Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu Luận Môn Bảo Hiểm Phân Tích Hiệu Quả Của Thị Trường Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ Việt Nam Gian Đoạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.48 KB, 18 trang )

TIỂU LUẬN MÔN BẢO HIỂM

PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ CỦA THỊ TRƯỜNG BẢO
HIỂM PHI NHÂN THỌ VIỆT NAM GIAN ĐOẠN
2007-2009

GVHD: Nguyễn Thị Minh Châu
NHÓM: RINGS
Lê Thị Thanh Hà
Hà Thị Minh Phương
Nguyễn Minh Quốc Khánh
Nguyễn Thị Kim Hoàng
TP. HỒ CHÍ MINH, tháng 10/2010


I.

Cơ sở lý luận:
1. Giải thích đề tài:

Trong cuộc sống mỗi con người, gia đình và xã hội từ xưa đến nay cũng luôn
phải đối mặt với yếu tố không thuận lợi, ngoài ý muốn đó là hiểm hoạ, rủi ro. Rủi ro
không những ảnh hưởng đến cá nhân hoặc các chủ thể riêng lẻ, mang tính chất cá
biệt, mà còn có tác động sâu rộng đến toàn bộ nền kinh tế hoặc những nhóm người
rộng lớn trong cộng đồng, mang tính chất thảm họa. Rủi ro, hiểm hoạ xảy ra thường
bất ngờ không biết trước về thời gian, địa điểm, quy mô, mức độ thiệt hại. Trong xã
hội hiện đại, khoa học kỹ thuật phát triển nhưng không thể loại trừ yếu tố bất lợi có
tính khách quan đó. Dù muốn hay không, nhiều hiểm hoạ rủi ro đã, đang và sẽ còn
xuất hiện chi phối đến cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình, doanh nghiệp và
toàn xã hội. Đứng trước thực trạng đó, con người luôn có những hành động tích
cực, chủ động bằng tất cả khả năng của mình để ngăn ngừa, hạn chế, khắc phục


nhằm giảm tới mức thấp nhất những thiệt hại về người và của để sớm phục hồi lại
quá trình sản xuất kinh doanh và đời sống. Nhưng mỗi cá nhân hay doanh nghiệp
khi đối mặt với những rủi ro họ không thể tự khắc phục lại những hậu quả mà nó
mang lại. Bằng nghiệp vụ bảo hiểm với nguyên tắc chia sẻ rủi ro, còn gọi là “cộng
đồng hóa rủi ro” chia sẻ những thiệt hại, bất hạnh này dựa trên sự đóng góp của một
số đông, con người có thể dễ dàng khắc phục tổn thất mà rủi ro gây ra.
Bảo hiểm là một lĩnh vực rất quan trọng đối với các quốc gia nói chung và
với Việt Nam nói riêng. Không chỉ là một biện pháp di chuyển rủi ro, bảo hiểm
ngày nay đã trở thành một trong những kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh
tế. Thực tế hoạt động kinh doanh bảo hiểm thời gian qua đã cho thấy sự lớn mạnh
không ngừng của ngành bảo hiểm và nhiều tiềm năng phát triển trong tương lai. Tuy
nhiên, thị trường bảo hiểm Việt Nam đang được đa dạng hóa với tốc độ cao, sức ép
mở cửa thị trường và thách thức hội nhập ngày càng lớn. Ngành bảo hiểm Việt Nam
sẽ phải làm gì để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và đáp
ứng yêu cầu của tiến trình hội nhập?
Ngành bảo hiểm nước ta mới thực sự bắt đầu phát triển từ cách đây khoảng
17 năm khi thế độc quyền kinh doanh bảo hiểm được xoá bỏ theo nghị định 100 CP
được Chính phủ ban hành ngày 18/12/1993. Nó phá vỡ thế độc quyền đang tồn tại,
tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức bảo hiểm với nhiều hình thức khác nhau
thuộc mọi thành phần kinh tế. Mặc dù vậy, phải từ sau năm 1995, một loạt các công
ty kinh doanh bảo hiểm mới ra đời: Bảo Minh, VINARE, PVI, PJICO… và các
công ty liên doanh bảo hiểm như: UIC, VIA,… Năm 1999 Hiệp hội bảo hiểm Việt
Nam được thành lập với 10 thành viên sáng lập là các công ty bảo hiểm hàng đầu
trên thị trường Việt Nam như: Bảo Việt, Bảo Minh, VINARE,...Kể từ đó đến nay,
ngành bảo hiểm đã có những bước tiến đáng kể và nếu được phát triển đúng hướng,
ngành sẽ góp phần rất tích cực vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước trong thế kỷ mới.
Trong 3 năm từ 2007 đến 2009, kinh tế Việt Nam đã trải qua một thời kì biến
động với sự hội nhập kinh tế quốc tế và tác động của cuộc khủng hoảng tài chính
trên thế giới. Những biến động này có những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực, cơ hội

và thách thức đến nền kinh tế Việt Nam, mà trong đó nó cũng có những ảnh hưởng


không nhỏ đến thị trường bảo hiểm nước ta, đặc biệt là bảo hiểm phi nhân thọ. Để
thấy rõ được những điều này sau đây chúng ta hãy cùng nhau phân tích hiệu quả
của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ trong giai đoạn này.
2. Khái niệm:
2.1.

Bảo hiểm:
Vậy Bảo hiểm là gì, thì hiện nay có rất nhiều định nghĩa về bảo hiểm xét ở
các góc độ khác nhau. Sau đây là một số định nghĩa tiêu biểu:
Bảo hiểm là sự chia sẻ những tổn thất ngẫu nhiên thông qua việc chuyển
giao rủi ro cho người bảo hiểm – người chấp nhận bồi thường hoặc cung cấp những
quyền lợi có giá trị bằng tiền dựa trên sự xuất hiện của tổn thất có liên quan đến rủi
ro ( theo The Commission on Isurance Terminology of The American Risk and
Insurance Association).
 Bảo hiểm là hoạt động theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro
của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để
doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người
được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm ( Theo Điều 3 khoản 1 Luật kinh doanh
bảo hiểm Việt Nam ).

Nói tóm lại Bảo hiểm( Bảo hiểm nhân thọ và Bảo hiểm phi nhân thọ) là một
phần quan trọng trong các chương trình quản lý rủi ro của các tổ chức cũng như cá
nhân.
2.2.
Bảo hiểm phi nhân thọ:
2.3.
Tái bảo hiểm

II.
Thực trạng:
1. Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam từ 2007- 2009:
Năm 2007 tăng trưởng GDP đạt 8,5%, tốc độ cao kỷ lục đối với Việt Nam
(mức cao nhất trong 10 năm qua) và đứng thứ 3 châu Á (sau Trung Quốc và Ấn
Độ). Các ngành công nghiệp vận tải biển và đóng tàu, hàng không dân dụng, dệt
may, giày da có những bước phát triển đột phá. Thị trường tài chính tiền tệ tiếp tục
phát triển theo xu thế ổn định sau một thời gian phát triển nóng như: tín dụng ngân
hàng, chứng khoán, quỹ đầu tư, bảo hiểm. Đây là những tiền đề cơ bản tạo điều kiện
thuận lợi cho ngành bảo hiểm Việt phát triển. Tăng trưởng kinh tế cao đã góp phần
làm cho quy mô kinh tế lớn lên. GDP tính theo giá thực tế đạt khoảng 1.143 nghìn tỉ
đồng, bình quân đầu người đạt khoảng 13,42 triệu đồng, tương đương với 71,5 tỉ
USD và 839 USD/người. Cùng với tăng trưởng kinh tế cao là sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng tích cực. Theo nhóm ngành kinh tế, nông, lâm nghiệp-thủy sản
vốn tăng thấp, năm nay lại gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh lớn nên tăng thấp
và tỷ trọng trong GDP của nhóm ngành này tiếp tục giảm (hiện chỉ còn dưới 20%).
Công nghiệp-xây dựng tiếp tục tăng hai chữ số, cao nhất trong ba nhóm ngành, nên
tỷ trọng trong GDP tiếp tục tăng (hiện đạt gần 42%), phù hợp với giai đoạn đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Dịch vụ được mở cửa rộng hơn sau
khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), thị trường xuất khẩu
mở rộng, các rào cản thương mại Việt Nam với các nước thành viên WTO được dỡ
bỏ hoặc hạn chế. Nhờ đó thu hút đầu tư nước ngoài và xuất khẩu là những thành tựu
nổi bật nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài tương đương 20,3 tỉ USD, đầu tư toàn xã
hội đạt 40% GDP, vốn ODA đạt 5,4 tỉ USD , là mức cao nhất từ trước đến nay, bằng


