Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 112 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐẾ TÀI
Trong thời đại ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ và trở
thành một xu thế phổ biến trên thế giới, biểu hiện rõ nét của xu thế này chính là việc
ra đời của các liên kết khu vực và quốc tế như ASEAN, EU, WTO… mục tiêu là
thúc đẩy tự do hóa thương mại quốc tế, giảm dần và tiến tới xóa bỏ các hàng rào bảo
hộ do các quốc gia áp đặt nhằm cản trở tự do hóa thương mại. Việt Nam cũng không
nằm ngoài xu thế đó, với việc gia nhập hiệp hội ASEAN, ký kết hiệp định thương
mại song phương với Hoa Kỳ, và gần đây nhất là sự kiện nước ta chính thức trở
thành thành viên thứ 150 của WTO đã đánh dấu quá trình hội nhập đầy đủ của Việt
Nam vào kinh tế thế giới.
Có thể nói, việc chính thức là thành viên của WTO đem lại cho Việt Nam
những cơ hội và cũng đặt ra nhiều thách thức. Muốn thành công chúng ta phải thấy
được hết thách thức, tận dụng cơ hội để đẩy lùi thách thức. Suy cho cùng cơ hội và
thách thức chính là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Ngân hàng là một trong những lĩnh vực được mở cửa mạnh nhất sau khi Việt
Nam gia nhập WTO, thách thức lớn nhất của ngành ngân hàng là đối mặt với sự cạnh
tranh ngày càng quyết liệt mạnh mẽ hơn. Để giành thế chủ động trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế, hệ thống ngân hàng Việt Nam cần cải tổ cơ cấu một cách mạnh
mẽ để trở thành hệ thống ngân hàng đa dạng về hình thức, có khả năng cạnh tranh cao,
hoạt động an toàn và hiệu quả, huy động tốt các nguồn vốn trong xã hội và mở rộng
đầu tư đáp ứng nhu cầu của phát triển đất nước.Là một người đang công tác trong lĩnh
vực đào tạo về ngân hàng,với mong muốn các Ngân hàng thương mại Việt Nam phát
triển bền vững trong xu thế hội nhập tôi đã quyết định thực hiện chuyên đề nghiên cứu
với đề tài: “Năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại Việt Nam trong
thời kỳ hội nhập quốc tế”.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
- Hệ thống hóa lý thuyết về hội nhập quốc tế và cạnh tranh trong kinh doanh
ngân hàng.




2

- Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng
thương mại Việt Nam, những kết quả đạt được và những tồn tại, tìm ra nguyên nhân
của những vấn đề còn tồn tại.
- Hình thành giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các
Ngân hàng thương mại Việt Nam, đảm bảo an toàn và phát triển bền vững trong tình
hình hội nhập kinh tế quốc tế.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: Là những vấn đề liên quan đến hội nhập quốc tế và
năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại Việt Nam trong điều kiện hội nhập
quốc tế.
- Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của các
Ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, kết hợp với các phương pháp
thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp… nhằm làm rõ vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp thu thập, xử lý số liệu: Số liệu thứ cấp được thu thập từ các
Báo cáo thường niên, Bản công bố thông tin, từ cơ quan thống kê, tạp chí… và
được xử lý trên máy tính.
- Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu, kỹ thuật sẽ sử dụng (luận cứ rõ cách
tiếp cận, thiết kế nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, kỹ thuật sẽ sử dụng, so sánh với
các phương thức giải quyết tương tự khác, nêu được tính mới, tính độc đáo, tính sáng
tạo của đề tài)
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: sưu tầm tài liệu thông qua các kết quả nghiên
cứu đã có ở nước ngoài cũng như trong nước làm cơ sở lý luận cũng như phân tích so
sánh thực tế.
5. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

Tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nói chung và của ngân hàng
thương mại nói riêng là vấn đề được mọi quốc gia đặt lên hàng đầu, khi nền kinh tế
ngày càng bị ảnh hưởng sâu sắc bởi tiến trình hội nhập, tăng khả năng cạnh tranh là


3

con đường dẫn tới thành công của bất kỳ ngân hàng nào. Chính vì vậy, đề tài “Năng
lực cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
quốc tế” được thực hiện là có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
6. KẾT CẤU CỦA CHUYÊN ĐỀ
Ngoài phần mục lục, danh mục các chữ viết tắt, danh mục các bảng số liệu, phụ
lục, danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề có 104 trang được trình bày như sau:
Phần mở đầu
Chương 1: Hội nhập quốc tế và cạnh tranh trong kinh doanh ngân hàng
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng thương
mại Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế
Chương 3: Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các Ngân
hàng thương mại Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế
Phần kết luận


4

Chương 1

HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CẠNH TRANH TRONG KINH DOANH
NGÂN HÀNG
1.1. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng thời kỳ hậu WTO
1.1.1. Các khái niệm cơ bản về hội nhập quốc tế

Để tìm hiểu khái niệm “Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng” chúng
ta lần lượt tìm hiểu các khái niệm “Toàn cầu hóa kinh tế”, “Khu vực hóa kinh tế”,
“Hội nhập kinh tế quốc tế”, “Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ”
Toàn cầu hóa kinh tế: Là một quá trình trong quan hệ quốc tế làm tăng sự phụ
thuộc lẫn nhau về mọi mặt của đời sống xã hội (từ kinh tế, chính trị, an ninh, văn hóa
đến môi trường …) giữa các quốc gia.
Khu vực hóa kinh tế: Là hiện tượng trong quan hệ kinh tế quốc tế, bao gồm
các hoạt động hợp tác kinh tế giữa một số nước tập hợp thành những nhóm khu vực
(dưới dạng định chế/tổ chức) có mức độ liên kết kinh tế khác nhau.
Toàn cầu hóa và Khu vực hóa là quá trình hình thành và phát triển các thị
trường toàn cầu và khu vực, làm tăng sự tương tác và phụ thuộc lẫn nhau, trước hết
về kinh tế, giữa các nước thông qua sự gia tăng các luồng giao lưu hàng hóa và
nguồn lực qua biên giới giữa các quốc gia cùng với sự hình thành các định chế, tổ chức
quốc tế nhằm quản lý các hoạt động và giao dịch kinh tế quốc tế.
Toàn cầu hóa, khu vực hóa kinh tế ngày càng được khẳng định là một quá
trình tất yếu của sự phát triển lực lượng sản xuất thế giới và là một xu thế lớn của quan
hệ quốc tế hiện đại. Quá trình này được thúc đẩy bởi các nhân tố như sau:
+ Sự tiến bộ khoa học và công nghệ.
+ Sự quốc tế hóa cá hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là vai trong ngày
càng tăng của các công ty xuyên quốc gia
+ Chính sách mở cửa, tự do hóa thương mại và đầu tư ở các nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế: là quá trình chủ động gắn kết nền kinh tế thị trường
của từng nước với kinh tế khu vực và kinh tế thế giới thông qua các nỗ lực tự do hóa


