Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP VÀO AFTA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.5 KB, 30 trang )

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM TRONG
QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP VÀO AFTA
2.1-/ THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ.
2.1.1-/ Thực trạng xuất khẩu của Việt Nam trước năm 1986.
Những năm trước thời kỳ đổi mới, trên tư duy kinh tế , chính trị của ta đã
nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển mạnh các hoạt động kinh tế đối
ngoại trong đó có việc thực hiện một chiến lược ngoại thương đúng đắn, năng
động, phù hợp với thực tiễn đất nước và bối cảnh quốc tế sẽ luôn luôn là động lực
trực tiếp cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng. Xong do nhiều nguyên nhân
lịch sử ( trong nước và trên thế giới) cộng với sự nóng vội mong đốt cháy giai đoạn
để đi nhanh đến chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã nhận thức và hành động sai lầm về
con đường phát triển kinh tế nói chung và phát triển kinh tế đối ngoại và ngoại
thương nói riêng. Đó là xây dựng quan điểm duy ý chí, tự lực cách sinh, biệt lập
khép kín cùng với việc duy trì cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan
liêu bao cấp. Điều này trở thành vật cản, làm triệt tiêu các động lực, kìm hãm tốc
độ phát triển kinh tế. Riêng trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, mặc dù ngay từ năm
1960 đã có hơn bốn mươi nước ký kết quan hệ ngoại thương với Việt Nam (miền
Bắc), nhưng thực tế cả một thời gian dài trước năm 1975, các hoạt động thương
mại của Việt Nam với thế giới bên ngoài mới chỉ tiến hành với các nước khu vực I
(khu vực XHCN). Xuất khẩu sang các nước này thường xuyên chiếm trên 70%
tổng kim ngạch xuất khẩu (KNXK).
Từ năm 1976, với chủ trương không ngừng mở rộng phân công lao động quốc
tế trên lĩnh vực kinh tế khoa học, kỹ thuật và đẩy mạnh thương mại quốc tế. Hoạt
động kinh doanh xuất khẩu đã mang tính chất của một hoạt động kinh tế vì mục
tiêu lợi nhuận. Thời kỳ này mọi hoạt động kinh doanh xuất khẩu đều do nhà nước
đặt kế hoạch bằng các chỉ tiêu, pháp lệnh. Các đơn vị kinh doanh xuất khẩu hoàn
toàn chỉ do các công ty và tổng công ty quốc doanh chuyên doanh xuất khẩu thuộc
Bộ ngoại thương đảm nhận.
Bước vào những năm đầu của thập kỷ 80, trước những đòi hỏi của thực tế và
sức ép từ cơ sở, cơ chế quản lý thương mại quốc tế và chính sách kinh tế đối ngoại
Việt Nam bắt đầu có sự thay đổi. Ngày 7/2/1980 chính phủ ra nghị điịnh 40CP quy


