Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

phân tích công tác truyền thông xoá đói giảm nghèo trên 2 báo là báo nhân dân và báo hà nội mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.45 KB, 38 trang )

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nghèo đói là một vấn đề mang tính chất toàn cầu luôn tồn tại trong xã hội.
Nghèo đói làm cho nền kinh tế chậm phát triển, giải quyết vấn đề nghèo đói là
động lực để phát triển kinh tế - xã hội. Ngay cả những nước phát triển cao cũng có
tình trạng nghèo đói. Toàn thế giới vẫn có hơn một tỷ người sống trong nghèo đói.
Đó là một thách thức lớn cho sự phát triển của toàn thế giới.
Trên thế giới hiện nay vấn đề đói nghèo vẫn là một trong những vấn đề cần
được quan tâm giải quyết mang tính cấp thiết. Theo số liệu mới nhất từ Cục thống
kê dân số tại Mỹ thì 1/6 dân số Mỹ đang trong tình trạng đói nghèo. Tại quốc gia
này, một gia đình 4 người có thu nhạp dưới 22.811 USD/năm được coi là đói
nghèo. Hơn nữa, trong thời đại ngày nay khi nhân loại đang hướng tới một nền
văn minh tin học, thì bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận dân cư đang sống trong
tình trạng nghèo đói.

Việt Nam là một trong những nước nghèo trên thế giới, với gần 70% dân cư
sống ở khu vực nông thôn, lực lượng lao động làm nông nghiệp là rất lớn. Tình
hình nghèo đói ở Việt Nam diễn ra rất phổ biến và phức tạp đặc biệt khu vực miền
núi và nông thôn chiếm tỷ lệ rất cao, có sự chênh lệch giàu - nghèo rất lớn giữa
thành thị và nông thôn. Theo chuẩn nghèo mới được Chính Phủ ban hành trong
Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg ngày 8/7/2005, cả nước có khoảng 3,9 triệu hộ
nghèo, chiếm 22% số hộ toàn quốc. Vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất là vùng Tây
Bắc (42%), Tây nguyên (38%), thấp nhất là vùng Đông Nam Bộ (9%). Do sự phát
triển chậm của lực lượng sản xuất, sự lạc hậu về kinh tế và trình độ phân công lao
động xã hội kém.Nghèo đói làm cho trình độ dân trí không thể nâng cao, đời sống
xã hội không thể phát triển được, dẫn tới năng suất lao động xã hội và mức tăng
trưởng xã hội thấp.
1


Nghèo đói đe dọa đến sự sống của loài người bởi "đói nghèo đã trở thành
một vấn đề toàn cầu có ý nghĩa chính trị đặc biệt quan trọng, nó là nhân tố có khả


năng gây bùng nổ những bất ổn chính trị, xã hội và nếu trầm trọng hơn có thể dẫn
tới bạo động và chiến tranh" không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà là cả thế
giới. Bởi, những bất công và nghèo đói thực sự đã trở thành những mâu thuẫn gay
gắt trong quan hệ quốc tế, và nếu những mâu thuẫn này không được giải quyết
một cách thỏa đáng bằng con đường hòa bình thì tất yếu sẽ nổ ra chiến tranh.
Vấn đề XĐGN đã trở thành một trong những mục tiêu, nhiệm vụ chính trị - xã
hội hàng đầu mà Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm. Chính vì vậy mà cần tuyên
truyền, phổ biến cho mọi người dân hiểu và nắm được vấn đề nghèo đói đang là
vấn đề gây trở ngại cho sự phát triển đất nước để từ đó đưa ra những hành động
góp phần XĐGN ở nước ta hiện nay.
Vấn đề nghèo đói cũng đang là vấn đề mà giới truyền thông hết sức quan tâm.
Ở Việt Nam, truyền thông luôn đóng vai trò rất quan trọng phục vụ phát triển kinh
tế xã hội, góp phần xoá đói giảm nghèo. Đặc biệt là trong gần ba thập kỷ đổi mới
vừa qua, truyền thông đã góp những thành tích không nhỏ làm giảm tỷ lệ đói
nghèo. Toàn quốc có trên 600 tờ báo, tạp chí, Đài tiếng nói Việt Nam và Đài
truyền hình Trung ương với nhiều kênh phát liên tục trong ngày. Trong những
năm gần đây, đóng góp vào công cuộc đó còn có truyền thông đa phương tiện và
đặc biệt là truyền thông báo chí. Đây là lực lượng truyền thông đông đảo, có đóng
góp lớn cho phát triển kinh tế xã hội, xoá đói giảm nghèo của đất nước. Truyền
thông đã mang đến nhiều cách nhìn khác nhau về nghèo đói, từ đó đưa ra những
đóng góp nhằm hoàn thiện chương trình xóa đói giảm nghèo trong thời gian tới
Truyền thông luôn góp phần nâng cao nhận thức cho người dân về mọi mặt
và trong công cuộc xoá đói giảm nghèo nó cũng đóng vai trò quan trọng đặc biệt.
Báo chí, truyền thông càng ngày càng đưa đến cho người dân được nhiều thông
tin hơn. Mục đích của truyền thông là nhằm mang lại nhiều lợi ích hơn cho người
2


nghèo. Và khi được thông tin nhiều hơn, người nghèo có cơ hội tham gia vào việc
xây dựng nền dân chủ có lợi cho mình và cho mọi người. Mọi người cùng đóng