cả số vốn của 5 năm trước cộng lại. Kim ngạch xuất khẩu đạt xấp xỉ 48,4 tỷ USD,
tăng trên 20% so với năm 2006.
Tuy nhiên,những khó khăn, thách thức và những hạn chế của nền kinh tế Việt
Nam, là chỉ số giá tiêu dùng tăng cao ở mức 2 con số đã tác động đến phát triển đời

sống của nhân dân, nhất là các vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và
các vùng bị ảnh hưởng nhiều của thiên tai, bão lũ. Nhập siêu lớn, chất lượng tăng
trưởng của một số ngành chưa bền vững, năng lực cạnh tranh còn thấp. Mặt khác
các điểm yếu của nền kinh tế vốn tồn tại nhiều năm nay như kết cấu hạ tầng yếu
kém, nhất là giao thông, thủy lợi, điện đã bộc lộ rõ nét qua thiên tai năm 2007...
không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế bền vững với tốc độ cao. Do vậy khả
năng phòng chống thiên tai, dịch bệnh hạn chế, thiệt hại gây ra rất nặng nề, hậu quả
để lại là rất nghiêm trọng và lâu dài.
Mặc dù có nhiều khó khăn về thiên tai lớn, dịch bệnh diễn biến phức tạp và
sự biến động thị trường bất lợi về giá cả tăng song nền kinh tế nước ta vẫn tăng
GDP cao. Vấn đề đặt ra trong năm 2008, quản lý vĩ mô nền kinh tế phải kiềm chế
được tốc độ tăng giá.
Kinh tế-xã hội nước ta năm 2008 diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và
trong nước có nhiều biến động phức tạp, khó lường. Giá dầu thô và giá nhiều loại
nguyên liệu, hàng hoá khác trên thị trường thế giới tăng mạnh trong những tháng
giữa năm kéo theo sự tăng giá ở mức cao của hầu hết các mặt hàng trong nước; lạm
phát xảy ra tại nhiều nước trên thế giới; khủng hoảng tài chính toàn cầu dẫn đến
một số nền kinh tế lớn suy thoái, kinh tế thế giới suy giảm. Tổng sản phẩm trong
nước (GDP) năm 2008 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 6,23% so với năm 2007,
Xét theo các yếu tố sử dụng GDP năm 2008 thì tốc độ tăng của tích luỹ tài sản cố
định, tiêu dùng cuối cùng và xuất khẩu theo giá so sánh 1994 đều giảm so với mức
tăng của năm 2007. Xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ năm 2008 theo giá so sánh tăng
thấp so với năm 2007, chỉ ở mức 5,6%. So với GDP, xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ
bằng 69,5% và nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ bằng 84%. Điều này cho thấy kinh tế
Việt Nam hiện đang là nền kinh tế có độ mở lớn và tốc độ mở nhanh, do đó dễ bị
ảnh hưởng từ những biến động của thị trường thế giới. Giá tiêu dùng năm 2008 nhìn
chung tăng khá cao và diễn biến phức tạp, khác thường so với xu hướng giá tiêu
dùng các năm trước. Giá tăng cao ngay từ quý I và liên tục tăng lên trong quý II,
quý III, nhưng các tháng quý IV liên tục giảm (so với tháng trước, tháng 10 giảm
0,19%; tháng 11 giảm 0,76%, tháng 12 giảm 0,68%) nên giá tiêu dùng tháng 12

năm 2008 so với tháng 12 năm 2007 tăng 19,89% và chỉ số giá tiêu dùng bình quân
năm tăng 22,97%. Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2008 theo giá thực tế ước
tính đạt 637,3 nghìn tỷ đồng, bằng 43,1% GDP và tăng 22,2% so với năm 2007. Về xã
hội, tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2008 ước tính 45
triệu người, tăng 2% so với năm 2007. Tuy nhiên nhìn chung đời sống của cán bộ,
công nhân, viên chức cũng chưa được cải thiện đáng kể. Ở khu vực nông thôn, thiên
tai, dịch bệnh trên gia súc, gia cầm xảy ra liên tiếp; giá cả hàng hoá tiêu dùng, xăng dầu
và vật tư nông nghiệp tăng cao đã tác động không nhỏ đến sản xuất và đời sống của
nông dân. Tình hình dịch bệnh năm 2008 diễn biến phức tạp, dịch sốt xuất huyết, tiêu
chảy cấp bùng phát mạnh tại nhiều địa phương. So với năm 2007, số lượt hộ thiếu đói
tăng 32,3%, số lượt nhân khẩu thiếu đói tăng 32,7%.


Bước vào năm 2009, nền kinh tế nước ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách
thức. Khủng hoảng tài chính của một số nền kinh tế lớn trong năm 2008 đã đẩy kinh
tế thế giới vào tình trạng suy thoái, làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất khẩu, thị
trường vốn, thị trường lao động và tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh vực kinh tế-xã
hội khác của nước ta. Theo đà suy giảm kinh tế những tháng cuối năm 2008, tốc độ
tăng tổng sản phẩm trong nước quý I/2009 chỉ đạt 3,14%, là quý có tốc độ tăng thấp
nhất trong nhiều năm gần đây; nhưng quý II, quý III và quý IV của năm 2009, tốc
độ tăng tổng sản phẩm trong nước đã nâng dần lên lần lượt là 4,46%; 6,04% và
6,9%. Tính chung cả năm 2009, tổng sản phẩm trong nước tăng 5,32%. Mặc dù
nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài giảm sút, nhưng đầu tư trong nước đã được khơi
thông nên tính chung vốn đầu tư phát triển cả năm đạt 704,2 nghìn tỷ đồng, tăng
15,3% so với năm 2008 và bằng 42,8% GDP. Về xuất nhập khẩu, kim ngạch hàng
hoá xuất khẩu năm 2009 ước tính đạt 56,6 tỷ USD, giảm 9,7% so với năm 2008,
kim ngạch hàng hoá nhập khẩu ước tính 68,8 tỷ USD, giảm 14,7%. Chỉ số giá tiêu
dùng bình quân năm 2009 tăng 6,88% so với năm 2008, thấp nhất trong 6 năm trở
lại đây. Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu, nền kinh tế nước ta đạt
được thành công kép, vừa tăng trưởng tương đối khá so với các nước trong khu vực,

vừa duy trì được mức độ lạm phát không cao, đây là kết quả rất đáng khich lệ. Về
xã hội, trong năm 2009, nước ta chịu ảnh hưởng của 11 cơn bão và nhiều đợt lũ lụt
gây thiệt hại nặng về người và tài sản. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong
năm 2009 ước tính gần 23,2 nghìn tỷ đồng, gấp gần 2 lần năm 2008 ảnh hưởng xấu
đến đời sống của đai bộ phận nhân dân lao động. Tuy nhiên, đời sống của bộ phận
những người làm công ăn lương cũng dần dần được cải thiện. Thu nhập bình quân
tháng của lao động khu vực Nhà nước năm 2009 đạt 3084,8 nghìn đồng, tăng 14,2%
so với năm 2008.
Khái quát lại, năm 2009 nền kinh tế chịu tác động tiêu cực từ hai phía. Cùng
với những khó khăn do kinh tế thế giới suy thoái, thu hẹp đáng kể thị trường xuất
khẩu, thị trường vốn, thị trường lao động thì bão lũ xảy ra liên tiếp, dịch bệnh bùng
phát ở nhiều địa phương. Trong bối cảnh đó, kinh tế nước ta vẫn đạt mức tăng
trưởng 5,32%, vượt mục tiêu đề ra và đứng vào hàng các nền kinh tế có tốc độ tăng
trưởng cao của khu vực và trên thế giới.
2. Hiệu quả của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ :
2.1.

