Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

NHỮNG vấn đề PHÁP lý cơ bản về tòa án HÌNH sự QUỐC tế (ICC) THEO QUY CHẾ ROME 1998 và XU THẾ hội NHẬP của VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.14 KB, 57 trang )

Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ngày nay, nhân loại luôn phải đối mặt với nhiều thách thức to lớn, nh dịch
bệnh lan truyền khắp các châu lục, ô nhiễm môi trờng nghiêm trọng diễn ra ở
nhiều thành phố lớn trên thế giới và đặc biệt là tình hình tội phạm ngày càng gia
tăng và diễn biến phức tạp. Việc xuất hiện của những loại tội phạm mới (tội
phạm vi tính, tội phạm công nghệ cao) có thể xem là mặt trái của sự phát triển
Khoa học kỹ thuật. Không những thế, trong lịch sử cũng nh hiện tại, loại tội
phạm quốc tế (tội ác chiến tranh, tội chống nhân loại, tội phạm diệt chủng, tội
xâm lợc) vẫn cha bị loại bỏ khỏi đời sống quốc tế và hàng ngày, hàng giờ đe doạ
đến hoà bình và an ninh thế giới. Thực tiễn đó đòi hỏi các quốc gia cần có sự nỗ
lực to lớn để nhanh chóng loại bỏ loại tội ác quốc tế ra khỏi đời sống cộng đồng
và những kẻ phạm tội cần phải đa ra ánh sáng công lý và bị trừng trị.
Ngày 17/7/1998, đại diện của 120 nớc đã bỏ phiếu thông qua Quy chế
Rome (Rome Statute) về thành lập Tòa án hình sự quốc tế (International
Criminal Court, gọi tắt là ICC). Đây đợc xem nh là một trong những cố gắng lớn
lao của cộng đồng quốc tế, nhằm trừng trị tội phạm quốc tế, đem lại một thế giới
hoà bình, ổn định. Trong bối cảnh quốc tế đó, các vấn đề pháp lý và thực tiễn đặt
ra trong quá trình hoạt động của ICC luôn đòi hỏi có sự nghiên cứu từ nhiều góc
độ.
Quy chế Rome 1998 là một Điều ớc quốc tế đa phơng quan trọng, thu hút
đợc sự quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy mới ra đời đợc 9 năm nhng Quy chế Rome đã có "104 quốc gia thành viên" [25] và chắc chắn con số
thành viên của Quy chế này sẽ còn tăng lên. Sở dĩ Quy chế Rome có tác động
mạnh mẽ đến nhiều quốc gia vì sự hiện diện của Quy chế này đang phần nào đáp
ứng đợc những mong muốn của nhiều quốc gia trong việc áp dụng các biện pháp
trừng trị nghiêm khắc nhất đối với những kẻ thực hiện hành vi bị coi là tội ác
quốc tế.
Song hành với Quy chế Rome, sự xuất hiện của Tòa án hình sự quốc tế đã
và đang tạo ra bớc phát triển mới trong đời sống pháp luật quốc gia và quốc tế.
Mặc dù Quy chế Rome còn có những hạn chế nhất định và khó tránh khỏi những
bất đồng giữa các quốc gia thành viên nhng với tình hình diễn biến tội phạm gia


tăng nh hiện nay thì Quy chế Rome và ICC thực sự có ảnh hởng tích cực đến
cuộc đấu tranh chung của nhân loại trong những nỗ lực loại bỏ tội phạm quốc tế
ra khỏi đời sống cộng đồng quốc tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
1