góp tham gia vào quá trình hoạch định chính sách, thực hiện chính sách và hưởng
lợi từ chính sách. Khẩu hiệu “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” do Đảng
cộng sản Việt Nam đưa ra nhờ sự đóng góp của công tác truyền thông được thực
thi tốt hơn.
Tuy nhiên, công tác truyền thông trong xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam vẫn
còn những hạn chế nhất định. Ở Việt Nam nói riêng và Thế giới nói chung báo chí
mới chỉ dừng lại ở mức độ nhìn nhận những vấn đề đang xảy ra trước mắt, những
biểu hiện nhãn tiền mà không thấy hiểm họa tương lai.Vấn đề cốt lõi là cần nâng
cao nhận thức cho người dân về XĐGN còn chưa được quan tâm tuyên truyền
nhất là trên những phương tiện thông tin đại chúng đặc biệt là báo chí . Người dân
chưa thực sự hiểu biết hết được thực trạng nghèo đói và công cuộc XĐGN để từ
đó nâng cao nhận thức cũng như hành động để cùng chung tay XĐGN.
Chính vì thế, thông điệp về thực trạng nghèo đói và XĐGN của báo chí hiện
nay là vô cùng quan trọng. Tìm hiểu được mức độ xuất bản của các thông cáo báo
chí có ảnh hưởng thế nào đến nhận thức thay đổi hành vi người dân là vấn đề
hàng đầu.
Vì vậy. Với hi vọng là nâng cao nhận thức của người dân về nghèo đói để từ
đó đưa ra những hành động giúp XĐGN, chúng tôi hi vọng rằng cuộc điều tra này
có thể giúp báo in-một trong những phương tiện tuyền thông gần gũi với cuộc
sống. Mọi người có một cái nhìn toàn diện về thực trạng nghèo đói đang diễn ra
và thực hiện công cuộc XĐGN một cách hiệu quả nhất nhằm thực hiện mục tiêu
xây dựng, phát triển đất nước.
Để làm rõ thêm về vấn đề này nhóm sẽ tập trung phân tích trên 2 báo là báo
Nhân Dân và báo Hà Nội mới.

3


II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.


Các công trình nghiên cứu
Nghèo đói phân hóa giàu nghèo, xóa đói giảm nghèo… là chủ đề được

Đảng, Nhà nước Việt Nam, nhiều cơ quan trong nước, tổ chức quốc tế, cán bộ
nghiên cứu quan tâm và rất nhiều công trình nghiên cứu ở các khía cạnh khác
nhau. Đáng chú ý là một số công trình sau:
• Hằng năm Liên hợp quốc, Ngân hàng Thế giới….thường công bố các nghiên cứu

về tình trạng đói nghèo trên thế giới trong đó có Việt Nam. Năm 2000, WB chính
thức công bố “Báo cáo về tình hình phát triển thế giới- tấn công nghèo đói” ở tầm
vĩ mô. Ngoài thông tin về số lượng người nghèo trên thế giới, báo cáo thể hiện
những luận điểm, cách tiếp cận, đánh giá trên nhiều phương diện của đói nghèo,
nâng vấn đề đói nghèo trở thành vấn đề cấp thiết của nhân loại.
• Từ những năm đầu của thập niên 90, vấn đề nghèo và giảm nghèo được quan tâm
cả trên phương diện nghiên cứu lý luận, nhận thức và triển khai hành động trong
thực tiễn.Những cuộc hội thảo khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Bộ lao động
- Thương binh và xã hội (Bộ LĐTBXH), các tổ chức quốc tế ở Việt nam đã dần
phác họa bức tranh toàn cảnh về nghèo đói ở Việt nam.”Việt Nam đánh giá đói
nghèo và chiến lược” của WB vào tháng 1/1995 đã xem xét tình trạng nghèo đói
của nước ta trong bối cảnh kinh tế-xã hội khi vừa kết thúc chiến tranh và tiến
hành đổi mới. Đánh giá tổng quan và diễn biến đói nghèo của nước ta thể hiện rõ
thông qua hội nghị nhằm tư vấn các nhà tài trợ cho VN “ Báo cáo Phát triển năm
2000 - tấn công đói nghèo” những nghiên cứu cho thấy rõ, đói nghèo là vấn đề
nhức nhối trong xã hội. Báo cáo đặc biệt hữu ích khi đưa cách tiếp cận để giải
quyết nghèo khổ bền vững với 3 trụ cột, tạo cơ hội, đảm bảo sự bình đẳng, giảm
bớt nguy cơ bị tổn thương. Tài liệu này cung cấp nguồn tư liệu phong phú lien
quan đến giảm nghèo rất hữu ích cho người nghiên cứu.
4



• Trong nghiên cứu “ Giảm nghèo và rừng ở Việt Nam” năm 2004, tác giả William

D. Sunderlin và Huỳnh Thu Ba đã đưa ra những lời giải đáp cho một số câu hỏi
cơ bản có liên quan đến khả năng và mức độ tài nguyên rừng đã và sẽ đóng góp
cho mục đích giảm nghèo ở Việt Nam. “Chúng tôi cũng tìm hiểu mức độ liên
quan giữa các kế hoạch lớn của chính phủ về khôi phục rừng với các chương trình
giảm nghèo ở Việt Nam”. Những tác động tích cực của rừng đến giảm nghèo là
không thể phủ nhận, tuy nghiên cứu chưa đánh giá cụ thể tác động của rừng đến
giảm nghèo ở mức độ nào. Nghiên cứu là tài liệu mở để người tìm hiểu có cái
nhìn đa chiều về giảm nghèo và rừng ở Việt Nam.
• Trong khuôn khổ dự án hợp tác Việt Nam - Canada “ Một số vấn đề giảm nghèo ở
các dân tộc thiếu số Việt Nam” năm 2003. Tác giả Bùi Minh Đạo phân tích khá
chi tiết, hiện trạng đói nghèo ở vùng dân tộc thiểu số vẫn còn tồn tại với những
con số khá lớn. Đồng thời tác giả đề cập đến những quan điểm nghèo đối với các
vùng dân tộc thiểu số. Cuốn sách sẽ giúp ích cho nhiều người nghiên cứu và cán
bộ giảm nghèo với những kinh nghiệm nghiên cứu đói nghèo và giải pháp giảm
nghèo hiệu quả ở vùng dân tộc.
• Năm 2010, nước Cộng hòa XHCNVN công bố “ Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ
2010- Việt Nam 2/3 chặng đường thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ,
hướng tới năm 2015”. Báo cáo đã đánh giá những thành tựu Việt Nam đã đạt
được trong mục tiêu xóa đói giảm nghèo cùng cực, thiếu đói và đã đạt được
những thành tựu đáng kể như: người nghèo giảm đáng kể, chất lượng cuộc sống
người nghèo được cải thiện. Đồng thời báo cáo cũng chỉ ra thách thức trong công
cuộc xóa đói giảm nghèo thời gian tới.
• Hai tác giả Lê Du Phong và Hoàng Văn Hoa (đồng chủ biên), Kinh tế thị trường và
sự phân hóa giàu - nghèo ở vùng dân tộc và miền núi phía Bắc nước ta hiện nay,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Các tác giả đã đánh giá những thành tựu
về kinh tế - xã hội qua hơn 10 năm đổi mới và tiềm năng ở vùng dân tộc và miền
núi phía Bắc nước ta.