5

và mở cửa trên các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương. Như vậy hội
nhập quốc tế thực chất cũng là sự chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, khu
vực hóa. Nói cách khác, hội nhập bao hàm các nỗ lực về mặt chính sách và thực hiện

của các quốc gia để tham gia vào các định chế, tổ chức kinh tế toàn cầu và khu vực.
Quá trình hội nhập làm cho nền kinh tế mỗi nước ngày càng liên kết chặt chẽ
với các nền kinh tế thành viên khác, từ đó làm cho nền kinh tế thế giới phát triển
theo hướng tạo ra một thị trường chung thống nhất trong đó những cản trở đối với sự
giao lưu và hợp tác quốc tế giảm và dần dần mất đi, sự cạnh tranh trở nên gay gắt. Bởi
vậy hội nhập kinh tế quốc tế cũng có nghĩa là tham gia vào cuộc cạnh tranh kinh tế ở
cả trong và ngoài nước. Ngày nay, để khỏi bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển, các
quốc gia đều nỗ lực hội nhập vào xu thế chung, ra sức cạnh tranh kinh tế vì sự tồn tại
và phát triển của mình.
Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ: là quá trình mà các nước,
các khu vực thực hiện mở cửa cho sự tham gia của các yếu tố bên ngoài vào lĩnh vực
tài chính - tiền tệ, bao gồm vốn đầu tư (trực tiếp và gián tiếp), công nghệ, tín dụng
và lao động có trình độ chuyên môn cao.
Hội nhập quốc tế về tài chính - tiền tệ là thực hiện quá trình tự do hóa tài chính
tức là xóa bỏ các hạn chế, các định hướng hay ràng buộc trong việc phân bổ nguồn
lực tín dụng. Tự do hóa tài chính cũng đồng nghĩa với việc mở rộng cạnh tranh của
các định chế tài chính, cùng với việc chấm dứt phân biệt đối xử về pháp lý giữa các
loại hoạt động khác nhau.Tự do hóa tài chính bao gồm tự do hóa lãi suất, tự do hóa tỷ
giá hối đoái, giảm thiểu sử dụng công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc, xóa bỏ bao cấp vốn
thông qua chỉ định tín dụng, tự do hóa các hoạt động của các tổ chức tài chính trong
nước và quốc tế trên nền tảng của tự do hóa các tài khoản vãng lai và tài khoản vốn.
Hội nhập quốc tế là xu hướng phát triển tất yếu của kinh tế thế giới, nhất là đối
với các quốc gia đang phát triển. Hội nhập quốc tế nhằm mở cửa nền kinh tế, thực
hiện tự do hóa thương mại, dịch vụ để gia nhập vào cuộc canh tranh quốc tế bình
đẳng và cùng phát triển trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực ngân hàng.


6

1.1.2. Khái niệm hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng

Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng là quá trình mở cửa để đưa hệ
thống ngân hàng trong nước hòa nhập với hệ thống ngân hàng khu vực và thế giới,
hoạt động ngân hàng không còn bó hẹp trong phạm vi một nước, một khu vực mà mở
rộng trên phạm vi toàn cầu. Hoạt động ngân hàng phải tuân thủ theo quy luật thị
trường và các nguyên tắc kinh doanh quốc tế, hoạt động ngân hàng được thực hiện
theo tín hiệu thị trường mà không bị ngăn chặn bởi các biện pháp quản lý hành chính.
Lãi suất, tỷ giá và hoạt động tín dụng… đều do thị trường quyết định.
Quá trình hội nhập của hệ thống ngân hàng có thể hiểu là quá trình cải cách
từng bước hệ thống ngân hàng xuất phát từ yêu cầu thực tế của quá trình toàn cầu hóa
nền kinh tế quốc gia, vì có như vậy hệ thống ngân hàng mới có thể đảm nhiệm và
phát huy được vai trò trung gian tài chính của mình trong bối cảnh nền kinh tế mới
với nhiều biến động phức tạp của thị trường quốc tế nói chung và thị trường nội địa
nói riêng.
Thực hiện hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng đòi hỏi chính phủ và
NHTW phải xóa bỏ những ưu đãi, tiến tới cạnh tranh bình đẳng giữa các ngân hàng
trong và ngoài nước. Do đó, mức độ hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng có
mối quan hệ chặt chẽ với mức độ tự do hóa tài chính - tiền tệ. Việc thực hiện tự do
hóa tài chính - tiền tệ càng sâu rộng có hiệu quả thì việc hội nhập ngân hàng càng
thuận lợi.
Cho đến nay, cả lý luận và thực tiễn phát triển của các nền kinh tế thế giới đều
khẳng định rằng: một quốc gia muốn tồn tại, phát triển ổn định và bền vững cần phải
chủ động hội nhập quốc tế, đặc biệt là chủ động hội nhập thành công lĩnh vực tài
chính ngân hàng – lĩnh vực nhạy cảm và trọng yếu của nền kinh tế quốc dân.
1.1.3. Các nội dung về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng
Một là, dỡ bỏ những qui định về hạn chế số lượng nhà cung cấp dịch vụ ngân
hàng dưới hình thức quota theo số lượng để độc quyền, hạn chế tổng số các hoạt động
tác nghiệp hay tổng số dịch vụ ngân hàng đầu ra tính theo số lượng đơn vị dưới hình
thức quota theo số lượng; hạn chế tổng trị giá các giao dịch về dịch vụ ngân hàng và



7

tài sản dù dưới hình thức quota theo số lượng; hạn chế tổng số người được tuyển dụng
trong lĩnh vực cụ thể hay một nhà cung cấp dịch vụ được phép tuyển dụng và
những người cần thiết liên quan trực tiếp tới việc cung cấp dịch vụ ngân hàng dưới
hình thức quota theo số lượng, dù những hạn chế đó ở quy mô vùng hay trên toàn lãnh
thổ (trừ khi có quy định trong danh mục cam kết cụ thể).
Hai là, đãi ngộ bình đẳng không phân biệt giữa các nhà cung cấp dịch vụ ngân
hàng của bất kỳ thành viên nào (dựa trên những điều kiện, điều khoản và những hạn chế
đã được thỏa thuận và quy định trên danh mục cam kết cụ thể của các thành viên mới).
Ba là, không áp dụng hạn chế về thanh toán và chuyển tiền quốc tế cho các dịch
vụ vãng lai (tuân thủ các cam kết cụ thể của các nước thành viên), trừ khi gặp phải tình
huống phải bảo vệ cán cân thanh toán.
Bốn là, cho phép người cung cấp dịch vụ ngân hàng của các nước thành viên
khác được đưa ra các dịch vụ mới trên lãnh thổ của mình.
Năm là, cho phép người cung cấp dịch vụ ngân hàng của bất kỳ nước thành
viên nào khác quyền được thành lập và mở rộng hoạt động trong lãnh thổ nước mình
kể cả việc mua lại các doanh nghiệp hiện tại hay một tổ chức thương mại.
Sáu là, cho phép người cung cấp dịch vụ ngân hàng tiếp cận hệ thống thanh
toán bù trừ do nhà nước điều hành và tiếp cận các thể thức cấp vốn và tái cấp vốn
trong quá trình kinh doanh thông thường.
Bảy là, các thành viên cam kết rằng trong những trường hợp nhất định, trợ
cấp có thể tác động bóp méo dịch vụ thương mại, các thành viên sẽ tiến hành đàm
phán nhằm định ra những quy tắc đa biên cần thiết để tránh những bóp méo đó.
Tám là, mỗi thành viên sẽ trả lời không chậm trễ khi có yêu cầu của bất kỳ
thành viên nào khác về những thông tin cụ thể về bất kỳ biện pháp nào được áp
dụng chung hay về hiệp định quốc tế.
1.1.4. Những cơ hội và thách thức về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng đối
với các nước đang phát triển
Hội nhập kinh tế cũng góp phần thúc đẩy quá trình thu hút nguồn vốn đầu tư,

tạo điều kiện giúp các NHTM phát triển các mối quan hệ đại lý, thanh toán quốc tế,