Trong quá trình Uỷ ban Pháp luật quốc tế (Liên hợp quốc) xây dựng dự
thảo Quy chế Rome, Việt Nam đã cử đoàn chuyên gia theo dõi và nghiên cứu
vấn đề về ICC. Chúng ta còn cử một phái đoàn tham dự phiên họp cuối cùng của
Uỷ ban trù bị để hoàn tất dự thảo Quy chế Rome và tham gia Hội nghị thành lập
ICC. Hiện tại, các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam đang tích cực nghiên
cứu Quy chế Rome một cách toàn diện nhằm xem xét khả năng gia nhập của
Việt Nam vào Quy chế này. Những năm gần đây, giới nghiên cứu luật học của
Việt Nam bắt đầu quan tâm đến Quy chế Rome, bắng chứng là hàng loạt các
cuộc hội thảo khoa học đã tổ chức thành công, chẳng hạn:
+ Tháng 3 năm 2002, Trung tâm nghiên cứu giới và phát triển thuộc Đại
học Khoa học xã hội và Nhân văn Đại học quốc gia Hà Nội, phối hợp với tổ chức
Diễn đàn Châu á tổ chức Hội thảo "Giới và Tòa án hình sự quốc tế " nhằm cung
cấp các thông tin cho các nhà ngoại giao và các nhà nghiên cứu của Việt Nam.
+ Tháng 3 năm 2006, Hội luật gia Việt Nam đã tổ chức một cuộc Hội thảo
về Tòa án hình sự quốc tế với sự giúp đỡ của Đại sứ quán Thuỵ Sĩ và Hà Lan tại
Hà Nội. Cuộc Hội thảo đã tạo điều kiện để Hội luật gia dịch và xuất bản hai
cuốn sách "Những văn kiện pháp lý về Tòa án hình sự quốc tế" và "Những vấn
đề cơ bản về Tòa án hình sự quốc tế ".
+ Tháng 10 năm 2006, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, với sự giúp
đỡ của Đại sứ quán Anh và Đức đã tổ chức Hội thảo "Tòa án hình sự quốc tế và
việc gia nhập của Việt Nam".
Bên cạnh các cuộc Hội thảo, Tạp chí Nhà nớc và pháp luật, Tạp chí Toà án
nhân dân, Tạp chí Luật học còn cho đăng nhiều bài nghiên cứu, giới thiệu về

Quy chế Rome và ICC của TS Lê Mai Anh, TS Dơng Tuyết Miên, ThS Nguyễn
Tuyết Mai Đây là những nguồn tài liệu vô cùng quý giá giúp các luật gia, các
nhà nghiên cứu tìm hiểu thêm về ICC cũng nh Quy chế Rome.
Tuy nhiên, với một Điều ớc quốc tế chứa đựng nhiều nội dung pháp lý
quan trọng và có tính chuyên môn cao nh Quy chế Rome thì những hoạt động
nghiên cứu nêu trên còn khá khiêm tốn. Điều này đòi hỏi phải có nhiều hơn nữa
những công trình nghiên cứu công phu về Quy chế Rome và ICC, để không chỉ
giúp cho việc đánh giá một cách toàn diện những vấn đề pháp lý cơ bản về quy
chế này mà còn tạo nền tảng lý luận cơ bản cho việc tiếp cận với Quy chế Rome
và ICC ở Việt Nam.
3. Phơng pháp nghiên cứu và nội dung của khóa luận
Khóa luận đợc thực hiện trên cơ sở phơng pháp của Chủ nghĩa MácLênin, t tởng Hồ Chí Minh, đờng lối chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam và
pháp luật của Nhà nớc ta. Trong quá trình thực hiện khóa luận, tác giả đã sử
2


dụng các phơng pháp truyền thống và hiện đại nh phân tích, so sánh, tổng hợp,
thống kê.
Đề tài khóa luận: "Những vấn đề pháp lý cơ bản về Tòa án hình sự
quốc tế (ICC) theo Quy chế Rome 1998 và xu thế hội nhập của Việt Nam"
bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
Chơng I: Sự ra đời của Quy chế Rome về Tòa án hình sự quốc tế đáp ứng
yêu cầu phát triển của Khoa học luật và Luật hình sự quốc tế
Chơng II: Các vấn đề pháp lý cơ bản về Toà án hình sự quốc tế (ICC)
theo Quy chế Rome
Chơng III: Quy chế Rome và tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam

Chơng I
Sự ra đời của Quy chế Rome về tòa án hình sự quốc tế
đáp ứng yêu cầu phát triển Của khoa học luật

và luật hình sự quốc tế
1. Quá trình ký kết Quy chế Rome
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, ngày 28/6/1919, các nớc thắng trận họp
hội nghị tại Vec-xây để phân chia quyền lợi, đồng thời ký với Đức một bản Hiệp
ớc hoà bình. Theo đó, sẽ thành lập một cơ quan xét xử tội phạm quốc tế để truy
tố Hoàng đế Đức và những tên tội phạm chiến tranh khác (Điều 226, 227 và 229
Hiệp ớc Vec-xây). Để chuẩn bị cho việc truy tố, một Uỷ ban đợc thành lập với
nhiệm vụ xác định trách nhiệm hình sự của các tội phạm chiến tranh. Uỷ ban này
đã tuyên bố tất cả những ngời thuộc phe thua trận, cho dù giữ chức vụ cao đã
thực hiện hành vi vi phạm luật và tập quán chiến tranh đều phải bị truy cứu trách
nhiệm hình sự. Điều 228 Hiệp ớc Vec-xây cũng quy định rằng, Chính phủ Đức
phải trao tất cả các cá nhân đã vi phạm luật và tập quán chiến tranh cho các nớc
đồng minh thắng trận.
Tuy nhiên, kết quả xét xử không đợc nh mong muốn. Hoàng đế Đức
Vilhem đã chạy sang Hà Lan. Chính quyền Hà Lan cho c trú chính trị và từ chối
dẫn độ. Trong số 20 000 ngời bị tình nghi thì chỉ có 22 ngời bị Toà án tối cao
Đức truy tố và 12 ngời bị kết tội. Các nớc đồng minh thắng trận cũng đã ký Hiệp
3


ớc Sèvre với Thổ Nhĩ Kỳ (10/8/1920), quy định việc dẫn độ những kẻ phạm tội
thảm sát trong thời kỳ chiến tranh nhng lại bị thay thế bằng Hiệp ớc Lausanne
với tuyên bố ân xá cho tất cả những tên phạm tội trên. Nh vậy, chiến tranh thế
giới thứ nhất kết thúc cùng hàng loạt vụ bạo lực bi thảm đã gây ra cái chết cho
hàng trăm triệu ngời, song chỉ số ít tội phạm bị đa ra xét xử.
Trớc sự việc diễn ra ở Đức và Thổ Nhĩ Kỳ, các quốc gia thành viên Liên
hợp quốc đã sớm nhận thấy sự cần thiết phải có một thiết chế tài phán để truy tố,
xét xử các tội phạm nghiêm trọng nhất, nh tội phạm chiến tranh, tội phạm chống
nhân loại, tội phạm xâm lợc, nhằm duy trì hoà bình an ninh quốc tế. Mặc dù vậy,
những nỗ lực để đa ra ý tởng thiết lập một Tòa án hình sự quốc tế đã không đợc

quan tâm thích đáng. Năm 1926, Hội Luật Hình sự quốc tế đã phác thảo một dự
án về Tòa hình sự quốc tế, song dự án này đã không nhận đợc một sự ủng hộ
nào.
Trong khi các cuộc xung đột đẫm máu vẫn liên tục diễn ra trên khắp thế
giới thì một trong những động thái tích cực từ phía Hội quốc liên đó là việc
thông qua Công ớc chống và trừng trị tội khủng bố. Công ớc đã đề cập đến việc
thành lập một Tòa án hình sự quốc tế xét xử tội phạm khủng bố, nhng trên thực
tế, Công ớc này chỉ đợc một quốc gia duy nhất phê chuẩn là ấn Độ.
Chiến tranh thế giới thứ hai là cuộc chiến để lại những hậu quả nặng nề
nhất trong lịch sử. Hàng loạt đau thơng mất mát chung của nhiều dân tộc đã làm
thức tỉnh lơng tri nhân loại, khiến cộng đồng quốc tế quan tâm nhiều hơn đến
việc trừng trị các tội ác quốc tế nguy hiểm, trong đó có tội phạm chiến tranh.
Các Tòa án Nuremberg và Tokyo đợc thiết lập là minh chứng cho điều đó. Ngày
8/8/1945, Hoa Kỳ, Pháp, Liên Xô, Anh đã ký Hiệp ớc London để truy nã và
trừng trị các tội phạm chiến tranh của khối Trục phát xít Châu Âu (Liên minh
Đức, ý, Nhật). Tòa án Nuremberg đợc thiết lập dựa trên Hiệp ớc này, với Liên
Xô, Mĩ, Anh, Pháp là các bên ký kết và 19 quốc gia khác là bên gia nhập. Năm
1946, Tòa án hình sự quốc tế Tokyo đã ra đời theo quy định của Thoả ớc giữa các
nớc Liên Xô, Mĩ, Anh, Pháp, Trung Quốc, Canada, Australia, Niudilân, Hà Lan,
ấn Độ và Philipin. Mặc dù Quy chế Tòa án quân sự Nuremberg và Tokyo không
hẳn là đã tối u, vì đây đợc coi là Tòa án xét xử của các nớc thắng trận đối với các
nớc thua trận, nhng xét dới góc độ Khoa học luật hình sự quốc tế thì sự ra đời
của hai Tòa án này là bớc phát triển có tính lịch sử của Luật hình sự quốc tế. Lần
đầu tiên, tại Tòa án Nuremberg và Tokyo, chiến tranh xâm lợc đợc coi là tội ác
man rợ nhất chống lại loài ngời.
Vì còn nhiều ý kiến bất đồng nên phải đến năm 1948, Liên hợp quốc mới
chính thức xem xét và thông qua Công ớc về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt
chủng. Công ớc này không chỉ nêu rõ định nghĩa tội diệt chủng mà còn quy định
4