5


• Hai tác giả Đỗ Thị Bình và Lê Ngọc Hân trong cuốn sách Phụ nữ nghèo nông

thôn trong điều kiện kinh tế thị trường (1996). Cuốn sách đã nêu lên các quan
niệm về phân hóa giàu nghèo và tình trạng đói nghèo ở nước ta và trên thế giới;
đánh giá thực trạng đời sống, các khó khăn và yêu cầu của phụ nữ nghèo nông
thôn; đưa ra các khuyến nghị khoa học làm cơ sở cho việc hoạch định chính
sách xóa đói, giảm nghèo, giúp phụ nữ nghèo nông thôn vươn lên.
Qua các nghiên cứu về đói nghèo trên đây ta thấy được thực trạng đói
nghèo hiện nay trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng và thấy được các
yếu tố tác động đến tình trạng nghèo của người dân hiện nay. Đồng thời một số
nghiên cứu cũng đề cập đến giải pháp xóa đói giảm nghèo đã đạt được những
thành tựu nhất định như: tỷ lệ hộ nghèo giảm, chất lượng cuộc sống người dân
được cải thiện, cơ hội tiếp cận các dịch vụ được đẩy mạnh…góp phần vào
công cuộc xóa đói giảm nghèo của đất nước.
2. Các sản phẩm truyền thông
- Các cuộc khảo sát gần đấy cho thấy rằng “ Truyền thông về giảm nghèo đang
rất…….. nghèo”. Truyền thông cho người nghèo ( đa số mù chữ, thất học….) là
một việc làm khó, thậm chí rất khó. Nhưng nếu làm tốt thì giảm nghèo thiếu
minh bạch dẫn đến mất kênh giám sát từ người hưởng lợi. Nghèo truyền
thông trong xóa đói giảm nghèo (gọi tắt là giảm nghèo) xuất phát từ ba
nguyên nhân chính: (1) sự quá tải về chương trình, dự án; (2) thiếu công cụ
giám sát, đánh giá và (3) hiểu không đầy đủ về truyền thông.
- Báo cáo chiến lược truyền thông trong chương trình 135 giai đoạn 2 của các tác
giả Đặng Kim Sơn, Phạm quang Diệu, Phạm Hoàng Ngân, Trịnh Văn Tiến.
Trong các hoạt động đánh giá kết quả triển khai Chương trình 135 giai đoạn
1, Uỷ Ban Dân Tộc (UBDT) và các nhà tài trợ quốc tế xác định một hạn chế
không nhỏ đến việc hoàn thành mục tiêu của Chương trình khi triển khai

chương trình 135 giai đoạn 1 là chưa có một kế hoạch hay chiến lược truyền
thông. Ngày 10 tháng 1 năm 2006 Thủ tướng chính phủ đã ra quyết định số
6


07/2006/QD-TTg phê duyệt Chương trình 135 cho giai đoạn 2006-2010. UBDT
và các nhà tài trợ cho rằng việc phát triển và triển khai một chiến lược truyền
thông là điều kiện tiên quyết và đóng vai trò quan trọng để triển khai chương
trình 135 giai đoạn 2 đạt hiệu quả. Thực tế cho thấy Chương trình 135 cùng
với Chương trình Xoá đói Giảm nghèo Quốc gia đã vận dụng một hệ thống các
chính sách để cải thiện và nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người
nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số ở các vùng khó khăn.
- Chiến lược truyền thông về nghèo đói và môi trường giai đoạn (20062009). Chiến lược được xây dựng và triển khai tại hầu hết các các nhóm đối
tượng có liên quan đến nghèo đói- môi trường trong dự án hoạch định chính
scahs thuộc các cơ quan chính phủ ở cấp trung ương và cấp tỉnh; các nhà tài trợ
và các tổ chức quốc tế; các cơ quan thông tin đại chúng.Vì vậy, một hoạt động
truyền thông, một chương trình hành động được xây dựng dựa trên một chiến
lược với tầm nhìn dài hạn nhằm tăng cường khả năng cung cấp thông tin cho các
bên tham gia về mối liên hệ giữa nghèo đói và môi trường là hết sức cần thiết
trong giai đoạn triển khai của Dự án Hài hòa các mục tiêu giảm nghèo và Môi
trường trong chính sách và Lập kế hoạch hướng tới Phát triển Bền vững ( gọi tắt
là Dự án Nghèo đói và Môi trường từ 2006-2009)
- Chú trọng công tác truyền thông Chương trình giảm nghèo, tăng hộ khá năm
2011, góp phần thực hiện các chính sách đảm bảo an sinh xã hội, hỗ trợ, chăm lo
cho người nghèo, hộ nghèo ổn định cuộc sống vươn lên vượt chuẩn nghèo giai
đoạn 3 một cách bền vững. Ngày 14/10/2011, Ban chỉ đạo chương trình giảm
nghèo, tăng hộ khá thành phố đã xây dựng. Thông qua các hoạt động truyền
thông như: Phối hợp với Ban Nông thôn Đài tiếng nói nhân dân thành phố thực
hiện chuyên mục “Cùng nhau vượt nghèo”, giới thiệu các gương điển hình, các
mô hình giảm nghèo tiêu biểu, những tấm gương hỗ trợ giúp nhau cùng vượt

nghèo…; Phối hợp với Ban chuyên đề Đài truyền hình thành phố thực hiện
7


mục chuyên đề thời sự thông qua việc ghi hình, phỏng vấn, phóng sự các
gương điển hình, các mô hình giảm nghèo tiêu biểu…
- Bên cạnh đó, phát hành các tờ rơi, băng rôn, áp phích, tập huấn truyền thông tại
06 phường xã điểm các nội dung về hoạt động của Chương trình giảm nghèo,
tăng hộ khá đến người nghèo-hộ nghèo và hộ cận nghèo của thành phố…
Trên đây là toàn bộ tổng quan nghiên cứu của các nhà khoa học, các ban
nghành có liên quan cũng như thực trạng đăng tải các bài báo về nghèo đói trên
phương tiện truyền thông nói chung và báo chí nói riêng qua đó đã giúp chúng ta
có cách nhìn nhận rõ hơn về nghèo đói. Đồng thời có những ý kiến đóng góp
trong đề ra các phương hướng giải pháp trong xóa đói giảm nghèo.

III. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu này nhằm các mục đích sau:
- Tìm hiểu thực trạng đăng tải các bài viết về nghèo đói trên hai báo Nhân Dân và

báo Hà Nội mới.
- Đề xuất khuyến nghị đối với tòa soạn, biên tập viên, các phóng viên…nhằm nâng
cao chất lượng các bài viết về nghèo đói trên hai báo trên.
8


2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận, những khái niệm chủ chốt có liên quan trong đề tài nghiên


cứu.
- Chỉ ra thực trạng đăng tải các bài viết về nghèo đói trên hai báo Nhân Dân và báo
Hà Nội mới.
- Tổng hợp, phân tích và so sánh kết quả phân tích được với các nghiên cứu chính
thức của các tổ chức xã hội và của chính phủ để có cái nhìn khách quan nhất.
- Đưa ra khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng bài viết liên quan đến vấn đề đói
nghèo, góp phần vào đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo ở nước ta.

IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp luận
- Phương pháp luận chung : Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của

chủ nghĩa Mác-Lênin là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử.
- Phương pháp luận chuyên biệt: Đề tài vận dụng các lý thuyết xã hội học và lý
thuyết xã hội học về truyền thông làm kim chỉ nam trong suốt quá trình nghiên
cứu. Hai phương pháp này được sử dung song song, kết hợp hỗ trợ nhau trong bài
nghiên cứu.
9


- Lý thuyết truyền thong: Mô hình truyền thông của Harold Laswell ( Mỹ ), đã cho

rằng muồn nghiên cứu về truyền thông, đặc biệt là phân tích báo chí cần tập trung
phân tích các yếu tố trong công thức 5W :
Ai ?
Nói Gì ?
Bằng cách nào ?
Nói cho ai ?
Hiệu quả như thế nào ?


-

Who
What
Which ( How) channel
Whom
Why (effect ) hiệu quả

Mô hình truyền thông là một mô hình lý tưởng cho việc khai thác các thực
trạng của vấn đề NĐ trên báo in, gợi ý cho đề tài những biến số về đặc điểm của
các tin bài viết cụ thể ở đề tài này.
2. Phương pháp thu thập thông tin.
- Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích nội dung (phân tích định lượng) để mã
hóa các thông tin liên quan.
3. Phương pháp chọn mẫu.
- Chọn các bài báo của báo Nhân Dân và Hà Nội Mới từ ngày 30/9/2012 trở về
trước. Kết quả chọn ra 100 bài viết về nghèo đói trên báo Nhân Dân từ tháng 10
năm 2011 đến tháng 9 năm 2012, các bài báo trong 12 tháng của 2 năm. Và chọn
ra 100 bài viết về nghèo đói trên báo Hà Nội mới từ tháng 4 năm 2011 đến tháng 9
năm 2012, các bài báo ra trong 18 tháng của 2 năm.
Tất cả các bài được đọc và viết ra những thông tin về Nghèo đói nằm trong tin
mục của bài, các bài báo có nội dung trực tiếp liên quan đến Nghèo đói được
chọn, một số tin khác không có nội dung đề cập trực tiếp đến vấn đề nhưng vẫn
liên quan đến những ảnh hưởng hay tác động của nghèo đói đến kinh tế-văn hóaxã hội, thực trạng các yếu tồ dẫn đến nghèo đói...các thông tin liên quan tới cá
nhân vượt nghèo hay người tốt giúp đỡ người nghèo đã được chọn trong nghiên
cứu.
Phương pháp xử lý thông tin.
- Sử dụng phần mền xử lý SPSS để nhập và xử lý thông tin.
4.


10


V. THAO TÁC HÓA KHÁI NIỆM
Hội nghị chống nghèo đói khu vực châu Á – Thái Bình Dương do ESCAP
tổ chức tại Băng Cốc, Thái Lan (tháng 9/1993)
- Nghèo: nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn

các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa
nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của địa
phương
+ Nghèo tuyệt đối: là việc không thõa mãn nhu cầu tối thiểu để nhằm duy
trì cuộc sống của con người.
+ Nghèo tương đối: là tình trạng không đạt tới mức sống tối thiểu tại một
thời điểm nào đó.

11


- Hộ nghèo: Hộ nghèo là tình trạng của một số hộ gia đình chỉ thoả mãn một phần

nhu cầu tối thiểu của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống trung bình
của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
- Đói: là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu

và thu nhập không đủ đảm bảo cho nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống. Đó là
những hộ dân cư hằng năm thiếu ăn, thiếu mặc thường phải vay nợ của cộng
đồng và thiếu khả năng chi trả cộng đồng, tùy thuộc vào khả năng đảm bảo nhu
cầu lương thực, thực phẩm…

- Hộ đói: Hộ đói là một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức tối thiểu không đủ

đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống hay nói cách khác đó là một bộ
phận dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa, thường xuyên phải vay nợ và thiếu khả
năng trả nợ. (Theo Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB)).
- Chuẩn nghèo của Việt Nam hiện nay là một tiêu chuẩn để đo lường mức độ
nghèo của các hộ dân tại Việt Nam. Chuẩn này khác với chuẩn nghèo bình quân
trên thế giới. Theo quyết định của Thủ tướng chính phủ Việt Nam 175/CT-TTg
ký ngày 21 tháng 09 năm 2010 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai
đoạn 2011 – 2015.
1. Khu vực nông thôn: những hộ có thu nhập bình quân từ 400.000
đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo. Những hộ có mức thu nhập bình quân
từ 401.000 đồng đến 520.000 đồng/người/tháng là hộ cận nghèo
2. Khu vực thành thị: những hộ có mức thu nhập bình quân 500.000
đồng/người/tháng. Những hộ có mức thu nhập bình quân từ 501.000 đồng đến
650.000 đồng/người/tháng là hộ cận nghèo
- Truyền thông (communication) là quá trình chia sẻ thông tin. Truyền thông là một
kiểu tương tác xã hội trong đó ít nhất có hai tác nhân tương tác lẫn nhau, chia sẻ
các qui tắc và tín hiệu chung. Ở dạng đơn giản, thông tin được truyền từ người
gửi tới người nhận. Ở dạng phức tạp hơn, các thông tin trao đổi liên kết người gửi
và người nhận. Phát triển truyền thông là phát triển các quá trình tạo khả năng để
12


một người hiểu những giừ người khác nói (ra hiệu, hay viết), nắm bắt ý nghĩa của
các thanh âm và biểu tượng, và học được cú pháp của ngôn ngữ.
- Báo in là thể loại báo chí xuất hiện lâu đời nhất, hình thức thể hiện trên giấy, có
hình ảnh minh họa.

