Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với phép thử từ cuộc khủng hoảng kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.48 KB, 84 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG............................................................................... 4
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................ 6
1CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN.........................................................9
1.1.KHÁI NIỆM DNVVN...........................................................................9
1.2.KHÁI NIỆM VỀ NLCT......................................................................13
1.2.1.Khái niệm cạnh tranh.....................................................................13
1.2.2.Khái niệm năng lực cạnh tranh......................................................14
1.2.3.Những yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
.................................................................................................................16
1.3.VAI TRÒ CỦA NLCT ĐỐI VỚI DNVVN TRONG GIAI ĐOẠN
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ...........................................................18
1.4.NLCT CỦA DNVVN VỚI THƯỚC ĐO LÀ SẢN PHẨM MỚI VÀ
CẢI TIẾN SẢN PHẨM.............................................................................21
1.4.1.Sản phẩm mới.................................................................................21
1.4.2.Cải tiến sản phẩm...........................................................................22
1.4.3.Các yếu tố tác động đến việc tạo sản phẩm mới và cải tiến sản
phẩm........................................................................................................23
1.4.3.1.Nhóm quản lý doanh nghiệp.................................................23
1.4.3.2.Tình trạng doanh nghiệp.......................................................24
1.4.3.3.Môi trường doanh nghiệp......................................................25

2CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NLCT CỦA CÁC DNVVN Ở VIỆT
NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2007-2011..............................................27
2.1.ĐẶC ĐIỂM CỦA DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI VIỆT
NAM...........................................................................................................27
2.1.1.Các DNVVN có vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam.. .27


2.1.2.Ưu thế của DNVVN của Việt Nam................................................33
2.1.3.Hạn chế của DNVVN của Việt Nam.............................................35


2.2.BỐI CẢNH CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ TÁC
ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG KINH TẾ TỚI CÁC DNVVN
Ở VIỆT NAM............................................................................................36
2.2.1.Nội dung cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008..............................36
2.2.2.Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 tới các DNVVN
ở Việt Nam..............................................................................................43
2.2.3.Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế tới các DNVVN ở Việt
Nam.........................................................................................................56
2.3.THỰC TRẠNG NLCT CỦA CÁC DNVVN TRONG GIAI ĐOẠN
2007-2011....................................................................................................58
2.3.1.Thực trạng nhóm quản lý doanh nghiệp.........................................58
2.3.2.Tình trạng doanh nghiệp................................................................60
2.3.3.Tình hình tài chính doanh nghiệp...................................................63
2.3.4.Môi trường doanh nghiệp...............................................................64
2.3.5.Nhóm biến phụ thuộc.....................................................................65

3CHƯƠNG 3: : SỬ DỤNG MÔ HÌNH KINH TẾ LƯỢNG ĐÁNH
GIÁ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI NLCT CỦA DNVVN Ở VIỆT
NAM...................................................................................................... 67
3.1.PHƯƠNG PHÁP ƯỚC LƯỢNG.......................................................67
3.1.1.Mô hình logit thường.....................................................................67
3.1.2.Mô hình logit dạng mảng...............................................................67
3.1.3.Số liệu và các biến số.....................................................................67
3.1.3.1.Số liệu....................................................................................67
3.1.3.2.Bảng biến số..........................................................................68
3.2.KẾT QUẢ CHẠY MÔ HÌNH............................................................70


3.2.1.Kết quả mô hình từ phương pháp logit thường..............................70
3.2.1.1.Kết quả mô hình với biến khả năng sáng tạo sản phẩm mới 70

3.2.1.2.Kết quả mô hình với biến khả năng cải tiến sản phẩm.........75
3.2.2.Kết quả mô hình từ phương pháp logit dạng mảng........................76
3.2.2.1.Kết quả mô hình ước lượng sáng tạo sản phẩm mới với mô
hình logit mảng.................................................................................76
3.2.2.2.Kết quả mô hình ước lượng cải tiến sản phẩm mới với mô
hình logit mảng.................................................................................77
3.3.KẾT LUẬN..........................................................................................77

4CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ.............................80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................83


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ...................................11
Bảng 2: Bảng mô tả các yếu tố chịu tác động của khủng hoảng đối
với DNVVN........................................................................................... 57
Bảng 3: Bảng mô tả trình độ văn hóa của chủ doanh nghiệp trong
ba năm 2007, 2009, 2011......................................................................60
Bảng 4: Bảng phản ánh tình trạng xuất khẩu của các DNVVN ở Việt
Nam....................................................................................................... 61
Bảng 5: Tình trạng doanh nghiệp có thể tăng sản lượng..................62
Bảng 6: Bảng phản ánh tỷ lệ số doanh nghiệp sử dụng quảng cáo sản
phẩm các năm 2007, 2009, 2011..........................................................64
Bảng 7: Các biến phụ thuộc được sử dụng trong mô hình...............68
Bảng 8: Các biến độc lập được sử dụng trong mô hình....................69
Bảng 9: Kết quả mô hình ước lượng tỷ lệ sáng tạo sản phẩm mới
được vói những biến đã lựa chọn năm 2007......................................70
Bảng 10: Kết quả mô hình ước lượng tỷ lệ sáng tạo sản phẩm mới
sau khi đã bỏ biến năm 2007...............................................................71
Bảng 11: Kết quả mô hình ước lượng tỷ lệ sáng tạo sản phẩm mới ba

năm 2007, 2009, 2011........................................................................... 73
Bảng 12: Kết quả mô hình với biến khả năng cải tiến sản phẩm
trong ba năm 2007, 2009, 2011............................................................75
Bảng 13: Kết quả mô hình ước lượng sáng tạo sản phẩm mới với mô
hình logit mảng..................................................................................... 76
Bảng 14: Kết quả mô hình ước lượng cải tiến sản phẩm mới với mô
hình logit mảng..................................................................................... 77



LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế đang là xu hướng tất yếu trên thế giới hiện
nay, việc hội nhập mang lại cho mỗi quốc gia rất nhiều cơ hội, tạo điều
kiện thuận lợi để phát triển thị trường, huy động nguồn vốn nước ngoài,
phát triển công nghệ mới và đưa sản phẩm đến người tiêu dùng quốc tế.
Đồng thời cũng mang đến không ít khó khăn và thách thức cho mỗi quốc
gia, đặc biệt là một quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Trong đó khó
khăn lớn nhất chính là vấn đề cạnh tranh trong điều kiện không cân sức.
Tham gia vào nền kinh tế thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh
tranh với các công ty, tập đoàn kinh tế hàng đầu với tiềm lực tài chính
lớn và công nghệ hiện đại. Điều đó đặt ra yêu cầu cho các doanh nghiệp
phải khẩn trương tạo thế lực nâng cao năng lực cạnh tranh của mình
khẳng định đẳng cấp doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế.
Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì DNVVN đóng
vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế: phần lớn giải quyết
được việc làm cho lao động cả nước, hiệu quả làm việc cao, đặc biệt rất
linh hoạt đối với sự thay đổi, sốc kinh tế và đang đóng góp ngày càng
nhiều vào GDP của quốc gia. Đây chính là nguồn phát triển để trở thành
doanh nghiệp lớn của đất nước.

Do vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đóng vai trò quan
trọng trong sự phát triển của nền kinh tế. Năng lực cạnh tranh có thể đo
bằng nhiều khía cạnh nhưng đối với các nước đang phát triển như Việt
Nam và đang định hướng xuất khẩu thì có thể đo bằng khả năng sáng tạo
sản phẩm mới và cải tiến sản phẩm. Điều đó là cần thiết để nền kinh tế
Việt Nam có thể hội nhập kinh tế quốc tế.


Vì những lý do trên chúng tôi thực hiện đề tài “Năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế với phép thử từ cuộc khủng hoảng kinh tế”
Mục đích nghiên cứu: Đề tài nhằm mục đích đưa ra được bức tranh
toàn cảnh về sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) ở Việt
Nam; nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của
DNVVN, và từ đó đưa ra các khuyến nghị về mặt chính sách nhằm nâng
cao năng lực của các DNVVN ở Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu : là các DNVVN ở Việt Nam, NLCT của các
DNVVN ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu số liệu năm 2007, 2009 và 2011
của các DNVVN ở Việt Nam.
Bộ số liệu sử dụng : là 3 bộ số liệu SME_2007, SME_2009,
SME_2011.
Phương pháp nghiên cứu: chúng tôi sử dụng các phương pháp:
phân tích tổng hợp-so sánh; phương pháp thống kê mô tả, thống kê suy
diễn và các mô hình định lượng.
Cấu trúc đề tài: đề tài gồm 4 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Trong chương này chúng tôi sẽ nêu ra những khái niệm, cơ sở lý
thuyết để thực hiện đề tài.
Chương 2: Thực trạng NLCT của các DNVVN ở Việt Nam trong

giai đoạn

2007-2011.

Trong chương này chúng tôi có thực hiện một số so sánh thực trạng
phát triển của DNVVN ở Việt Nam trước và trong khủng hoảng kinh tế
toàn cầu.
Chương 3: Sử dụng mô hình kinh tế lượng đánh giá các yếu tố tác
động tới NLCT của DNVVN ở Việt Nam.


Trong chương này chúng tôi sẽ xây dựng các mô hình logit nhằm
đánh giá khả năng sáng tạo sản phẩm và cải tiến sản phẩm của DNVVN ở
Việt Nam.
Chương 4: Kết luận và khuyến nghị.
Chương này chúng tôi sẽ đưa ra kết chung của đề tài và từ đó đề
xuất một số khuyến nghị nhằm nâng cao NLCT của DNVVN ở Việt Nam
trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.


1CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. KHÁI NIỆM DNVVN
Trên thế giới hiện nay, các nước có quan niệm rất khác nhau về
doanh nghiệp vừa và nhỏ, nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự khác nhau này
là tiêu thức dùng để phân loại quy mô doanh nghiệp khác nhau. Tuy
nhiên trong hàng loạt các tiêu thức phân loại đó có hai tiêu thức được sử
dụng ở phần lớn các nước là quy mô vốn và số lượng lao động.
Mặt khác việc lượng hoá các tiêu thức để phân loại quy mô doanh
nghiệp còn tuỳ thuộc vào những yếu tố như:
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước và những quy định

cụ thể phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai
đoạn.
Trong ngành nghề khác nhau thì chỉ tiêu độ lớn của các tiêu thức
cũng khác nhau.


Sau đây là khái niệm DNVVN: Doanh nghiệp nhỏ và vừa

(Small and medium enterprises - SMEs) là đối tượng doanh nghiệp đặc
trưng của nền kinh tế. Việc định nghĩa rõ doanh nghiệp nào là vừa và nhỏ
là rất linh hoạt và tùy thuộc vào từng quốc gia, từng khu vực kinh tế.
Thông thường sẽ có những mức giới hạn cho một doanh nghiệp để được
coi là vừa và nhỏ. Khi vượt qua rào đó, doanh nghiệp vượt cấp trở thành
doanh nghiệp lớn, thành các tập đoàn.