về việc trừng trị những kẻ thực hiện hành vi đó bằng một Tòa án quốc gia nơi
xảy ra tội phạm hoặc bằng một Tòa án hình sự quốc tế có thẩm quyền đã đợc các
bên tham gia Công ớc chấp nhận. Nh vậy, tuy Công ớc không trực tiếp thành lập
một Tòa hình sự quốc tế, song đã đa ra khái niệm đầu tiên về địa vị pháp lý của
Tòa án này.
Năm 1947, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã yêu cầu Uỷ ban lập pháp quốc
tế xây dựng Bộ luật các Tội chống hoà bình và an ninh nhân loại và soạn thảo
Quy chế để thành lập Tòa án hình sự quốc tế. Uỷ ban lập pháp quốc tế đã trình
lên Đại hội đồng Dự thảo Quy chế Tòa án hình sự quốc tế đầu tiên vào năm 1951
và lần thứ hai vào năm 1953 để các nớc thành viên thảo luận. Nhng do các nớc
cha thống nhất đợc định nghĩa tội xâm lợc nên dự thảo này không đợc thông qua.
Phải đến năm 1974, Đại hội đồng Liên hợp quốc mới thông qua định nghĩa tội
xâm lợc. Dù vậy, định nghĩa này vẫn còn nhiều chỉ trích, bởi thiếu tính cụ thể
trong việc xác định hành vi cấu thành tội xâm lợc.
Năm 1992, Đại hội đồng Liên hợp quốc một lần nữa giao cho Uỷ ban lập
pháp quốc tế soạn thảo chi tiết Dự thảo Quy chế thành lập một Tòa án hình sự
quốc tế thờng trực. Cùng trong thời gian này, Hội đồng Bảo an dựa trên cơ sở
Chơng VII của Hiến chơng Liên hợp quốc đã thông qua Nghị quyết 808
(22/2/1993) thành lập Tòa án hình sự quốc tế về truy nã và trừng phạt các cá
nhân vi phạm luật nhân đạo quốc tế trên lãnh thổ nớc Nam T. Tiếp theo đó là
Nghị quyết 995 (8/11/1994) thành lập Tòa án hình sự quốc tế truy nã và trừng
phạt các cá nhân có hành vi diệt chủng trên lãnh thổ nớc Ruanda, cũng nh công
dân Ruanda phạm tội diệt chủng và vi phạm nghiêm trọng luật nhân đạo quốc tế
trên lãnh thổ nớc láng giềng.
Mặc dù có sự hỗ trợ rất lớn từ phía cộng đồng quốc tế, nhng hiệu quả hoạt
động của hai Tòa án này vẫn cha đạt đợc mục đích thực thi công lý. Không phải
tất cả các bị cáo, đặc biệt là bị cáo giữ cơng vị lãnh đạo Nhà nớc đã phải chịu
trách nhiệm hình sự do hành vi của họ gây ra. Chính những hạn chế này càng
khẳng định sự cần thiết phải xây dựng một Tòa án quốc tế thờng trực công bằng,