VI. ĐỐI TƯỢNG, KHÁCH THỂ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

1. Đối tượng nghiên cứu:
- Thực trạng đăng tải các bài viết về vần đề nghèo đói trên hai báo Nhân Dân và báo

Hà Nội mới.
2. Khách thể nghiên cứu: báo Nhân Dân và báo Hà Nội mới.
- Báo Nhân Dân là đơn vị sự nghiệp Trung ương của Đảng, đặt dưới sự lãnh đạo

trực tiếp và thường xuyên của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, có chức năng là cơ quan
ngôn luận của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, ngọn cờ chính trị - tư tưởng
của Đảng trên mặt trận báo chí nước ta ; cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân
dân.
Về tổ chức bộ máy, báo Nhân Dân là cơ quan sự nghiệp cố thủ, được tổ chức
thành Bộ Biên tập, với cơ quan lãnh đạo, quản lý tờ báo gồm Tổng Biên tập, các
13


phó Tổng Biên Tập, các ủy viên. Cơ cấu tổ chức của báo Nhân Dân gồm 25 đầu
mối và các ban biên tập chuyên môn, các vụ và đơn vị trực thuộc.
- Báo Hà Nội mới là tiếng nói của cơ quan Thành ủy đảng cộng sản Việt Nam TP

Hà Nội. Đây là tờ nhật báo tổ chức Đảng ở Thủ đô phát hành hàng ngày, chủ yếu
tại Hà Nội. Tờ báo này thể hiện đặc trưng phong cách làm báo địa phương khu
vực phía Bắc với cơ chế còn mang đậm tính chất “thời bao cấp”.
Báo Hà Nội mới hàng ngày phát hành từ thứ 2 đến Chủ nhật, Qua thống kê
các tác phẩm báo chí đã đăng từ tháng 1/2008 đến tháng 6/2009 có: Tin: 34.625.
Trong đó, có 7.459 tin vắn, tin không ít (chiếm 21.5%). Bài: 10.206. Trong đó,
có: 72 tác phẩm thuộc thể loại phóng sự (chiếm 0,7%); 1.080 tác phẩm thuộc thể
loại bình luận (chiếm 10,5%).
Vì cả hai báo Nhân Dân và báo Hà Nội mới đều là đơn vị ngôn ngữ hàng
đầu cả Đảng và Nhà Nước, phản ánh trực tiếp và sâu sắc đời sống của người dân.

Chính vì vậy nhóm nghiên cứu chúng tôi quyết khảo sát nghiên cứu vấn đề nghèo
đói trên hai báo này để thấy được thực trạng đăng tải các bài báo về nghèo đói.
Qua đó đề suất một số đóng góp giúp xóa đói giảm nghèo để thực hiện mục tiêu
phát triển Đất Nước.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian trên hai báo Nhân Dân và báo Hà Nội Mới
- Thời gian các số báo ra từ tháng 9 năm 2012 trở về trước cho tới khi mỗi báo tìm

được 100 bài viết có nội dung xoay quanh nghèo đói.
VII.
Ý NGHĨA CỦA BÁO CÁO
1. Ý nghĩa lý luận.
Về mặt lý luận, đề tài nghiên cứu này sẽ đóng góp vào số lượng đề tài xã hội
học về phân tích thực trạng đăng tải của báo chí Việt Nam về vấn đề Nghèo đói.
Từ đó, chúng tôi cũng mong muốn nghiên cứu này sẽ là cơ sở và là nguồn số liệu
cần thiết cho các nghiên cứu tiếp theo.
2. Ý nghĩa thực tế.
14


Nghiên cứu đưa ra khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng bài viết liên quan
đến vấn đề đói nghèo, góp phần vào đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo ở
nước ta.

B. BÁO CÁO THỰC TRẠNG ĐĂNG TẢI CÁC BÀI
VIẾT VỀ THỰC TRẠNG NGHÈO ĐÓI VÀ GIẢI PHÁP
XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
(KHẢO SÁT TRÊN HAI BÁO NHÂN DÂN VÀ BÁO HÀ NỘI MỚI)

15



I.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Cho đến hôm nay, đói nghèo vẫn là nỗi ám ảnh thường trực đối với cả loài
người. Thế giới đã chứng kiến những thảm họa của chiến tranh, thảm họa của thiên
tai, dịch bệnh với bao nỗi kinh hoàng. Thế nhưng hậu quả do những nạn đói gây ra
cũng vô cùng khủng khiếp. Điều đáng sợ hơn nữa là: Nếu như các cuộc chiến tranh
dù khốc liệt vô cùng nhưng rồi trước sau cũng được giải quyết, nếu như những
thảm họa do thiên tai, dịch bệnh gây ra từng bước cũng sẽ được khắc phục thì vấn
đề nghèo đói của nhân loại lại là một vấn đề vừa cấp bách, vừa phức tạp lại như
một căn bệnh kinh niên khó bề chạy chữa.
Đói nghèo là nỗi bất hạnh và là một phi lý lớn. Trong khi nền văn minh thế giới
đã đạt được những thành tựu hiển nhiên về tiến bộ khoa học - công nghệ, làm tăng
đáng kể của cải vật chất xã hội, tăng thêm vượt bậc sự giàu có cho con người, thì
thảm cảnh đeo đẳng mãi trên lưng con người lại vẫn là sự nghèo đói. Hàng tỷ
người, thực tế là một phần ba số dân thế giới vẫn khốn cùng và đói khát. Thiệt thòi
lớn nhất là trẻ em. Hằng ngày có gần 100 triệu trẻ em không có cái ăn, trên 100
16


triệu trẻ em vô gia cư chỉ sống nhờ của bố thí hoặc sống dựa vào sự lao động quá
sức, kể cả bằng các nghề đặc biệt là móc túi, mại dâm; trên 50 triệu trẻ em làm việc
trong những ngành có hại; hàng trăm triệu trẻ em tuổi từ 6 - 11 không được cắp
sách đến trường.
Đói nghèo diễn ra trên tất cả các châu lục với những mức độ khác nhau. Đặc
biệt ở các nước đang phát triển, sự đói nghèo của dân cư đang là một vấn đề nhức
nhối rất cấp bách phải tháo gỡ nhưng cũng vô cùng khó khăn trong việc thực hiện
xóa đói giảm nghèo.

