Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng tới văn hoá ứng xử học đường của sinh viên Đại học Kinh tế quốc dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.44 KB, 70 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
CÔNG TRÌNH THAM GIA XÉT GIẢI
GIẢI THƯỞNG “ TÀI NĂNG KHOA HỌC TRẺ VIỆT NAM”
NĂM 2015

Tên công trình:
KHẢO SÁT CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
TỚI VĂN HÓA ỨNG XỬ HỌC ĐƯỜNG
CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
Thuộc nhóm ngành khoa học: XH1

HÀ NỘI, 2015
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ……………………………………….5
DANH MỤC CÁC BẢNG ………………………………………….…6
DANH MỤC CÁC HÌNH VÀ BIỂU ĐỒ …………………………….7
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
8
1.1 Sự cần thiết của nghiên cứu
8
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
9
1.3 Nhiệm vụ nghiên cứu
9
1.4 Câu hỏi nghiên cứu
9
1.5 Phạm vi nghiên cứu
9
1.6 Phương pháp nghiên cứu 9
1.6.1 Quy trình nghiên cứu
9


1.6.2 Phương pháp thu thập dữ liệu 9
1.6.3 Phương pháp phân tích số liệu 9
1.7 Cấu trúc đề tài
9
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA ỨNG XỬ
CỦA SINH VIÊN 9
2.1 Văn hóa ứng xử 9
2.1.1 Quan niệm về văn hóa ứng xử 9
2.1.2 Vai trò của văn hóa ứng xử
9
2.2 Văn hóa ứng xử học đường
9
2.2.1 Văn hóa ứng xử giữa sinh viên với sinh viên 9
2.2.2 Văn hóa ứng xử giữa sinh viên với giảng viên
9
2.2.3 Văn hóa ứng xử giữa sinh viên với chuyên viên
9


2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa ứng xử của sinh viên và các giả
thuyết9
2.3.1 Các yếu tố khách quan 9
2.3.2 Các yếu tố chủ quan
9
2.4 Mô hình lý thuyêt của đề tài
9
2.5 Những nghiên cứu có liên quan về văn hóa ứng xử 9
CHƯƠNG 3. ĐÁNH GIÁ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VĂN
HÓA ỨNG XỬ CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC KTQD
9

3.1 Tổng quan về sinh viên KTQD 9
3.2 Kiểm định độ tin cậy của các biến và phân tích nhân tố khám phá
9
3.2.1 Thiết kế bảng hỏi và xây dựng nghiên cứu 9
3.2.2 Kiểm định độ tin cậy của các biến trong mẫu phiếu điều tra
9
3.2.3 Phân tích nhân tố khám phá
9
3.3 Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa ứng xử của sinh viên
9
3.4 Kết quả nghiên cứu thực tiễn 9
3.4.1 Phân tích mô hình hồi quy và kiểm định sự phù hợp của mô hình
9
3.4.2 Kiểm định giả thuyết
9
3.4.3 Đánh giá chung về sự ảnh hưởng của các yếu tố đưa ra đến văn hóa
ứng xử của sinh viên
9
3.4.4 Kết luận
9
CHƯƠNG 4. ĐỀ XUẤT PHƯƠNG ÁN ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG
VĂN HÓA ỨNG XỬ HỌC ĐƯỜNG 9
4.1 Định hướng từ các trường ĐH trên thế giới và các trường ĐH tại
Việt Nam
……………………………………………………………………...
……..9
4.2 Đề xuất phương án định hướng văn hóa ứng xử của sinh viên
trường KTQD
9
4.2.1 Về phương diện xã hội 9

4.2.2 Về phương diện nhà trường
9
4.2.3 Về phương diện cá nhân. 9
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN
9
5.1 Kết luận
9
5.2 Hạn chế
9
Tài liệu tham khảo 9
Phụ lục 1. Kết quả kiểm định thang đo9
PL1. Phân tích kiểm định độ tin cậy của yếu tố tuổi9
PL2. Phân tích kiểm định độ tin cậy của yếu tố về gia đình
9
PL3. Phân tích kiểm định độ tin cậy của yếu tố về giảng viên 9
PL4. Phân tích kiểm định độ tin cậy của yếu tố về công nghệ thông tin 9


PL 5. Phân tích kiểm định độ tin cậy của yếu tố về hoạt động ngoại khóa
9
PL6. Phân tích kiểm định độ tin cậy của yếu tố về quy định của nhà
trường
9
PL 7. Phân tích kiểm định độ tin cậy của yếu tố về môi trường riêng của
khoa 9
PL 8. Kết quả kiểm định EFA lần 1 9
PL 9. Kết quả kiểm định EFA lần 2 9
PL 10. Kết quả kiểm định EFA lần 3 9
PL 11. Kết quả hồi quy với biến phụ thuộc là SVSV
9

PL 13. Kêt quả hồi quy với biến phụ thuộc là SVCV
9
PL 15. Các yếu tố về tuổi9
PL16. Các yếu tố về gia đình 9
PL17. Các yếu tố về giảng viên 9
PL18. Các yếu tố về công nghệ 9
PL19. Các yếu tố về hoạt động ngoại khóa 9
PL20. Các yếu tố về quy định nhà trường 9
PL21. Các yếu tố về môi trường riêng của khoa
9
Phụ lục 2. Phiếu khảo sát
9

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT NỘI DUNG
ĐH KTQD Đại học Kinh tế Quốc dân.
EBBA
English Bachelor of Business Administration - Chương trình
Quản trị kinh doanh học bằng tiếng Anh.
AEP Advanced English Program – Chương trình Tiên tiến, Chất lượng
cao.
POHE
Professional Oriented High Education - Chương trình Tiên
tiến, Chất lượng cao chuyên về Quản trị lữ hành, khách sạn.
IBD International Bachelor Degree - Cử nhân Quốc tế.
CN Công nghệ thông tin
HĐNK
Hoạt động ngoại khóa
QĐNT
Quy định nhà trường

MT Môi trường của khoa/viện
GV Giảng viên
T
Tuổi
GĐ Gia đình
VHƯX
Văn hóa ứng xử


DANH MỤC CÁC BẢNG
BảNG 3.1 CấU TRÚC BảNG HỏI VÀ THANG ĐO
9
BảNG 3.2 Tỉ Lệ SINH VIÊN THAM GIA KHảO SÁT THEO GIớI TÍNH
9
BảNG 3.3 Tỉ Lệ SINH VIÊN THAM GIA KHảO SÁT THEO VÙNG 9
BảNG 3.4 Tỉ Lệ SINH VIÊN THAM GIA KHảO SÁT THEO KHOA 9
BảNG 3.5 Tỉ Lệ SINH VIÊN THAM GIA KHảO SÁT THEO NĂM 9
BảNG 3.6 KếT QUả PHÂN TÍCH KIểM ĐịNH Độ TIN CậY CủA CÁC
BIếN 9
BảNG 3.7 KếT QUả PHÂN TÍCH NHÂN Tố KHÁM PHÁ
9
BảNG 3.8 THốNG KÊ MÔ Tả CÁC BIếN 9
BảNG 3.9 KếT QUả PHƯƠNG TRÌNH HồI QUY SVSV 9
BảNG 3.10 KếT QUả PHƯƠNG TRÌNH HồI QUY SVGV
9
BảNG 3.11 KếT QUả PHƯƠNG TRÌNH HồI QUY SVCV
9
BảNG 3.12 KếT LUậN KIểM ĐịNH GIả THUYếT9

DANH MỤC CÁC HÌNH VÀ BIỂU ĐỒ

HÌNH 2.1 MÔ HÌNH NGHIÊN CứU LÝ THUYếT CủA Đề TÀI
9
HÌNH 3.1 BIểU Đồ MÔ Tả Tỉ Lệ SINH VIÊN THAM GIA KHảO SÁT
THEO GIớI TÍNH 9
HÌNH 3.2 BIểU Đồ MÔ Tả Tỉ Lệ SINH VIÊN THAM GIA KHảO SÁT
THEO VÙNG
9
HÌNH 3.3 BIểU Đồ MÔ Tả Tỉ Lệ SINH VIÊN KHảO SÁT THEO
KHOA
9
HÌNH 3.4 BIểU Đồ MÔ Tả Tỉ Lệ SINH VIÊN THAM GIA KHảO SÁT
THEO NĂM
9

1
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1 Sự cần thiết của nghiên cứu
Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hiện nay, chúng ta đã và đang mở ra
không ít cơ hội phát triển giáo dục cho các quốc gia và cho các trường
cao đẳng, đại học. Bên cạnh sự giao thoa văn hóa đã và đang được ủng hộ
đó, những thách thức to lớn cũng dần xuất hiện đối với việc giữ gìn, phát
triển văn hóa truyền thống nói chung và văn hóa học đường nói riêng.