8

tài trợ thương mại, hợp tác đầu tư và trao đổi công nghệ... Hơn nữa, việc Việt Nam
gia nhập WTO cũng thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước chủ động trong việc
nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường để tồn tại và phát triển, không chỉ
ở trong nước mà còn mở rộng hoạt động ra nước ngoài.Việc thực hiện hội nhập
quốc tế nói chung và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng đều hàm
chứa trong đó cả những cơ hội và thách thức. Việc nghiên cứu chúng sẽ giúp chúng
ta tận dụng những cơ hội và chuẩn bị những điều kiện tốt nhất đối đầu với thách thức.
1.1.4.1. Những cơ hội
Hội nhập quốc tế mang lại nhiều cơ hội kinh tế cho mỗi quốc gia và toàn
thế giới. Những thành tựu thời gian qua mà các nước đang phát triển đạt được có sự
góp phần không nhỏ của quá trình hội nhập này, các cơ hội thể hiện ở những mặt chủ
yếu sau đây:
Một là, nhờ hội nhập quốc tế mà các ngân hàng trong nước có thể bổ sung
được nguồn vốn hoạt động từ các nguồn bên ngoài, tiếp cận được các công nghệ
ngân hàng tiên tiến, mở rộng hoạt động kinh doanh về ngoại hối, chứng khoán quốc
tế, phát triển các dịch vụ ngân hàng mới, tạo điều kiện cho các ngân hàng trong nước
đa dạng hóa hình thức kinh doanh, phân tán rủi ro.
Hai là, hội nhập sẽ tăng sức ép cạnh tranh từ bên ngoài, buộc các
NHTM trong nước phải cải tiến quản lý, tuân thủ các nguyên tắc thị trường, đổi mới
kiểm soát nội bộ, phòng ngừa rủi ro và giám sát an toàn hoạt động, mở rộng phạm vi
cung cấp dịch vụ tốt hơn, cải thiện vị thế của mỗi ngân hàng trên thị trường thế giới.
Ba là, hội nhập vào cộng đồng tài chính quốc tế, cùng với dòng vốn vào là kinh
nghiệm quản lý, kỹ thuật phòng ngừa rủi ro, công nghệ và sản phẩm mới được đưa
vào thị trường nội địa. Các yếu tố này làm tăng hiệu quả cung cấp dịch vụ của các
ngân hàng và các tổ chức tài chính, tăng cường khả năng quản lý rủi ro đối với các

hoạt động tài chính trong nước và quốc tế.
Bốn là, hội nhập đã thúc đẩy sự phát triển và trao đổi các dịch vụ tài chính,
ngân hàng giữa các nước. Các nước đang phát triển, nơi mà các ngân hàng trong
nước thường có chi phí hoạt động cao và lợi nhận thấp hơn các đối thủ cạnh tranh


9

nước ngoài thì sự xuất hiện của ngân hàng nước ngoài trên thị trường nội địa sẽ có
ảnh hưởng tích cực. Do sức ép cạnh tranh tăng lên đã thúc đẩy các ngân hàng nội
địa hoạt động hiệu quả hơn, nâng cao chất lượng dịch vụ để giữ vững và phát triển
thị phần, quản lý chặt chẽ chi phí để có lợi nhuận.
Năm là, việc hình thành các tập đoàn ngân hàng lớn cùng với quá trình mở
rộng hoạt động của chúng trên thế giới sẽ tạo cho ngân hàng này có nhiều lợi thế
trong cạnh tranh cũng như khả năng đối phó với những biến động thị trường. Sự
tham gia của các ngân hàng nước ngoài có tên tuổi này trên thị trường nội địa sẽ
có ảnh hưởng tích cực trong việc cải thiện các quy định giám sát và phòng ngừa
rủi ro, tuân thủ các chuẩn mực quốc tế về kế toán, công bố công khai. Mặt khác,
những ngân hàng ở các nước đang phát triển muốn thâm nhập vào thị trường các
nước cần phải đảm bảo đáp ứng được các yêu cầu và tiêu chuẩn của những thị
trường này mới nhận được giấy phép hoạt động.
1.1.4.2. Những thách thức
Thứ nhất, hội nhập xuất hiện sự thâm nhập của ngân hàng nước ngoài có thể gây
khó khăn cho nền kinh tế và đe dọa đến chủ quyền kinh tế quốc gia. Mở cửa cho sự
tham gia của NHNNg quá mức có thể gây ra hiện tượng những ngân hàng nước
ngoài lớn chi phối hoạt động cả hệ thống ngân hàng quốc gia và sự lệ thuộc của nền
kinh tế vào một số ít ngân hàng nước ngoài.
Thứ hai, hoạt động của NHNNg trên thị trường nội địa với những sản phẩm
mới cùng với các giao dịch trên một phạm vi rộng lớn và với tốc độ rất nhanh sẽ
gây khó khăn cho việc kiểm soát của các cơ quan quản lý, giám sát của từng quốc

gia. Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ và các sản phẩm dịch vụ ngân hàng
hiện đại làm cho nhiều hoạt động ngân hàng thoát khỏi sự kiểm soát của các cơ chế
giám sát đã đặt ra.
Thứ ba, các NHNNg hoạt động trên thị trường nội địa tạo ra áp lực cạnh tranh
gay gắt, có thể gây ra những xung đột về lợi ích giữa các nhóm khác nhau, ảnh
hưởng đến đặc quyền kinh doanh của các ngân hàng trong nước.
Thứ tư, trong môi trường vốn luân chuyển tự do giữa các nước, kích thích


10

các tổ chức trong nước nhận vốn vay nước ngoài một cách thiếu thận trọng. Nếu
những tổ chức kinh tế có hệ số nợ nước ngoài cao bị mất khả năng trả nợ sẽ ảnh
hưởng tiêu cực đến hệ thống ngân hàng. Do hiện tượng phản ứng theo kiểu “ hành
vi đám đông” có thể dẫn tới nhiều tổ chức có hệ số nợ cao đổ vỡ, nguy cơ này sẽ
nhanh chóng bị khuếch đại gây kho khăn cho hệ thống ngân hàng.
1.2. Cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại trong giai
đoạn hội nhập Quốc tế
1.2.1. Cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh ngân hàng giai đoạn hội nhập Quốc tế
1.2.1.1. Lý luận chung về cạnh tranh
Khái niệm về cạnh tranh: Cạnh tranh là hiện tượng tự nhiên, là mâu thuẫn
quan hệ giữa các cá thể có chung một môi trường sống khi cùng quan tâm tới một
đối tượng nào đó. Trong hoạt động kinh tế, cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ
thể kinh tế (nhà sản xuất, người tiêu dùng) nhằm giành lấy những vị thế lợi hơn
trong sản xuất, tiêu thụ hay tiêu dùng hàng hóa để thu được nhiều lợi ích nhất cho
mình. Cạnh tranh có thể xảy ra giữa những nhà sản xuất với nhau hoặc có thể xảy ra
giữa người sản xuất với người tiêu dùng khi người sản xuất muốn bán hàng hóa với
giá cao, người tiêu dùng lại muốn mua được với giá thấp. Cạnh tranh mang lại
nhiều lợi ích, đặc biệt cho người tiêu dùng. Người sản xuất phải tìm mọi cách để
làm ra sản phẩm có chất lượng hơn, đẹp hơn, có chi phí sản xuất rẻ hơn, có tỷ lệ tri

thức khoa học, công nghệ cao hơn...để đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của khách hàng.
Cạnh tranh làm cho người sản xuất năng động hơn, nhạy bén hơn, nắm bắt tốt hơn
nhu cầu của khách hàng, thường xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng những tiến bộ,
những nghiên cứu mới nhất vào sản xuất; hoàn thiện cách thức tổ chức sản xuất,
quản lý sản xuất để nâng cao năng xuất, chất lượng và hiệu quả kinh tế.
Thuật ngữ “cạnh tranh” được sử dụng rất phổ biến hiện nay trong nhiều lĩnh
vực như kinh tế, thương mại, thể thao, …; cũng như thường xuyên được nhắc tới
trong sách báo chuyên môn, diễn đàn kinh tế, các phương tiện thông tin đại chúng
và thuật ngữ này được sự quan tâm của nhiều đối tượng khác nhau, từ nhiều góc độ
khác nhau, dẫn đến có rất nhiều khái niệm khác nhau về cạnh tranh.