định chính sách và biện pháp hàng xuất khẩu. Trong đó có thu hẹp các chỉ tiêu
pháp lệnh đối với hàng xuất khẩu chủ yếu và đồng thời mở rộng quyền xuất khẩu
trực tiếp cho các liên hiệp xí nghiệp, các xí nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu do Bộ
quản lý, các cơ sở sản xuất chế biến hành xuất khẩu thuộc thành phần kinh tế tập
thể, công ty hợp doanh, tư nhân và cá thể đủ điều kiện cần thiết sẽ được cấp giấy
phép kinh doanh xuất khẩu thường xuyên hay từng chuyến.
Trong thời kỳ này, ngoài các nước khu vực I, Việt Nam đã tăng cường quan
hệ thương mại với các nước khu vực II (các nước TBCN và các nước đang phát
triển) như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông, Cộng hoà Liên bang Đức, Thuỵ Điển,
Ấn Độ, Pháp, Thái Lan, Singapo... Nhờ đó tổng kim ngạch xuất khẩu của khu vực
II đã tăng lên đến 46,8% (năm 1999), trong đó nổi bật lên vai trò của Nhật Bản là
một trong những bạn hàng lớn nhất của Việt Nam ( sau Liên Xô cũ). Đáng lưu ý là
mặc dù kim ngạch xuất khẩu sang các nước khu vực I thời kỳ này vẫn tiếp tục tăng
lên về tuyệt đối so với thời kỳ trước nhưng so với mức tăng tương đối của kim
ngạch xuất khẩu sang các nước khu vực II thì tốc độ tăng ở khu vực I lại thấp hơn
ở khu vực II (khu vực II tăng 3,3 lần trong khi khu vực II tăng 4,2 lần).
BẢNG 2 - XUẤT KHẨU THEO HAI KHU VỰC THỜI KỲ 1976-1986.
Năm
Khu vực I Khu vực II Tổng kim ngạch XK
Giá trị
(tiền Rúp)
Tốc độ
tăng %
Giá trị
(tiền Rúp)
Tốc độ
tăng %
Giá trị
(tiền Rúp)
Tốc độ

tăng %
1976
1977
1978
1979
1980
1981
1982
1983
1984
1985
1986
132,9
211,2
246,7
235,0
225,0
235,0
337,1
381,3
407,9
425,8
438,9
66,4
11,5
-4,7
-4,3
4,4
43,4
13,1

6,9
4,4
3,1
89,8
101,3
86,1
85,5
112,7
165,6
189,5
235,2
241,7
272,7
384,1
12,8
-20,9
6,7
31,8
46,9
14,4
24,1
2,8
12,8
40,8
222,7
322,4
326,8
320,5
337,7
400,6

526,6
616,5
640,6
698,5
823
44,7
1,4
-1,9
5,4
18,6
31,4
17,1
5,4
7,5
17,8
Nguồn: Niên giám thống kê - Nhà xuât bản Thống kê Hà Nội
Qua bảng số liệu trên cũng có thể thấy được hoạt động xuất khẩu trong thời
kỳ1976-1986 là không ổn định, tốc độ tăng không đều giữa các năm. Đặc biệt có
những năm, tốc độ tăng trưởng xuât khẩu giảm. Điều này chứng tỏ mặt hàng xuất
khẩu của chúng ta thời kỳ này chưa có chỗ đứng vững chắn trên các thị trường.
Chưa có nhiều thị trường mang tính ổn định lâu dài. Những số liệu này cũng phản
ánh đúng với thực trạng xuất khẩu của thời kỳ này là chủ yếu xuất khẩu theo nghị
định thư cho nên chưa ký kết được hiệp định thư thì không thể xuất khẩu. Trong
các năm 1979, 1980, mặc dù xuất khẩu sang khu vực II tăng lên nên tổng giá trị
kim ngạch xuất khẩu vẫn được tăng. Từ năm 1980 đến 1986, giá trị xuất khẩu liên
tỵuc tăng cả về giá trị và tốc độ. Tuy tốc độ tăng có không đều giữa các năm, tốc
độ tăng bình quân là 14,7% là một dấu hiệu đáng mừng cho hoạt động xuất khẩu
củat Việt Nam. Đáng chú ý nhất là năm 1986, xuất khẩu sang khu vực I và cả sang
khu vực II đạt giá trị cao nhất trong những năm trước đó, riêng khu vực II, giá trị
xuất khẩu tăng 40,8% so với năm trước đó.