khách quan và hiệu quả.
Tháng 12 năm 1994, Đại hội đồng thành lập một Uỷ ban đặc biệt bao gồm
đại biểu của tất cả các quốc gia thành viên và các cơ quan chuyên ngành xem xét
lại dự thảo cuối cùng về Quy chế của Uỷ ban pháp luật quốc tế. Tháng 12 năm
1995, Đại hội đồng thành lập Uỷ ban trù bị với sự tham gia của các quốc gia
thành viên Liên hợp quốc, các tổ chức quốc tế và tổ chức phi Chính phủ để thảo
luận sâu hơn những nội dung quan trọng nhất của dự thảo Quy chế, nhằm xây
dựng một văn bản pháp lý hoàn chỉnh, đợc thừa nhận rộng rãi, chuẩn bị cho Hội
nghị cấp cao xem xét việc thành lập Tòa án hình sự quốc tế. Tháng 12 năm 1996,
5


Đại hội đồng thẩm định lại kết quả hoạt động sau hai phiên họp của Uỷ ban trù
bị, đồng thời quyết định năm 1998 sẽ tổ chức Hội nghị cấp cao.
Văn bản dự thảo Quy chế đợc đệ trình, thảo luận và thông qua tại Hội nghị
cấp cao về việc thành lập Tòa án hình sự quốc tế. Hội nghị diễn ra tại Rome từ
15/6/1998 đến 17/7/1998 với đại diện của hơn 160 quốc gia tham dự cùng với
đại diện của nhiều tổ chức quốc tế và hơn 100 tổ chức phi Chính phủ. Mặc dù dự
thảo đợc xây dựng nghiêm túc và tơng đối chi tiết, song nhiều vấn đề quan trọng
nh quyền tài phán, danh mục tội danh thuộc quyền tài phán của Tòa án vẫn còn
nhiều sự bất đồng ý kiến. Sau 5 tuần nỗ lực đàm phán dới nhiều hình thức, Quy
chế Rome đã đợc thông qua với 120 phiếu thuận, 7 phiếu chống và 21 phiếu
trắng.
Trong số 7 quốc gia bỏ phiếu không tán thành Quy chế bao gồm Trung
Quốc, Iraq, Israel, Yamen, Quatar, Libia, Mỹ có 3 quốc gia là Trung Quốc, Mĩ,
Israel tuyên bố lý do phủ quyết. Cụ thể, Trung Quốc cho rằng, việc trao quyền
cho Hội đồng dự thẩm giám sát việc thực thi của Công tố viên còn cha đủ. Mỹ
không tán thành các quy định về việc thực thi quyền tài phán của Tòa án hình sự
quốc tế đối với các quốc gia không phải là thành viên của Quy chế. Israel chỉ
trích không thể hiểu tại sao hoạt động di chuyển đến vùng lãnh thổ bị chiếm

đóng lại bị coi là tội phạm chiến tranh.
Quy chế Rome có 128 điều khoản, quy định cụ thể về việc thành lập ICC,
quyền tài phán của Tòa án, các nguyên tắc của Luật hình sự, cơ cấu tổ chức và
hoạt động của Tòa án, hình phạt và thi hành án. Ngoài việc thông qua Quy chế,
Hội nghị thông qua Văn kiện cuối cùng quyết định thành lập một Uỷ ban trù bị
để soạn thảo các Văn bản phụ trợ phục vụ cho hoạt động của Tòa án. Cho đến
nay những Văn kiện này đều đã đợc thông qua: Quy tắc thủ tục và chứng cứ, Các
yếu tố cấu thành tội phạm, Thoả thuận về u đãi và miễn trừ của ICC.
Điều 125 Quy chế ghi nhận, Quy chế đợc mở cho việc ký kết đối với tất cả
các quốc gia tại trụ sở của Liên hợp quốc. Cho đến hết 31/12/2000 Mĩ, Iran và
Israel là những nớc cuối cùng ký kết Quy chế, đa tổng số các nớc ký kết lên 139
nớc. Ngày 1/7/2002 Quy chế Rome về ICC có hiệu lực sau khi đạt đợc con số 60
quốc gia phê chuẩn.
2. Tầm quan trọng của Quy chế Rome
2.1. Mối quan hệ của Quy chế Rome với một số Điều ớc quốc tế đa phơng về
Luật hình sự quốc tế
Quy chế Rome với các Điều ớc quốc tế đa phơng quy định về các tội
phạm thuộc quyền tài phán của Tòa án nh Công ớc của Liên hợp quốc về ngăn
ngừa và trừng trị tội diệt chủng 1948, bốn Công ớc Giơnevơ về bảo hộ nạn nhân
chiến tranh năm 1949. Các Công ớc này có mối quan hệ chặt chẽ với Quy chế
6