Văn hóa ứng xử là một trong những khía cạnh quan trọng của văn hóa
học đường (cơ sở vật chất, văn hóa ứng xử, môi trường giáo dục tốt…) ở
Việt Nam. Ở môi trường đại học, sinh viên bắt đầu có ý thức về hành
động của mình, hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành vi của bản thân. Hơn
nữa, tại đại học, sinh viên được xem là những con người có học thức, có
trình độ văn hóa cao, đối tượng giao tiếp thường xuyên cũng là những

người có trí thức như giảng viên, chuyên viên và sinh viên trong trường.
Sinh viên là chủ nhân tương lai của đất nước, là những tấm gương chuẩn
mực về văn hóa ứng xử. Vì vậy, văn hóa ứng xử của sinh viên cần phải
được coi trọng trong vấn đề giáo dục hiện nay.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, khoa học kĩ thuật ngày càng phát
triển, làm cho đời sống con người ngày một nâng cao, con người không
còn lạc hậu và ngày càng tiên tiến. Nhất là giới trẻ hiện nay ngày một
phát triển toàn diện về bản thân, về trình độ, tri thức, thông minh sáng
tạo...song, vấn đề lối sống văn hóa, ứng xử của giới trẻ hiện nay, đang
đáng được toàn xã hội quan tâm, đang có sự xuống cấp trầm trọng ở một
số bộ phận, đặc biệt là học sinh, sinh viên, thậm chí ngay cả giáo viên
trong các trường học. Đất nước ta đang trên đường phát triển, hội nhập xã
hội có nhiều phức tạp, không ít những luồng văn hóa phẩm độc hại du
nhập vào nước ta làm ảnh hưởng không ít đến đạo đức, tác phong, lối
sống của học sinh, sinh viên. Môi trường giáo dục chuẩn mực đang dần bị
xâm nhập bởi văn hóa của các nước khác từ sự hấp thu ồ ạt của những
người trẻ. Do vậy, văn hóa ứng xử của sinh viên cũng ngày càng bị lệch
lạc, biến chất, những chuẩn mực của văn hóa ứng xử đã bị ảnh hưởng
nghiêm trọng. Chính vì vậy, khảo sát về các yếu tố tác động đến văn hóa
ứng xử học đường của sinh viên là vấn đề cấp thiết và mang tính thời sự
khi mà hàng ngày những thông tin về bạo lực học đường, về đạo đức lối
sống lệch lạc của giới trẻ đều được đưa tin trên các trang báo lớn nhỏ.
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân là một trong những trường đại học
trọng điểm phía bắc, đào tạo đa ngành về kinh tế, số lượng sinh viên hàng
năm tuyển sinh là 4,500 người , đến từ nhiều vùng miền khác nhau, tạo
nên bức tranh về môi trường giao tiếp ứng xử đa dạng.
Dựa trên các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trước, nhóm
nghiên cứu sinh nhận thấy các yếu tố tác động đến văn hóa ứng xử của
sinh viên trong trường KTQD vẫn chưa được nghiên cứu cụ thể. Hơn thế
nữa, là sinh viên trong trường, qua thực tiễn học tập tại trường, nhóm

nghiên cứu nhận ra tầm quan trọng của văn hóa ứng xử của sinh viên
trong trường đại học.
Nghiên cứu này không chỉ cần thiết đối với sinh viên các trường đại học
mà còn cần thiết đối với toàn xã hội hiện nay. Chúng ta cần biết rằng
nguyên nhân do đâu mà văn hóa ứng xử chuẩn mực lại bị giới trẻ bàng
quan và áp dụng sai lệch đến vậy. Do giới trẻ không hiểu những giá trị
đáng quý đó hay do chính người lớn đã có những hành vi không nên để


thanh niếu niên học theo. Thanh thiếu niên hiện nay cần lắm một định
hướng đối với văn hóa ứng xử học đường chuẩn mực chứ không phải
những sự dèm pha, dè bỉu hay phủ nhận hoàn toàn mỗi khi nhắc đến hành
vi, cách ứng xử của họ. Chính vì vậy, nghiên cứu này chính là cơ sở để
các trường đại học có thể nhìn vào để xây dựng văn hóa ứng xử học
đường một cách chuẩn mực, tạo điều kiện cho sinh viên bày tỏ quan điểm
của người trẻ, để xây dựng một văn hóa ứng xử học đường chuẩn mực và
hiện đại, tân tiến trong thời kì hội nhập cũng như để giảm thiểu những
điểm không phù hợp đối với văn hóa học đường Việt Nam.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu về đề tài “khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa ứng xử
của sinh viên trường kinh tế quốc dân” nhằm đánh giá mức độ ảnh hưởng
của các yếu tố chủ quan và khách quan đến văn hóa ứng xử của sinh viên
trường kinh tế quốc dân, trên cơ sở đó đề xuất các phương án để xây
dựng văn hóa ứng xử của sinh viên kinh tế quốc dân.
1.3 Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng hợp lý thuyết về văn hóa ứng xử học đường của sinh viên
Xác định các yếu tố chủ quan và khách quan tác động đến văn hóa
ứng xử của sinh viên
Kiểm định các yếu tố và mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến văn
hóa ứng xử của sinh viên ĐH KTQD.

Đề xuất các phương án để xây dựng văn hóa ứng xử học đường của
sinh viên đại học KTQD
1.4 Câu hỏi nghiên cứu
Với việc thực hiện nghiên cứu “khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến văn
hóa ứng xử học đường của sinh viên trường KTQD”, nhóm nghiên cứu
xin đề xuất các câu hỏi:
Các lý thuyết nào liên quan đến văn hóa ứng xử của sinh viên?
Các yếu tố nào tác động đến văn hóa ứng xử của sinh viên?
Các yếu tố nào tác động đến văn hóa ứng xử học đường của sinh
viên trường đại học KTQD và mức độ ảnh hưởng như thế nào?
Làm thế nào để xây dựng văn hóa ứng xử học đường của sinh viên
trường đại học KTQD?
1.5 Phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Các yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa ứng xử
học đường của sinh viên trường ĐH KTQD
* Lí do chọn trường ĐH KTQD

Là một trong những trường đại học về kinh tế trọng điểm miền
Bắc, số lượng sinh viên hàng năm là 4,500 sinh viên đến từ nhiều vùng
miền của Việt Nam, tạo nên bức tranh văn hóa đa dạng trong môi trường
học đường

Nhóm nghiên cứu đã và đang có thời gian học tại trường nên văn
hóa của trường đã được thấm nhuần qua các năm học, tạo điều kiện cho


nhóm nghiên cứu có thể hiểu rõ văn hóa ứng xử học đường của sinh viên
trong trường
Đối tượng điều tra: Sinh viên đang học tại các chương trình EBBA,
Tiên tiến Chất lượng cao, và các khoa còn lại (không bao gồm các

chương trình học tại chức và cao học của trường)
Nội dung đề tài: Tập trung nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến
văn hóa ứng xử học đường của sinh viên từ góc độ của chính những sinh
viên đang học trên giảng đường. Cụ thể là phân tích các yếu tố ảnh hưởng
đến văn hóa ứng xử học đường của sinh viên, từ đó có thể nhận thức mức
độ ảnh hưởng và chiều ảnh hưởng của từng yếu tố.
Thời gian nghiên cứu: từ tháng 12/2014 đến tháng 03/2015
Địa điểm: Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân
1.6 Phương pháp nghiên cứu
1.6.1 Quy trình nghiên cứu
Biểu đồ 1.1 Sơ đồ quá trình nghiên cứu

1.6.2 Phương pháp thu thập dữ liệu
Đề tài nghiên cứu thu thập cả nguồn thông tin thứ cấp và thông tin sơ cấp.

Thông tin thứ cấp: Nghiên cứ dữ liệu liên quan đến đề tài nghiên
cứu được thu thập chủ yếu từ các nghiên cứu của trong nước lẫn ngoài
nước. Ngoài ra, còn có các thông tin liên quan từ sách báo, tạp chí, từ các
trang báo mạng, các diễn đàn của hội sinh viên trường KTQD, tin tức thời
sự hàng ngày, các tài liệu từ trường đại học KTQD liên quan đến văn hóa
ứng xử học đường của sinh viên….Từ đó, có thể thấy được tầm quan
trọng của văn hóa ứng xử học đường sinh viên hiện nay. Mối bận tâm đó
được thể hiện qua các phương tiện thông tin đại chúng, các nghiên cứu,
các bài phỏng vấn trong thời gian này.



Thông tin sơ cấp được thu thập từ phương pháp điều tra khảo sát
nhằm thu thập được thông tin thực tế dưới quan điểm của nhiều sinh viên
tại các chương trình đào tạo khác nhau của trường ĐH KTQD, phản ánh

văn hóa ứng xử học đường của sinh viên đa dạng, phong phú.
Phương pháp điều tra khảo sát bằng bảng hỏi: Bảng hỏi được xây dựng
dựa theo mô hình nghiên cứu của đề tài nhằm thu thập thông tin đưa vào
phân tích và kiểm định các giả thuyết.
Tổng thể: Đối tượng tham gia khảo sát là toàn thể sinh viên hiện đang học
tại trường đại học KTQD (tổng cộng khoảng 45,000 sinh viên, bao gồm
sinh viên thuộc các chươn trình học tại chức) . Tuy nhiên, do thời gian và
điều kiện khó có thể có được số liệu của toàn bộ sinh viên như vậy.
Nhóm đối tượng để dùng trong nghiên cứu này sẽ là các sinh viên năm 1,
năm 2, năm 3, năm 4 của các chương trình EBBA, IBD, tiên tiến chất
lượng cao, và các chương trình chính quy còn lại (không bao gồm các
chương trình học tại chức và thạc sĩ tại trường). Số lượng phiếu sẽ được
thả đều cho các chương trình đào tạo để đảm bảo tính khách quan.
Mẫu nghiên cứu: Nhóm nghiên cứu tiến hành phát 300 mẫu phiếu điều tra
tới các sinh viên năm một đến năm bốn thuộc các chương trình EBBA,
Tiên tiến chất lượng cao và các chương trình đào tạo khác của trường
(không bao gồm các chương trình học tại chức, và các chương trình cao
học của trường), bằng phương pháp phát phiếu trực tiếp tại các chương
trình đào tạo thuộc phạm vi nghiên cứu. Sau khi người tham gia khảo sát
đã hoàn thành phiếu, nhóm nghiên cứu tiến hành thu phiếu ngay hoặc hẹn
thời gian thu phiếu. Địa điểm, số lượng phiếu và thời gian phát phiếu
khảo sát cụ thể là:
+ Chương trình EBBA: phát 50 phiếu tới sinh viên các lớp vào thời gian
nghỉ giải lao giữa giờ và thu lại phiếu sau khi đối tượng khảo sát hoàn
thành phiếu, lúc tan học và hẹn ngày thu lại phiếu.
+ Chương trình Tiên tiến Chất lượng cao: phát 60 phiếu tới sinh viên các
lớp vào lúc tan học và hẹn ngày thu lại phiếu.
+ Các chương trình khác: phát 120 phiếu tới sinh viên các lớp vào lúc tan
học và hẹn ngày thu lại phiếu.
Nhóm nghiên cứu phát phiếu với số lượng đều các khoa để kết quả có thể

phản ánh sự khác nhau về văn hóa ứng xử học đường của các chương
trình trong cùng một trường đại học, cũng như tạo điều kiện để nhóm
nghiên cứu có thể phân tích số liệu thu được một cách thực tế nhất.
1.6.3 Phương pháp phân tích số liệu
Nhóm nghiên cứu đã xử lí số liệu bằng phần mềm spss 16, cụ thể như
sau:
Kiểm định độ tin cậy reliability test : nhằm xác định xem dữ liệu
thu thập được có đáng tin cậy hay không theo hệ số alpha (α)