Hiệu quả kinh doanh
Trên thực tế, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã bắt đầu mở cửa cho các công
ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài từ năm 1999. Sau nhiều năm đàm phán và thực
hiện những thủ tục cần thiết, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ
Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) vào tháng 11/2006. Và cho đến năm 2007, việc
gia nhập WTO đã bắt đầu cho thị trường bảo hiểm nước ta ngày càng có những
bước tiến xa hơn trong cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân. Theo số liệu
của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, đầu năm 2007 thị trường bảo hiểm Việt Nam có
20 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ; 1 doanh nghiệp tái bảo hiểm; 8 doanh
nghiệp bảo hiểm nhân thọ và 8 doanh nghiệp môi gới bảo hiểm. Doanh thu bảo
hiểm phi nhân thọ đạt 8.500 tỉ đồng, tăng trưởng 30%, oanh thu bảo hiểm nhân thọ
đạt 9.500 tỉ đồng tăng trưởng 12%. Bảo hiểm cũng đã đóng góp 2% vào GDP của



Việt Nam, với tốc độ tăng trưởng bình quân 29%/năm. Cho tới cuối năm 2009, số
doanh nghiêp bảo hiểm phi nhân thọ 27 doanh nghiệp.
Doanh thu phí bảo hiểm gốc tăng đều theo hàng năm, năm 2007 đạt
8.360.000, năm 2008 là 10.879 tỷ đồng (tăng 30,1%), năm 2009 là 13.644 tỷ đồng
(tăng 25,4%). Trong đó nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới chiếm tỷ trọng lớn nhất, tiếp
theo là bảo hiểm tài sản và thiệt hại.

 Gia nhập WTO đã tạo ra nhiều cơ hôi cho nganh bảo hiểm nước ta, việc
cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài tham gia vào thị trường bảo hiểm
Việt Nam sẽ đem lại những lợi ích tổng thể cho thị trường, làm giảm chi phí dịch
vụ, công nghệ quản lý mới được chuyển giao, chất lượng dịch vụ và trình độ đội
ngũ cán bộ được nâng cao, năng lực thị trường được mở rộng. Mở cửa thị trường sẽ
tác động tích cực đối với cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển của ngành bảo hiểm Việt
Nam nói chung và bản thân các công ty bảo hiểm trong nước, bên cạnh đó còn tạo
điều kiện tăng cường trao đổi kiến thức và kỹ năng chuyên ngành, các doanh nghiệp
bảo hiểm nước ngoài với kinh nghiệm hoạt động lâu năm trên phạm vi quốc tế sẽ
giúp chuyển giao công nghệ khai thác bảo hiểm và đào tạo đội ngũ cán bộ làm công
tác bảo hiểm tại Việt Nam. Ví dụ như:
- Nhiều DN bảo hiểm quy mô lớn đều có trung tâm đào tạo để cập nhật kiến
thức, nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ, nhân viên; cử cán bộ đi đào tạo nghiệp vụ và
quản lý tại các cơ sở trong và ngoài nước nhằm đáp ứng điều kiện, tiêu chuẩn.
- Việc DN bảo hiểm tích cực tăng thêm dịch vụ gia tăng cho khách hàng
tham gia bảo hiểm bằng những hoạt động hỗ trợ như: cứu nạn, cứu hộ miễn phí; sửa
chữa xe không thuộc phạm vi bảo hiểm và bảo dưỡng xe được giảm phí; thẻ ưu tiên
điều trị tại các bệnh viện có uy tín… đã thể hiện tính hơn hẳn của việc mua bảo
hiểm của các DN bảo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam so với mua bảo hiểm của
các DN bảo hiểm nước ngoài chưa có mặt tại Việt Nam, tạo lợi thế cạnh tranh khi
thực hiện cam kết WTO.
- Đặc biệt năm 2007, các doanh nghiệp bảo hiểm đã chú trọng đầu tư nguồn

vốn chủ sở hữu và dự phòng nghiệp vụ đem lại lợi nhuận cao. Hầu hết các doanh
nghiệp bảo hiểm đều thành lập bộ phận chuyên trách đầu tư, các doanh nghiệp có
quy mô lớn đã thành lập ngân hàng, công ty chứng khoán, công ty đầu tư tài chính,
công ty quản lý quỹ.
 Nhình chung năm 2007, thị trường bảo hiểm Việt Nam trãi qua năm đầu
tiên kể từ khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO với những thành tựu đáng khích
lệ, với một số sự kiện tiêu biểu:
 IPO 680 tỉ đồng của Tập đoàn Tài chính Bảo hiểm Bảo Việt đạt con số kỷ
lục với 20.368 nhà đầu tư đăng ký, 13 đại lý lớn tham gia và tổng số nhà đầu tư
trung gian tới 3.741, mở đầu cho việc đấu giá cổ phần của các Tập đoàn lớn sau
này.
 Doanh thu bảo hiểm phi nhân thọ đạt 8.500 tỉ đồng, tăng trưởng 30%, cao
nhất trong 5 năm qua, xấp xỉ chỉ tiêu chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt


Nam đến năm 2010 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đối với Bảo hiểm phi
nhân thọ là 9.000 tỉ đồng.
 Chế độ quản lý nhà nước được hoàn thiện thêm một bước bằng việc ban
hành NĐ 45 và NĐ 46 ngày 27/3/2007 và Thông tư 155, Thông tư 156 ngày
20/12/2007 hướng dẫn thi hành luật kinh doanh bảo hiểm theo xu hướng minh bạch
công khai chế độ quản lý nhà nước và thủ tục hành chính, tăng cường tính chủ động
cho doanh nghiệp bảo hiểm, nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý kinh doanh bảo
hiểm, nâng cao năng lực tài chính và đảm bảo quyền lợi hợp pháp chính đáng cho
người tham gia bảo hiểm phù hợp với chuẩn mực quốc tế và cam kết WTO.
 Nhà nước sửa đổi và ban hành 2 sản phẩm bảo hiểm bắt buộc trong đó NĐ
130 Chính phủ, Thông tư liên tịch BTC-BCA số 41 và QĐ 28/BTC ngày 24/4/2007
về chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, Thông tư liên tịch BTC-BCA số 16 và QĐ
23/BTC ngày 29/4/2007 về chế độ BHBB TNDS chủ xe cơ giới, tạo điều kiện pháp
lý để bảo hiểm phát triển.
 Tập đoàn Tài chính Bảo hiểm Bảo Việt chọn HSBC là cổ đông chiến lược,

Bảo Minh chọn AXA là cổ đông chiến lược. Điều này chứng tỏ các doanh nghiệp
bảo hiểm Việt Nam đã nằm trong tầm ngắm chú ý để đầu tư của các doanh nghiệp
bảo hiểm hàng đầu quốc tế, đồng thời tận dụng được kinh nghiệm, công nghệ, sản
phẩm mới và hệ thống của đối tác chiến lược để phát triển phân phối sản phẩm bảo
hiểm, nâng cao uy tín thương hiệu của mình.
 Các doanh nghiệp bảo hiểm đồng loạt tăng vốn phù hợp với quy định pháp
luật, nâng mức vốn pháp định lên 300 tỉ đồng đối với bảo hiểm phi nhân thọ, 200 tỉ
đồng đối với bảo hiểm dầu khí hoặc vệ tinh hoặc bảo hiểm liên kết đầu tư, 10 tỉ
đồng đối với thành lập chi nhánh thứ 21. Ngoài ra một số DN còn đăng ký tăng vốn
cao hơn vốn pháp định làm tăng tiềm lực tài chính, tăng mức giữ lại, giảm đáng kể
phần phải tái bảo hiểm ra nước ngoài, tăng cường năng lực đầu tư vào nền kinh tế.
Tổng vốn chủ sở hữu của các DN bảo hiểm lên tới trên 15.000 tỷ đồng, trong đó
Bảo Việt dẫn đầu với 6.800 tỷ đồng. Việc tăng vốn điều lệ cao hơn vốn pháp định
giúp doanh nghiệp bảo hiểm mở rộng hoạt động kinh doanh sang các dịch vụ tài
chính khác như thành lập ngân hàng (Bảo Việt), CTCK (Bảo Minh), công ty tài
chính (PVI, Prudential)…nhằm nâng cao khả năng tài chính, nâng cao năng lực bảo
hiểm làm giảm đi đáng kể phải tái bảo hiểm ra nước ngoài đồng thời làm tăng uy tín
và sự tin cậy của khách hàng.
 Các doanh nghiệp bảo hiểm tích cực đóng góp vào công tác đề phòng hạn
chế tổn thất trong đó đóng góp 5% doanh thu bảo hiểm cháy nổ bắt buộc cho kinh
phí phòng cháy chữa cháy và 2% doanh thu phí bảo hiểm bắt buộc TNDS chủ xe cơ
giới để tuyên truyền đảm bảo an toàn giao thông và thực hiện chế độ bảo hiểm bắt
buộc TNDS chủ xe cơ giới.
Tuy nhiên, việc thực hiện cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), với sự tham gia của các công ty nước ngoài vào thị trường bảo hiểm cũng
có những ảnh hưởng nhất định đối với công ty bảo hiểm trong nước, ảnh hưởng cả
về quy mô, chất lượng và cả sự ổn định trong thị trường tài chính nói chung:
- Các công ty bảo hiểm phi nhân thọ trong nước sẽ đứng trước sức ép cạnh
tranh lớn trong khi năng lực về công nghệ, vốn còn yếu và nhỏ bé.