Nhận biết DNVVN:

Hiện nay, ở Việt Nam nói riêng và toàn bộ thế giới nói chung, xét cả
về phương diện thực tế và lý luận chưa có một sự thống nhất các chỉ tiêu
nhằm xác định loại hình (DNVVN). Có quan điểm gắn việc phân loại quy
mô doanh nghiệp với đặc điểm kinh tế kỹ thuật của từng ngành và dựa
trên cơ sở hai tiêu thức vốn và lao động. Các nước có quan điểm đánh giá
quy mô doanh nghiệp theo các tiêu thức vốn và lao động dựa trên cơ sở


đặc tính kinh tế kỹ thuật của từng ngành Nhật Bản, Malayxia, Thailan . .
Chẳng hạn, ở Nhật Bản, theo quy định của Bộ luật cơ bản về DNVVN,
trong lĩnh vực công nghiệp chế biến và khai thác thì doanh nghiệp sử
dụng dưới 300 lao động, có số vốn sản xuất kinh doanh dưới 100 triệu

yên thuộc doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, còn ở Malayxia, doanh
nghiệp có số vốn nhỏ hơn 500 Ringit và sử dụng dưới 50 lao động là
DNVVN.
- Trong năm 2013, theo thông tư số 16/2013/TT-BTC, ban hành
ngày 08 tháng 02 năm 2013 thì doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, bao
gồm cả chi nhánh, đơn vị trực thuộc nhưng hạch toán độc lập, hợp tác xã
( sử dụng dưới 200 lao động làm việc toàn bộ thời gian năm và có doanh
thu không quá 20 tỷ đồng ) gọi chung là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Còn
theo điều 3 nghị định 56/2009/NĐ-CP của Chính Phủ ban hành vào ngày
30 tháng 6 năm 2009 thì doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở kinh doanh đã
đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu
nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn ( tổng nguồn vốn tương
đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh
nghiệp ) hoặc số lao động bình quân năm ( tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu
tiên ), cụ thể như sau:


Bảng 1: Định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ
Quy mô DN
Khu vực

nhỏ
Số

siêu DN nhỏ
lao Tổng

DN vừa
Số


lao Tổng

Số

lao

động
nguồn vốn động
nguồn vốn động
I. Nông lâm 10 người 20 tỷ đồng Từ trên 10 Từ trên 20 Từ trên 200
nghiệp

và trở xuống

trở xuống

thủy sản
II.

200 người 100

Công 10

nghiệp

người đến tỷ đồng đến người đến

đồng
người 20 tỷ đồng Từ trên 10 Từ trên 20 Từ trên 200


và trở xuống

trở xuống

xây dựng

người đến tỷ đồng đến người đến
200 người 100

III. Thương 10

tỷ 300 người

đồng
người 10 tỷ đồng Từ trên 10 Từ trên 10 Từ trên 50

mại và dịch trở xuống

trở xuống

vụ

người đến tỷ đồng đến người đến
50 người



tỷ 300 người

50 tỷ đồng 100 người


Đặc trưng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp vừa

và nhỏ
Tính chất hoạt động kinh doanh
Doanh nghiệp vừa và nhỏ thường tập trung ở nhiều khu vực chế biến
và dịch vụ, tức là gần với người tiêu dùng hơn. Trong đó cụ thể là:


Doanh nghiệp vừa và nhỏ là vệ tinh, chế biến bộ phận chi tiết cho

các doanh nghiệp lớn với tư cách là tham gia vào các sản phẩm đầu tư.


Doanh nghiệp vừa và nhỏ thực hiện các dịch vụ đa dạng và phong

phú trong nền kinh tế như các dịch vụ trong quá trình phân phối và
thương mại hoá, dịch vụ sinh hoạt và giải trí, dịch vụ tư vấn và hỗ trợ.


Trực tiếp tham gia chế biến các sản phẩm cho người tiêu dùng cuối

cùng với tư cách là nhà sản xuất toàn bộ.




Chính nhờ tính chất hoạt động kinh doanh này mà các doanh

nghiệp vừa và nhỏ có lợi thế về tính linh hoạt. Có thể nói tính linh hoạt là

đặc tính trội của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhờ cấu trúc và quy mô
nhỏ nên khả năng thay đổi mặt hàng, chuyển hướng kinh doanh thậm chí
cả địa điểm kinh doanh được coi là mặt mạnh của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ.
Về nguồn lực vật chất
Nhìn chung các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị hạn chế bởi nguồn vốn,
tài nguyên, đất đai và công nghệ. Sự hữu hạn về nguồn lực này là do tôn
chỉ và nguồn gốc hình thành doanh nghiệp. Mặt khác còn do sự hạn hẹp
trong các quan hệ với thị trường tài chính – tiền tệ, quá trình tự tích luỹ
thường đóng vai trò quyết định của từng doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nhận thức về vấn đề này các quốc gia đang tích cực hỗ trợ các
doanh nghiệp vừa và nhỏ để họ có thể tham gia tốt hơn trong các tổ chức
hỗ trợ để khắc phục sự hạn hẹp này.
Về năng lực quản lý điều hành
Xuất phát từ nguồn gốc hình thành, tính chất, quy mô... các quản trị
doanh nghiệp vừa và nhỏ thường nắm bắt, bao quát và quán xuyến hầu
hết các mặt của hoạt động kinh doanh. Thông thường họ được coi là nhà
quản trị doanh nghiệp hơn là nhà quản lý chuyên sâu.. Chính vì vậy mà
nhiều kỹ năng, nghiệp vụ quản lý trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn
rất thấp so với yêu cầu.
Về tính phụ thuộc hay bị động
Do các đặc trưng kể trên nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị thụ
động nhiều hơn ở thị trường. Cơ hội “đánh thức”, “dẫn dắt” thị trường
của họ rất nhỏ. Nguy cơ “bị bỏ rơi”, phó mặc được minh chứng bằng con
số doanh nghiệp vừa và nhỏ bị phá sản ở các nước có nền kinh tế thị
trường phát triển. Chẳng hạn ở Mỹ, bình quân mỗi ngày có tới 100 doanh
nghiệp vừa và nhỏ phá sản (đương nhiên lại có số doanh nghiệp tương