Phân tích nhân tố khám phá EFA: nhằm tìm ra các yếu tố có giá trị
trong thang đo lường các yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa ứng xử học
đường của sinh viên KTQD
Sử dụng mô hình hồi quy đa biến để xác định mức độ ảnh hưởng
của từng nhân tố đến văn hóa ứng xử học đường của sinh viên trường đại
học KTQD
1.7 Cấu trúc đề tài
Chương 1. Giới thiệu chung về đề tài nghiên cứu
Chương 2. Cơ sở lý luận chung về văn hóa ứng xử của sinh viên
Chương 3. Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa ứng xử học đường
của sinh viên trường đại học KTQD
Chương 4. Đề xuất phương án xây dựng văn hóa ứng xử học đường của
sinh viên tại trường KTQD
Chương 5. Kết luận

2
CHƯƠNG 2. CƠ Sở LÝ LUậN CHUNG Về VĂN HÓA ứNG Xử
CủA SINH VIÊN
2.1 Văn hóa ứng xử
2.1.1 Quan niệm về văn hóa ứng xử

Ứng xử là một trong những yếu tố rất dễ nhận ra trong nền văn hóa cũng
như xã hội Việt Nam. Điều này được thể hiện rất rõ qua phong tục tập
quán, qua thơ văn ca nhạc. Ca dao tục ngữ thuần việt từ xa xưa tới nay.
Có thể ví dụ như câu “ ăn trông nồi, ngồi trông hướng”, “kính trên
nhường dưới”, “mất lòng trước, được lòng sau” hay “ muốn con hay chữ
phải yêu lấy thầy”, đó đều là những kinh nghiệm đúc kết được cha ông ta
truyền lại một cách dân dã nhưng nó thể hiện rõ ứng xử trong xã hội đã đi
sâu vào đời sống con người Việt Nam từ xưa.
Quan niệm “Văn hóa ứng xử” được tập thể tác giả công trình “Văn hóa
ứng xử của người Hà Nội với môi trường thiên nhiên” xác định “gồm


cách thức quan hệ, thái độ và hành động của con người đối với môi
trường thiên nhiên, đối với xã hội và đối với người khác” . Theo đó, văn
hóa ứng xử gồm 3 chiều quan hệ: với thiên nhiên, xã hội và bản thân. Văn
hóa ứng xử gắn liền với các thước đo mà xã hội dùng để ứng xử. Đó là
các chuẩn mực xã hội. Tuy nhiên đây là một nghiên cứu tập trung vào
văn hóa ứng xử với môi trường thiên nhiên, nên chưa thể hiện rõ mối
quan hệ giữa văn hóa ứng xử với con người là đối tượng nghiên cứu.
Theo nghiên cứu “ Văn hóa ứng xử của người Hà Nội trong thời kỳ đổi
mới hiện nay”, tác giả xác định “Văn hóa ứng xử được hình thành từ
khuôn mẫu ứng xử ,có tính lịch sử - cô thể gắn với điều kiện, môi trường
cụ thể”, và sau cùng, “Văn hóa ứng xử là văn hóa hành động (ứng phó và
xử lý) của con người trong môi trường văn hóa lịch sử - cô thể, cho nên
nó được thể hiện và thực hiện thông các những khuôn mẫu (chuẩn mực,
tiêu chí, quy ước, quy chế …) và cả những kỹ năng ứng xử.”
Cuối cùng , “Thái độ ứng xử chính là nền tảng có tính định hướng cơ bản
và xuyên suốt của văn hóa ứng xử”
Trong 4 yếu tố đó thì khuôn mẫu ứng xử gồm 4 tiêu chí:
Sự lặp đi lặp lại các ứng xử thông thường

Ứng xử được đa số người trong cộng đồng cùng thực hiện thống
nhất theo một cách
Chuẩn mực xã hội hay quy tắc ứng xử
Ý nghĩa xã hội của ứng xử
Tổng hợp lại, tác giả đã xác định văn hóa ứng xử là hệ thống thái độ ứng
xử, khuôn mẫu, kỹ năng ứng xử của cá nhân và cộng đồng người trong
mối quan hệ với môi trường thiên nhiên, xã hội và bản thân, dựa trên
những chuẩn mực xã hội nhằm bảo tồn, phát triển cuộc sống của cá nhân
và cộng đồng người hướng đến cái đúng cái đẹp.
Trong bản thảo kinh tế triết học 1844, Các Mác đã viết : “Bất cứ quan hệ
nào của con người đối với bản thân mình đều chỉ được thực hiện, thể hiện
trong quan hệ của con người đối với người khác”. Trong trường hợp này,
nói về bản chất xã hội, người ta dùng từ “xử” như “đối nhân xử thế”,
“phép cư xử”…
Trong quá trình nghiên cứu cũng đã có nhiều tác giả đưa ra khái niệm về
ứng xử. Tiếp cận vói khái niệm ứng xử, không thể không nhắc đến nhà sư
phạm người Nga Usinxki. Ông khẳng định:” Sự khéo léo ứng xử về sư
phạm mà nếu không có nó thì các nhà giáo dục dù học giỏi đến mức nào
cũng không bao giờ trở thành nhà thực hành giáo dục tốt, về bản chất,
không phải cái gì khác ngoài sự ứng xử. Tác giả Lê Thị Bừng trong cuốn
Tâm lý học ứng xử đã nêu lên khái niệm về ứng xử như sau: “Ứng xử là
sự phản ứng của con người đối với sự tác động của người khác đến mình
trong một tình huống cụ thể nhất định. Nó thể hiện ở chỗ con người
không chủ động giao tiếp mà chủ động trong sự phản ứng có lựa chọn, có
tính toán, thể hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng tùy thuộc


vào tri thức, kinh nghiệm của mỗi người nhằm đạt được kết quả giao tiếp
cao nhất. ” . Nhà nghiên cứu văn hóa Trần Thúy Anh cũng đã từng đưa
ra nhận định về văn hóa ứng xử : “Ứng xử là triết lý sống của cả một

cộng đồng, là quan niệm sống, quan niệm lý giải cuộc đời. Nó cũng trở
thành lối sống, nếp sống, lối hành động của cộng đồng. Bởi vậy nó quy
định các mối quan hệ giữa con người với con người” .
Như vậy, ứng xử là cách biểu hiện của giao tiếp thông qua thái độ, hành
vi, cử chỉ và ngôn ngữ lời nói trong mối quan hệ với mọi người, với môi
trường xung quanh. Mỗi một cá nhân sẽ có cách ứng xử khác nhau tùy
thuộc vào đặc điểm tính cách, quan điểm và nguyên tắc của mỗi người.
Trong môi trường học đường này, nhóm nghiên cứu chỉ tập trung vào văn
hóa ứng xử trong các mối quan hệ của sinh viên.
2.1.2 Vai trò của văn hóa ứng xử
Văn hóa ứng xử đóng vai trò rất quan trọng trong mọi mối quan hệ của
con người. Nó thể hiện hành vi, cử chỉ, thái độ, ngôn ngữ, nhân cách, đạo
đức của cá nhân trong xã hội. Với mỗi một mối quan hệ hay một môi
trường, văn hóa ứng xử lại đóng vai trò khác nhau nhưng luôn tuân theo
những quan niệm, những giá trị chung phù hợp với hành vi, lối sống
chuẩn mực của người việt.
Trong doanh nghiệp, văn hóa ứng xử là một trong những nhân tố góp
phần tạo nên hình ảnh doanh nghiệp, được thể hiện thông qua cách ứng
xử giữa cấp trên và cấp dưới, giữa đồng nghiệp với nhau, có ảnh hưởng
lớn tới hiệu quả công việc và thành công của doanh nghiệp. Do đó, văn
hóa ứng xử là một phần của văn hóa doanh nghiệp, có vai trò xây dựng,
củng cố các mối quan hệ trong doanh nghiệp, phát triển văn hóa doanh
nghiệp .
trong gia đình, ứng xử văn hóa chính là nét đẹp lâu đời, một nét đẹp
truyền thống của dân tộc Việt Nam: sự hoà thuận, chung thuỷ, tình nghĩa,
lòng yêu thương và hy sinh cho con cái, tôn trọng và hiếu đễ với cha mẹ,
anh em. Nhiều gia đình luôn biết cách tạo dựng, giữ gìn những nét văn
hóa ứng xử ấy tạo nên nề nếp gia phong.
Mối quan hệ ứng xử giữa anh chị em ruột trong nhà cũng luôn được đề
cao: “anh em như chân, như tay. Như chim liền cánh, như cây liền cành”,

“em thuận, anh hòa là nhà có phúc”... Mối quan hệ máu mủ ấy không gì
có thể sánh bằng, không gì có thể chia cắt: “cắt dây bầu dây bí/ chẳng ai
cắt dây chị dây em”. Cũng vì lẽ đó, cha ông ta luôn lên án những người
không giữ được tình cảm anh chị em hòa thuận trong gia đình.
Với mối quan hệ vợ chồng, vợ chồng là duyên số nhưng về ở với nhau
trong một mái nhà thì còn là trách nhiệm, là tình nghĩa mặn nồng lúc gian
khổ hay sướng vui: “thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn”, “đốn
cây ai nỡ dứt chồi/ đạo chồng nghĩa vợ giận rồi lại thương”…
Có thể nói, văn hóa ứng xử góp phần không nhỏ trong sự thành đạt của
mỗi người. Để trở thành người lao động có trình độ chuyên môn nhất