Trong thời kỳ này, sản phẩm xuất khẩu vừa nhỏ bé về chất lượng, vừa đơn
điệu về cơ cấu chủng loại, chất lượng bao bì. Chiếm trên 80% tổng kim ngạch xuất
khẩu là hàng nông lâm sản, tiểu thủ công, mỹ nghệ và khoáng sản, nghĩa là chủ
yếu là sản phẩm thô hoặc sơ chế. Cùng với sự yếu kém về sản phẩm xuất khẩu là
sự ràng buộc phiền hà của cơ chế cũ đẫ khiến cho Việt Nam bị hạn chế nhiều trong
việc mở rộng thị trường, tìm kiếm bạn hàng mới. Năm 1986 là năm đạt kim ngạch
xuất khẩu cao nhất so với các năm trước đó, nhưng cũng chỉ mới đạt đến con số
hơn 800 triệu rúp. Nếu đem con số này so với các nước khác thì giá trị XNK tính
theo đầu người của Việt Nam (năm 1986) mưói chỉ đạt 12 rúp, vào loại thấp nhất
thế giới.
2.1.2-/ Thực trạng xuất khẩu của Việt Nam từ 1986 đến nay.
a, Thời kỳ 1986-1998
Từ cuối năm 1986, thực hiện đường lối đổi mới kinh tế do đại hội VI của
Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra, đường lối kinh tế đối ngoại được coi là "mũi
nhọn" của sự đổi mới. Cùng với việc "bung ra của nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, lần đầu tiên ở Việt Nam các thuật ngữ " mở cửa nền kinh tế", "đa dạng
hoá kinh tế đối ngoại" , "đa phương hoá thị trường" đã được đề cập đến trong các
chủ trương, chính sách phát triển kinh tế đối ngoại. Quan niệm cứng nhắc coi "độc
quyền ngoại thương" làbản chất kinh tês của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa đã được
xem xét lại và phần nào cũng đã được "vượt rào"trong thực tiễn. Đáng lưu ý ngoại
thương, đặc biệt là các hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu đã được đề cao,
coi đó là một trong ba chương trình kinh tế trọng điểm của Việt Nam. Nghị định
64/HĐBT ngày 16/6/1989 của Hội đồng Bộ trưởng về chế độ tổ chức, quản lý kinh
doanh hoạt động xuất nhập khẩu là cơ sở chính sách thượng mại thời kỳ này, về cơ
bản đã thể hiện bước ngoặt quan trọng đầu tiên của sự nới lỏng cơ chế quản
lýngoại thương theo tinh thần đổi mới cơ chế trên đây. Với chính sách thông
thoáng như vậy đã góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại cua nước ta
trong thời kỳ này.
Hoạt động xuất khẩu nhờ đó có sự biến đổi tích cực, Nếu như năm 1976-
1980, tộc độ tăng của xuất khẩu hàng năm bình quân là 11%, những năm tiếp theo

từ 1982- 1985 là 15,6%, thì dù trong hai năm 1986-1987đã đạt tới mức 27%. Riêng
năm 1989 so với năm 1988, tăng 75,3% (gần bằng mức tăng của cả 15 năm từ
1960-1975). Năm 1993, lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu đã vượt mức 2 tỷ USD,
tăng 21,6% so với năm 1989 và gấp hai lần so với năm 1988. Khoảng cách chênh
lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu đã rút ngắn lại từ tỷ lệ 1,7 giai đoạn 1960-1975
xuống tỷ lệ đáng kể 1/1,3. Trong những năm này (1986-1993), ngoài việc tiếp tục
duy trì quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước khu vực I, quan hệ thương
mại giữa Việt Nam với các nước khu vưch II ngày càng được mở rộng . Xuất khẩu
sang khu vực II của 5 năm (1986-1993) đã đạt được 3,5 tỷ USD, gấp
BẢNG 3 - XUẤT NHẬP KHẨU THEO KHU VỰC II THỜI KỲ (1981-1993)
Năm
Xuất khẩu
(triệu USD)
Nhập khẩu
(triệu USD)
Cán cân
ngoại thương
1981-1985
1986-1993
1989-1993
1104,7
3506,3
2308,3
2166,6
3807,6
2081,7
-1061,9
-301,2
226,6
Nguồn: Bộ thương mại -1995