Ở Việt Nam cho đến hôm nay, theo số liệu của chương trình phát triển Liên
Hiệp Quốc ở Việt Nam vào năm 2004 chỉ số phát triển con người của Việt Nam
xếp hạng 112 trên 177 nước, chỉ số phát triển giới xếp 87 trên 144 nước và chỉ số
nghèo tổng hợp xếp hạng 41 trên 95 nước. Cũng theo số liệu của chương trình phát
triển Liên Hợp Quốc, vào năm 2002 tỷ lệ nghèo theo chuẩn của quốc gia của Việt
Nam là 12,9%, theo chuẩn của Thế giới là 29% và tỷ lệ lương thực(%số hộ nghèo
ước lượng năm 2002) là 10,87%. Vào đầu thập niên 1990, chính phủ Việt Nam đã
phát động chương trình xóa đói giảm nghèo cùng lời kêu gọi của ngân hàng thế
giới. UNDP cho rằng mặc dù Việt Nam đã đạt được tăng trưởng kinh tế bền vững
và kết quả rất ấn tượng giảm tỷ lệ nghèo, song vẫn còn tồn tại tình trạng nghèo
cùng cực ở một số vùng. Để đạt được các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, Việt
Nam cần phải giải quyết tình trạng nghèo cùng cực.
Cho đến năm 2009, theo chuẩn nghèo trên, cả nước Việt Nam có khoảng 2 triệu
hộ nghèo, đạt tỷ lệ 11% dân số. Tuy nhiên, trên diễn đàn quốc hội Việt Nam, rất
nhiều đại biểu cho rằng tỷ lệ hộ nghèo giảm không phản ánh thực chất vì số người
nghèo trong xã hội không giảm, thậm chí còn tăng do lạm phát(khoảng 40% kể từ
ban hành chuẩn nghèo đến nay) và là do suy giảm kinh tế. Chuẩn nghèo quốc gia
của Việt Nam hiện nay là gồm những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000
17


đến 260.000 đồng/người/tháng. Mặc dù vậy nhiều hộ gia đình vừa thoát nghèo vẫn
rất dễ rơi vào cảnh nghèo đói.
Đói nghèo đang là vấn đề xã hội bức xúc và nóng bỏng của các quốc gia trên
thế giới. Vì vậy, đây là vấn đề được các Chính phủ, các nhà lãnh đạo, các tổ chức
quốc tế quan tâm để tìm ra giải pháp hạn chế và tiến tới xóa bỏ nạn đói trên phạm
vi toàn cầu.
Xóa đói giảm nghèo không chỉ là công việc trước mắt mà còn là nhiệm vụ lâu
dài. Trước mắt là xóa hộ đói, giảm hộ nghèo; lâu dài là xóa sự nghèo, giảm khoảng
cách giàu nghèo, phấn đấu xây dựng một xã hội giàu mạnh, công bằng, dân chủ,

văn minh.
Xóa đói giảm nghèo không đơn giản là việc phân phối lại thu nhập một cách thụ
động mà phải tạo ra động lực tăng trưởng tại chỗ, chủ động tự vươn lên thoát
nghèo. Xóa đói giảm nghèo không đơn thuần là sự trợ giúp một chiều của tăng
trưởng kinh tế đối với các đối tượng xã hội có nhiều khó khăn mà còn là nhân tố
quan trọng tạo ra một mặt bằng tương đối đồng đều cho phát triển, tạo nên thêm
một lực lượng sản xuất dồi dào và bảo đảm sự ổn định do giai đoạn “cất cánh”.
Do đó, xóa đói giảm nghèo là một trong những mục tiêu tăng trưởng (cả trên
góc độ xã hội và kinh tế), đồng thời cũng là một điều kiện (tiền đề) cho tăng trưởng
nhanh và bền vững.
Xóa đói giảm nghèo là một yếu tố cơ bản để đảm bảo công bằng xã hội và tăng
trưởng bền vững, ngược lại chỉ có tăng trưởng cao, bền vững mới có sức mạnh vật
chất để hỗ trợ và tạo cơ hội cho người nghèo vươn lên thoát đói nghèo. Do đó, xóa
đói giảm nghèo được coi là một bộ phận cấu thành của chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội hằng năm của cả nước, các ngành và các địa phương.
Hơn nữa, Nghèo là vấn đề quan trọng của Việt Nam trong định hướng Xã hội
Chủ nghĩa, nghiên cứu về nghèo đói giúp các nhà làm chính sách có cơ sở để ra
18


các quyết định về phát triển kinh tế - xã hội nói chung cũng như XĐGN nói riêng.
Do đó, yêu cầu bức thiết là phải có thêm nhiều nghiên cứu nghèo đói ở cấp vùng
và cấp địa phương với nhiều cách tiếp cận khác nhau kể cả định tính và định
lượng. Thực hiện nhiều nghiên cứu hơn với những thông tin chi tiết hơn, chính xác
hơn sẽ là bước đầu tiên quan trọng trong mọi chiến lược phát triển ở Việt Nam.
Chính vì vậy với mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào các công trình nghiên
cứu về nghèo đói. Trong bài tiểu luận này tập trung vào nghiên cứu về thực trạng
nghèo đói và một số giải pháp xóa đói giảm nghèo trên hai báo Nhân Dân và báo
Hà Nội mới.
II. THỰC TRẠNG NGHÈO ĐÓI.