định, có khả năng ứng xử trong công việc nói riêng và trong cuộc sống
nói chung, mỗi sinh viên không chỉ bồi dưỡng cho mình về kiến thức
chuyên môn mà cả về khả năng giao tiếp, ứng xử. Dù như thế nào thì sinh
viên vẫn phải thực hiện tốt bổn phận của mình trong giao tiếp, ứng xử với
thầy, cô giáo và mọi người.
Tại buổi giao lưu nói chuyện cùng với nhà trường THCS Nguyễn Bỉnh
Khiêm (Dầu Tiếng, Thủ Đức) (14/4/2014) về chủ đề "nét đẹp học
đường"; giáo sư – tiến sĩ Trần Văn Khê, một trái tim lớn của âm nhạc dân
tộc nước nhà, một nhà văn hóa lớn của dân tộc nhưng luôn quan tâm rất
sát sao về văn hóa ứng xử của giới trẻ ngày nay, ông nói: ngày xưa,
không bao giờ có cảnh trò vô lễ với thầy. Đối với trò, “một chữ cũng là
thầy mà nửa chữ cũng là thầy”. “Không bao giờ trò dám cãi tay đôi với
thầy chứ nói gì đến chuyện đánh thầy và ngược lại, những người thầy
luôn có ý thức mình phải làm gương cho học trò, giữ khoảng cách thầy
trò đúng đạo”.
Ứng xử của sinh viên với bạn bè cũng là một nội dung quan trọng trong
văn hóa học đường. Sinh viên thường có tinh thần nghĩa hiệp. Khi bạn bè
gặp khó khăn sẵn sàng chia sẻ, động viên. Một lời cảm ơn, xin lỗi nhẹ

nhàng chân thành có thể để lại ấn tượng tốt, có thể giải tỏa được những
vướng mắc tạo nên mâu thuẫn không đáng có. Nhưng một số sinh viên
thường có thái độ quá khích, thiếu bình tĩnh khi bạn bè làm mình không
hài lòng. Vì vậy, chỉ một cái nhìn “không bình thường”, chỉ một va chạm
nhẹ, một mâu thuẫn nhỏ là có thể có những lời nói thô tục, khiếm nhã,
thậm chí gây gổ, đánh nhau.
Ứng xử của sinh viên trong các cuộc họp, hội nghị, trong lớp học, trong
các buổi mít tinh cũng là một vấn đề cần bàn. Trong lớp học, một số sinh
viên nói chuyện riêng, gây ồn ào ảnh hưởng đến việc tiếp thu bài của cả
lớp và giảng bài của thầy cô giáo. Một số sinh viên sử dụng điện thoại di
động để truy cập mạng hoặc chơi trò chơi trong giờ học. Có những sinh
viên ngủ trong lớp, khi giảng viên hỏi về bài học mới đứng dậy ngơ ngác
hoặc bỏ giờ ra quán ngồi. Trong buổi họp, mít tinh người nào lên phát
biểu cứ phát biểu còn sinh viên cứ nói chuyện rào rào, khi diễn giải phát
biểu xong cũng không vỗ tay tán thưởng. Xem biểu diễn văn nghệ khi kết
thúc tiết mục cũng chỉ vỗ tay lẹt đẹt để cổ vũ. Trong buổi lễ tổng kết, đến
chương trình khen thưởng, nhìn lại chỉ còn một nửa sinh viên trong hội
trường.
Cũng tại buổi tọa đàm này, giáo sư Khê và các giảng viên đã đồng loạt
đưa ra quan điểm chung là văn hóa ứng xử của con trẻ phải được bắt
nguồn từ giáo dục là như thế nào! Một nhà trường với một người thầy
hiệu trưởng luôn ứng xử một cách nhân văn, văn hóa thì tất yếu nhà
trường đó sẽ có được một đội ngũ thầy cô giáo và học trò biết ứng xử có
văn hóa, có phép tắc và nề nếp.


Tóm lại, văn hóa ứng xử đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành
nên hành vi, thái độ của sinh viên trong trường. Văn hóa ứng xử không
phải điều gì dễ thấy ngay được nhưng đó chính là sức mạnh của mọi
chương trình giáo dục, mọi hệ thống giáo dục. Nó bao hàm lên mọi hoạt

động của sinh viên, là kim chỉ nam cho mọi vấn đề trong trường liên quan
đến hành vi, thái độ, cách ứng xử của sinh viên.
Những nghiên cứu trên đều chỉ ra rằng văn hóa ứng xử dựa trên mối quan
hệ giữa con người với môi trường xung quanh, gồm môi trường thiên
nhiên và môi trường xã hội. Nhưng với không gian nghiên cứu là trường
đại học KTQD và khách thể nghiên cứu là các sinh viên của trường nên
nghiên cứu sinh sẽ tập trung nghiên cứu vào văn hóa ứng xử trong các
mối quan hệ xung quanh khách thể. Đây là một cơ sở lý thuyết khá vững
vàng để nhóm có thể dựa vào đi sâu tìm hiểu về mối quan hệ giữa văn
hóa ứng xử của sinh viên với môi trường xung quanh, cụ thể hơn là khảo
sát các yếu tố thật sự ảnh hưởng tới văn hóa ứng xử của sinh viên trường
đại học KTQD.
2.2 Văn hóa ứng xử học đường
2.2.1 Văn hóa ứng xử giữa sinh viên với sinh viên
Có thể nói, văn hóa ứng xử góp phần không nhỏ trong sự thành đạt của
mỗi người. Hiện nay, đa số sinh viên biết ứng xử trong quan hệ giao tiếp
nhưng cũng không ít sinh viên còn lúng túng, thiếu tinh tế về vấn đề này.
Văn hóa ứng xử được thể hiện ở mọi khía cạnh của học đường, thể hiện
rõ nét đời sống học đường của sinh viên từ ngôn ngữ, cử chỉ, thái độ,
cách hành xử hàng ngày khi giao tiếp với mọi người. Ứng xử của sinh
viên với bạn bè cũng là một nội dung quan trọng trong văn hóa học
đường. Sinh viên thường có tinh thần nghĩa hiệp. Khi bạn bè gặp khó
khăn sẵn sàng chia sẻ, động viên. Một lời cảm ơn, xin lỗi nhẹ nhàng chân
thành có thể để lại ấn tượng tốt, có thể giải tỏa được những vướng mắc
tạo nên mâu thuẫn không đáng có. Nhưng một số sinh viên thường có thái
độ quá khích, thiếu bình tĩnh khi bạn bè làm mình không hài lòng. Vì vậy,
chỉ một cái nhìn “không bình thường”, chỉ một va chạm nhẹ, một mâu
thuẫn nhỏ là có thể có những lời nói thô tục, khiếm nhã, thậm chí gây gổ,
đánh nhau.
Theo nghiên cứu về Đánh giá nhu cầu của sinh viên các khoa kinh tế của

trường đại học Cần Thơ về các lớp kĩ năng giao tiếp, các sinh viên đều
hiểu rõ cần phải giao tiếp với nhau nhiều để có thể ứng xử phù hợp trong
môi trường học đường nhưng do nhiều yếu tố ảnh hưởng nên mối quan hệ
của sinh viên với sinh viên cũng không chặt chẽ, ít có điều kiện giao tiếp
với nhau, có nhiều sinh viên cho rằng họ dành nhiều thời gian trên lớp để
vào các trang mạng xã hội hoặc trò chơi điện tử khác nên không có thời
gian nói chuyện nhiều với các sinh viên trên lớp. Tuy vậy, 37% số sinh
viên khảo sát đã cố gắng tự rèn luyện, giao tiếp với các sinh viên khác để
có các cách ứng xử phù hợp trong các tình huống nhất định. 8% số sinh


viên tham gia các cuộc thi hùng biện, hội thảo, dự các buổi tư vấn, ….,
tích cực tham gia các buổi thảo luận, làm việc nhóm …
Văn hóa ứng xử giữa sinh viên với sinh viên có thể được thể hiện rõ nét
qua giao tiếp, hành động và cử chỉ. Về giao tiếp, ngôn từ sử dụng đóng
vai trò quan trọng không nhỏ. Theo nhà nghiên cứu John (1954) thì giao
tiếp là sự trao đổi với nhau tư duy hoặc ý tưởng bằng lời. Martin (1950)
cho rằng giao tiếp là một qua trình giúp chúng ta hiểu được người khác và
làm cho người khác hiểu được ta thông qua ngôn từ. Hiện nay, có thể dễ
dàng bắt gặp sinh viên sử dụng tiếng “lóng” nói chuyện với nhau hay một
ví dụ điển hình phổ biến hơn là sinh viên vừa nói chuyện bằng tiếng việt
thỉnh thoảng lại chen một vài tiếng nước ngoài vào cuộc đối thoại. Đây là
những hiện tượng rất phổ biến và thường xuyên xuất hiện trên các
phương tiện thông tin đại chúng, làm ảnh hưởng không nhỏ tới văn hóa
ứng xử của sinh viên hiện nay.
Tình trạng kết bè, kết phái tạo thành băng, hội cũng là vấn đề nhức nhối,
nó không những làm ảnh hưởng đến môi trường giáo dục mà còn làm cho
xã hội quan tâm lo lắng. Hiện tượng gây xích mích chỉ từ một hành vi cho
là nhìn đểu mà sẵn sang kéo bè kéo cánh dằn mặt lẫn nhau làm gióng lên
hồi chuông cảnh tỉnh đối với các nhà làm công tác giáo dục và quản lí