ứng phù hợp các doanh nghiệp vừa và nhỏ mới xuất hiện), nói cách khác

các doanh nghiệp vừa và nhỏ có “tuổi thọ” trung bình thấp.
1.2. KHÁI NIỆM VỀ NLCT
1.2.1. Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh nói chung, cạnh tranh trong kinh tế nói riêng là một khái
niệm có nhiều cách hiểu khác nhau. Khái niệm này được sử dụng cho cả
phạm vi doanh nghiệp, phạm vi ngành, phạm vi quốc gia hoặc phạm vi
khu vực liên quốc gia.vv..điều này chỉ khác nhau ở mục tiêu được đặt ra ở
chỗ quy mô doanh nghiệp hay ở quốc gia mà thôi. Trong khi đối với một
doanh nghiệp mục tiêu chủ yếu là tồn tại và tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở
cạnh tranh quốc gia hay quốc tế, thì đối với một quốc gia mục tiêu là
nâng cao mức sống và phúc lợi cho nhân dân.vv..
Vậy cạnh tranh là sự tranh đua giữa những cá nhân, tập thể, đơn vị
kinh tế có chức năng như nhau thông qua các hành động, nỗ lực và các
biện pháp để giành phần thắng trong cuộc đua, để thỏa mãn các mục tiêu
của mình. Các mục tiêu này có thể là thị phần, lợi nhuận, hiệu quả, an
toàn, danh tiếng….
Tuy nhiên, không phải tất cả các hành vi cạnh tranh là lành mạnh,
hoàn hảo và nó giúp cho các chủ thể tham gia đạt được tất cả những gì
mình mong muốn.Trong thực tế, để có lợi thế trong kinh doanh các chủ
thể tham gia đã sử dụng những hành vi cạnh tranh không lành mạnh để
làm tổn hại đến đối thủ tham gia cạnh tranh với mình. Cạnh tranh không
mang ý nghĩa triệt tiêu lẫn nhau, nhưng kết quả của cạnh tranh mang lại
là hoàn toàn trái ngược. Giống như bất kỳ sự vật hiện tượng nào khác,
cạnh tranh cũng luôn tồn tại hai mặt của một vấn đề: mặt tích cực và mặt
tiêu cực. Ở khía cạnh tích cực, cạnh tranh là nhân tố quan trọng góp phần
phân bổ các nguồn lực có hạn của xã hội một cách hợp lý, trên cơ sở đó
giúp nền kinh tế tạo lập một cơ cấu kinh tế hợp lý và hoạt động có hiệu
quả. Bên cạnh đó, cạnh tranh góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học



công nghệ, dẫn đến gia tăng năng suất sản xuất xã hội, sử dụng hiệu quả
các yếu tố sản xuất đầu vào nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu xã hội thông
qua các sản phẩm, dịch vụ chất lượng cao, giá thành hạ, mẫu mã đa
dạng… Ở góc độ tiêu cực, nếu cạnh tranh chỉ nhằm mục đích chạy theo
lợi nhuận mà bất chấp tất cả thì song song với lợi nhuận được tạo ra, có
thể xảy ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho xã hội như môi trường sinh
thái bị hủy hoại, nguy hại cho sức khỏe con người, đạo đức xã hội bị
xuống cấp, nhân cách con người bị tha hóa. Nếu xảy ra tình trạng này,
nền kinh tế quốc gia sẽ phát triển một cách lệch lạc và không vì lợi ích
của số đông.
1.2.2. Khái niệm năng lực cạnh tranh
Khái niệm năng lực cạnh tranh được đề cập đầu tiên ở Mỹ vào đầu
những năm 1990. Theo Aldington Report (1985): “Doanh nghiệp có khả
năng cạnh tranh là doanh nghiệp có thể sản xuất sản phẩm và dịch vụ với
chất lượng vượt trội và giá cả thấp hơn các đối thủ khác trong nước và
quốc tế. Khả năng cạnh tranh đồng nghĩa với việc đạt được lợi ích lâu dài
của doanh nghiệp và khả năng bảo đảm thu nhập cho người lao động và
chủ doanh nghiệp”. Tuy nhiên, khái niệm năng lực cạnh tranh đến nay
vẫn chưa được hiểu một cách thống nhất. Theo Buckley (1988), năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp cần được gắn kết với việc thực hiện mục
tiêu của doanh nghiệp với 3 yếu tố: các giá trị chủ yếu của doanh nghiệp,
mục đích chính của doanh nghiệp và các mục tiêu giúp các doanh nghiệp
thực hiện chức năng của mình. Để có thể đưa ra quan niệm năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp phù hợp, cần lưu ý những đặc thù khái niệm
này như Henricsson và các cộng sự (2004) chỉ ra: đó là tính đa nghĩa (có
nhiều định nghĩa), đa trị (có nhiều cách đo lường), đa cấp (với các cấp độ
khác nhau), phụ thuộc, có tính quan hệ qua lại, tính chất động và là một
quá trình. Ngoài ra, khi đưa ra khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp, cần lưu ý thêm một số vấn đề sau đây:



Một là, quan niệm năng lực cạnh tranh cần phù hợp với điều kiện,
bối cảnh và trình độ phát triển trong từng thời kỳ. Chẳng hạn, trong nền
kinh tế thị trường tự do trước đây, cạnh tranh chủ yếu trong lĩnh vực bán
hàng và năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với việc bán được nhiều hàng
hóa hơn đối thủ cạnh tranh. Trong điều kiện thị trường cạnh tranh hoàn
hảo, cạnh tranh trên cơ sở tối đa hóa số lượng hàng hóa nên năng lực
cạnh tranh thể hiện ở thị phần. Còn trong điều kiện kinh tế tri thức hiện
nay, cạnh tranh đồng nghĩa với mở rộng “không gian sinh tồn”, doanh
nghiệp phải cạnh tranh không gian, cạnh tranh thị trường, cạnh tranh tư
bản và do vậy quan niệm về năng lực cạnh tranh cũng phải phù hợp với
điều kiện mới. Đối với Việt Nam hiện nay, với trình độ phát triển kinh tế
còn thấp, nhưng lại đặt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và cạnh
tranh gay gắt, việc đưa ra khái niệm năng lực cạnh tranh cho phù hợp với
bối cảnh hiện nay là không đơn giản.
Hai là, năng lực cạnh tranh cần thể hiện khả năng đua tranh, tranh
giành giữa các doanh nghiệp không chỉ về năng lực thu hút và sử dụng
các yếu tố sản xuất, khả năng tiêu thụ hàng hóa, mà cả khả năng mở rộng
không gian sinh tồn của sản phẩm, khả năng sáng tạo sản phẩm mới.
Ba là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cần thể hiện được
phương thức cạnh tranh phù hợp, bao gồm cả những phương thức truyền
thống và các phương thức hiện đại – không chỉ dựa trên lợi thế so sánh
mà dựa vào lợi thế cạnh tranh, dựa vào quy chế.
Từ những yêu cầu trên, có thể đưa ra khái niệm năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp như sau:
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và nâng
cao lợi thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới
tiêu thụ, thu hút và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi
ích kinh tế cao và bền vững.



Như vậy, năng lực cạnh tranh không phải là chỉ tiêu đơn nhất mà
mang tính tổng hợp, bao gồm nhiều chỉ tiêu cấu thành và có thể xác định
được cho nhóm doanh nghiệp (ngành) và từng doanh nghiệp.
1.2.3. Những yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp
Cũng như bản thân doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp chịu tác động của rất nhiều nhân tố khác nhau như điều
kiện cầu (thị trường), điều kiện yếu tố(nguồn lực đầu vào), các ngành
cung ứng và liên quan (cạnh tranh ngành), các sản phẩm mới và sự cải
tiến sản phẩm , dịch vụ mới của doanh nghiệp, các yếu tố ngẫu nhiên và
yếu tố nhà nước. Tuy nhiên, có thể chia các nhân tố tác động đến năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp làm hai nhóm: các yếu tố bên trong
doanh nghiệp và các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp.
•Các yếu tố bên trong doanh nghiệp
- Trình độ tổ chức quản lý của doanh nghiệp.
Tổ chức quản lý tốt trước hết là áp dụng phương pháp quản lý hiện
đại đã được doanh nghiệp của nhiều nước áp dụng thành công như
phương pháp quản lý theo tình huống, quản lý theo tiếp cận quá trình và
tiếp cận hệ thống. Bản thân doanh nghiệp phải tự tìm kiếm và đào tạo cán
bộ quản lý cho chính mình, phải thiết lập được cơ cấu tổ chức đủ độ linh
hoạt, thích nghi cao với sự thay đổi.
- Trình độ lao động trong doanh nghiệp
Nhân lực là một nguồn lực rất quan trọng vì nó đảm bảo nguồn sáng
tạo trong mọi tổ chức. Trình độ nguồn nhân lực cao sẽ tạo ra các sản
phẩm có chất lượng tốt, thể hiện trong kết cấu kỹ thuật của sản phẩm,
mẫu mã, chất lượng ... và từ đó uy tín, danh tiếng của sản phẩm sẽ ngày
càng tăng, nhiều sản phẩm mới của doanh nghiệp sẽ được mở rộng ra thị
trường, tạo được vị trí vững chắc của doanh nghiệp trên thương trường
và trong lòng công chúng, hướng tới sự phát triển bền vững.



- Năng lực tài chính của doanh nghiệp
Bên cạnh nguồn nhân lực, vốn là một nguồn lực liên quan trực tiếp
tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có năng lực
cạnh tranh cao là doanh nghiệp có nguồn vốn dồi dào, luôn đảm bảo huy
động được vốn trong những điều kiện cần thiết, có nguồn vốn huy động
hợp lý, có kế hoạch sử dụng vốn hiệu quả để phát triển lợi nhuận và phải
hạch toán các chi phí rõ ràng để xác định được hiệu quả chính xác.
- Khả năng liên kết và hợp tác với doanh nghiệp khác và hội nhập
kinh tế quốc tế
Một doanh nghiệp tồn tại trong mối liên hệ nhiều chiều với các đối
tượng hữu quan trong môi trường kinh doanh. Trong kinh doanh thường
xuất hiện nhu cầu liên kết và hợp tác giữa nhiều đối tác với nhau làm tăng
khả năng cạnh tranh. Khả năng liên kết và hợp tác của doanh nghiệp thể
hiện ở việc nhận biết các cơ hội kinh doanh mới, lựa chọn đúng đối tác
liên minh và khả năng vận hành liên minh một cách có kết quả và đạt
hiệu quả cao, đạt được các mục tiêu đặt ra.
- Trình độ thiết bị, công nghệ và sự cải tiến sản phẩm, tạo ra sản
phẩm mới
Thiết bị, công nghệ sản xuất là yếu tố rất quan trọng, ảnh hưởng rất
lớn đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Công nghệ phù hợp cùng
với nguồn nhân lực dồi dào, trình độ cao giúp rút ngắn thời gian sản xuất,
giảm mức tiêu hao năng lượng, tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm,
nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều sản phẩm mới tạo ra lợi thế
cạnh tranh đối với sản phẩm của doanh nghiệp.
- Trình độ năng lực marketing
Năng lực marketing của doanh nghiệp là khả năng nắm bắt nhu cầu
thị trường. Khả năng marketing tác động trực tiếp tới sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm, đáp ứng nhu cầu khách hàng, góp phần làm tăng doanh thu,