Theo bảng số liệu trên, cả xuất và nhập khẩu đều phát triển ngày càng tăng và
khoảng cách chênh lệch cán cân thương mại giữa xuất và nhập khẩu ngày càng thu
hẹp, đặc biệt trong hai năm 1989-1993 cả xuất lẫn nhập đều tăng vọt và việc tăng
xuất khẩu hơn nhập khẩu đã khiến nước ta lần đầu tiên xuất siêu. Từ năm 1994 đến
nay, mặc dù hoạt động ngoại thương đã diễn ra trong những điều kiện , hoàn cảnh
khó khăn (do sự đổ vỡ của thị trường Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu trước
đây. Trước tháng 3/1995, Mỹ vẫn thi hành chính sách cấm vận kinh tế với Việt
Nam). Việt Nam phải cùng một nước chuyển hướng tìm kiếm thị trường, bạn hàng
mới, vừa phải thay đổi phương thức và nghệ thuật kinh doanh đúng với thông lệ
quốc tế nưhng vẫn phải đạt kết quả khả quan trong hoạt động xuất nhập khẩu.
BẢNG 4 - TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU QUA CÁC NĂM 1986-1998
Năm
Kim ngạch
XNK (triệu
USD)
Kim ngạch XK (chia ra)
Tốc độ
tăng
XK(%)
Tỷ trọng XK
trong tổng kim
ngạch XNK
(%)
Triệu USD
Triệu
USD
1986
1987
1988
1989

1993
1994
1995
1996
1997
1998
1944,2
3309,3
3795,1
4511,8
5156,4
4425,2
5121,4
6909,2
8600,0
12800,0
789,1
854,2
1038,4
1946,0
2404,0
2087,1
2580,7
2985,2
3600,0
5300,0
350,1
3633,2
87,4
1138,2

1353,2
2009,8
2552,4
2952,0
3571,0
5300,0
8,2
26,1
87,4
23,5
-13,2
23,7
15,7
20,6
47,2
26,8
25,8
27,4
43,1
46,6
47,2
50,4
43,2
41,9
41,1
Nguồn: Niên giám thống kê - NXB Hà Nội.
Như vậy, qua bảng số liệu, năm 1994 là năm có kim ngạch xuất khẩu giảm sút
so với năm 1993, song sự giảm sút đó không đáng kể so với những khó khăn hụt
hẫng lơn do sự đổ vỡ cảu thị trường Liên xô và Đông Âu gây ra. Kim ngạch xuất
khẩu năm 1994 giảm 13% so với năm 1993. Ngoài ra cũng phải nhận thấy năm