Rome, bởi nhiều khái niệm cũng nh hành vi cấu thành các tội thuộc quyền tài
phán của Tòa đợc Quy chế Rome sử dụng từ những Công ớc này. Ví dụ, Quy chế
Rome đã sử dụng định nghĩa tội diệt chủng trong Công ớc về ngăn ngừa và trừng
trị tội diệt chủng 1948. Thậm chí khi định nghĩa tội chiến tranh, Quy chế Rome
còn dẫn chiếu trực tiếp đến bốn Công ớc Giơnevơ về bảo hộ nạn nhân chiến
tranh. Nh vậy, có thể thấy rằng, các Công ớc này có mối tơng dồng lớn với Quy
chế Rome về những vấn đề pháp lý đợc điều chỉnh trong Quy chế.

Quy chế Rome với các Điều ớc quốc tế thành lập các thiết chế tài phán
quốc tế trớc ICC nh Hiệp ớc London (1945) thành lập Tòa án quân sự quốc tế
Nuremberg, và Thoả ớc 1946 thành lập Tòa án quân sự Tokyo. Quy chế của hai
Tòa án quân sự này đã quy định các vấn đề về cơ cấu tổ chức của Tòa án, thẩm
quyền xét xử, trình tự thủ tục xét xử và ra phán quyết của Tòa án. Đây là một
trong những nguồn tham khảo để Uỷ ban luật quốc tế (Liên hợp quốc) xây dựng
dự thảo Quy chế Rome. Nhiều quy định trong Quy chế Rome có sự kế thừa từ
Quy chế Tòa án Nuremberg và Tokyo, chẳng hạn:
+ Khái niệm về tội chống nhân loại;
+ Các nguyên tắc về trách nhiệm hình sự cá nhân nh cá nhân phải chịu
trách nhiệm hình sự quốc tế đối với hành vi xâm phạm nghiêm trọng luật quốc tế
và phải chịu hình phạt dựa trên cơ sở Luật pháp quốc tế; các cá nhân tội phạm
không đợc miễn trách nhiệm hình sự quốc tế đối với các tội phạm quốc tế nêu
trên ngay cả khi họ là Nguyên thủ quốc gia hoặc ngời đứng đầu Chính phủ.
2.2. Giá trị pháp lý của Quy chế Rome
Khác với quy chế về thành lập một số cơ quan tài phán quốc tế, nh Quy
chế của Tòa án công lý quốc tế (mang tính chất là bộ phận cấu thành của Hiến
chơng Liên hợp quốc), hay Quy chế Tòa án quốc tế về Luật Biển (là phụ lục của
UNCLOS 1982), Quy chế Rome có giá trị pháp lý của một Điều ớc quốc đa phơng, với 128 điều khoản, chia làm 12 phần. Quy chế vừa là cơ sở pháp lý cho sự
ra đời và hoạt động của ICC, vừa đa ra các tội danh, yếu tố cấu thành tội phạm,
biện pháp xử phạt nh quy định của Bộ luật hình sự, cũng nh trình tự điều tra, truy
tố, xét xử nh các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự.
* Quy chế Rome là cơ sở pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của ICC
Tại Điều 1, Quy chế Rome quy định "Thành lập Tòa án hình sự quốc tế.
Tòa án là một cơ quan thờng trực, có thẩm quyền xét xử những cá nhân phạm
các tội ác quốc tế nghiêm trọng nhất đợc quy định trong Quy chế này và sẽ bổ
sung quyền tài phán hình sự quốc gia". Theo quy chế, ICC là một Tòa án quốc tế
thờng trực, đợc thành lập dựa trên cơ sở một điều ớc quốc tế, nhằm truy tố, xét
xử các cá nhân phạm tội ác quốc tế nghiêm trọng liên quan đến cộng đồng quốc
tế. ICC không phải là Tòa án siêu quốc gia mà đóng vai trò hỗ trợ, bổ sung cho