- Cạnh tranh về nhân lực giữa các công ty bảo hiểm sẽ diễn ra sôi động, khi
các công ty bảo hiểm nước ngoài mới tham gia thị trường sẽ tìm mọi cách lôi kéo
các nhân lực có kiến thức và kinh nghiệm của các doanh nghiệp bảo hiểm trong
nước. tạo nên sự biến động về nhân sự giữa các công ty bảo hiểm. Một thực tế đã
diễn ra khi sự gia tăng của số lượng doanh nghiệp bảo hiểm nhanh hơn gia tăng
nguồn nhân lực trong ngành đã dẫn đến sự di chuyển nhân sự giữa các công ty bảo
hiểm. Do đó, nếu các công ty bảo hiểm trong nước không có những điều chỉnh liên
quan đến chính sách nhân sự trong thời gian tới sẽ bị mất lợi thế quan trọng trước
các công ty 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh.
- Mức độ cạnh tranh cao có thể dẫn tới hiện tượng liên kết giữa các công ty
bảo hiểm lớn, thôn tính các doanh nghiệp nhỏ, ảnh hưởng tới sự cạnh tranh lành
mạnh của thị trường, gây thiệt hại cho các công ty vừa và nhỏ.
- Các doanh nghiệp bảo hiểm khi thực hiện tái bảo hiểm ra nước ngoài đều
phải thực hiện tái bảo hiểm bắt buộc tối thiểu 20% với Tổng công ty cổ phần tái bảo
hiểm Quốc gia Việt Nam (VINARE). Vì vậy thực hiện cam kết xoá bỏ tỷ lệ tái bảo
hiểm bắt buộc này sẽ có tác động kép, trước tiên là ảnh hưởng tới hoạt động của
VINARE, đồng thời ảnh hưởng đến tổng mức phí giữ lại của thị trường bảo hiểm
phi nhân thọ.
Theo đánh giá của Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, nghiệp vụ bảo hiểm kỹ
thuật có tỷ lệ tổn thất năm 2007 là 98,45%. Trái lại, tỷ lệ phí bảo hiểm có xu hướng
ngày một giảm, không tương xứng với trách nhiệm bảo hiểm; cạnh tranh không
lành mạnh (phi kỹ thuật) ngày càng gia tăng; mẫu đơn bảo hiểm bị chỉnh sửa không
theo chuẩn hoặc áp dụng nhiều điều khoản không phù hợp. Phổ biến là hiện tượng
các doanh nghiệp khoán theo doanh thu, không tính đến hiệu quả kinh doanh; công
tác quản lý rủi ro chưa được quan tâm đúng mức...
Năm 2008 chứng kiến cơn khủng hoảng kinh tế diễn ra trên phạm vi toàn
cầu, ảnh hưởng sâu sắc tới nền kinh tế nước ta, khiến thị trường chứng khoán suy
thoái, hoạt động đầu tư giảm sút, thị trường bất động sản đóng băng, lãi suất biến
động… GDP của Việt Nam vẫn tăng trưởng ở mức 6.23%,tuy thấp hơn so với năm

2007 nhưng vẫn tạo ra những nhân tố ảnh hưởng tích cực đối với sự tăng trưởng của
thị trường bảo hiểm. Có thể nói giai đoạn cuôi 2008 và đầu 2009 là giai đoạn đầy
thách thức với nền kinh tế nước ta nói chung và với ngành bảo hiểm nói riêng.
Tình trạng cạnh tranh gay gắt trên thị trường bảo hiểm vẫn tiếp diễn, với
những chiêu thức như: giảm giá dành dich vụ, cắt giảm mức miễn thường, mở rộng
điều kiện bảo hiểm diễn ra phổ biến trong khi tình hình vĩ mô không ổn đinh .Tình
trạng cạnh tranh hạ phí, mở rộng điều kiện, điều khoản bảo hiểm sang cả phạm vi
bảo hiểm khác. Những tài sản có giá trị không cao, không phải tái bảo hiểm ra nước
ngoài, không phải áp dụng mức phí quốc tế thì hạ phí bảo hiểm để giành giật dịch
vụ. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận tất cả rủi ro về mình,
đồng thời làm ảnh hưởng đến doanh nghiệp khác. Ví dụ, có hợp đồng bảo hiểm khu
resort giá trị tài sản không lớn, nhưng thiệt hại kinh doanh rất cao vì bị tác động của
mưa bão, sóng gió... song vẫn có doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm với
mức phí hạ. Điều này khiến các công ty phải đối mặt với mức độ rủi ro cao, doanh
thu không bù đắp đủ chi phí.


Theo thống kê, tỉ lệ bồi thường năm 2007 là 52,44% và giảm dần trong 2
năm 2008, 2009. Cụ thể là năm 2008 là 41,46%, năm 2009 là 38,64%.
Tuy tỉ lệ bồi thường giảm nhưng điều đáng nói là kết quả khả quan trên đạt
được trong bối cảnh nền kinh tế lạm phát cao và những vụ tổn thất tăng cả về mức
độ cũng như tần suất. Trong 6 tháng đầu năm 2008, bảo hiểm phi nhân thọ phải thực
hiện một số vụ bồi thường lớn như: vụ thiết bị khoan Nacap (PVI thực hiện), ước
tính tổn thất 785.000 USD; 3 vụ tổn thất của Xi măng Cẩm Phả (PTI/Pjico thực
hiện), ước tính 1,7 triệu USD; vụ Xi măng Hạ Long (PTI thực hiện), ước tính tổn
thất 1,8 triệu USD. Tổn thất hàng hoá với số ước bồi thường khoảng gần 12 triệu
USD.
Tổng công ty cổ phần Tái bảo hiểm quốc gia (Vinare), doanh nghiệp duy
nhất hoạt động trong lĩnh vực tái bảo hiểm tại Việt Nam nhận định, thị trường bảo
hiểm phi nhân thọ Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2008 tiếp tục tăng trưởng tốt,

với tốc độ tăng trưởng đạt hơn 25% so với cùng kỳ năm 2007. Tuy nhiên, hiệu quả
kinh doanh không được như mong muốn, do chi phí quản lý và khai thác còn quá
cao, nhiều loại hình dịch vụ như bảo hiểm cháy nổ, bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm
thân xe ôtô có tỷ lệ tổn thất lớn. Cuối năm 2008 có đến 18 trên 26 doanh nghiệp bảo
hiểm phi nhân thọ bị lỗ hoặc không có lãi nghiệp vụ bảo hiểm. Mức thua lỗ tổng
cộng là 163 tỷ đồng.
Không ít chuyên gia về bảo hiểm đã chỉ ra rằng, để góp phần phát triển lành
mạnh cũng như bảo đảm an toàn trong hoạt động, các doanh nghiệp bảo hiểm phi
nhân thọ Việt Nam cần phải áp dụng những biện pháp khẩn cấp, chấm dứt ngay tình
trạng khai thác chạy theo doanh thu; chấn chỉnh lại các hoạt động nghiệp vụ; thực
hiện nghiêm quy định của Bộ Tài chính, các cam kết của doanh nghiệp bảo hiểm;
đoàn kết trên thị trường thông qua đồng bảo hiểm, chia sẻ dịch vụ, thông tin, kinh
nghiệm khai thác.
Đầu năm 2009 nền kinh tế xã hội Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề của
khủng hoảng suy thoái kinh tế toàn cầu nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh hoạt động
giảm sút hoặc cầm chừng, công nhân thiếu việc làm giảm sút thu nhập dẫn đến
không có đủ khả năng tài chính tham gia bảo hiểm. Không ít khách hàng truyền
thống của doanh nghiệp bảo hiểm không có tiền đóng phí bảo hiểm mặc dù nhu cầu
bảo hiểm không hề giảm thậm chí tăng lên như ngành vận tải biển, vận tải hàng
không, than khoáng sản…Tốc độ tăng trưởng doanh thu của ngành bảo hiểm 6
tháng đầu năm 2009 vẫn đạt mức khá, dù không bằng năm 2008. Hoạt động khai
thác bảo hiểm gốc tăng 11% so với cùng kỳ năm 2008, trong đó lĩnh vực phi nhân
thọ tăng 13,5%, nhân thọ tăng 8,4%. Ngành bảo hiểm Việt Nam là một trong số ít
ngành may mắn đang vượt qua khủng hoảng.
Tốc độ tăng doanh thu phí của bảo hiểm Việt Nam ở mức khá cao so với thế
giới và khu vực. Một số công ty bảo hiểm tuy mới đi vào hoạt động nhưng cũng đã
đạt được tốc độ tăng trưởng cao như Bảo Minh, Prudential, PJICO… Vốn đầu tư
cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm tăng lên và theo đó khả năng giữ lại phí bảo
hiểm trong nước cũng được nâng lên tương ứng. Qui định của nhà nước về tái bảo
hiểm bắt buộc qua VINARE đã giúp mức phí giữ lại của toàn thị trường tăng đều