Trước tiên ta thấy được vấn đề nghèo đói được đề cập đến trên cả phạm vi Thế
giới và Việt Nam. Qua đó ta thấy được mức độ và tầm ảnh hưởng vĩ mô của nó đến
sự phát triển đất nước của các quốc gia trên thế giới. Chính vì vậy mà vấn đề
nghèo đói đã và đang là vấn đề mà các nhà khoa học, các cấp lãnh đạo và hơn hết
là giới truyền thông đa phương tiện hết sức quan tâm, nhằm đưa đến cho bạn đọc
những thông tin nhanh và chính xác nhất về thực trạng nghèo đói để từ đó người
dân tự điều chỉnh hành vi cũng như đẩy mạnh những trương trình nhằm nâng cao
công tác xóa đói giảm nghèo để thực hiện mục tiêu phát triển quốc gia của mỗi đất
nước.
Các ước tính chính xác nhất cho tình hình nghèo đói toàn cầu đến từ Nhóm
Nghiên cứu Phát triển của Ngân hàng Thế giới (WB), vừa cập nhật dữ liệu từ năm
2005 cho những số liệu tuyệt đối về số lượng người sống trong cảnh nghèo đói
(tránh nhầm lẫn với các biện pháp tương đối thường được sử dụng ở các nước
giàu). Các ước tính mới cho thấy, trong năm 2008, năm đầu tiên của cuộc khủng
hoảng tài chính và lương thực, cả số lượng và tỷ lệ người có mức sống dưới 1,25
USD/ngày (mức được xếp loại nghèo đói theo chuẩn giá cả năm 2005) đã giảm
19


trên mọi khu vực của thế giới. Đây là lần suy giảm rộng khắp đầu tiên kể từ khi
WB bắt đầu tổng hợp số liệu năm 1981.
Thực trạng đói nghèo trên thế giới đang diễn ra theo chiều hướng rất đáng báo
động. Theo một nghiên cứu của WB, nguy cơ đối với người nghèo đang tiếp tục
gia tăng trên quy mô toàn cầu, và tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm trong năm
2009 đã đẩy thêm 53 triệu người nữa rơi vào tình trạng nghèo đói, thêm vào con số
130-155 triệu người của năm 2008, khi giá nhiên liệu và thực phẩm tăng cao. Hơn
nữa, suy thoái kinh tế dự kiến mỗi năm sẽ đe dọa thêm mạng sống của 200.000 đến
400.000 trẻ em trong giai đoạn 2010-2015, theo đó 1,4 đến 2,8 triệu trẻ em có thể
bị tử vong nếu khủng hoảng tiếp diễn.

Năm 2000, các nước trên thế giới đã thống nhất đề ra mục tiêu này, theo đó
giảm một nửa số người nghèo đói vào năm 2015. Tuy nhiên, trong bối cảnh các
cuộc khủng hoảng lương thực, tài chính diễn ra liên tiếp đẩy số người nghèo tăng
cao như hiện nay, đối với nhiều nước, mục tiêu này là bất khả thi.
Việt Nam được xếp vào nhóm các nước nghèo của thế giới. Tỷ lệ hộ đói nghèo
của Việt Nam khá cao. Theo kết quả Điều tra mức sống dân cư (theo chuan nghèo
quốc tế), tỷ lệ đói nghèo năm 1998 là trên 37% và ước tính năm 2000 tỷ lệ này
khoảng 32% (giảm khoảng 1/2 tỷ lệ hộ nghèo so với năm 1990). Nếu tính theo
chuẩn đói nghèo về lương thực, thực phẩm năm 1998 là 15% và ước tính 2000 là
13%. Theo chuẩn nghèo của chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia mới, đầu
năm 2000 có khoảng 2,8 triệu hộ nghèo, chiếm 17,2% tổng số hộ gia đình trong cr
nước.
Theo số liệu thống kê của Bộ lao động – thương binh và xã hội đến cuối năm
2006, cả nước có 61 huyện với số dân 2,4 triệu người thuộc 20 tỉnh có tỷ lệ nghèo
trên 50%.
20


Các bài báo trên báo Nhân Dân và báo Hà Nội mới viết về vấn đề nghèo đói
chủ yếu được đề cập trên bốn lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, y tế và giáo dục. Đó là
bốn yếu tố liên quan cũng như có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc sống
người dân và từ đó đưa ra tiêu chuẩn nghèo đói của mỗi quốc gia, mỗi khu vực. Ta
thấy rõ ở bảng sau:

Bảng 1: Lĩnh vực được đề cập đến trong bài viết
Lĩnh vực

Tổng số bài viết (bài)

Phần trăm(%)


Kinh tế

143

71,5%

Văn hóa

8

4%

Y tế

21

10,5%

Giáo dục

28

14%

Tổng

200

100%


Qua bảng số liệu trên ta thấy được các lĩnh vực chính của nghèo đói đề cập
đến. Trong đó lĩnh vực kinh tế có 143 bài trên 200 bài chiếm tỷ lệ 71,5%. Văn hóa
có 8 bài chiếm 4%. Ytế có 21 bài chiếm 10,5% và giáo dục có 28 bài chiếm 14%.

21


Lĩnh vực kinh tế có số lượng bài báo phản ánh về nghèo đói chiếm tỷ lệ cao
nhất. Kinh tế thể hiện sự phát triển thịnh vượng của một quốc gia được tính qua
mức thu nhập bình quân GDP đầu người của mỗi quốc gia trong một thời gian nhất
định. Đa sô những người nghèo có cuộc sống rất khó khăn, cực khổ. Họ là những
người có thu nhập thấp, bấp bênh, không ổn định. Hiện nay, do tính chất công việc
được nâng lên nhưng trình độ nhận thức của người lao động còn nhiều hạn chế,
chính vì vậy mà chưa đáp ứng được nhu cầu công việc dẫn tới trình trạng thiếu lao
động chuyên môn nhưng dư thừa lao động phổ thông làm cho tỷ lệ nghèo đói càng
tăng cao. Hơn nữa, do điều kiện khách quan nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu
vừa trải qua một cuộc chiến tranh lâu dài và gian khổ, cơ sở hạ tầng bị tàn phá,
ruộng đồng bị bỏ hoang, bom mìn, nguồn nhân lực chính của các hộ gia đình bị sút
giảm do mất mát trong chiến tranh, thương tật, hoặc phải xa gia đình để tham gia
chiến tranh, học tập cải tạo trong thời gian dài chính vì vậy mà nguồn nhân lực
trong lao động sản xuất thì thiếu hụt, nghèo nàn, không đáp ứng được nhu cầu
công việc. Thu nhập thấp dẫn tới tăng trưởng kinh tế nghèo nàn.
Lĩnh vực thứ hai được các bài báo đề cập về vấn đề nghèo đói là giáo dục. Có
28 bài trên 200 bài chiếm tỷ lệ 14% tổng số bài viết. Thất học, mù chữ, thiếu hiểu
biết chính là con đường thất nghiệp và đói nghèo của hàng trăm, hàng triệu thanh
niên, đặc biệt là những người tới tuổi đi làm ở nhiều quốc gia Trung Á và Trung Đông Âu. Tại những khu vực trên, hiện có khoảng 20% thanh niên thất nghiệp, cao
hơn mức bình quân 12% của toàn thế giới. Giáo dục là yếu tố quyết định nhất trong
tất cả các yếu tố quyết định nhằm đưa một đất nước, một quốc gia thoát ra khỏi
nghèo nàn và lạc hậu. Đối với các quốc gia, đổi mới hay cải cách giáo dục luôn

luôn là yêu cầu thường xuyên, bức thiết nếu không muốn bị tụt hậu trong cuộc
chạy đua phát triển diễn ra ngày càng gay gắt.