tăng thị phần tiêu thụ sản phẩm, nâng cao vị thế của doanh nghiệp. Đây là


nhóm nhân tố rất quan trọng tác động tới năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp.
•Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp
Có rất nhiều nhân tố bên ngoài tác động đến năng lực cạnh tranh của
doanh
nghiệp, có thể chia thành 4 nhóm yếu tố:
- Một là, các điều kiện yếu tố đầu vào, gồm 5 phân nhóm: kết cấu hạ
tầng vật chất – kỹ thuật; hạ tầng hành chính, nguồn nhân lực, hạ tầng
công nghệ, thị trường tài chính.
- Hai là, các điều kiện về cầu: sở thích của người mua, tình hình
pháp luật về
tiêu dùng, về công nghệ thông tin…
- Ba là, các ngành cung ứng và ngành liên quan: chất lượng và số

lượng các nhà cung cấp địa phương, khả năng tại chỗ về nghiên cứu
chuyên biệt và dịch vụ đào tạo, mức độ hợp tác giữa các khu vực kinh tế,
khả năng cung cấp tại chỗ các chi tiết và phụ kiện máy móc.
- Bốn là, bối cảnh đối với chiến lược và cạnh tranh của doanh
nghiệp, gồm hai phân nhóm là động lực và cạnh tranh (các rào cản vô
hình, sự cạnh tranh của các nhà sản xuất địa phương, hiệu quả của việc
chống độc quyền).
1.3. VAI TRÒ CỦA NLCT ĐỐI VỚI DNVVN TRONG GIAI ĐOẠN
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh tồn tại như một quy luật
kinh tế
khách quan và do vậy việc nâng cao năng lực cạnh tranh để cạnh
tranh trên thị

trường luôn được đặt ra đối với các doanh nghiệp, nhất là trong
bối cảnh hội


nhập kinh tế sâu rộng như hiện nay. Cạnh tranh ngày càng gay gắt
khi trên thị
trường ngày càng xuất hiện nhiều các đối thủ cạnh tranh nước ngoài
với tiềm
lực mạnh về tài chính, công nghệ, quản lý và có sức mạnh thị
trường. Nâng cao
năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp là một đòi hỏi cấp bách để
doanh nghiệp
đủ sức cạnh tranh một cách lành mạnh và hợp pháp trên thương
trường.
Không những thế, với xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới hiện
ngay, việc nâng cao năng lực cạnh tranh ở các doanh nghiệp có ý nghĩa
hết sức quan trọng và quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp. Bởi
lẽ suy cho cùng, mục đích cuối cùng trong hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp là mang lại càng nhiều lợi nhuận, khi đó việc nâng cao
năng lực cạnh tranh tại doanh nghiệp được xem như là một chiến lược
không thể thiếu trong định hướng phát triển và nó góp phần vào việc hoàn
thành mục tiêu của doanh nghiệp. Nâng cao năng lực cạnh tranh không
chỉ nhằm mục đích là đem lại lợi ích cho doanh nghiệp, mà còn góp
phần vào sự tăng trưởng của ngành và cả quốc gia.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng nhận được sự cạnh tranh
trong nước và quốc tế. Họ đặc biệt cần có thông tin về thị trường, người
mua, người bán, giá cả, các quy định thương mại và cách thức buôn bán
trên thị trường mục tiêu. Vậy năng lực cạnh tranh có vai trò như thế nào
trong thời kỳ hiện nay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam
trong quá trình hội nhập kinh tế hiện nay?

Thứ nhất, năng lực cạnh tranh thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ
nỗ lực nhằm khác biệt hoá sản phẩm, tạo ra hình ảnh hay đáp ứng sở
thích của người tiêu dùng, phát triển sản phẩm, thiết kế lại hay sửa lại.


Điều này đòi hỏi phải có chuyên môn cao mà ở những nước đang phát
triển thì việc này rất khó.
Thứ hai, hiện nay thị trường quốc tế có nhiều doanh nghiệp của
nhiều quốc gia khác nhau với những đặc điểm và lợi thế riêng đã tạo ra
một sức ép cạnh tranh mạnh mẽ, không cho phép các doanh nghiệp hành
động theo ý muốn của mình mà buộc doanh nghiệp phải quan tâm đến
việc thúc đẩy khả năng cạnh tranh của mình theo hai xu hướng: Tăng chất
lượng của sản phẩm và hạ chi phí sản xuất, muốn thực hiện được điều này
các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải xác định được tầm quan trọng của
năng lực cạnh tranh trong tổ chức của mình.
Thứ ba, chính sự tồn tại khách quan và sự ảnh hưởng của cạnh tranh
đối với nền kinh tế nói chung và đến từng doanh nghiệp nói riêng nên
việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là một đòi hỏi tất
yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường.
Thứ tư, trên thị trường có sự cạnh tranh rất khốc liệt đối với những
doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh tốt sẽ thể hiện được khả năng “ bản
lĩnh” của mình trong quá trình kinh doanh. Nó sẽ làm cho doanh nghiệp
càng vững mạnh và phát triển hơn nếu nó chịu được áp lực cạnh tranh
trên thị trường.
Thứ năm, năng lực cạnh tranh cao giúp các doanh nghiệp có khả
năng hội nhập với quốc tế, tăng năng suất lao động và sử dụng tốt các
nguồn lực của doanh nghiệp, vượt qua được các khó khăn trong quá trình
kinh doanh và sản xuất. Dựa trên năng lực cạnh tranh, các nhà đầu tư
cũng có thể đánh giá và quyết định đầu tư vào các doanh nghiệp trong
thời kì khó khăn như hiện nay.