qua các năm. Tổng mức phí giữ lại chiếm khoảng 70% tổng phí bảo hiểm gốc, giảm
được một lượng không nhỏ phí bảo hiểm chảy ra nước ngoài. Theo đánh giá của
HHBHVN, hiện nay doanh thu phí bảo hiểm của thị trường mới đạt mức trên 2%
GDP trong khi các nước phát triển trong khu vực thường đạt mức 8-10% GDP (bình
quân thế giới khoảng 8%) do đó, tiềm năng phát triển của các DN bảo hiểm vẫn còn
rất lớn
Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đã có đủ khả năng phục vụ các ngành
kinh tế, các tầng lớp nhân dân với việc tham gia vào nhiều hợp đồng có mức trách
nhiệm lớn tới hàng tỷ USD như bảo hiểm trong các lĩnh vực hàng không; dầu khí;
Nhà máy xi măng Chinfon, Nhà máy điện Phú Mỹ, các toà nhà, khách sạn lớn cùng
với hàng nghìn nhà xưởng, văn phòng… Hoạt động đầu tư của các công ty đang tạo
ra một nguồn vốn lớn cho xã hội.
Các công ty bảo hiểm Việt Nam đang tích cực hợp tác, giúp đỡ nhau cùng có
lợi. Các công ty bảo hiểm đã có được bản đồng thoả thuận về khai thác bảo hiểm
cháy và các rủi ro đặc biệt. Đặc biệt, sự ra đời của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam đại
diện cho các doanh nghiệp cũng thể hiện những bước tiến tích cực của bảo hiểm
ViệtNam.
Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thấy rằng, thị trường bảo hiểm Việt Nam vẫn
chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Năng
lực hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm còn khá nhiều
hạn chế. Việc cạnh tranh không lành mạnh giữa các DN bảo hiểm đang ở tình trạnh
báo động. Do cạnh tranh gay gắt, các DN bảo hiểm đã hạ phí bảo hiểm, tăng phần
trợ cấp cho các đại lý, làm giảm hiệu quả kinh doanh. Công tác giải quyết bồi
thường chưa được thực hiện tốt, chưa đảm bảo tối đa quyền lợi của khách hàng khi
gặp thiệt hại.
Trong năm 2009 nhiều thiên tai giông tố lũ lụt xảy ra nhất là cơn bão số 9 &
11 liên tiếp gây thiệt hại nặng nề cho các tỉnh miền Trung. Thị trường chứng khoán
đã có thời điểm xuống chỉ còn 235 điểm (ngày 24/2), thị trường bất động sản, ngoại

tệ mất ổn định ảnh hưởng lớn tới hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm. Tổng
kết bồi thường bảo hiểm qua 3 năm như sau:

2.2 Hiệu quả từ các sản phẩm, dịch vụ:
Trước tình hình trên các DNBH đã tìm cách tháo gỡ khó khăn vươn lên bằng
nội lực củng cố xếp sắp lại quản lý kinh doanh, cải tiến sản phẩm bảo hiểm hiện
hành, nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, mở rộng và nâng cao chất lượng kênh
phân phối, chung tay với khách hàng giải quyết khó khăn và tài chính như giãn thời
hạn nộp phí, cho vay để đóng phí bảo hiểm…Các DNBH đã rà soát để sửa đổi bổ
sung quy tắc điều khoản biểu phí bảo hiểm của các sản phẩm bảo hiểm hiện hành,
phát triển sản phẩm mới mang tính đặc thù của doanh nghiệp, hoàn thiện quy trình
quản lý nghiệp vụ, quy trình thủ tục giải quyết bồi thường vừa mang tính cải cách
thủ tục hành chính vừa hướng tới phục vụ khách hàng khẩn trương và tốt nhất, vừa
quản lý chặt chẽ từ khâu khai thác đến giải quyết bồi thường. Hầu hết các DNBH đã
tập trung xây dựng cơ sở công nghệ thông tin nâng cao chất lượng quản lý nghiệp


vụ kinh doanh và phục vụ khách hàng. Nhiều DNBH đã tập trung phát triển khâu
chăm sóc khách hàng xây dựng trung tâm giải quyết bồi thường, trung tâm cứu nạn
cứu hộ, trung tâm tư vấn khách hàng. Nhiều DNBH đưa ra chỉ tiêu phải có lãi từ
nghiệp vụ bảo hiểm hoặc từng bước giảm tỉ lệ bồi thường hàng năm xuống bằng tỉ
lệ bồi thường chung của toàn thị trường. Tình trạng cạnh tranh vẫn còn gay gắt
nhưng mức độ cạnh tranh phi kỹ thuật (mở rộng điều kiện điều khoản, giảm phí bảo
hiểm không tương xứng với trách nhiệm bảo hiểm) đỡ quyết liệt hơn. Sau đây là các
sản phẩm bảo hiểm chính của các DNBH phi nhân thọ:
II.2.1 Bảo hiểm xe cơ giới

Năm 2007 bảo hiểm xe cơ giới có doanh thu gần đạt 2550 tỉ đồng chiếm gần 30%
doanh thu trong Bảo hiểm phi nhân thọ, tăng 49% so với năm 2006. Nguyên nhân
tăng đáng kể so với năm 2006 là do năm 2007 Việt Nam bắt đầu thực hiện 1 số cam

kết quốc tế, trong đó đáng chú ý nhất là việc mở cửa cho các loại xe nhập khẩu và
các quyết định giảm thuế nhập khẩu. Số liệu thống kê cho thấy tính đến hết năm
2007 có đến 28000 chiếc được nhập về nước, đạt tổng giá trị 523 USD tăng 245%
so với năm 2006. Dẫn đầu doanh thu là bảo hiểm Bảo Việt 842 tỉ đồng, Bảo Minh
510 tỉ tiếp đến là PJICO 491 tỉ đồng

STT

Doanh
nghiệp

Bảo hiểm gốc
Phí

Bồi
thường

Phí
thực
thu

Bồi
thường
thực
chi

Tỉ lệ
bồi
thường


1

Bảo Việt

841,939

429,914

841,939

429,914

51.06%

2

Bảo Minh

509,612

298,062

507,831

298,367

58.75%

3


Bảo Long

78,260

48,112

76,040

48,002

63.13%

4

PJICO

490,508

206,276

489,631

206,276

42.13%

5

Viễn Đông


89,523

36,395

86,360

36,443

42.20%

6

PTI

134,745

93,608

133,806

93,339

69.76%

7

PVI

236,581


77,463

236,411

77,827

32.92%

8

QBE

775

600

736

600

81.52%

Bảng: thống kê số tiền phí bảo hiểm gốc và tiền bồi thường
Bên cạnh số tiền phí mà Doanh nghiệp bảo hiểm thu được, các Doanh phải chi tiền
bồi thường khi các sự kiện được bảo hiểm xảy ra. Tổng số tiền bồi thường là 1228 tỉ
đồng chiếm 42,8% doanh thu. Doanh nghiệp có tỉ lệ bồi thường cao là QBE
79,37%; PTI 69,76%; Bảo Long 63,13%; Bảo Minh 58,75%; Bảo Việt 51,06%.