11

Tiếp cận ở góc độ đơn giản thì cạnh tranh là hành động ganh đua, đấu tranh
các cá nhân, các nhóm, loài chống lại các cá nhân hay các nhóm, các loài khác vì
mục đích giành được sự tồn tại, sống còn, giành được lợi nhuận, địa vị, sự kiêu
hãnh, các phần thưởng hay những thứ khác. Trong kinh tế chính trị học thì cạnh
tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ thể trong nền sản xuất hàng hóa
nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng
hàng hóa để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Cạnh tranh có thể xảy ra
giữa những người sản xuất với người tiêu dùng; giữa người tiêu dùng với nhau để
mua được hàng rẻ hơn; giữa những người sản xuất để có những điều kiện tốt hơn
trong sản xuất và tiêu thụ.
Có quan điểm cho rằng, cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa
các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ
hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Paul Anthony Samuelson và William
Nordhaus lại cho rằng, cạnh tranh là sự đối đầu giữa các doanh nghiệp cạnh tranh
với nhau để giành khách hàng hoặc thị phần. Michael Porter thì cho rằng, cạnh
tranh là giành lấy thị phần. Bản chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản

lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có, kết quả quá
trình cạnh tranh là sự bình quân hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải
thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả có thể giảm đi.
Từ các quan điểm trên, có thể hiểu rằng, cạnh tranh trong kinh tế thị trường
là sự đối đầu giữa các chủ thể tham gia thị trường để giành những điều kiện thuận
lợi nhất trong sản xuất, tiêu thụ, tiêu dùng hàng hóa nhằm thu lại nhiều lợi ích nhất
cho chính họ.
Cạnh tranh của một doanh nghiệp, một ngành, một quốc gia là mức độ mà ở
đó trong các điều kiện về thị trường tự do và công bằng, có thể sản xuất ra các sản
phẩm hàng hóa và dịch vụ đáp ứng được các đòi hỏi của thị trường, đồng thời tạo ra
việc làm và nâng cao được thu nhập thực tế.
Một doanh nghiệp được xem là có sức cạnh tranh khi nó có thể thường xuyên
đưa ra các sản phẩm thay thế, mà các sản phẩm này có mức giá thấp hơn so với các


12

sản phẩm cùng loại, hoặc bằng cách cung cấp các sản phẩm tương tự với các đặc
tính về chất lượng hay dịch vụ ngang bằng hay tốt hơn.
Lợi thế cạnh tranh.
Lợi thế cạnh tranh là những gì làm cho doanh nghiệp nổi bật hay khác biệt so
với các đối thủ cạnh tranh. Đó là những thế mạnh mà tổ chức có hoặc khai thác tốt
hơn những đối thủ cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh cũng chỉ là khái niệm tương đối khi
so sánh một doanh nghiệp với đối thủ và nhận thức cách khách hàng đánh giá về
doanh nghiệp, khi tương lai thay đổi thì thang đo giá trị về lợi thế cạnh tranh cũng
sẽ thay đổi, ít, nhiều hoặc hoàn toàn.
Lợi thế cạnh tranh của một doanh nghiệp được thể hiện ở hai khía cạnh sau:
- Chi phí: Theo đuổi mục tiêu giảm chi phí đến mức thấp nhất có thể được.
Doanh nghiệp nào có chi phí thấp thì doanh nghiệp đó có nhiều lợi thế hơn trong quá
trình cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Chi phí thấp mang lại cho doanh nghiệp tỷ

lệ lợi nhuận cao hơn mức bình quân trong ngành bất chấp sự hiện diện của các lực
lượng cạnh tranh mạnh mẽ.
- Sự khác biệt hóa: Là lợi thế cạnh tranh có được từ những khác biệt xoay
quanh sản phẩm hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp bán ra thị trường. Những khác
biệt này có thể biểu hiện dưới nhiều hình thức, như: sự điển hình về thiết kế hay danh
tiếng sản phẩm, công nghệ sản xuất, đặc tính sản phẩm, dịch vụ khách hàng, mạng
lưới bán hàng.
Các yếu tố góp phần tạo nên lợi thế cạnh tranh trong doanh nghiệp
Lợi thế cạnh tranh là một trong những thế mạnh mà doanh nghiệp có hoặc
có thể huy động để có thể cạnh tranh thắng lợi. Để có thể tạo được lợi thế cạnh tranh,
các doanh nghiệp cần nghiên cứu các yếu tố sau:
- Nguồn gốc sự khác biệt: So với đối thủ cạnh tranh, doanh nghiệp có gì vượt
trội hơn về mặt giá cả sản phẩm, chất lượng sản phẩm hàng hóa, chất lượng sản
phẩm dịch vụ, mạng lưới phân phối.
- Thế mạnh của doanh nghiệp về cơ sở vật chất, nhà xưởng, trang thiết bị kỹ thật.
- Khả năng phát triển sản phẩm mới, đổi mới dây chuyền công nghệ, hệ thống


13

phân phối.
- Chất lượng của sản phẩm dịch vụ : thỏa mãn được nhu cầu ngày càng tăng của
khách hàng
- Khả năng đối ngoại: Khả năng liên kết với các doanh nghiệpp khác hoặc liên
doanh với nước ngoài, hoặc sử dụng sự trợ giúp của các tổ chức trong cạnh tranh.
- Khả năng tài chính: Khả năng của doanh nghiệp trong việc quản lý chi phí,
huy động vốn và thanh toán các nghĩa vụ tài chính.
- Sự thích nghi của tổ chức: Sự mềm dẻo của tổ chức để thích ứng với sự thay
đổi của môi trường. Sự thích nghi của hệ thống quyền lực lãnh đạo và tổ chức hành
chính trong lĩnh vực hoạt động.

- Khả năng tiếp thị: Nhiều doanh nghiệp thành công nhờ vào việc cố gắng cung
cấp nhiều giá trị hơn cho khách hàng, phát triển sản phẩm mới, nâng cao chất lượng
dịch vụ, phục vụ và phân phối sản phẩm.
1.2.1.2. Cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh ngân hàng
Khái niệm và đặc trưng về cạnh tranh của NHTM. Cạnh tranh của NHTM là
khả năng tạo ra và sử dụng có hiệu quả các lợi thế so sánh, để giành phần thắng trên
thị trường trong việc thu hút khách hàng,mở rộng thị phần, xây dựng uy tín, thương
hiệu...nhằm khẳng định vị trí của ngân hàng vượt lên khỏi các ngân hàng khác trong
cùng lĩnh vực hoạt động ấy.
Môi trường hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại (NHTM)
có sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Do xuất phát từ những đặc thù của hoạt động
kinh doanh ngân hàng và những ảnh hưởng của hoạt động ngân hàng đối với nền
kinh tế, cạnh tranh của NHTM có những đặc trưng riêng.
Một là, các NHTM vừa cạnh tranh gay gắt vừa hợp tác với nhau.
Cũng như bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào, trong hoạt động
của mình, các ngân hàng luôn phải cạnh tranh gay gắt với nhau để mở rộng thị
trường và thu hút khách hàng nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận.Tính chất gay gắt
trong cạnh tranh ngân hàng xuất phát từ đặc thù của sản phẩm, dịch vụ ngân hàng là
có tính tương đồng cao và rất dễ bị bắt chước. Mặt khác, trong cạnh tranh, các ngân