Tóm lại, kinh tế thế giới phát triển, quốc tế hóa thương mại đòi hỏi
các nước phải xóa bỏ rào cản, chấp nhận tự do buôn bán, vì thế mỗi nước
phải mở cửa thị trường trong nước, điều đó cũng đồng nghĩa với việc
nâng cao sức cạnh tranh của nước đó phù hợp với sự phát triển của thế


giới. Do đó, năng lực cạnh tranh có vai trò khá quan trọng đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quá trình toàn cầu hóa như hiện nay.
1.4. NLCT CỦA DNVVN VỚI THƯỚC ĐO LÀ SẢN PHẨM MỚI
VÀ CẢI TIẾN SẢN PHẨM
Trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế toàn cầu, các DNVVN gặp phải
rất nhiều khó khăn như lao động ít, trình độ còn thấp, nguồn vốn đầu tư
hạn hẹp…. Do vậy, các DNVVN cần có giải pháp để tăng năng lực cạnh
tranh của mình so với các đối thủ khác. Để tăng năng lực canh tranh của
mình, các doanh nghiệp cần khác biệt hóa sản phẩm, cải tiến sản phẩm,
và không ngừng sáng tạo tạo ra sản phẩm mới, hình ảnh mới đáp ứng
được nhu cầu người tiêu dùng. Vì những lý do trên mà chúng tôi quyết
định chọn yếu tố doanh nghiệp có sản phẩm mới hay cải tiến sản phẩm
hay không để đánh giá năng lực cạnh tranh của DNVVN.
1.4.1. Sản phẩm mới
Khái niệm sản phẩm theo quan niệm truyền thống: Sản phẩm là tổng
hợp đặc tính vật lý học, hóa học, sinh học...có thể quan sát được, dùng để
thỏa mãn những nhu cầu cụ thể của sản xuất và đời sống.
Khái niệm sản phẩm theo quan niệm của Maketing: Sản phẩm là thứ
có khả năng thỏa mãn nhu cầu mong muốn của khách hàng, cống hiến
những lợi ích cho họ và có thể đưa ra chào bán trên thị trường với khả
năng thu hút sự chú ý mua sắm và tiêu dùng. Theo đó sản phẩm được cấu
thành từ hai yếu tố cơ bản là: yếu tố vật chất và yếu tố phi vật chất.
Theo quan niệm này, sản phẩm vừa là cái đã có vừa là cái đang và
tiếp tục phát sinh trong trạng thái biến đổi không ngừng của nhu cầu.

Ngày nay người tiêu dùng không chỉ quan tâm đến khía cạnh vật chất mà
còn quan tâm đến nhiều khía cạnh phi vật chất, khía cạnh hữu hình và cả
các yếu tố vô hình của sản phẩm.
Vậy sản phẩm mới là gì? Có phải những sản phẩm các doanh nghiệp
đưa ra thị trường đều được gọi là sản phẩm mới hay không? Nếu doanh


nghiệp chỉ thêm một vài thành phần mới, vài chi tiết mới của sản phẩm
thì đấy có phải là một sản phẩm mới hay không? Hay chỉ những sản
phẩm hoàn toàn mới về mặt quan niệm mới được coi là một sản phẩm
mới?
Đứng trên góc độ của các doanh nghiệp để đánh giá, người ta chia
sản phẩm mới thành hai loại: sản phẩm mới tương đối và sản phẩm mới
tuyệt đối.
Sản phẩm mới tương đối là sản phẩm đầu tiên doanh nghiệp sản xuất
và đưa ra thị trường, nhưng không mới đối với doanh nghiệp khác và đối
với thị trường. chúng cho phép doanh nghiệp mở rộng dòng sản phẩm cho
những cơ hội kinh doanh mới. Chi phí để phát triển loại sản phẩm này
thường thấp, nhưng khó xác định vị trí của sản phẩm trên thị trường vì
người tiêu dùng vẫn có thế thích sản phẩm của đối thủ cạnh tranh hơn.
Sản phẩm mới tuyệt đối là sản phẩm mới đối với cả doanh nghiệp và
đối với cả thị trường. doanh nghiệp giống như ngươi “tiên phong” đi đầu
trong sản xuất sản phẩm này. Sản phẩm này ra mắt nguời tiêu dùng lần
đầu tiên. Đây là một quá trình tương đối phức tạp và khó khăn (cả trong
giai đoạn sản xuất và bán hàng). Chi phí dành cho nghiên cứu, thiết kế,
sản xuất thử và thử nghiệm trên thị trường thường rất cao. Vậy liệu một
sản phẩm có được coi là mới hay không phụ thuộc vào cách mà thị
trường nhận thức về nó. Nếu người tiêu dùng đánh giá sản phẩm này khác
đáng kể so với các sản phẩm của đối thủ cạnh tranh về hình thức, chất
lượng, mẫu mã thì sản phẩm đó được coi là sản phẩm mới.

1.4.2. Cải tiến sản phẩm
Sự cải tiến là điều kiện cần thiết và quan trọng giúp doanh nghiệp
nâng cao lợi thế canh tranh và phát triển bền vững. Theo Schrumpter
(Xem Rogers 1998:6) có năm loại cải tiến, bao gồm cải tiến sản phẩm
mới hoặc thay đổi sản phẩm cũ; phương pháp sản xuất mới; mở cửa thị
trường mới; nguồn lực đầu vào mới; đổi mới tổ chức. Gần đây Porter and


Stern đưa ra khái niệm cải tiến “Sự cải tiến – là phép biến đổi trí thức
trong sản phẩm mới, quy trình mới, và dịch vụ mới - chứa đựng nhiều
hàm lượng công nghệ và khoa học hơn để đáp ứng nhu cầu đa dạng của
khách hàng”.
Cải tiến sản phẩm tức là sử dụng thông tin có được từ việc sử dụng
các công cụ như thiết kế thử nghiệm và đánh giá vòng đời sản phẩm để
tiến hành sự điều chỉnh sản phẩm. Sự điều chỉnh này sẽ cải tiến năng suất,
chất lượng sản phẩm giúp cho sản phẩm có tính cạnh tranh trên thị
trường.
Những sản phẩm cải tiến thường khai thác các đặc điểm hay công
nghệ hiện đại để phục vụ một mục đích khác. Theo nghĩa này, cải tiến sản
phẩm chỉ đại diện cho hình thức đổi mới không triệt để.
So với các sản phẩm đột phá, cải tiến sản phẩm mất ít thời gian và
chi phí để phát triển hơn, vì phần cốt lõi của sản phẩm vẫn giữ nguyên,
chỉ một vài tính năng được thay đổi để cải thiện hiệu suất hoặc làm cho
sản phẩm có sức thu hút hơn với khách hàng.
1.4.3. Các yếu tố tác động đến việc tạo sản phẩm mới và cải tiến sản
phẩm
1.4.3.1. Nhóm quản lý doanh nghiệp
Nhóm quản lý doanh nghiệp gồm có tuổi chủ doanh nghiệp, trình độ
chủ doanh nghiệp.
Chủ doanh nghiệp có trình độ càng cao, độ tuổi cao thì sẽ có nhiều