giáo dục.
Văn hóa ứng xử giữa sinh viên với sinh viên từ lâu được xem là một
trong những điểm mấu chốt, ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống học
đường và sự phát triển của nhà trường. Để nhận ra một trường đại học có
tiếng tăm hay có giá trị thế nào, chính là nhìn vào cách hành xử của sinh
viên trong trường với nhau.
2.2.2 Văn hóa ứng xử giữa sinh viên với giảng viên
Văn hóa ứng xử giữa sinh viên với giảng viên thực chất chính là văn hóa
ứng xử giửa trò với thầy. Từ xưa đến nay, người học trò Việt Nam đối với
thầy luôn có một sự kính trọng to lớn. Có được điều này là do truyền
thống tôn sư trọng đạo đã gắn liền với sự phát triển của đất nước qua rất
nhiều thời kỳ. Khổng Tử, bậc thầy vĩ đại, hơn 2500 năm trước sáng lập ra
học thuyết nho giáo chứa đựng tư tưởng giáo dục sâu sắc. Ông nói: “tam
nhân đồng hành, tất hữu ngã sư yên” - tức “trong ba người cùng đi, ắt có
người là thầy của ta ở đó”. Suốt nghìn năm phong kiến, giáo dục Việt
Nam trên đại thể được coi là nền giáo dục nho giáo. Giá trị nhân bản tốt
đẹp của nền giáo dục này thể hiện rất rõ ở “hằng số văn hóa” thầy - trò.
Xưa đến nay, nhân vật quan trọng nhất của trường học là người thầy.
Truyền thống ngàn đời trong thế ứng xử của người Việt được cô lại và
đúc kết bằng bốn chữ: “tôn sư trọng đạo”. Câu nói: “không thầy đố mày
làm nên”, “nhất tự vi sư, bán tự vi sư” là những lời cửa miệng của người
việt nhắc nhở nhau mỗi khi đề cập tới vai trò của người thầy. Ở dân tộc
Việt Nam, “tôn sư trọng đạo” thấm sâu trong tâm thức mỗi người dân. Để
tỏ lòng tôn kính với thầy, người Việt có quan niệm: “sống tết, chết giỗ”.


Chính vì thế mà dưới thời phong kiến, người thầy được xếp thứ hai sau
vua, theo cách gọi: quân - sư - phụ (vua – thầy - cha).
Thế ứng xử dân chủ linh hoạt của người Việt Nam rất đề cao vai trò của
thầy trong sự nghiệp dạy và học. Vậy mới có câu: “trò hơn thầy đức nước

càng dày”, “học thầy không tầy học bạn” - ý nói bạn cũng có thể là thầy.
Ngày trước, thời phong kiến, không phải ai cũng có tiền đi học. Nhiều gia
đình nghèo khó con em không thể đến trường. Tuy nhiên, cơ hội theo học
vẫn có. Họ chỉ cần theo những phép tắc nhất định - những phép tắc biểu
hiện đậm nét của sự tôn sư trọng đạo mà không quá câu nệ vào vật chất.
Chẳng hạn, trước khi cho con đến theo học, cha mẹ sắm một mâm lễ bái
lạy tổ tiên, mong con học hành sáng dạ, đỗ đạt. Sau đó, gia đình có một
“lễ mọn”, mang tính chất “lòng thành” dâng lên thầy. Tỏ lòng thành kính
“tôn sư trọng đạo”, nhiều gia đình còn gửi gắm con mình theo học và ở
luôn bên nhà thầy. Một năm chỉ về thăm nhà vài lần. Thỉnh thoảng, gia
đình trò lại gửi biếu thầy ít gạo nếp, hoặc mớ rau, con cá như một thông
điệp bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới công lao to lớn của thầy.
Thừa hưởng những tinh hoa văn hóa đúc kết từ trước tới nay, người dân
Việt Nam vẫn lưu giữ và phát huy được truyền thống tôn sư trọng đạo.
Truyền thống ấy được đảng và nhà nước ghi nhận và gìn giữ bằng rất
nhiều hình thức như những chính sách hỗ trợ, những ngày lễ kỷ niệm, các
trương chình tri ân giành cho người làm sư phạm.
Trong môi trường đại học, đa số sinh viên luôn có sự lễ phép, tôn trọng
và kính mến đối với người giảng viên. Điều đó được thể hiện qua từng
thái độ, cử chỉ cũng như lời ăn tiếng nói.
Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập, sự thay đổi là điều không thể tránh
khỏi. Dưới tác động của cơ chế thị trường, khi đồng tiền đóng vai trò vô
cùng quan trọng mà đồng lương cho giáo viên lại quá ít ỏi, từ chỗ học trò
cần giáo viên đã trở thành giáo viên cần học trò. Giáo viên hiện nay có rất
nhiều học sinh, cũng không thể sát sao quan tâm đến từng người, dẫn đến
việc quan hệ thầy trò ngày càng trở nên xa cách. Bên cạnh rất nhiều
những lý do khác chi phối, thời nay trò không còn nhất nhất tôn kính thầy
dạy như xưa.
Sinh viên đối với giảng viên cũng vậy. Mặc dù vẫn thừa kế một truyền
thống tôn sư trọng đạo lâu đời và quý báu nhưng hiện nay cũng không ít

những trường hợp sinh viên thiếu lễ phép với giảng viên khiến cho một
nét đẹp văn hóa đang có nguy cơ bị mai một.
2.2.3 Văn hóa ứng xử giữa sinh viên với chuyên viên
Cán bộ nhà trường nói chung và cán bộ của các khoa viện nói riêng cũng
chính là những con người trực tiếp làm việc và hướng dẫn sinh viên tuân
thủ theo những điều lệ nhà trường. Khác với giảng viên là những người
có chuyên môn sư phạm và truyền dạy cho học sinh kiến thức chuyên
môn, chuyên viên giúp sinh viên hiểu và thực hiện theo các quy chế và
chính sách có liên quan đến sinh viên. Ngoài ra còn định hướng giúp đỡ


sinh viên trong phương pháp học tập hợp lý, hướng dẫn sinh viên nắm rõ
mục tiêu và nội dung của chương trình đang học, từ đó tạo điều kiện cho
sinh viên phát huy hết khả năng của mình.
Tương tự như giảng viên, chuyên viên cũng là những người thầy, người
cô với trọng trách cao cả của người làm giáo dục là dạy cho các sinh viên
biết được điều hay lẽ phải, hoàn thiện cả về kiến thức trí tuệ lẫn nhân
cách con người, dạy cho sinh viên hiểu và biết cách hành xử đúng mực
với văn hóa nhà trường nói riêng và thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt
Nam nói chung.
Chính nhiệm vụ hướng dẫn và giúp đỡ sinh viên của chuyên viên đóng
vai trò quan trọng đến sự phát triển quá trình học tập của sinh viên nên
tầm ảnh hưởng của chuyên viêntới sinh viên rất đáng kể và cần được
nghiên cứu kỹ càng. Hơn nữa, chuyên viên phải là người hiểu rõ nhất các
quy định và quy chế của nhà trường, sâu xa hơn nữa là văn hóa truyền
thống riêng biệt của ngôi trường đó, từ đó mới có thể khéo léo hướng sinh
viên đến hiểu và thấm nhuần văn hóa đặc thù của trường, như vậy sẽ giúp
sinh viên phát triển văn hóa ứng xử một cách phù hợp với môi trường
mình đang theo học.
Tính tới nay, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa hai chủ thể này còn chưa

được coi trọng, hầu hết các nghiên cứu về văn hóa ứng xử trong học
đường thường tập trung phần lớn vào mối quan hệ ảnh hưởng lẫn nhau
của sinh viên và giảng viên hay sinh viên với sinh viên. Điều này đặt ra
một lỗ hổng lớn trong việc xác định những nhân tố thực sự ảnh hưởng tới
văn hóa ứng xử với sinh viên vì chính các bộ quản lý đóng vai trò rất
quan trọng từ khi sinh viên mới vào trường và đến ngày cuối cùng sinh
viên tốt nghiệp ra trường. Những hành vi, cử chỉ, thái độ của các chuyên
viên có thể tác động khá đáng kể tới cách nghĩ, cách giao tiếp và cư xử
của sinh viên, tuy rằng không phải nhất thời nhưng dần dần sẽ ảnh hưởng
một cách rất sâu sắc.
Nếu là một người cán bộ có tư cách đạo đức tốt cũng như chuyên môn
trưởng thành vững vàng thì không những chắc chắn sẽ được sinh viên
quý trọng mà còn làm tấm gương để sinh viên noi theo. Đối với những
cán bộ như thế, cách ứng xử và giao tiếp của sinh viên sẽ dựa trên thái độ
kính trọng và đúng mực. Tuy nhiên không thể không kể tới một phần nhỏ
những cán bộ chuyên môn không vững vàng, thái độ làm việc hời hợt,
thiếu chuyên nghiệp dẫn tới thờ ơ với công tác quản lý sinh viên, tạo ấn
tượng xấu dưới góc nhìn của sinh viên với đội ngũ nhà trường. Chính
những cán bộ yếu kém về mặt đạo đức đã làm nảy sinh nhiều tiêu cực
trong môi trường học đường Việt Nam hiện nay, điều này gây ảnh hưởng
cực kỳ xấu và sâu sắc đối với thái độ của sinh viên. Đối với những cán bộ
như vậy, cách ứng xử của sinh viên sẽ dựa trên thái độ không coi trọng,
thậm chí coi thường, dần dần sẽ làm hủy hoại nề nếp và văn hóa trong


sáng của môi trường học đường, ảnh hưởng tới cách nghĩ và cách ứng xử
của sinh viên trong tương lai.
Một nguyên nhân quan trọng nên kể đến đó chính là trong thời đại hiện
nay, giá trị vật chất được đề cao quá mức khiến cho giá trị văn hóa, tinh
thần không còn được chú ý coi trọng nữa, đặc biệt là đối với sinh viên