14

hàng không chỉ sử dụng các công cụ mang tính truyền thống như phí, lãi suất, các
dịch vụ ngân hàng,... mà còn sử dụng công nghệ hiện đại để đa dạng hoá các sản
phẩm dịch vụ, đưa ra các kênh phân phối mới và nâng cao chất lượng các sản
phẩm,dịch vụ, tinh thần, thái độ phục vụ khách hàng...Bên cạnh đó, do điều kiện về
vốn, mạng lưới, công nghệ có hạn trong khi nhu cầu, đòi hỏi về sản phẩm, dịch vụ
ngân hàng ngày càng cao nên các ngân hàng cũng phải liên kết với nhau để cùng
cung cấp một hay một số sản phẩm dịch vụ nhất định cho khách hàng. Vì vậy, để

tránh đổ vỡ toàn hệ thống cũng như tiết kiệm chi phí, đảm bảo an toàn trong kinh
doanh, các NHTM một mặt cạnh tranh với nhau, một mặt lại hợp tác chặt chẽ với
nhau trong cung cấp các sản phẩm dịch vụ cho khách hàng.
Hai là, cạnh tranh ngân hàng luôn phải hướng tới một thị trường lành mạnh ,
tránh khả năng xảy ra rủi ro hệ thống: Các NHTM phải cạnh tranh lành mạnh thông
qua cung cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng có chất lượng, đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu của khách hàng.Ngân hàng là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, đi vay để
cho vay nên nếu các ngân hàng cạnh tranh không lạnh mạnh, hoặc cạnh tranh thông
qua việc tăng lãi suất huy động tiền gửi, giảm lãi suất cho vay hay giảm phí dịch vụ,
nới lỏng các điều kiện tín dụng.
Ngân hàng là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, đi vay để cho vay lại nếu các
ngân hàng cạnh tranh không lành mạnh, hoặc cạnh tranh thông qua việc tăng lãi
suất huy động tiền gửi, giảm lãi suất cho vay, phí dịch vụ, nới lỏng các điều kiện tín
dụng... sẽ làm cho nguồn thu của các ngân hàng giảm sút, nguy cơ tiềm ẩn rủi ro tín
dụng tăng cao dẫn đến rủi ro hệ thống. Vì vậy, mặc dù cạnh tranh với nhau trong
hoạt động, các NHTM vẫn liên kết với nhau, có thể thoả thuận để giữ mặt bằng giá
cả phù hợp, đảm bảo lợi ích chung. Rủi ro trong hoạt động ngân hàng có tính lây lan
rất lớn. Nếu một ngân hàng có nguy cơ phá sản, khách hàng đồng loạt đến rút tiềm,
gây tâm lý hoang mang cho khách hàng gủi tiền tại các ngân hàng thương mại khác.
Điều này dễ dẫn đến khả năng đổ vỡ theo hiệu ứng domino mang tính hệ thống
trong đó tất cả các NHTM đều bị ảnh hưởng và tác động đến toàn bộ nền kinh tế
quốc dân.


15

Ba là, cạnh tranh ngân hàng phụ thuộc mạnh mẽ vào các yếu tố bên ngoài
ngân hàng như môi trường kinh doanh, doanh nghiệp, dân cư, tập quán dân tộc, hạ
tầng cơ sở…Cũng như bất kỳ doanh nghiệp nào,ngân hàng hoạt động và cạnh tranh
với nhau trong những môi trường và điều kiện kinh tế nhất định. Hoạt động kinh

doanh trong lĩnh vực ngân hàng chịu sự chi phối của luật pháp, các sản phẩm dịch
vụ ngân hàng đưa ra nhằm đáp ứng nhu cầu của những đối tượng khách hàng cụ
thể. Khách hàng của ngân hàng là các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần của nền
kinh tế. Do vậy, hoạt động kinh doanh ngân hàng cũng như sự cạnh tranh giữa các
ngân hàng luôn chịu sự tác động của môi trường bên ngoài ngân hàng.Với mỗi môi
trường kinh doanh nhất định, điều kiện kinh tế nhất định, khu vực địa lý nhất định,
ngân hàng cần có những chính sách phù hợp để đưa ra các sản phẩm, dịch vụ đáp
ứng nhu cầu của khách hàng, thu hút khách hàng, giành ưu thế trong cạnh tranh.
Bốn là, cạnh tranh ngân hàng nằm trong vùng ảnh hưởng thường xuyên
của thị trường tài chính quốc tế. Cùng với quá trình mở cửa, hội nhập nền kinh tế,
sự giao thoa về kinh tế giữa các quốc gia ngày càng mạnh mẽ. Các ngân hàng tăng
cường hợp tác với các ngân hàng nước ngoài cũng như mở rộng hoạt động kinh
doanh của mình ra thị trường các nước trên thế giới. Lộ trình hội nhập đòi hỏi các
NHTM trong nước phải tuân thủ các quy định quốc tế về hoạt động ngân hàng và sự
tác động của phiaí đối tác.Mỗi sự thay đổi của tỷ giá, lãi suất của các loại ngoại tệ
liên quan, điều kiện kinh tế trên thế giới, chính sách tiền tệ của các nước… đều ảnh
hưởng và tác động đến hoạt động kinh doanh của các NHTM trong nước. Do
vậy,trong cạnh tranh, các ngân hàng cũng phải có những chính sách thích hợp để
đối phó với những biến động của thị trường tài chính quốc tế.
Các nhân tố tác động đến mức độ cạnh tranh của các NHTM.
Các nhân tố thuộc môi trường vi mô
- Các NHTM mới tham gia thị trường: Các NHTM mới tham gia thị trường
với những lợi thế quan trọng như: mở ra những tiềm năng mới, có động cơ và ước
vọng giành được thị phần, đã tham khảo kinh nghiệm từ những NHTM đang hoạt động,
có được những thống kê đầy đủ và dự báo về thị trường…Như vậy, bất kể thực lực của


16

NHTM mới là thế nào, thì các NHTM hiện tại đã thấy một mối đe dọa về khả năng

thị phần bị chia sẻ; ngoài ra, các NHTM mới có những kế sách và sức mạnh mà các
NHTM hiện tại chưa thể có thông tin và chiến lược ứng phó.
- Các NHTM hiện tại: Đây là những mối lo thường trực của các NHTM trong
kinh doanh. Đối thủ cạnh tranh ảnh hưởng đến chiến lược hoạt động kinh doanh
của NHTM trong tương lai. Ngoài ra, sự có mặt của các đối thủ cạnh tranh thúc
đẩy ngân hàng phải thường xuyên quan tâm đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng
các dịch vụ cung ứng để chiến thắng trong cạnh tranh.
- Sức ép từ phía khách hàng. Một trong những đặc điểm quan trọng của ngành
ngân hàng là tất cả các cá nhân, tổ chức kinh doanh sản xuất hay tiêu dùng, thậm chí là
các ngân hàng khác cũng đều có thể vừa là người mua các sản phẩm dịch vụ ngân
hàng, vừa là người bán sản phẩm dịch vụ cho ngân hàng. Những người bán sản phẩm
thông qua các hình thức gửi tiền, lập tài khoản giao dịch hay cho vay đều có mong
muốn là nhận được một lãi suất cao hơn; trong khi đó những người mua sản phẩm (vay
vốn) lại muốn mình chỉ phải trả một chi phí vay vốn nhỏ hơn thực tế. Như vậy, ngân
hàng sẽ phải đối mặt với sự mâu thuẫn giữa hoạt động tạo lợi nhuận có hiệu quả và
giữ chân được khách hàng cũng như có được nguồn vốn thu hút rẻ nhất có thể.
- Sự xuất hiện các dịch vụ mới. Sự ra đời ồ ạt của các tổ chức tài chính trung
gian đe dọa lợi thế của các NHTM khi cung cấp các dịch vụ tài chính mới cũng
như các dịch vụ truyền thống vốn vẫn do các NHTM đảm nhiệm. Các trung gian
này cung cấp cho khách hàng những sản phẩm mang tính khác biệt và tạo cho người
mua sản phẩm có cơ hội chọn lựa đa dạng hơn, thị trường ngân hàng mở rộng hơn.
Điều này tất yếu sẽ tác động làm giảm đi tốc độ phát triển của các NHTM, suy giảm
thị phần. Ngày nay, người ta cho rằng, khi các NHTM mạnh lên nhờ sự rèn luyện
trong cạnh tranh, thì hệ thống NHTM sẽ mạnh hơn và có sức đàn hồi tốt hơn sau các
cú sốc của nền kinh tế.
Các nhân tố thuộc môi trường bên trong ngân hàng
Bên cạnh các nhân tố khách quan tác động đến năng lực cạnh tranh của các