22


Từ năm 1999-2005, trên toàn thế giới, số trẻ em bỏ học giảm từ 96 triệu xuống
còn 72 triệu người. Tuy nhiên, trong khu vực Đông Nam Á, các quốc gia đang phải
đối mặt với những thách thức lớn về số trẻ em bỏ học là: Việt Nam (1 triệu người),
Philippines (648.000 người), Myanmar (487.000 người), Thái Lan (419.000 người)
và Indonesia (414.000 người).
Thứ ba là Y tế cũng là một trong các lĩnh vực có mức ảnh hưởng rất lớn đến vấn
đề nghèo đói của các nước đang phát triển. Trong tổng số khảo sát 200 bài thì có
21 bài báo chiếm 10,5% đề cập đến vấn đề nghèo đói trên lĩnh vực y tế. Y tế cũng
có sự tác động trực tiếp đến sự phát triển đi lên hay tụt lùi của một quốc gia. Khi
một cộng đồng có tỷ lệ bệnh tật cao, sự thiếu vắng lao động cao, năng suất giảm
sút và sẽ có ít của cải được tạo ra. Ngoài sự khổ cực, đau buồn và chết chóc, bệnh
tật còn là một nhân tố chính của sự nghèo đói. Sự khỏe mạnh không chỉ giúp các
cá nhân mà còn góp phần xóa đói nghèo.
Nền kinh tế cũng sẽ trở nên mạnh hơn với lực lượng dân số khỏe. Để nâng cao
sức khỏe góp phần xóa đói nghèo việc giúp người dân tiếp cận nguồn nước uống
sạch và an toàn, sự di chuyển các cơ sở vệ sinh dịch tễ ra khỏi nguồn cung cấp
nước cũng như kiến thức về vệ sinh và phòng bệnh thậm chí còn mang lại hiệu quả
lớn hơn là cung cấp bác sỹ, cơ sở y tế và thuốc men, những giải pháp chữa trị tốn
kém.
Chúng ta hiểu rằng việc tiếp cận chăm sóc y tế là vấn đề về quyền con người,
quyền được giảm thiểu đau đớn và nâng cao chất lượng cuộc sống. Đó là tất cả
những yếu tố làm nên một lực lượng dân số khỏe. Điều cần bàn luận ở đây là đói
nghèo không chỉ thể hiện bằng tỉ lệ tử vong và tình trạng bệnh dịch cao mà còn cả
những hậu quả chúng gây ra và dân số khỏe giúp xóa đói nghèo.


23


Thứ tư là văn hóa. Lĩnh vực văn hóa có 8 bài trên tổng số 200 có nội dung đề
cập đến nghèo đói về văn hóa, chiếm 4%. Tuy số lượng bài báo phán ảnh không
cao nhưng ta cũng biết văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và
phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại
tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn
hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa.
Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội
của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được
biểu hiện trong các hình thức tổ chức đời sống và hoạt động của con người cũng
như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra. Sự nghèo đói của
văn hóa được thể hiện qua nếp sống, qua các phong tục tập quán tiên tiến hay lạc
hậu, qua cách tiếp cận cách thành tựu khoa học nhân loại hay qua chính những
hoạt động sống, hoạt động sản xuất vật chất hàng ngày cũng thể hiện sự văn hóa
của một quốc gia, một dân tộc. Nước ta là nước nông nghiệp lúa nước từ lâu đời,
cũng chính từ nền văn minh nông nghiệp ấy mà hình thành nên một bề dày văn hóa
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, thế hiện nét đẹp văn minh của con người. Song
bên cạnh đó ở những vùng sâu vùng xa, miền núi…vẫn còn tồn tại những phong
tục tập quán cổ hủ, lạc hậu gây trở ngại đến sự phát triển con người, làm kìm hãm
sự phát triển của đất nước…từ đó cũng chính là nguyên nhân dẫn đến nghèo đói
cho quốc gia đó.
Bảng 2: Tương quan về lĩnh vực nghèo đói qua hai báo:

Tên báo

Tổng(%)


Lĩnh vực nghèo đói được đề cập
Kinh tế

Văn hóa

Y tế

24

Giáo dục


Nhân Dân

71

3

9

17

100%

Hà Nội mới

72

5


12

11

100%

Qua bảng và biểu đồ trên ta thấy sự tương quan về mức độ đề cập các lĩnh vực
nghèo đói trên hai báo Nhân Dân và báo Hà Nội mới có sự chênh lệch không đáng
kể trong cả bốn lĩnh vực của nghèo đói. Ta thấy được mức quan tâm cũng như đề
cập của hai báo là như nhau. Mục đích của giới truyền thông muốn đề cập đó chính
là các lĩnh vực gây ra nghèo đói để từ đó các nhà khoa học, các cấp lãnh đạo có
chính sách hay những trương trình thiết thực nhằm xóa đói giảm nghèo, thực hiện
mục tiêu phát triển quốc gia.
Theo như trong 200 bài báo khảo sát ta thấy các bài báo tập trung vào 6 biểu
hiện cơ bản của nghèo đói: gia tăng dân số, thất nghiệp, thiếu việc làm; thu nhập
thấp, bấp bênh, không ổn định; thiếu thốn cơ sở vật chất; dịch bệnh tăng cao; tệ
nạn xã hội tăng cao; thiếu thốn trong tiếp cận dịch vụ: văn hóa, y tế, giáo dục…

Bảng 3: thực trạng đăng tải của nghèo đói được đề cập trong bài viết:
Thực trạng

Tổng số bài viết
(bài)

Phần trăm(%)

Gia tăng dân số, thất nghiệp

19


9,5%

Thu nhập thấp, bấp bênh

37

18,5%

25


×