Riêng bảo hiểm bắt buộc Trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới theo QĐ 23 có

hiệu lực 12/6/2007 đã mang lại quyền lợi chi người tham gia bảo hiểm nhưng đồng
thời các doanh nghiệp gánh vác trách nhiệm nặng nề hơn. Thực hiện quyết định 23
các doanh ngiệp đóng góp 2% doanh thu cho quỹ tuyên truyền và đảm bảo an toàn
giao thông, góp phần tăng trưởng doanh thu bảo hiểm trách nhiệm dân sự xe cơ
giới.
Nhìn chung sản phẩm bảo hiểm xe cơ giới năm 2007 đã tạo ra được một khoảng
doanh thu lớn cho doanh nghiệp, góp phần phát triển doanh nghiệp nói riêng và thi
trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam nói chung
Năm 2008 lại đánh dấu thêm sự phát triển rất mạnh mẽ của loại hình bảo hiểm này.
Các doanh nghiệp bảo hiểm cạnh tranh càng khốc liệt, lôi kéo khách hàng về với
mình bằng mọi cách ngay cả việc hạ phí. Điều này không những không làm tăng
trưởng thị trường mà còn không kích thích nhu cầu bảo hiểm của khách hàng chưa
tham gia bảo hiểm. Thêm vào đó các công ty bảo hiểm nước ngoài cũng tham gia
vào lĩnh vực này phá vỡ thế độc quyền của các doanh nghiệp trong nước. Trong số
các công ty bảo hiểm nước ngoài được phép bán bảo hiểm xe cơ giới thì công ty
bảo hiểm Liberty (Mỹ) đang chiếm thị phần nhiều nhất. Sản phẩm của Liberty với
nhiều quyền lợi hấp dẫn đã tạo nên tên tuổi của mình trên thị trường, tạo dựng được
niềm tin nơi khách hàng. Năm nay các văn bản pháp luật về trách nhiệm dân sự bắt
buộc chủ xe cơ giới được hoàn thiện hơn qua nghị định 103/2008NĐ- Cp cùng với
thông tư hướng dẫn thực hiện số 126/2008/tt- BTC do Bộ tài chính ban hành ngày
22/12/2008.
Năm 2009, do chính sách kích cầu của chính phủ giảm thuế ô tô nên số lượng xe
tiêu thu tăng nhanh kể cả xe nhập khẩu, TT 126 bảo hiểm bắt buộc TNDS chủ xe cơ
giới cho phép tăng phí từ 10% - 20% so với QĐ 23 ngày 9/4/2007 là những yếu tố
khách quan phát triển thị trường và tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm xe cơ giới.
Toàn thị trường đạt 4.326 tỉ đồng (tăng 36,28%), Top đầu doanh thu gồm có Bảo
Việt 1.139 tỉ đồng, PJICO 652 tỉ đồng, Bảo Minh 583 tỉ đồng, PVI 533 tỉ đồng,
MIC 200 tỉ đồng, PTI 196 tỉ đồng. Đặc biệt công ty bảo hiểm Liberty mới gia nhập
thị trường đã đạt doanh thu bảo hiểm xe cơ giới 132 tỉ đồng đứng thứ 10 của thị
trường bảo hiểm xe cơ giới.

II.2.2 Bảo hiểm kỹ thuật
Năm 2007 bảo hiểm kỹ thuật có doanh thu đạt 1546 tỉ đồng, tăng 9,3% so với năm
2006. Trong đó bảo hiểm xây dựng lấp đặt đạt 760 tỉ đồng, bảo hiểm máy móc thiết
bị 36 tỉ đồng, bảo hiểm thiết bị điện tử 93,7 tỉ đồng. Đến năm 2009 những con số
này đã tăng lên đáng kể: tổng doanh thu đạt 2822 tỉ, bảo hiểm xây dựng lắp đặt
1242 tỉ,…Qua so sánh trên ta thấy thị trường bảo hiểm phi nhân thọ về nghiệp vụ
bảo hiểm kỹ thuật cũng có bước phát triển đáng kể.
II.2.3 Bảo hiểm sức khỏe con người


Đây cũng là 1 trong những sản phẩm đem lại doanh thu cao cho doanh nghiệp. Bởi
xu hướng con người ngày càng phát triển, ngày càng quan tâm hơn đến sức khỏe
của mình. Chính vì thế các doanh nghiệp bảo hiểm cũng đưa ra nhiều sản phẩm đa
dạng, đáp ứng lại nhu cầu trên như :bảo hiểm y tế chất lượng cao,sản phẩm bảo
hiểm quân nhân, bảo hiểm trách nhiệm trả nợ tiền vay khi người đi vay bị tử vong
hoặc mất khả năng lao động, bảo hiểm điều trị y tế cao cấp... Đi đầu về doanh thu
trong nghiệp cụ này vẫn là những tên tuổi quen thuộc: Bảo Việt 899 tỉ đồng, Bảo
Minh 364 tỉ đồng, PVI 132 tỉ đồng, PJICO 115 tỉ đồng, Chartis 55 tỉ đồng, AAA 54
tỉ đồng.(năm 2009)
II.2.4 Bảo hiểm cháy nổ và mọi rủi ro
Bảo hiểm cháy nổ đã có hiệu lực từ trước năm 2007, doanh thu các năm sau có cao
hơn năm trước : năm 2007 đạt 1022 tỉ đồng, 2009 đạt 1191 tỉ đồng nhưng các cơ sở
thuộc đối tượng phải mua bảo hiểm cháy nổ bắt buộc tham gia bảo hiểm chưa
nhiều.Một đối tượng khách hàng với số lượng không nhỏ hoạt động từ nguồn ngân
sách Nhà nước như: bệnh viện, trường học, công sở…. không được duyệt kinh phí
mua bảo hiểm nên không mua Đây có thể là lý do mà nghiệp vụ bảo hiểm này
chưa thật sự phát huy được, thiết nghĩ nhà nước và chính phủ cần có nhiều chính
sách hỗ trợ khách hàng góp phần phát triể thị trường bảo hiểm Việt Nam.
II.2.5 Các sản phẩm khác đáp ứng nhu cầu cấp thiết từ thị trường


Ngay sau khi Cục Cảnh sát giao thông đường bộ thông báo sẽ kiểm tra gắt gao việc
mua bảo hiểm bắt buộc, Công ty cổ phần Bảo hiểm Bưu điện (PTI) đã nhanh chóng
đưa ra thị trường sản phẩm "Phúc vạn dặm bảo hiểm vật chất cho xe ôtô"
Công ty Cổ phần Bảo hiểm Viễn Đông (VASS) thì cho ra mắt Bảo hiểm nhà tư
nhân, bảo hiểm cấu trúc ngôi nhà (trang thiết bị gắn liền với ngôi nhà), tài sản bên
trong ngôi nhà (vật gia dụng, tài sản cá nhân) nếu bị cháy, nổ, sét đánh, động đất,
trộm cướp, hành động cố ý phá hoại hay hành động ác ý đều được bồi thường
Mới đây, tập đoàn Bảo Việt đã ký thỏa thuận hợp tác bancassurance (sản phẩm bảo
hiểm và ngân hàng kết hợp) với Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu
Long (MHB). Đồng thời Bảo Việt đã cùng Ngân hàng TNHH một thành viên HSBC
(Việt Nam) triển khai bán sản phẩm bảo hiểm du lịch trên trang web của ngân hàng
này, việc hợp tác với các ngân hàng sẽ đem lại thành công cho cả hai, đồng thời
giúp khách hàng của Bảo Việt có thêm nhiều lựa chọn
Để thu hút thêm khách hàng một trong những chiến lược kinh doanh trọng
tâm của Bảo Minh là đưa ra sản phẩm trực tiếp đến hộ gia đình người Việt Nam.
Một sản phẩm bảo hiểm thông thường chỉ hướng đến từng đối tượng riêng lẻ, bảo
hiểm từng hạng mục khác nhau. Ý nghĩa của “Bảo hiểm hộ gia đình” chính là ở chữ
“trọn gói” của nó. Một sản phẩm trọn gói cho cả gia đình, bao gồm: Bảo hiểm sức
khỏe, Bảo hiểm xe gắn máy và Bảo hiểm hỏa hoạn nhà tư nhân.Khuyến khích tham
gia bảo hiểm trọn gói cả ba loại (sẽ có ưu đãi hơn về giá phí), tuy nhiên thực tế có
những khách hàng đã bảo hiểm rồi (ví dụ như xe gắn máy). Như vậy, Bảo Minh sẽ
đưa ra các bảng giá cụ thể để đáp ứng tình hình thực tế. Mục tiêu của công ty là
hướng đến sức khỏe của người dân vì vậy trọng tâm của “Bảo hiểm hộ gia đình” là


bảo hiểm sức khỏe gia đình.
Trước hết, khi mọi người tham gia “Bảo hiểm hộ gia đình”, mức phí sẽ giảm hơn so
với việc tham gia từng sản phẩm đơn lẻ. Khách hàng của Bảo Minh luôn được quan
tâm, phục vụ tận tình và được bảo vệ toàn diện trước những rủi ro liên quan đến
cuộc sống. Đặc biệt với sản phẩm Bảo hiểm trọn gói này khách hàng còn được quan