17


NHTM, trên thực tế, nhóm các nhân tố thuộc về nội tại của hệ thống NHTM cũng
ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của các ngân hàng này, chúng bao gồm:
- Năng lực điều hành của ban lãnh đạo ngân hàng
- Quy mô vốn và tình hình tài chính của NHTM
- Công nghệ cung ứng dịch vụ ngân hàng
- Chất lượng nguồn nhân lực
- Cấu trúc tổ chức
- Danh tiếng và uy tín của NHTM
- Bên cạnh đó, đặc điểm sản phẩm và đặc điểm khách hàng của NHTM cũng
là nhân tố chi phối đến khả năng cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh của NHTM.
Cụ thể:
Đặc điểm sản phẩm: Cạnh tranh trong kinh doanh của NHTM bị chi phối bởi
các đặc điểm hoạt động kinh doanh của nó. Sản phẩm chính sử dụng trong hoạt
động kinh doanh của NHTM là tiền, đó là loại sản phẩm có tính xã hội và có tính
nhạy cảm cao, chỉ một biến động nhỏ (thay đổi lãi suất) cũng có ảnh hưởng to lớn
đến hoạt động kinh doanh của các NHTM nói riêng và hoạt động của toàn xã hội nói
chung. Từ đặc điểm này dẫn đến cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng trở nên quyết
liệt. Có nghĩa là, chính vì sản phẩm kinh doanh có tính nhạy cảm cao đã làm tăng tính
cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh của NHTM.
Đặc điểm khách hàng: Khách hàng của NHTM không phải là khách hàng luôn
“trung thành” mà rất dễ bị lôi kéo và thay đổi quan hệ giao dịch. Mức độ trung
thành của khách hàng phụ thuộc vào sự đối xử của NHTM với họ, mà cao nhất là lợi
ích trực tiếp thu được từ quan hệ giao dịch với ngân hàng. Khách hàng có thể ngay lập
tức thay đổi quan hệ với ngân hàng để tìm mối lợi lớn hơn nếu họ biết rằng mức lãi mà
họ nhận được cao (nếu là sản phẩm bán) và mức lãi suất thấp (nếu là sản phẩm mua)
so với ngân hàng họ quan hệ. Vì khách hàng thường có thể vừa là người mua vừa là
người bán của nhiều sản phẩm dịch vụ cùng một lúc nên khi họ thay đổi quan hệ với
ngân hàng có thể dẫn đến sự mất mát lớn hơn rất nhiều so với khách hàng của một
doanh nghiệp thông thường. Các đặc điểm nêu trên được coi là các nhân tố về phía



18

NHTM tạo nên tính cạnh tranh cao của kinh doanh ngân hàng.
Các công cụ cạnh tranh trong kinh doanh của các NHTM
Cạnh tranh bằng giá. Giá cả phản ánh giá trị của sản phẩm, giá cả có vai
trò quan trọng đối với quyết định của khách hàng. Đối với các NHTM, giá cả
chính là lãi suất và mức phí áp dụng cho các dịch vụ cung ứng cho các khách hàng
của mình. Trong việc xác định mức lãi suất và phí, các NHTM luôn phải đối mặt
với những mâu thuẫn: Nếu như NHTM quan tâm tới khả năng cạnh tranh để mở
rộng thị phần, thì cần phải đưa ra các mức lãi suất và phí ưu đãi cho các khách
hàng của mình, tuy nhiên, điều này sẽ làm giảm thu nhập của NHTM, thậm chí có
thể khiến NH bị lỗ. Nhưng nếu NHTM chỉ chú trọng đến thu nhập thì phải đưa ra
mức lãi suất và phí sao cho đáp ứng được mục tiêu tăng thu nhập, tuy nhiên, điều
này có thể dẫn đến NH sẽ bị mất dẫn KH, giảm thị phần trong kinh doanh, bởi suy
cho cùng thì NH luôn quan tâm tới mục tiêu tối thượng là tối đa hoá lợi nhuận, mà
để đạt được điều đó thì cần phải tiết giảm các chi phí đầu vào. Điều này có nghĩa là
cạnh tranh bằng giá cả đang trở thành một biện pháp nghèo nàn nhất, vì nó làm
giảm bớt lợi nhuận của các NHTM.
Xuất phát từ mâu thuẫn trên, việc định giá theo đúng ngang giá trị thị trường
sẽ cho phép các NHTM giữ được khách hàng, duy trì và phát triển thị trường. Trên
thực tế, việc vận dụng nhân tố giá để cạnh tranh chỉ phù hợp khi xâm nhập thị
trường mới và để vận dụng tốt công cụ này, các NHTM thường đưa ra mức lãi suất
thấp hơn mức lãi suất của các đối thủ nhằm lôi kéo khách hàng và chiếm lĩnh thị
trường. Lãi suất và phí là tín hiệu phản ánh tình hình biến động của thị trường, là
thông số qua đó các NHTM có thể nắm bắt được khả năng thanh toán của KH cũng
như khả năng cạnh tranh của các đối thủ trên thương trường.
Do vậy, việc xác định lãi suất trên thị trường là quan trọng, song theo dõi
thông tin phản hồi từ khách hàng là rất cần thiết để NHTM đưa ra mức lãi suất và

phí có tính cạnh tranh. Đôi khi lãi suất và phí mà các NHTM xác định chỉ thu được
lợi nhuận nhỏ, hoà vốn thậm chí chịu thua lỗ tạm thời để đạt được mục đích chiếm
lĩnh thị trường.


19

Cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ. Trong nền kinh tế hiện đại ngày nay, khi
mà khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, sản phẩm ra đời ngày càng phong phú
đa dạng, tạo thuận lợi cho sự lựa chọn của người tiêu dùng và đặt nhà kinh doanh trước
các áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt.Vì thế, việc nâng cao chất lượng sản phẩm
hàm ý phải thỏa mãn cao nhất những yêu cầu đòi hỏi từ phía khách hàng.
Theo quan niệm của khách hàng, một sản phẩm ngân hàng có chất lượng phải
đáp ứng được tốt nhất, nhiều nhất nhu cầu mong muốn của khách hàng, đem lại cho
khách hàng một tập hợp tiện ích và lợi ích. Do vậy, khi đánh giá một sản phẩm ngân
hàng có chất lượng, khách hàng thường dựa vào các tiêu chí sau:
- Mức độ tham gia của khách hàng vào quá trình cung ứng sản phẩm dịch
vụ ít và đơn giản;
- Tốc độ xử lý nhanh;
- Mức độ chính xác cao;
- Hiệu quả đem lại cho khách hàng lớn;
- Thái độ phục vụ tốt
- Trình độ cộng nghệ hiện đại.
Thực tế, trên thị trường ngày càng có nhiều ngân hàng cung ứng sản phẩm
dịch vụ cho khách hàng. Vì vậy khách hàng có sự so sánh, đánh giá và quyết định
lựa chọn ngân hàng có sản phẩm chất lượng cao. Thậm chí khách hàng thay đổi
quan hệ từ ngân hàng có sản phẩm chất lượng kém sang ngân hàng có sản phẩm chất
lượng tốt.
1.2.2. Năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại.
1.2.2.1. Quan niệm về năng lực cạnh tranh

Điểm lại lý thuyết cạnh tranh và năng lực cạnh tranh trong lịch sử có thể thấy
hai trường phái tiêu biểu: Trường phái cổ điển và trường phái hiện đại. Trường phái
cổ điển với các đại biểu tiêu biểu như A.Smith, John Stuart Mill, Darwin và K.Mác
đã có những đóng góp nhất định trong lý thuyết cạnh tranh sau này. Trường phái
hiện đại với hệ thống lý thuyết đồ sộ với 3 quan điểm tiếp cận: Tiếp cận theo tổ
chức ngành với đại diện là trường phái Chicago và Harvard; Tiếp cận tâm lý với đại