1994 là năm đầu tiên Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu vượt hơn 2 tỷ USD. Qua
đó mới thấy được những cố gắng lớn của ngoại thương Việt Nam trong công cuộc
đổi mới. Từ năm 1995 trở đi liên tục kim ngạch xuất khẩu của năm sau cao hơn
năm trước với tốc độ tăng trưởng khá mạnh và đều vượt kế hoạch dự kiến ban đầu.
Hơn nữa tỷ trọng xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất khẩu có chiều hướng tăng
dần lên theo các năm. Năm 1986, xuất khẩu mới chiếm 26,8% trong tổng kim
ngạch thì đến năm 1989, đạt được 43,1% và liên tục từ năm 1989 trở đi, giá trị xuất
khẩu chiếm hơn 40% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, và đặc biệt năm 1995, xuất
khẩu đã chiếm hơn 50% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Điều này chứng tỏ, xuất
khẩu đã đáp ứng được một phần ngoại tệ cho hoạt động nhập khẩu của đất nước.
Năm 1995, kim ngạch xuất khẩu đạt 2,58 tỷ R-USD , tăng 23,7% so với năm
1994. Năm 1996, kim ngạch xuất khẩu đạt 2,98% tỷ R-USD, tăng 15,7% so với
năm 1995. Năm 1997 kim ngạch xuất khẩu đạt 3,6% tỷ R-USD, tăng 20,6% so với
năm 1996, Năm 1998 kim ngạch xuất khẩu đạt 5,3% tỷ R-USD, tăng 47,2% so với
năm 1997. Tính chung cả kế hoạch 5 năm (1994-1998) tổng kim ngạch xuất khẩu
đạt gần 16,5 tỷ USD, vượt 10% so với chỉ tiêu kế hoạch đã được Quốc hội đề ra
12-15 tỷ USD, bình quân hàng năm tăng khoảng 18,7% (nếu không tính sự sụt
giảm xuất khẩu của năm 1994 thì tăng khoảng 21%). So với giai đoạn 1986-1993,
kim ngạch xuất nhập khẩu giai đoạn 1994-1998 tăng gấp hai lần, trong đó xuất
khẩu tăng hơn 2,3 lần. Số liệu phân tích trên có thể thấy rằng tốc độ tăng trưởng
ngoại thương của nước ta trong giai đoạn này là khá nhanh và cao hơn tốc độ tăng
trưởng kinh tế (8%) là phù hợp với xu thế phát triển kinh tế đã trở thành quy luật
chung của thế giới, đặc biệt là các nước có nền kinh tế mới bắt đầu đi lên đang
trong giai đoạn thực thi chính sách mở của nền kinh tế. Những kết quả , thành tựu
phát triển khả quan đó đã chứng tỏ ngoại thương Việt Nam đã từng bước trở thành
động lực trực tiếp cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa nền kinh tế và phần
quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển đất nước.
Cùng với tiến triển trên đây, cơ cấu giá trị các nhóm hàng xuất khẩu trong kim
ngạch xuất khẩu cũng đã có sự biến đổi phù hợp theo sự chuển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá: tỷ trọng hàng công nghiệp tăng lên tương đối và tỷ

trọng hàng nông - lâm - thủy - sản giảm xuống tương đối trong khi cả hai loại hàng
này đều tăng tuyệt đối về quy mô khối lượng hàng hoá và giá trị xuất khẩu. Cụ thể
là hàng công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm 32,8% (thời kỳ 1986-1993 là 16%),
hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp chiếm 18,1% (thời kỳ 1986-1993 là
16%), hàng nông - lâm - thủy sản chiếm 41,9% (thời kỳ 1986-1993 là 54%). Sở dĩ
hàng công nghiệp nặng và khoáng sản có sự tăng nhanh như vậy là do sản phẩm
dầu thô và than đá tăng vọt về quy mô và giá trị xuất khẩu, xuất khẩu dầu thô từ
con số 0 năm 1988 tăng lên 3,9 triệu tấn năm 1994 và đến năm 1998 con số tăng
lên đến 7,7 triệu tấn, tăng gấp hai lần. Tính chung cả 5 năm 1994-1998 sản lượng
dầu thô xuất khẩu là 30,6 triệu tấn, tăng gấp 7,7 lần so với sản lượng năm 1994.
Tương tự như vậy, năm 1994, than đá còn ở mức 1,17 triệu tấn nhưng đến năm
1998 đã lên tới 2,2 triệu tấn, tăng gấp 1,9 lần. Tính gộp giai đoạn 1994-1998 xuất
khẩu than đá đạt tới 8,689 triệu tấn, tăng gần 7,5% so với sản lượng năm 1994.
Với sự gia tăng của hoạt động xuất khẩu và sự biến đổi cơ cấu sản phẩm xuất
khẩu thì thị trường xuất khẩu trong giai đoạn này có sự chuyển biến lớn. Xuất khẩu
sang hai thị trường đều tăng nhanh, nhưng sang khu vực II tăng mạnh hơn. Cho
đến năm 1988,1989, các nước Liên Xô cũ và Đông Âu vẫn là bạn hàng chính của
Việt Nam thời kỳ 1993-1997. Các số liệu của bảng dưới đây cho thấy sự thay đổi
phương hướng thị trường xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 1993-1997. Sự thay đổi
có tính chất tương phản giữa các bạn hàng châu Âu và châu Á cho thấy sự chuyển
hướng khá linh hoạt quan hệ buôn bán của Việt Nam sau khi Liên Xô tan vỡ. Tỷ
trọng của các nước XHCN Đông Âu cũ trong xuất khẩu của Việt Nam giảm từ
45% năm 1993 xuống còn 3,0% năm 1997. Trong khi tỷ trọng của các nước châu
Á trong xuất khẩu tăng từ43,3% lên 75,0%. Quan hệ buôn bán của Việt Nam với
các nước khu vực khác còn ở mức độ hạn chế.
BẢNG 5 - SỰ THAY ĐỔI CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU
CỦA VIỆT NAM 1993-1997.
Đơn vị:%
Vùng lãnh thổ 1993 1994 1995 1996 1997
Châu Á