hiện nay – một thế hệ năng động, thực tế và quan niệm đạo đức thoáng và
ít bị ràng buộc hơn các thế hệ trước rất nhiều, cho nên nếu không được
giáo dục và dạy bảo đúng đắn thì không những sinh viên có suy nghĩ sai
lệch về tầm quan trọng của văn hóa giao tiếp ứng xử truyền thống mà còn
là nguy cơ một thế hệ sinh viên, người trẻ không tiếp thu được tinh hoa
của văn hóa dân tộc, rồi để từ đó hòa tan vào văn hóa lai tạp nham, trầm
trọng hơn là dần dà đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc việt, sống tại đất
nước Việt Nam mà ứng xử một thứ văn hóa lai tạp.
Tựu chung lại, mối quan hệ mật thiết giữa chuyên viênvà sinh viên đã
chứng minh được phần nào ảnh hưởng của văn hóa ứng xử giữa hai bên
với nhau, mặc dù có rất ít nghiên cứu chứng minh được tầm quan trọng
của mối quan hệ này nhưng sau khi xem xét ký càng tầm ảnh hưởng thực
tế của chuyên viên lên sinh viên, nhóm quyết định đi tìm hiểu các nhân tố
ảnh hưởng đến văn hóa ứng xử sinh viên mà một phần trong đó chính là
văn hóa ứng xử của sinh viên đối với chuyên viên nhà trường.
2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa ứng xử của sinh viên và các giả
thuyết
Do khách thể nghiên cứu đã được xác định là sinh viên đang học trong
trường đại học KTQD nên từ giờ nghiên cứu sẽ dùng từ “sinh viên” để
nói đến “sinh viên trường đại học KTQD”
2.3.1 Các yếu tố khách quan
a.
Yếu tố về công nghệ thông tin
Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương
tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn
thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài
nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt
động của con người và xã hội . Hiện nay, sinh viên sử dụng iPad, iPod,
iPhone, diện thoại di động, máy tính xách tay……là điều quá phổ biến,
có thể gặp ở bất cứ đâu. Chúng ta không thể phủ nhận rằng, khoa học

công nghệ ngày một phát triển, mở ra khá nhiều cơ hội cho nước ta hội
nhập văn hóa. Tuy nhiên công nghệ thông tin ngày càng tân tiến, giới trẻ
lại ngày càng tiếp nhận một cách ồ ạt, nhanh chóng, không chọn lọc…
điều này phần nào làm ảnh hưởng đến hành vi, ứng xử hàng ngày của
sinh viên. Yếu tố này cũng đã được nghiên cứu nhiều bởi các nhà nghiên
cứu trên thế giới. Một vài nghiên cứu được tiến hành để kiểm định xem
sử dụng các mạng xã hội và các cách giao tiếp qua các trang web có ảnh
hưởng như thế nào đến kĩ năng giao tiếp (Baker & Oswald,2010) .


Baym, Zhang and Lin (2004) cũng đã nghiên cứu về tương tác xã hội của
sinh viên đại học qua các phương thức khác nhau. Nghiên cứu đã đư ra
kết quả là 64% thích các cuộc nói chuyện trực tiếp (face-to-face
conversation), 18.4% thích nói chuyện điện thoại và chỉ 16.1% thích sử
dụng mạng internet để liên lạc.
Theo Baym Et Al, 2004, báo cáo tương tác trên mạng đã cho thấy rằng
cho đến giờ, email hình thức tương tác chiếm ưu thế mạnh nhất, theo sau
lần lượt là chat (yahoo) và tin nhắn (instant message). Trong số 51 người
tham gia, 49 người đã nói rằng trong cuộc sống hàng ngày, họ thường
dùng ít nhất 2 trong số 3 hình thức tương tác trên để liên lạc với mọi
người.
Cũng tương tự như vậy, Lenhart, Purcell, Smith và Zickurt (2010) đã
nghiên cứu và đưa ra kết quả là hơn 27% những người trẻ tuổi sử dụng
các trang mạng xã hội hàng ngày vào năm 2009.
Theo Sheldon (2008), hơn 50% số sinh viên đại học sử dụng mạng xã hội
một vài lần trong ngày. Quan-Haase và Young (2010) đã tìm ra rằng 82%
số học sinh đại học đăng nhập vào Facebook một vài lần trong một ngày.
Việc ứng dụng công nghệ có ảnh hưởng đáng kể đến văn hóa ứng xử của
sinh viên. Sử dụng phương tiện truyền thông xã hội được cho rằng có thể
gây ra những tác động tiêu cực đến giao tiếp cũng như ứng xử của sinh

viên (Akubugwo, Ijeoma1 and Maria Burke.)
Như vậy, có thể nói, công nghệ ảnh hưởng không nhỏ đến văn hoá ứng
xử, giao tiếp học đường.
Dựa trên cơ sở lý thuyết của nhóm yếu tố về công nghệ thông tin, giả
thuyết H1 được trình bày như sau:
Giả thuyết H1: Tần suất sinh viên sử dụng công nghệ thông tin có ảnh
hưởng đến văn hóa ứng xử của họ.
b.
Yếu tố về giảng viên
Giảng viên là những người trực tiếp không chỉ giảng dạy kiến thức cũng
như lối sống, thái độ, hành vi cho sinh viên. Ảnh hưởng của giáo viên đối
với văn hóa ứng xử của sinh viên tại một trường học luôn được thừa nhận
rộng rãi. Giáo viên được cho rằng có vai trò chủ đạo trong việc hình
thành văn hóa ứng xử có đạo đức, có văn hóa cho sinh viên. Nghiên cứu
của Aysel và Alycan (2008) đã chỉ rõ rằng giọng của giảng viên có thể
gây ra sự xao nhãng trong giờ học của sinh viên do sinh viên không hiểu
giảng viên nói gì dẫn đến việc nghỉ học nhiều trong cả khóa học, tuy
nhiên, điều này cũng vừa làm cho một số sinh viên lại phải tập trung cao
độ trong giờ học để nghe xem giảng viên nói gì trong tiết học đó, hoặc là
phải đọc rất nhiều tài liệu trước khi vào học. Một khi đã hiểu giảng viên
nói gì, sinh viên sẽ tự tin hơn khi giao tiếp với giảng viên. Điều này
chứng minh rằng cách giảng dạy phù hợp, cách hành xử cũng như lời nói,
ứng xử của giảng viên đóng vai trò rất quan tọng trong việc ứng xử của


sinh viên trong trường. Điều này liên quan mật thiết đến trình độ chuyên
môn, phương pháp giảng dạy của giảng viên.
Trên thực tế, những bài báo về việc giáo viên đánh học sinh cũng là một
vấn đề nổi cộm về hành vi ứng xử của giáo viên ảnh hưởng không nhỏ
đến cách ứng xử của học sinh. Điển hình là vụ việc gần đây tại bình định

ở một trường cấp 3, giáo viên tát học sinh ngay giữa lớp và học sinh đã
đánh lại thầy và phải có người can ngăn. Chia sẻ về vấn đề này, Đỗ Hải
Nguyệt – giáo viên trường THPT chuyên Lam Sơn, Thanh Hóa chia sẻ:
“chuyện xảy ra trước hết sai từ phía thầy trước vì thầy có hành vi không
chuẩn mực nên mới đẩy trò vào hành động quá khích. Nên theo cô: thầy
cần đúng mực và thận trọng trong cách ứng xử với trò. Đạo đức và năng
lực dạy học của thầy ảnh hưởng rất lớn đến thái độ cùa trò với mình dù
trò ý là học sinh như thế nào. Còn trò: phản ứng lại bằng việc đánh lại thì
như cô nói ở trên: đây là một hiện tượng xuống cấp nghiêm trọng về mặt
đạo đức xã hội, do nhiều lí do, trong đó không thể thiếu lí do có vấn đề về
cách thức giáo dục đạo đức”.
Trong nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu sinh sẽ dùng thang đo mức độ
nổi bật để đánh giá hành vi ứng xử của giảng viên ảnh hưởng như thế nào
đến sinh viên.
Từ những yếu tố về giảng viên (phương pháp sư phạm, trình độ chuyên
môn, hành vi, thái độ ứng xử,…) giả thuyết H2 được trình bày như sau:
Giả thuyết H2: Giảng viên có ảnh hưởng đến văn hóa ứng xử của sinh
viên.
c.
Yếu tố về các hoạt động ngoại khóa
Các hoạt động ngoại khóa, đơn cử như hoạt động tình nguyện, được kiểm
chứng có tác động lớn đến sinh viên nói chung cũng như văn hóa ứng xử
của sinh viên nói riêng (Carol Harris. Ba; MLitt; MEd). Nghiên cứu đã
chỉ ra rằng các hoạt động ngoại khóa thúc đẩy sự năng động, thích giao
lưu, ứng xử giữa sinh viên với nhau, với thầy cô, với chuyên viên cũng
được nâng cao. Sinh viên tích cực tham gia hoạt động ngoại khóa sẽ tạo
ra tính cách cởi mở, tính tổ chức cao, làm việc nhóm tích cực hơn. Cách
ứng xử cũng sẽ linh hoạt hơn, nhanh nhạy hơn. Văn hóa ứng xử từ đó
cũng tốt đẹp hơn.
Về yếu tố này, nhóm nghiên cứu sử dụng thang đo tần suất sinh viên

tham gia hoạt động ngoại khóa của trường.
Từ cơ sở nghiên cứu trên, giả thuyết H3 được phát biểu như sau:
Giả thuyết H3: Tần suất sinh viên tham gia các hoạt động ngoại khóa có
ảnh hưởng đến văn hóa ứng xử của sinh viên.
d.
Yếu tố về các quy định của nhà trường
Cụ thể là các chuẩn mực ứng xử được ban hành, như thanh niên làm theo
lời bác hay “ nhà trường thân thiện học sinh tích cực”, những quy định và
chuẩn mực này có thể thấy rất rõ ràng cả đối với giảng viên, chuyên viên.
Một phần là vì giảng viên, chuyên viên là những người có trọng trách


truyền đạt lý tưởng, kiến thức cho sinh viên, nên việc thể hiện một văn
hóa ứng xử đúng đắn và chuẩn mực là trách nhiệm của một người làm sư
phạm – có lương tâm nghề nghiệp và đạo đức nhà giáo.
Trong nghiên cứu “Good Seeds Grow In Strong Cultures” bởi John
Saphire và Matthew King (Educational Leadership, March 1985), các tác
giả đã chia sẻ nếu các quy tắc nhất định của văn hóa học đường là bền
vững, kiên cố, thì sự tiến bộ trong giáo dục sẽ rất đáng kể, mang tính liên
tục và phổ biến. Ngược lại, nếu như các quy tắc trong trường yếu kém,
không bền vững, sự cải thiện trong giáo dục sẽ rất chậm, mang tính ngẫu
nhiên và không thường xuyên”. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sinh
viên và cách hành xử cũng như giao tiếp hàng ngày với mọi người.
Đối với yếu tố về quy định của nhà trường, nhóm nghiên cứu dùng thang
đo mức độ cảm nhận từ “rất tốt” đến “rất tệ” đối với từng biến quan sát
về quy định của nhà trường.
Dựa trên các yếu tố về quy định của nhà trường, giả thuyết H4 được trình
bày như sau:
Giả thuyết H4: Quy định của nhà trường có ảnh hưởng đến văn hóa ứng
xử của sinh viên.