20

diện là Meuger, Mises, Chumpeter, Hayek thuộc trường phái Viên; Tiếp cận “cạnh
tranh hoàn hảo” phát triển lý thuyết của Tân cổ điển.
Hiện nay, còn nhiều quan điểm khác nhau về năng lực cạnh tranh trên các
cấp độ: quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Và hiện chưa có một lý thuyết nào
hoàn toàn có tính thuyết phục về vấn đề này, do đó không có lý thuyết “chuẩn” về
năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên hai hệ thống lý thuyết với hai phương pháp đánh giá
được các quốc gia và các thiết chế kinh tế quốc tế sử dụng nhiều nhất: Phương pháp
thứ nhất do Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) thiết lập trong bản Báo cáo cạnh tranh
toàn cầu; Phương pháp thứ hai do Viện Quốc tế về quản lý và phát triển (IMD) đề
xuất trong cuốn Niên giám cạnh tranh thế giới. Cả hai phương pháp trên đều do một
số Giáo sư đại học Harvard như Michael Porter, Jeffrey Shach và một số chuyên gia
của WEF như Cornelius, Mache Levison tham gia xây dựng.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện các cam kết quốc tế Việt
Nam từng bước mở cửa dịch vụ ngân hàng, nhằm hướng đến xây dựng hệ thống
ngân hàng cạnh tranh bình đẳng trên bình diện quốc tế theo khuôn khổ pháp lý phù
hợp và thống nhất. Hơn bao giờ hết sự cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng ngày
càng trở nên gay gắt, thách thức đối với các NHTMVN càng gia tăng khi Chính phủ
Việt Nam tháo dỡ rào cản đối với các ngân hàng thương mại nước ngoài
(NHTMNNg) và tiến đến xóa bỏ những bảo hộ của Nhà nước đối với ngân hàng
trong nước. Vì vậy đánh giá chính xác năng lực và vị thế cạnh tranh của NHTMVN

trong điều kiện hiện nay là yêu cầu cần thiết.
Năng lực cạnh tranh của NHTM là khả năng ngân hàng đó tạo ra, duy trì và
phát triển những lợi thế nhằm duy trì và mở rộng thị phần; đạt được mức lợi nhuận
cao hơn mức trung bình của ngành và liên tục tăng, đồng thời đảm bảo hoạt động
an toàn và lành mạnh, có khả năng chống đỡ và vượt qua những biến động bất lợi
của môi trường kinh doanh.
Trong cạnh tranh những lợi thế NHTM đang có có thể thay đổi khi các đối
thủ không ngừng nỗ lực đổi mới, cải tiến để giành lợi thế cạnh tranh về phía mình.


21

Do vậy năng lực cạnh tranh của NHTM là một khái niệm động, bao gồm cả việc
ngân hàng phải liên tục duy trì và phát triển năng lực cạnh tranh.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM là nâng cao sức mạnh và lợi thế
của ngân hàng so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi
của khách hàng để thu lợi ngày càng cao.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM nhằm mục đích tạo ra các dịch vụ
ngân hàng đa năng với giá cả cạnh tranh để thu hút khách hàng, chiếm lĩnh thị
trường nhưng vẫn đảm bảo an toàn kinh doanh và đạt tỷ suất lợi nhuận cao. Đây là
việc làm thường xuyên của các NHTM để giành thế chủ động trong cạnh tranh,
được coi là điều kiện sống còn của các ngân hàng trong bối cảnh cạnh tranh ngày
càng gay gắt của ngành ngân hàng hiện nay.
1.2.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM
Hội nhập quốc tế là động lực thúc đẩy cải cách, buộc các ngân hàng trong
nước phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường, khắc phục những nhược điểm còn
tồn tại, phát huy những điểm mạnh vốn có trên cơ sở tập trung đầu tư vào tri thức
và công nghệ. Trong quá trình hội nhập và mở cửa thị trường tài chính trong nước,
khuôn khổ pháp lý sẽ hoàn thiện và phù hợp dần với thông lệ quốc tế, dẫn đến sự
hình thành môi trường kinh doanh bình đẳng và từng bước phân chia lại thị phần

giữa các nhóm ngân hàng. Vì vậy, muốn tồn tại và đững vững trong cạnh tranh thì
các NHTM cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
Hơn nữa, trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, khi mà các cam kết quốc tế bắt
buộc phải được thực hiện, chúng ta phải chấp nhận mở cửa hơn nữa thị trường tài
chính, dịch vụ ngân hàng và Nhà nước có trách nhiệm tạo một sân chơi bình đẳng
không bảo hộ.Một điều tất yếu, lúc đó các ngân hàng nước ngoài, các tổ chức tín
dụng dưới nhiều hình thức khác nhau sẽ có cơ hội xâm nhập thị trường trong nước.
Và như vậy buộc các NHTM nội địa phải nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại và
phát triển.
Nền kinh tế của chúng ta với xuất phát điểm thấp lại trong thời gian dài
được quản lý theo cơ chế quản lý hành chính bao cấp, điều này làm giảm khả năng


22

cạnh tranh, tính năng động của nền kinh tế. Khi đất nước bước vào thời kỳ hội
nhập chúng ta phải đối mặt với những đối thủ cạnh tranh mạnh hơn chúng ta về
tiềm lực tài chính, về kinh nghiệm kinh doanh và rất nhiều những lợi điểm khác.
Để không bị thua ngay trên “sân nhà” buộc chúng ta phải tìm mọi biện pháp để
nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.Ngoài ra, khủng hoảng kinh tế đã và đang
tác động tới mọi lĩnh vực ngành nghề buộc các định chế tài chính nói chung và các
Ngân hàng thương mại nói riêng phải thay đổi tư duy để vận hành và cung cấp sản
phẩm, dịch vụ một cách hiệu quả hơn. Trong bối cảnh đó, các ngân hàng trong
nước đã phải tìm đến sự trợ giúp của công nghệ thông tin để đổi mới chính mình,
tạo điều kiện cho các ngân hàng phát triển bền vững hơn nhờ việc đa dạng hóa các
dịch vụ, tối đa hóa lợi ích, xây dựng lợi thế cạnh tranh riêng biệt.
Trong nền kinh tế hàng hoá hiện nay, việc có nhiều nhà cung cấp cùng cung
ứng một loại sản phẩm trên thị trường là điều dễ thấy. Bên cạnh đó nhu cầu của
khách hàng là luôn thay đổi. Do đó đòi hỏi có nhiều sản phẩm được sản xuất ra để
đáp ứng cùng một nhu cầu. Làm thế nào để đánh bại được các đối thủ, thu hút và

giữ chân khách hàng nhằm bán được hàng và kiếm được lợi nhuận. Vì vậy, nâng
cao năng lực cạnh tranh, tạo một ưu thế nổi trội sovới các đối thủ là một nhiệm vụ
sống còn của các nhà cung cấp.Sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đang
ngày càng trở lên quyết liệt khi ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh mở rộng danh
mục dịch vụ. Lúc này, ngân hàng không chỉ cạnh tranh với các đối thủ trực tiếp là
các NHTM khác mà còn là các định chế tài chính đang không ngừng phát triển
khác như: hiệp hội tín dụng, các công ty chứng khoán, các công ty tài chính, công
ty bảo hiểm…Áp lực cạnh tranh đóng vai trò như một lực đẩy tạo ra sự phát triển
của ngân hàng.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và ứng dụng công nghệ trong việc
cung cấp dịch vụ ngân hàng làm cho cạnh tranh của các NHTMVN trở nên không
có giới hạn về không gian và thời gian đã buộc các NHTM phải chú trọng và củng
cố những lợi thế cạnh tranh của mình để duy trì được thị phần.