Đông Nam Á
ASEAN
NIC
Nhật Bản
Hàn Quốc
Trung Quốc
Châu Âu
Đông Âu
Tây Âu
Châu Mỹ
Châu Phi
Châu Úc
Không phân biệt
xuất xứ
43,3
15,0
13,0
21,0
14,0
1,1
0,3
51,0
45,0
6,0
0,7
0,2
0,3
4,7
77,0
25,0

24,6
36,0
34,0
2,5
0,1
17,0
11,0
6,0
0,3
0,6
0,3
4,7
74,0
22,0
21,5
30,0
32,0
3,6
4,0
15,0
5,0
10,0
1,0
1,0
1,0
8,0
73,0
21,0
13,0
26,0

32,0
4,6
5,0
14,0
6,0
8,0
1,4
2,0
2,2
9,4
75,0
22,9
21,7
26,0
30,0
2,2
7,6
14,5
3,0
10,9
3,4
1,2
1,2
5,4
Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư -2000
Phân tích kỹ hơn cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam trong thời kỳ này
cho thấy: Nhật Bản và các nước công nghiệp hoá ở châu á là bạn hàng chính chiếm
gần 805 tổng kim ngạch buôn bán của Việt Nam. Tron đó kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam sang các nước ASEAN chiếm từ 25 đến 30% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Tổng mức lưu chuyển ngoại thương giữa Việt Nam với các nước ASEAN đã tăng

