chuyên gia kinh tế nhận định, nếu chúng ta biết “nuôi dưỡng” thị trường
truyền thống và “đột phá vùng đất mới” bằng việc khẳng định thương hiệu, thì
xuất khẩu nông sản của Việt Nam sẽ gặt hái được những thành công đáng kể.
Theo dự báo, trong những năm tới, các thị trường nhập khẩu nông sản của Việt
Nam đều có khả năng tăng kim ngạch nhập khẩu. Theo đó, đối với thị trường
Trung Quốc, kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam sẽ tăng từ 400 - 500
triệu USD/năm hiện nay lên 700 - 800 triệu USD/năm, gồm các mặt hàng chủ yếu
là cao su, hạt điều, tinh bột sắn. Đối với thị trường Mỹ, hiện nay, kim ngạch xuất
khẩu hàng nông, lâm sản của chúng ta mới chiếm khoảng 0,4 - 0,5% tổng kim

ngạch nhập khẩu nông, lâm sản của nước này. Đây thực sự là một con số khiêm
tốn so với tiềm năng hiện có của ngành nông sản Việt Nam cũng như nhu cầu
nhập khẩu của thị trường Mỹ. Nhận định của ông William Troy, Công ty Thương
mại Toàn cầu (Mỹ): “Sỡ dĩ khả năng thâm nhập thị trường Mỹ của hàng nông sản
Việt Nam còn hạn chế, chính là do năng lực cạnh tranh kém". Trong khi đó, kim
ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang các nước thuộc khối ASEAN
vẫn luôn phập phù, dao động từ 400 - 900 triệu USD/năm với mặt hàng chủ yếu là
gạo.
2. Tác động của hội nhập WTO đến động thái xuất khẩu hàng nông sản sau một
năm
2.1. Xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam thuận lợi sau một năm vào WTO
Nông nghiệp được coi là lĩnh vực chịu nhiều tác động nhất trong quá trình gia
nhập Tổ chức Thương mại Thề giới WTO của Việt Nam. Nhiều lo ngại về sức
cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên sân chơi lớn này xuất phát từ những
hạn chế trong năng lực sản xuất, chế biến, tạo dựng thương hiệu và uy tín của
từng mặt hàng nông sản. Kể từ khi bước sang thế kỷ 21 và nhất là sau khi gia
nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO, xuất khẩu nông sản của Việt Nam đã có
nhiều thay đổi tích cực.

×