23

1.2.2.3. Các tiêu thức đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM
Năng lực cạnh tranh được đánh giá dựa trên các yếu tố định tính và định lượng
Các chỉ tiêu định tính.
 Uy tín và thương hiệu của NHTM: Uy tín và thương hiệu của ngân
hàng là những dấu hiệu (hữu hình và vô hình) đặc biệt để nhận biết một sản
phẩm dịch vụ nào đó được cung cấp bởi một NHTM. Thương hiệu là một loại tài
sản của NHTM, thường được cấu thành từ một cái tên, hay các chữ, các cụm từ,
một logo, một biểu tượng, một hình ảnh hay sự kết hợp của các yếu tố trên. Uy
tín và thương hiệu được thể hiện số năm hoạt động và chất lượng dịch vụ mà
một NHTM cung cấp cho khách hàng. Một ngân hàng thương mại được gọi là
có thương hiệu khi được nhiều khách hàng thừa nhận và đánh giá cao về
chất lượng dịch vụ.
 Năng lực công nghệ : Công nghệ ngân hàng bao gồm những công nghệ

mang tính tác nghiệp như hệ thống thanh toán điện tử, hệ thống ngân hàng bán lẻ, máy
rút tiền tự động và các hệ thống thông tin quản lý MIS, hệ thống cảnh báo rủi ro...Các
hệ thống này có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng
cũng như khả năng quản lý, quản trị hoạt động của nhà quản lý ngân hàng. Theo tính
toán và kinh nghiệm của các ngân hàng nước ngoài, công nghệ thông tin có thể làm
giảm 76% chi phí hoạt động ngân hàng. Do đó công nghệ là nhân tố quan trọng phản
ánh năng lực cạnh tranh của NHTM, thể hiện qua các mặt sau:
Khả năng trang bị công nghệ mới: Với tốc độ phát triển nhanh của công
nghệ ngân hàng, sự bùng nổ thông tin, và mức độ thay đổi thường xuyên nhu cầu
dịch vụ ngân hàng trong nền kinh tế, công nghệ hiện tại không đủ khả năng cung
cấp thông tin, công cụ phục vụ công tác quản lý, điều hành và phát triển dịch vụ sẽ
làm mất đi cơ hội kinh doanh của ngân hàng. Vì thế, năng lực công nghệ phải bao
gồm khả năng đổi mới các công nghệ hiện tại về mặt kỹ thuật, kinh tế và trang bị
công nghệ mới, hiện đại, thể hiện ở mức đầu tư về vốn, nhân lực cho phát triển
công nghệ, các kế hoạch chiến lược trong việc tập trung nguồn lực phát triển công
nghệ mới.


24

Mức độ đáp ứng của công nghệ ngân hàng đối với nhu cầu của khách
hàng và nhu cầu quản lý của ngân hàng: Thể hiện ở số và chất lượng các công
cụ, các báo cáo, các thông tin mà công nghệ thực hiện phục vụ cho công tác quản
trị, quản lý cho ngân hàng. Và số, chất lượng các dịch vụ được tạo ra từ hệ thống
công nghệ hiện tại của ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu về dịch vụ ngân hàng của
khách hàng. Ngân hàng sở hữu một cơ sở công nghệ tốt và biết phát huy tối đa
chức năng của công nghệ đó khả năng cạnh tranh sẽ được tăng cường mạnh mẽ.
Tính liên kết và độc đáo của công nghệ: Do đặc tính phải đổi mới, chi phí
đổi mới rất cao và ảnh hưởng của công nghệ rất lớn đến hoạt động kinh doanh nên
không NHTM nào có thể ngay lập tức thay thế toàn bộ công nghệ cũ bằng công

nghệ mới. Điều này đòi hỏi công nghệ cũ và mới phải có tính liên kết cao để giảm thiểu
chi phí và rủi ro trong quá trình cải tiến, đổi mới mà vẫn phát huy được tính năng của
công nghệ mới. Ngoài ra các ngân hàng cần đầu tư phát triển, trang bị những công nghệ
độc đáo nhằm tạo sự khác biệt cho sản phẩm dịch vụ để thu hút khách hàng.Trong lĩnh
vực ngân hàng, công nghệ đang ngày càng đóng vai trò như là một trong những nguồn
lực tạo ra lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất của mỗi ngân hàng.
 Nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực là nguồn lực không thể thiếu của bất
kỳ doanh nghiệp cũng như ngân hàng nào.Năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực
của một doanh nghiệp nói chung thể hiện ở những yếu tố nhứ: trình độ chuyên môn
đào tạo, trình độ thành thạo nghiệp vụ và kỹ năng tác nghiệp, động cơ phấn đấu,
mức độ cam kết gắn bó với doanh nghiệp. Nhân sự của một ngân hàng là yếu tố
mang tính kết nối các nguồn lực của ngân hàng, đồng thời cũng là cái gốc của
mọi cải tiến hay đổi mới. Trình độ hay kỹ năng của người lao động là
những chỉ tiêu quan trọng thể hiện chất lượng của nguồn nhân lực. Động cơ
phấn đấu và mức độ cam kết gắn bó cũng là những chỉ tiêu quan trọng phản ánh
một ngân hàng có lợi thế cạnh tranh từ nguồn nhân lực của mình hay không
Ngân hàng là một ngành đòi hỏi người lao động phải có kinh nghiệm
và trình độ cao được tích luỹ theo thời gian. Rõ ràng, nếu một ngân hàng có tốc độ
luân chuyển nhân viên cao sẽ không phải là một ngân hàng có lợi thế về


25

nguồn nhân lực. Quá trình tuyển dụng và đào tạo một chuyên viên ngân hàng
thường rất tốn kém cả về thời gian và công sức. Hiệu quả của các chính sách
nhân sự, đặc biệt là chính sách tuyển dụng, cơ chế thù lao là một chỉ tiêu quan
trọng để đánh giá khả năng duy trì một đội ngũ nhân sự chất lượng cao của một
ngân hàng.
Năng lực quản trị, điều hành và cơ cấu tổ chức:
+ Cơ cấu tổ chức: Mô hình tổ chức phụ thuộc rất lớn vào quy mô và chức

năng hoạt động của ngân hàng, phản ánh cơ chế phân bổ các nguồn lực phù hợp với
quy mô, trình độ quản lý của ngân hàng, phù hợp với đặc trưng cạnh tranh và yêu
cầu của thị trường. Sự phù hợp thể hiện ở sự phân chia phù hợp nhiệm vụ và quyền
hạn của các phòng ban chức năng, các bộ phận quản lý và tác nghiệp, các đơn vị
trực thuộc, vừa có tính liên kết, hỗ trợ và mức độ phối hợp giữa các bộ phận này
trong việc triển khai chiến lược kinh doanh, các hoạt động nghiệp vụ hàng ngày và
khả năng thích nghi và thay đổi của cơ cấu trước những biến động. Cơ cấu tổ chức
có khả năng phát huy năng lực của đội ngũ cán bộ nhân viên cao sẽ giúp ngân hàng
thực hiện hiệu quả các công việc và tiết kiệm chi phí hoạt động.
+ Cơ chế vận hành: Cơ chế vận hành của ngân hàng thể hiện ở cơ chế quản
lý, quy chế tổ chức, điều hành hoạt động kinh doanh của ngân hàng, bao gồm hệ
thống các quy chế, quy trình nghiệp vụ của ngân hàng. Cơ chế vận hành tốt sẽ phát
huy sức mạnh tổng hợp của ngân hàng. Hệ thống các quy trình nghiệp vụ đầy đủ,
thống nhất là cơ sở để nâng cao chất lượng các dịch vụ ngân hàng.
+ Năng lực của bộ máy lãnh đạo, cán bộ và nhân viên: Bộ máy lãnh đạo, cán
bộ và nhân viên là nhân tố kết nối các nguồn lực của ngân hàng, năng lực của họ thể
hiện ở các yếu tố: trình độ đào tạo, số năm kinh nghiệm, khả năng tự học tập, mức
thành thạo nghiệp vụ, động cơ phấn đấu, mức độ cam kết, tác phong làm việc...
Bộ máy lãnh đạo đề ra phương hướng hoạt động, quản trị, kiểm soát và điều
hành toàn bộ hoạt động của ngân hàng do đó hiệu quả hoạt động kinh doanh và
triển vọng phát triển của NHTM phụ thuộc chủ yếu vào năng lực của bộ máy lãnh
đạo. Trong điều kiện cạnh tranh, năng lực của bộ máy lãnh đạo càng được coi trọng


×