tâm sâu sắc hơn. Trong bảo hiểm sức khỏe, có bảo hiểm điều trị ngoại trú và tiền
mất giảm thu nhập. Trong bảo hiểm hỏa hoạn nhà tư nhân, Bảo Minh còn bảo hiểm
các rủi ro do trộm cắp tài sản, giông bão, lũ lụt… “Bảo hiểm hộ gia đình” mang tính
trọn gói đúng nghĩa của nó
Ngoài việc đẩy mạnh thiết kế sản phẩm mới, các doanh nghiệp bảo hiểm cũng rất
chú trọng đến dịch vụ tư vấn khách hàng. Chiến lược chung của các công ty là tiếp
cận khách hàng theo yêu cầu, có thể thông qua nhiều hình thức trao đổi như điện
thoại, email, gặp trực tiếp tại nhà, tại nơi làm việc hay các quán cà phê. Hơn nữa,
khách hàng có thể yêu cầu tư vấn viên tư vấn nhiều lần
II.3 Hiệu quả từ sự gia tăng thị phần khách hàng:
Việt Nam gia nhập WTO đã tạo ra nhiều cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam phát triển.
Tuy nhiên,những thách thức đối với các ngành kinh tế của Việt Nam khi tham gia
hội nhập là rất lớn. Giải quyết những thách thức lớn đó, mỗi ngành trong đó có lĩnh
vực bảo hiểm phải tìm ra cho mình những lợi thế cạnh tranh tích cực. Việt Nam gia
nhập WTO đã đem lại nhiều yếu tố thuận lợi cho việc phát triển kinh tế - xã hội nói
chung và ngành bảo hiểm nói riêng. Tuy nhiên, bước vào sân chơi quốc tế, đòi hỏi
các ngành hàng của Việt Nam trong đó có bảo hiểm phải có sự chuyển mình để hoà
nhập trong khuôn khổ pháp lý của sân chơi chung này. Các sản phẩm bảo hiểm dễ
bắt chước và được phát triển tuân theo chuẩn mực quốc tế. Vì vậy, khi thành lập và
đi vào hoạt động các doanh nghiệp bảo hiểm thường là kế thừa các sản phẩm bảo
hiểm đã có sẵn trên thị trường bảo hiểm quốc tế và trong nước. Ngày 18.12.1993,
Chính phủ ra Nghị Định 100/1993/NĐ-CP quy định về việc thành lập và tổ chức
hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, ngoài Bảo
Việt thành lập năm 1964, lần lượt các doanh nghiệp bảo hiểm khác được cấp phép
hoạt động như: Bảo Minh (1994), PJICO (1995), Bảo Long (1995), PVI (1996),
Bảo Việt Nhân Thọ (1996 triển khai thí điểm). Đây là tiền đề quan trọng tạo nên sự
lớn mạnh của hoạt động bảo hiểm Việt Nam.Và ngành bảo hiểm nói chung , bảo
hiểm phi nhân thọ nói riêng đã có những thuận lợi bước đầu để gia tăng lượng thị
phần khách hàng trong ngành:
Một là, chủ chương cổ phần hóa đã có những bước tiến lớn và chuẩn bị hoàn thành.

Sự trợ cấp của Nhà nước ở một số lĩnh vực sẽ giảm dần. Sự trợ cấp của nhà nước
càng giảm thì sự lo lắng thiên tai, tai nạn xảy ra bất ngờ dẫn đến người ta phải nghĩ
tới bảo hiểm. Chế độ sở hữu tư nhân buộc người điều hành doanh nghiệp muốn bảo
toàn vốn và tài sản trước mọi rủi ro cần phải có bảo hiểm, điều này làm tăng nhu
cầu bảo hiểm để ngành bảo hiểm phi nhân thọ phát triển.
Hai là, hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện và mang tính tương thích với nhau
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người tiêu dùng và của doanh nghiệp


ngày một tốt hơn, điều này làm phát sinh theo nhu cầu bảo hiểm như bảo hiểm:
Trách nhiệm nghề nghiệp bác sĩ, luật sư, tư vấn thiết kế…; tài sản; rủi ro tài
chính; trách nhiệm sản phẩm của các tổ chức sản xuất, kinh doanh; trách nhiệm dân
sự của các chủ doanh nghiệp
Ba là, nhận thức về nhu cầu, tác dụng của bảo hiểm ngày càng được nâng cao thông
qua công tác tuyên truyền của ngành bảo hiểm, đặc biệt là tập quán mua bảo hiểm
của giới chủ đầu tư nước ngoài sẽ ảnh hưởng lớn đến nhận thức của những khách
hàng tiềm năng có nhu cầu dẫn tới quyết định tham gia bảo hiểm ngày một đông
đảo hơn.
Bốn là, Nghị định 45-46 sửa đổi Nghị định số 42-43 và các thông tư hướng dẫn về
hoạt động kinh doanh bảo hiểm được ban hành cùng với các cam kết của Việt Nam
về gia nhập WTO có hiệu lực từ 1/1/2007, đã tạo nhiều cơ hội cho hoạt động khai
thác dịch vụ của các doanh nghiệpbảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Năm là, Một số văn bản pháp luật liên quan tới hoạt động kinh doanh bảo hiểm
được ban hành đã tác động tích cực tới khả năng tăng trưởng doanh thu bảo hiểm
cho toàn thị trường như Nghị định bắt buộc về bảo hiểm cháy nổ, bảo hiểm xe cơ
giới, hay Nghị định mới qui định về bảo hiểm y tế thay đổi cách thức chi trả (bệnh
nhân tự đóng 20%), Nghị định qui định chi tiết luật du lịch yêu cầu các công ty lữ
hành mua bảo hiểm bắt buộc cho khách.
Sáu là, Đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư trong nước phát triển nhanh chóng
Đây cũng là cơ sở để ngành BH phát triển, đồng thời cũng đòi hỏi ngành BH phải

có sản phẩm BH đáp ứng nhu cầu của tăng trưởng đầu tư nước ngoài và trong nước,
nhất là những cơ sở đầu tư ngành nghề mới, công nghệ cao như đóng tàu, xây dựng
đường tàu điện ngầm, xây dựng ngành điện tử công nghệ thông tin, xây dựng nhà
máy lọc dầu, điện nguyên tử, vệ tinh, sản xuất linh kiện máy bay… Đây là tiềm
năng cho BH xây dựng lắp đặt, BH tài sản, BH kĩ thuật, BH trách nhiệm phát triển
Các DNBH Phi nhân thọ đã mở rộng ra thị trường nước ngoài Cuộc chinh phục thị
phần bảo hiểm phi nhân thọ ở nước ngoài của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân
thọ Việt Nam bắt đầu nóng lên với sự kiện CTCP Bảo hiểm Bưu điện (PTI) và Ngân
hàng Phát triển Lào (LDB) vừa chính thức ký biên bản ghi nhớ về việc thành lập
CTCP Bảo hiểm ChămPa tại Lào. Như vậy, PTI sẽ trở thành doanh nghiệp bảo hiểm
phi nhân thọ thứ hai tại Việt Nam gia nhập thị trường bảo hiểm Lào.
Trước đó, Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIC) là
doanh nghiệp tiên phong thực hiện chiến lược đầu tư mở rộng thị trường ra các
nước láng giềng. Cụ thể, tháng 6/2008, BIC đã thành lập và đưa vào hoạt động Liên
doanh Bảo hiểm Lào - Việt (LVI) tại Lào và tháng 8/2009, BIC được giao quản lý
và điều hành hoạt động Công ty Bảo hiểm Campuchia - Việt Nam (CVI) do Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) thành lập tại Campuchia. Hiện LVI đã
thành lập được 3 phòng kinh doanh khu vực tại miền Bắc, miền Trung và miền
Nam; phát triển kênh phân phối qua đại lý tại tất cả các tỉnh, thành của Lào. Năm
nay, LVI dự kiến bắt đầu có lợi nhuận sau gần 2 năm gây dựng hệ thống, tạo nền
tảng khách hàng ban đầu..
Ngoài thị trường bảo hiểm Lào, tháng 12/2009, PVI chính thức chinh phục thị
trường bảo hiểm của Nga khi cùng Hãng Sogaz - nhà bảo hiểm lớn thứ hai của Nga
- thu xếp chương trình bảo hiểm cho các dự án tại Nga và các nước thứ ba.