e.
Yếu tố về môi trường của khoa/viện
Pace and Faules đã khẳng định rằng một bầu không khí giao tiếp có thể
ảnh hưởng tới cuộc sống của thành viên trong tổ chức như là cảm xúc,
các hành vi và cách người đó đánh giá tổ chức như thế nào (Pace, Wayne
& Don Faules, 2005). Giao tiếp, ứng xử giúp tạo nên các mối quan hệ
trong cuộc sống, làm con người cởi mở, năng động và nhanh nhạy hơn.
Những sinh viên, học sinh được thầy cô, bạn bè yêu quý thường có tâm
trạng tốt hơn trong lớp học, giao tiếp, hành vi trong lớp cũng ảnh hưởng,
việc học tập cũng dần tốt lên. Pettit, Goris và Vaught (1997) cũng cho
rằng vấn đề giao tiếp đóng vai trò lớn trong việc đánh giá mức độ hài
lòng trong công việc. Họ đã giải thích rằng "cách mà một nhân viên nhận
định về phong cách giao tiếp, độ tin cậy và nội dung giao tiếp cũng như
hệ thống giao tiếp trong tổ chức sẽ ảnh hưởng tới mức độ trong công việc
của người đó".
Trong môi trường đại học, mỗi khoa sẽ có một đặc thù riêng, là môi
trường sống và làm việc của sinh viên nên nó ảnh hưởng không nhỏ đến
hành vi, ứng xử, giao tiếp hàng ngày của họ. Sinh viên ở các khoa khác
nhau trong trường sẽ có những hành vi, ứng xử khác nhau khi đối diện
với những tình huống giống nhau. Vậy nên vai trò của môi trường của
khoa có một vị trí không nhỏ, ảnh hưởng mật thiết đến hành vi, ứng xử
của sinh viên tại đại học.
Với yếu tố môi trường giao tiếp của khoa, nhóm nghiên cứu sẽ dùng
thang đo mức độ nổi bật của từng biến trong khoa.
Dựa trên các yếu tố về môi trường giao tiếp của khoa, giả thuyết H5 được
phát biểu như sau:


Giả thuyết H5 : Môi trường g của khoa/viện có ảnh hưởng đến văn hóa
ứng xử của sinh viên.

2.3.2 Các yếu tố chủ quan
f.
Yếu tố về tuổi
Với môi trường đại học, tuổi tác là một yếu tố quan trọng ảnh hướng đến
ứng xử của mọi người trong cuộc sống hàng ngày. Với những người lớn
tuổi, hay giảng viên, cấp bậc cao hơn, phải theo quy tắc là có kính ngữ
như thưa, dạ, ạ, vâng….. Với những người dưới tuổi, phải có cách xưng
hô phù hợp, lịch sự như anh/chị, em …. Như vậy ta có thể thấy, tuổi tác
đóng vai trò quan trọng trong việc ứng xử hàng ngày nói chung và trong
học đường nói riêng. Trong giáo trình hành vi tổ chức của PGS.TS Bùi
Anh Tuấn và PGS.TS Phạm Thúy Hương, họ có nhận định rằng “khi đối
tượng thực hiện quá trình giao tiếp từ các nước khác nhau, trình độ hiểu
và vận dụng ngôn ngữ chung ảnh hưởng nhiều đến kết quả giao tiếp.
Ngay cả những người nói chung một ngôn ngữ thì tuổi tác, trình độ văn
hóa… cũng có thể ảnh hưởng đến cách diễn đạt và trình độ hiểu biết của
họ về các vấn đề đang bàn luận. Chẳng hạn, ngôn ngữ của một nhà
nghiên cứu có thể khác với ngôn ngữ của một công nhân, ngôn ngữ của
người có học vị tiến sỹ có thể khác với người mới có bằng tốt nghiệp phổ
thông trung học. Trên thực tế, người công nhân chắc chắc sẽ gặp khó
khăn trong việc hiểu những vấn đề mà nhà nghiên cứu muốn nói”.
Cách ứng xử giữa sinh viên năm nhất với sinh viên năm ba cũng sẽ khác
nhau về ngôn ngữ hay hành động. Sinh viên năm cuối đã ở trường lâu,
quen với thầy cô và môi trường nên cách ứng xử nhuần nhuyễn, cởi mở
và dễ nắm bắt. Còn sinh viên năm đầu lại mới vào trường, chưa thích ứng
kịp nên ứng xử nhiều lúc không được rõ ràng, khó nắm bắt.
Từ cơ sở lý luận yếu tố về tuổi tác, giả thuyết H6 được phát biểu như sau:
Giả thuyết H6: Tuổi của sinh viên có ảnh hưởng đến văn hóa ứng xử của
sinh viên
g.
Yếu tố về gia đình

Gia đình là nơi diễn ra những mối quan hệ xã hội đầu tiên của con người.
Những mối quan hệ giữa bố mẹ và con cái là những tác động qua lại đầu
tiên trong đời sống xã hội của những đứa trẻ. Trong gia đình, con cái
nhận được những kĩ năng sống và kinh nghiệm đầu tiên. Theo nghiên cứu
thực tiễn của báo hôn nhân và gia đình (honnhanvagiadinh.com) về ảnh
hưởng gia đình tới nhân cách của học sinh THPT, trong số học sinh khảo
sát, có tới 86% số học sinh cho rằng các em học hỏi và tiếp nhận cách
giao tiếp, cách ứng xử từ bố mẹ và các thành viên trong gia đình. 55% số
học sinh được hỏi thì cho rằng bố mẹ, ông bà hay anh chị chính là hình
mẫu lý tưởng để các em hoàn thiện nhân cách của mình.
Có thể nói, yếu tố gia đình ảnh hưởng không nhỏ tới lối hành xử của học
sinh, sinh viên hiện nay khi mà những quy tắc đã thấm vào tâm trí khi


được bố mẹ dạy bảo từ khi còn nhỏ. Dựa trên các yếu tố về gia đình, giả
thuyết H7 được phát biểu như sau:
Giả thuyết H7: Gia đình có ảnh hưởng đến văn hóa ứng xử của sinh viên
trong trường
2.4 Mô hình lý thuyêt của đề tài
Tóm lại, tổng hợp các nhóm yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa ứng xử của
sinh viên trường đại học KTQD được tổng quan ở trên sẽ là cơ sở hình
thành nên mô hình nghiên cứu của đề tài này.

Hình 2.1 Mô hình nghiên cứu lý thuyết của đề tài

Tóm tắt: dựa trên cơ sở 7 nhóm yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa ứng xử của
sinh viên, mô hình nghiên cứu được đề xuất với 7 giả thuyết từ H1 đến
H7. Trong đó, các nhóm yếu tố được giả thuyết từ H1 đến H8 là các biến
độc lập định lượng tác động đến biến phụ thuộc là văn hóa ứng xử của
sinh viên với H1 đến H5 là các yếu tố khách quan và H6, H7 là nhóm yếu

tố chủ quan, tác động đến mối quan hệ giữa biến độc lập với biến phụ
thuộc trên.
Mô hình hồi quy được xây dựng như sau :
VHXUi = α +ß1CNi + ß2GVi + ß3HĐNKi + ß4QĐNTi + ß5MTi + ß6Ti
+ ß8GĐi + εi
Nghiên cứu tập trung vào văn hóa ứng xử của sinh viên trong các mối
quan hệ trong học đường nên sẽ xây dựng 3 mô hình hồi quy tương ứng
là văn hóa ứng xử giữa sinh viên với sinh viên, sinh viên với giảng viên
và sinh viên với chuyên viên để xác định mức độ ảnh hưởng của các yếu
tố đưa ra đến từng mối quan hệ như thế nào.
2.5 Những nghiên cứu có liên quan về văn hóa ứng xử