dần lên 20 lần trong vòng 9 năm (120 triệu USD năm 1986 lên 2,5 tỷ USD năm
1998). Đây là một thị trường mà Việt Nam là một bộ phận của thị trường đó với gần
500 triệu dân sôi đôngj và đầy tiềm năng này sẽ cùng nhau tăng nhanh lợi ích thu
được từ hoạt động ngoại thương, đặc biệt là lĩnh vực xuất khẩu.
b, Tình hình xuất khẩu qua các năm 1999, 2000, 2001 và 2002.
Năm 1999, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 18,4 tỷ USD, bằng 46,4% tổng
kim ngạch của cả thời kỳ 1994-1998 và tăng 35% so với riêng năm 1998. Xuất
khẩu đã đạt 7,2558 tỷ USD, tăng 33,2% so với năm 1998 và chiếm sấp sỉ 30%
GDP nhưng tốc độ tăng vẫn thấp hơn tốc độ tăng nhập khẩu (36,6%).
Kim ngạch xuất khẩu tính theo đầu người đã đạt mức trên dưới 95USD vào năm
1999 gấp hơn 3 lần so với năm 1994 (30USD) và gấp 9 lần so với năm 1986 (11USD).
Tuy nhiên con số này còn khá khiên tốn so với mức 170USD được thế giới thừa nhận là
mức của một nước có nền kinh tế ngoại thương tương đối phát triển.
Cơ cấu hàng xuất khẩu đã có chuyển biến tích cực, tỷ trọng hàng chế biến
năm 1999 đã tăng lên 30%. Tỷ trọng các mặt hàng xuất khẩu trong tổng kim ngạch
xuất khẩu như sau: Nông nghiệp chiếm 34,1%, lâm nghiệp chiếm 1,9%, thuỷ sản
chiếm 9,0%, công nghiệp và khai khoáng 36,4%, dầu thô 18,9%. Một số mặt hàng
chủ lực đã hình thành, có kim ngạch tương đối lớn và chất lượng ngày càng được
cải tiến, bước đầu gây được tín nhiệ trên thị trường thế giới như: dầu thô, gạo, hải
sản, dệt may, giày dép, cà phê, cao su, hạt điều. . . Đặc biệt hai mặt hàng là dầu thô
và dệt may đạt giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD, cụ thể: dầu thô giá trị xuất khẩu đạt
1,3457 tỷ USD, và dệt may 1,150 tỷ USD.
Về thị trường xuất khẩu, chúng ta vẫn tiếp tục duy trì các thị trường quen
thuộc. Nhật Bản trong năm 1999 tiêu thụ hàng xuất khẩu của Việt Nam với giá trị
xấp xỉ 1,5 tỷ USD. Đây là thị trường được đánh giá là tiềm năng nhất trong những
năm trở lại đây. Thị trường EU vẫn là thị trường lớn tiêu thụ hàng dệt may, giầy
dép của Việt Nam. Đối với Mỹ là bạn hàng mới nhưng Mỹ đầy tiềm năng đối với
Việt Nam trong việc mở rộng xuất khẩu. Năm 1999 cũng là năm đầu tiên đánh giá
năm đầu tiên đánh giá về quan hệ giữa Việt Nam với các nước ASEAN sau ngày
gia nhập chính thức vào tổ chức này (7/1998). Tổng kim ngạch xuất khẩu sang thị

trường này có tăng lên chút ít, chiếm 33% kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Trong tổng kim ngạch xuất khẩu năm 1999 phải kể đến đóng góp của khu vực
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 786 triệu USD, chiếm 10,8% trong tổng
kim ngạch xuất khẩu: Phân tích bảng số liệu cơ cấu xuất khẩu năm 1999-2000 sau:
BẢNG 6 - CƠ CẤU XUẤT KHẨU NĂM 1999-2000
Tổng kim ngạch xuất
khẩu
Đơn vị 1999 2000
Năm 2000
so với
1999
Trong đó doanh nghiệp có Triệu USD 7255,8 8850,0 122,0
vốn đầu tư nước ngoài Triệu USD 786,0 1500 190,8
Mặt hàng chủ yếu
Lạc nhân 1000 tấn 127 84 66,1
Cao su 1000 tấn 194 197 101,5
Cà phê 1000 tấn 283 404 142,8
Chè 1000 tấn 20,755 31,5 151,8
Gạo 1000 tấn 3003 3550 118,2
Dầu thô 1000 tấn 8750 9650 110,9
Than đá 1000 tấn 3647 3500 96,0
Hàng hải sản Triệu USD 651 760 116,7
Hàng dệt may Triệu USD 1150 1300 113,0
Giày dép các loại Triệu USD 530 955 180,2
Nguồn: Số liệu Bộ thương mại.
Năm 2000 là năm diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ nghiêm trọng
của các nước trong khu vực. Tham gia khối ASEAN, Việt Nam mặc dù không bị
ảnh hưởng lớn nhưng nó đã khiến cho Việt Nam phải đứng trước những khó khăn
thử thách mới. Do tác động của cuộc khủng hoảng đã làm cho hàng hoá xuất nhập
khẩu của các nước như Thái Lan, Singapo, Philipin. . lại trở lên có cạnh tranh về

giá cả cao hơn Việt Nam. Điều này khiến cho các đối tác nước ngoài của Việt Nam

×