Một điều đáng chú ý trong lĩnh vực cạnh tranh thị giữa các DN là 4 DN là Bảo Việt,
Bảo Minh, PVI và PJICO chiếm hơn 72% thị phần bảo hiểm phi nhân thọ, song trên
thị trường đang hình thành xu hướng một số DN hùn nhau lập DN để tự bảo hiểm
cho mình. Xu hướng này khiến các DN bảo hiểm trước đây mất đi một phần doanh

thu và cũng có nhiều ý kiến khác nhau về cái gọi là rủi ro trong việc "tự mình bảo
hiểm mình". Ví dụ Ngân hàng SHB cùng Tập đoàn Than Khoáng sản (TKV) và vài
cổ đông khác thành lập Cty bảo hiểm phi nhân thọ SHB - Vinacomin (SVIC) để
khai thác bán bảo hiểm cho hơn 40 DN thuộc TKV. Trước đó mảng than - khoáng
sản là khách hàng của Cty bảo hiểm Bảo Minh. Đối với trường hợp bảo hiểm cho
hàng không, năm nay Bảo Minh cũng bị mất về tay công ty bảo hiểm phi nhân thọ
Hàng không do Vietnam Airlines cùng bốn cổ đông khác lập ra vào năm ngoái. Mặc
dù năm 2007, Bảo Minh là nhà bảo hiểm gốc đứng đầu cho Vietnam Airlines với
tổng giá trị bảo hiểm trên bốn tỷ USD. Năm 2008 Bảo Minh nhận bảo hiểm toàn bộ
chín triệu lượt hành khách và đội bay của Vietnam Airlines. Tình trạng trên sẽ
không phải chỉ riêng với Bảo Minh mà nhiều DN bảo hiểm khác cũng sẽ gặp phải
trong thời gian tới. Thị trường bảo hiểm đang được vẽ lại bản đồ, một chuyên gia
phân tích ngành bảo hiểm nhận định
Giải pháp phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam:
Đối với cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm là Bộ Tài chính, Vụ Bảo hiểm, cần
phải tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật. Chính sách về bảo hiểm
phải rõ ràng, minh bạch, đảm bảo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Một số
yêu cầu đặt ra về hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp luật, bao gồm:
-Để thực hiện các cam kết, bổ sung các quy định về chi nhánh trực tiếp của các
doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, bãi bỏ các quy định mang tính bảo hộ các
doanh nghiệp trong nước về địa bàn hoạt động, đối tượng khách hàng, các loại hình
nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc, tái bảo hiểm bắt buộc; hoàn thiện các điều kiện, tiêu
chuẩn cấp phép minh bạch, thận trọng thay thế cho cơ chế cấp phép theo từng
trường hợp cụ thể.
-Bổ sung, sửa đổi một số quy định nhằm tăng khả năng giám sát tài chính của các
công ty bảo hiểm bao gồm vốn pháp định, khả năng thanh toán, hoạt động tài chính
của các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục tiêu lựa chọn được các nhà đầu tư có
năng lực tài chính, cam kết lâu dài đối với sự phát triển của thị trường bảo hiểm
Việt Nam, đặc biệt là khi Việt Nam gia nhập WTO. Các quy định này giúp doanh
nghiệp nâng cao chất lượng quản trị điều hành, phát hiện sớm các rủi ro đồng thời

hỗ trợ cho công tác quản lý giám sát của các cơ quan chức năng.
-Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách đảm bảo sự lành mạnh của thị trường, bao
gồm các quy định bảo vệ người tiêu dùng như hoàn thiện các quy định về nội dung
và phương thức giao kết hợp đồng bảo hiểm nhằm đảm bảo tính an toàn của giao
dịch cho cả người mua lẫn công ty bảo hiểm và các đối tượng liên quan (đại lý, môi
giới bảo hiểm). Cần có các quy định cụ thể và đặc thù hơn điều chỉnh hoạt động
cạnh tranh đảm bảo cạnh tranh công bằng và lành mạnh trên thị trường ngành bảo
hiểm, bởi đây là một ngành rất đặc thù và nhạy cảm.
III.


Ngoài ra, giữa cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp phải thiết lập được mối
quan hệ chặt chẽ để cùng nhau nắm bắt thông tin. Đồng thời, tăng cường công tác
giám sát, cưỡng chế của cơ quan quản lý đối với hoạt động bảo hiểm. Cần phối hợp
với Hiệp hội Bảo hiểm thực thi những quy tắc đạo đức nghề nghiệp, đào tạo nguồn
nhân lực.
Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam cần nhạy bén, nhanh nhạy hơn và đề ra những quy tắc
cho hoạt động bảo hiểm. Đối với khối doanh nghiệp bảo hiểm, vấn đề đặt ra là phải
làm sao nâng cao năng lực tài chính và cạnh tranh. Trên thị trường bảo hiểm đã có
một số doanh nghiệp vốn lớn, song cũng có những doanh nghiệp nhỏ, tiềm lực tài
chính thấp. Yêu cầu đặt ra lúc này là phải có kế hoạch tăng năng lực tài chính dưới
mọi hình thức, kể cả liên doanh, liên kết. Có khá nhiều điều cần phải tăng cường
hơn nữa trong thời gian tới như: kiểm tra, kiểm soát nội bộ, kiểm soát rủi ro, giám
sát tính độc lập của hội đồng quản trị, cổ đông thiểu số, công bố thông tin, công
khai, minh bạch tài chính kế toán.
Để mở rộng và phát triển thị trường bảo hiểm, bản thân các doanh nghiệp cũng cần
đa dạng hóa các sản phẩm, xem xét phát triển thêm các kênh bán hàng khác bên
cạnh kênh truyền thống là đại lý, nghiên cứu đưa ra các sản phẩm mới, xem xét phát
triển thêm các kênh bán hàng khác bên cạnh kênh truyền thống là đại lý, nghiên cứu
đưa ra các sản phẩm mới như bancassurance, bảo hiểm liên kết đầu tư.

Còn doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, điều quan tâm nhất là vấn đề trong sạch;
trong quản lý kế toán tài chính thì vấn đề chi trả bồi thường, hoa hồng cần phải
được kiểm soát chặt chẽ. Vấn đề phát triển công nghệ thông tin trong hoạt động bảo
hiểm là cực kỳ quan trọng. Hiện nay, việc đầu tư cho công nghệ thông tin của các
doanh nghiệp bảo hiểm vẫn chưa được đồng đều. Để nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam, các doanh nghiệp cần tiếp tục trang bị và ứng
dụng công nghệ thông tin vào khâu khai thác, quản trị rủi ro, quản trị doanh nghiệp,
trong đó quan trọng nhất là ứng dụng thương mại điện tử. Người có nhu cầu về bảo
hiểm có thể lựa chọn sản phẩm bảo hiểm của các doanh nghiệp trên mạng.
Mục tiêu doanh thu phí bảo hiểm đạt 4% GDP vào năm 2010, thị trường bảo hiểm
có nhiều cơ hội cho doanh nghiệp khai thác, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập. Về
cung trên thị trường bảo hiểm, doanh nghiệp cần có thêm những sản phẩm mới. Cơ
quan quản lý sẽ không can thiệp sâu vào việc quản lý các sản phẩm của doanh
nghiệp, mà sẽ có cơ chế cho doanh nghiệp đăng ký sản phẩm. Còn chất lượng sản
phẩm thế nào thì phụ thuộc vào chính doanh nghiệp, doanh nghiệp cần có những
biện pháp phù hợp với từng loại sản phẩm nhất định để đêm lại hiệu quả cao, từ đó
tạo được lòng tin nơi khách hàng. Về cầu thì phụ thuộc vào sự phát triển của nền
kinh tế, thu nhập của người dân, nhận thức của người dân, chính vì vậy mà ngoài
việc cung cấp sản phẩm tốt, công việc tiếp thị cũng đòi hỏi cao ở mỗi doanh nghiệp.


Để phát triển thị trường bảo hiểm, vấn đề cốt lõi là thể chế phải rõ ràng, không chỉ ở
văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến kinh doanh bảo hiểm mà còn ở các văn
bản liên quan, sự ứng xử của cơ quan quản lý nhà nước.
Ngoài ra đầu tư và hợp tác giữa ngân hàng và bảo hiểm sẽ phát triển mạnh và mang
lại hiệu quả lớn. việc phối hợp với các công ty bảo hiểm thiết kế các sản phẩm ngân
hàng - bảo hiểm, nhiều ngân hàng theo định hướng phát triển thành các tập đoàn tài
chính cũng muốn phát triển thêm hoạt động bảo hiểm bên cạnh hoạt động truyền
thống, vừa giúp đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, tăng cường khả năng quản lý rủi ro
và mang lại hiệu quả kinh doanh.




×