Nói về văn hóa ứng xử học đường, bài viết trên kênh thông tin của Học
viện báo chí và tuyên truyền đã chỉ ra một số điểm nổi bật. Ý kiến từ sinh
viên cho rằng hiện nay mối quan hệ giữa thầy và trò ngày càng cởi mở,
thân thiện hơn, nhưng mặt khác một số ranh giới cũng bị phá vỡ, dẫn tới
những tình trạng sinh viên nhiều khi không thể hiện sự tôn trọng đúng
mực với giáo viên. Bài viết cũng nhấn mạnh về tầm quan trọng của đội
ngũ giáo viên trong việc dạy dỗ, hướng dẫn và là tấm gương để sinh viên
ngoài kiến thức còn học được những quy tắc ứng xử có đạo đức, có văn
hóa.
Trong nghiên cứu về chương tình hoạt động ngoại khóa của sinh viên tại
trường ATC của Carol Harris và cộng sự (2013), các tác giả chỉ ra rằng
hai yếu tố chủ đạo mà học sinh đạt được qua hoạt động tình nguyện là
học được kỹ năng sống và kỹ năng làm việc, và phát triển được sự cảm
thông đối với mọi người. Ngoài ra còn một số lợi ích khác mà việc tình
nguyện đem lại cho học sinh như cảm nhận tốt hơn về giá trị bản thân,
đóng góp cho cộng đồng, và chọn lọc ra được những giá trị cốt lõi. Phần
lớn học sinh được khảo sát hay phỏng vấn đều cảm thấy rằng họ trở nên

hòa nhập và năng nổ hơn nhờ tham gia vào việc tình nguyện. Những học
sinh nói rằng sự kết nối trở nên rõ ràng hơn khi họ cảm thấy mình có giá
trị và nằm trong một tập thể, kết bạn, tiếp thu được những bài học, và có
nhận thức rõ hơn về mục đích. Sự ảnh hưởng của hoạt động tình nguyện
tới học sinh, sinh viên có liên hệ mật thiết với sự tác động tạo nên văn
hóa ứng xử trong nhà trường.
Trong nghiên cứu của Akubugwo, Ijeomal and Maria Burke đã chỉ ra
rằng rất nhiều sinh viên hiện nay đang sử dụng những phương tiện truyền
thông xã hội (Social Media) đặc biệt là Facebook, và thời gian họ dành
cho chúng ngày càng tăng lên. Những kết quả của nghiên cứu cho thấy
những dấu hiệu của việc sử dụng những phương tiện truyền thông xã hội
có thể gây ra những tác động tiêu cực cho sinh viên về mặt học tập cũng
như giao tiếp xã hội.những điều này đều có liên quan mật thiết với văn
hóa ứng xử của sinh viên trong nhà trường.
Aysel và cộng sự (2008) đã chứng minh rằng sinh viên sẽ ít giao tiếp và ít
có hứng thú học tập cũng như tham gia trên lớp nếu như giảng viên nói
giọng địa phương khi giảng bài. Tuy nhiên, đó vừa là bất lợi cũng như
vừa là lợi thế trong học tập đối với sinh viên. Nếu như giảng viên nói
giọng địa phương, khá khó nghe, điều duy nhất sinh viên có thể là để hiểu
bài là đọc thật nhiều tài liệu cho sẵn hoặc phát trên lớp và tập trung hết
mức có thể trong giờ học để nghe ra giảng viên đang nói gì. Nghiên cứu
này đã chứng minh được giảng viên có ảnh hưởng không nhỏ tới giao
tiếp, ứng xử và hành vi của sinh viên trong môi trường học thuật. Từ đó,
nhóm nghiên cứu đã đặt ra giả thuyết, tại môi trường đại học tại Việt
Nam hiện nay, giảng viên sử dụng tiếng Anh rất nhiều và đặc biệt trong
các khoa tiến tiến, chất lượng cao, giảng viên sử dụng tiếng Anh và tiếng


Việt liên tục trong cả tiết học, làm ảnh hưởng đến ngôn ngữ giao tiếp của
sinh viên – những người trực tiếp nghe giảng hàng ngày. Và đây là một

trong những yếu tố mà nhóm nghiên cứu muốn kiểm định xem mức độ
ảnh hưởng của nó đến văn hóa ứng xử của sinh viên hiện nay.
Trên chuyên san khoa học xã hội và nhân văn (số 7/2014, ngày 8 tháng 4
năm 2014), bài viết của Nguyễn Thị Lan đã đề cập đến nhiều yếu tố có
tác động lên văn hóa ứng xử của sinh viên. Bên cạnh việc truyền thống
văn hóa vẫn đang được các thế hệ sinh viên tiếp tục phát huy, vẫn một số
vấn đề trong cách ứng xử của sinh viên với giáo viên hay giữa sinh viên
với nhau mà hiện nay đang ngày càng trở nên đáng chú ý. Ứng xử với
giáo viên, bài viết có nói “nếu thầy, cô giáo coi thi nghiêm túc nhắc nhở
thì vừa ra khỏi phòng thi đã dùng những từ không mấy tốt đẹp.” Hay
“truyền thống của dân tộc Việt Nam là “tôn sư trọng đạo”, “nhất tự vi sư,
bán tự vi sư” thì những truyền thống đó đang bị cơ chế thị trường làm mai
một.” Còn giữa sinh viên cũng có nhiều trường hợp thể hiện sự xuống cấp
về đạo đức “nhưng một số sinh viên thường có thái độ quá khích, thiếu
bình tĩnh khi bạn bè làm mình không hài lòng. Vì vậy, chỉ một cái nhìn
“không bình thường”, chỉ một va chạm nhẹ, một mâu thuẫn nhỏ là có thể
có những lời nói thô tục, khiếm nhã, thậm chí gây gổ, đánh nhau.”
Bài viết còn nói đến một số các yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa ứng xử của
sinh viên. Trong đó ảnh hưởng của thầy cô giáo, giảng viên là cực kỳ
quan trọng: “để sinh viên có thể giao tiếp, ứng xử có văn hóa, không thể
không nói đến ứng xử của thầy, cô giáo. Thầy, cô giáo là mẫu mực cho
các em trong ứng xử. Nếu thầy, cô giáo chưa làm được điều đó thì thật
khó mà giáo dục sinh viên về vấn đề này.”
Nguyễn Thị Oanh và Mã Đức Mạnh (2012-2013), trong bài nghiên cứu
của mình đã xác định và đánh giá được văn hóa giao tiếp của sinh viên
trường đại học Tây Nguyên. Nhìn chung thì văn hóa giao tiếp của sinh
viên ở cấp độ rất cao nhưng bên cạnh đó vẫn tồn tại những vấn đề mang
tính báo động về giao tiếp của sinh viên tại đại học Tây Nguyên.
Bài nghiên cứu đã phân tích văn hóa giao tiếp của sinh viên qua lớp từ
giao tiếp và qua thái độ ứng xử. Hơn thế nữa, bài nghiên cứu còn đi sâu

tìm hiểu về văn hóa chào hỏi; văn hóa khen; văn hóa cảm ơn, xin lỗi; văn
hóa xếp hàng; văn hóa trật tự lắng nghe; văn hóa đúng giờ; hay quan
niệm về nói tục chửi thề, văn hóa rượu bia trong sinh viên, hay văn hóa
xử lí tình huống …..
Việc sử dụng lớp từ xưng hô của sinh viên rất phong phú và đa dạng. Đa
phần sinh viên đã sử dụng lớp từ xưng hô một cách hợp lý. Tuy nhiên,
bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại những sinh viên sử dụng lớp từ này chưa phù
hợp và sai lệch so với chuẩn trong văn hóa giao tiếp nhà trường. Văn hóa
khen và văn hóa xin lỗi của sinh viên ở mức tương đối cao, phân lớn sinh
viên đã có nhận thức đúng về việc khen ngợi người khác. Tuy nhiên bên
cạnh đó vẫn còn có nhiều sinh viên ngại nói lời khen và chưa biết thể hiện


việc khen ngợi một cách phù hợp. Về văn hóa chào hỏi, văn hóa cám ơn,
xếp hàng, trật tự-lắng nghe, đúng giờ, và văn hóa xử lý tình huống thì
những vấn đề này của sinh viên ở mức độ trung bình.. Còn có những hiện
tượng đáng báo động như nói tục, chửi thề, sử dụng thuốc lá, rượu bia
không có chừng mực. Đây là điều đáng báo động về ý thức của sinh viên
ở nơi công cộng. Kết luận của bài nghiên cứu đã đưa ra nguyên nhân, giải
pháp để nâng cao giao tiếp của sinh viên trường đại học tây nguyên.
Tóm lại, những nghiên cứu trên mới chỉ nghiên cứu về từng yếu tố điển
hình ảnh hưởng đến văn hóa ứng xử chứ chưa mang tính tổng hợp. Tuy
nhiên, những nghiên cứu trên sẽ là những nghiên cứu tiền đề để nhóm
nghiên cứu sinh phát triển và tổng hợp những yếu tố ảnh hưởng đến văn
hóa ứng xử của sinh viên. Hơn nữa, với không gian nghiên cứu là trường
đại học KTQD, chưa một nghiên cứu nào đi sâu tìm hiểu về một trong
những trường kinh tế trọng điểm của miền Bắc. Nhóm nghiên cứu sinh sẽ
khảo sát để tìm hiểu mức độ ảnh hưởng của những yếu tố này đến văn
hóa ứng xử của sinh viên tại trường KTQD.
3

CHƯƠNG 3. ĐÁNH GIÁ CÁC YếU Tố ảNH HƯởNG ĐếN VĂN
HÓA ứNG Xử CủA SINH VIÊN ĐạI HọC KTQD
3.1 Tổng quan về sinh viên KTQD
Chương trình EBBA (Quản trị kinh doanh bằng tiếng Anh)
1.
Số lượng sinh viên đang theo học : 358 sinh viên
2.
Số lượng sinh viên theo khối thi đầu vào :
khối A : 10 sinh viên và khối D: 132 sinh viên
3.
Hoạt động ngoại khóa và môi trường khoa
Khoa EBBA thuộc Viện quản trị kinh doanh là một khoa trong hệ thống
khoa ngành viện của KTQD. Mặc dù được thành lập từ 20 năm trước
nhưng nếu xét về tuyển sinh bậc đại học, khoa mới chỉ bắt đầu tuyển sinh
khóa đầu tiên 6 năm trước, chính vì thế chương trình học của khoa đã
được thay đổi khá nhiều để phù hợp với trình độ của sinh viên và nhu cầu
của xã hội.
Một điểm đặc biệt là nền tảng chương trình học của khoa EBBA được lấy
từ các trường đại học nước ngoài, chính vì thế, việc sinh viên thích nghi
và làm quen với chương trình học mới cần được tạo điều kiện từ phía
Viện quản trị kinh doanh.
Điều này cũng được thể hiện rõ qua những hoạt động ngoại khóa như :
Trải nghiệm, tham quan thực tế tại các doanh nghiệp, học hỏi kinh
nghiệm và kiến thức từ các vấn đề đã và đang thực sự xảy ra.
Được làm quen và được chia sẻ kinh nghiệm từ các thầy cô – cũng
chính là những doanh nhân, làm việc tại các công ty, doanh nghiệp.


×