kinh nghiệm trong việc quản lý doanh nghiệp, đưa ra các chiến lược sản
phẩm phù hợp với tình trạng doanh nghiệp cũng như trong thời kỳ khủng
hoảng kinh tế toàn cầu. Người quản lý giữ vai trò quan trọng trong việc
doanh nghiệp phát triển hay đi xuống, mỗi quyết định của họ cần phải
chính xác, đúng thời điểm. Chủ doanh nghiệp có kinh nghiệm quản lý sẽ
biết khi nào đưa ra sản phẩm mới hay cải tiến sản phẩm để phát triển
doanh nghiệp.


1.4.3.2. Tình trạng doanh nghiệp
Tình trạng doanh nghiệp gồm có hình thức sở hữu, ngành sản xuất
chính, loại máy móc đang sử dụng, mức tăng sản lượng số lượng khách
hàng, doanh nghiệp có hàng tồn kho hay không và xuất khẩu.
Hình thức sở hữu là loại hình doanh nghiệp như doanh nghiệp hộ gia
đình, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, công ty cổ phần, công ty TNHH,
…..
Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi
quốc tế. Nó không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ
thống các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên
trong và bên ngoài nhằm bán sản phẩm, hàng hoá sản xuất trong nước ra
nước ngoài thu ngoại tệ, qua đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển,
chuyển đổi cơ cấu kinh tế ổn định từng bước nâng cao mức sống nhân
dân. Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh dễ đem lại hiệu quả đột biến. Mở
rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và thúc
đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến khích các thành
phần kinh tế mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng
thu ngoại tệ.
Để đưa ra sản phẩm mới, cải tiến sản phẩm doanh nghiệp cần nắm rõ
tình trạng của mình. Thời gian dự trữ hàng hóa càng lâu chứng tỏ hàng
hóa càng lâu thì hàng hóa dễ bị lỗi thời, không đáp ứng nhu cầu người

tiêu dùng. Việc xuất khẩu cũng tạo động lực cho các doanh nghiệp ưu
việt hóa sản phẩm để đáp ứng được nhu cầu người tiêu dùng quốc tế. Máy
móc sử dụng ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất sản phẩm. Nếu
như doanh nghiệp có lượng hàng tồn kho càng lớn có thể cho rằng sản
phẩm của doanh nghiệp chưa làm hài lòng người tiêu dùng. Mức sản
lượng thấp cũng cho thấy doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả. Vì
vậy doanh nghiệp cần cải tiến lại sản phẩm, sáng tạo ra những sản phẩm
mới.


1.4.3.3. Môi trường doanh nghiệp
Theo Luật Quảng cáo năm 2012 định nghĩa về quảng cáo: “Quảng
cáo là việc sử dụng các phương tiện nhằm giới thiệu đến công chúng sản
phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi hay sản phẩm, dịch vụ
không có mục đích sinh lợi. Tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ, hàng
hóa, sản phẩm được giới thiệu, trừ tin thời sự. Chính sách xã hội. Thông
tin cá nhân.
Quảng cáo sản phẩm nhằm mục đích giới thiệu hàng hóa, dịch vụ
của các doanh nghiệp nhằm tăng thêm hiểu biết của người tiêu dùng đối
với sản phẩm. từ đó kích thích sức mua của người tiêu dùng, đẩy mạnh
hoạt động sản xuất, bán hàng và các dịch vụ. Quảng cáo giúp tăng cường
nhận thức của người tiêu dùng về sản phẩm, giúp họ có có lựa chọn được
sản phẩm thích hợp và đây cũng là cách mà các doanh nghiệp quảng bá
sản phẩm của mình.
Quy trình sản xuất mới là việc thay đổi ít nhất một khâu sản xuất
hay việc áp dụng công nghệ cao để sản xuất làm rút ngắn các khâu sản
xuất mà vẫn bảo đảm chất lượng sản phẩm. Quy trình mới cũng giúp cho
các doanh nghiệp tăng năng suất lao động, cải tiến được chất lượng sản
phẩm nhằm giúp sản phẩm có sức cạnh tranh hơn trên thị trường.
Dự kiến phát triển là kế hoạch, mục tiêu, chiến lược mà doanh

nghiệp vạch ra nhằm giúp phát triển doanh nghiệp, có những ý tưởng rõ
ràng nhằm đưa sản phẩm của mình tới người tiêu dùng. Khi có dự kiến
phát triển thì các doanh nghiệp sẽ cố gắng để thực hiện được nó tạo thêm
động lực cho các doanh nghiệp trong việc cạnh tranh trên thị trường.
Quảng cáo là điều không thể thiếu ở bất kỳ doanh nghiệp nào. Đây
là một chiến lược maketing tốt, các doanh nghiệp có thể cung cấp thông
tin của sản phẩm đến đông đảo người tiêu dùng. Để có được sản phẩm
mới hay cải tiến sản phẩm một cách tốt hơn thì không thể thiếu quy trình
sản xuất. Nếu có được một quy trình sản xuất mới phù hợp thì sản phẩm


×