7


quyền tài phán của Tòa án các quốc gia. ICC chỉ đợc viện dẫn đến nh một phơng
sách cuối cùng, khi quốc gia không muốn hoặc không có khả năng tiến hành tiến
hành việc điều tra, truy tố một cách thực sự. Tòa án có trụ sở đặt tại Lahay (Hà
Lan). Tuy nhiên, Tòa án cũng có thể đặt trụ sở ở bất kỳ nơi nào nếu thấy phù
hợp.
* Quy chế Rome có thể xem nh một đạo luật hình sự
Đây là công cụ pháp lý hình sự cơ bản và quan trọng của cộng đồng quốc
tế trong đấu tranh phòng chống tội phạm quốc tế. Điều này thể hiện ở việc hiện
diện trong Quy chế Rome một loạt các quy định về Luật hình sự, nh các tội
phạm thuộc quyền tài phán của Toà án (Điều 5, 6, 7, 8), các yếu tố cấu thành tội
phạm (Điều 9), những nguyên tắc chung của Luật hình sự (Phần 3 từ Điều 22
đến Điều 33), hình phạt (Phần 7 từ Điều 77 đến Điều 80).
Không chỉ có các quy định của Luật hình sự, Quy chế Rome còn chứa
đựng các quy phạm pháp luật của Luật Tố tụng hình sự, nh quyền tài phán, thụ lý
và luật áp dụng (Phần 2), điều tra và truy tố (Phần 5), xét xử (Phần 6), phúc thẩm
và xét lại (Phần 8), hợp tác quốc tế và trợ giúp t pháp (Phần 9), thi hành án (Phần
10).
2.3. Vai trò của Quy chế Rome
2.3.1. Đối với việc hình thành thiết chế tài phán quốc tế nhằm trừng trị và
ngăn ngừa tội phạm quốc tế
Sự ra đời của Quy chế Rome là một sự kiện có vai trò quan trọng trong
quan hệ quốc tế. Lần đầu tiên trong lịch sử có một Điều ớc quốc tế đa phơng
thành lập Tòa án hình sự quốc tế thờng trực, hoạt động độc lập theo nguyên tắc
bổ sung cho pháp luật quốc gia, nhằm xét xử những cá nhân phạm tội ác nghiêm
trọng trên bình diện quốc tế. Khác với Tòa án quân sự quốc tế (Tòa án
Nuremberg và Tokyo), Tòa án hình sự quốc tế adhoc (Tòa án Nam T và Ruanda)
đợc thành lập trớc đó, ICC có tính đại chúng và t cách pháp lý cao hơn. Điều này

biểu hiện ở việc, nếu nh Tòa án Nuremberg và Tokyo do bốn nớc đồng minh
thắng trận (Anh, Mĩ, Pháp, Liên Xô) thành lập, còn Tòa án Nam T và Ruanda do
Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc thành lập thì ICC do các quốc gia lập nên bằng
một Điều ớc quốc tế đa phơng. Điều ớc này chỉ có hiệu lực khi có 60 quốc gia
phê chuẩn hoặc gia nhập. Mặt khác, các Tòa án Nuremberg và Tokyo, Tòa án
Nam T và Ruanda chỉ có tính chất tạm thời, đợc thành lập để giải quyết một vụ
việc cụ thể sau đó sẽ ngừng hoạt động, còn ICC là Tòa án hình sự quốc tế có tính
thờng trực với cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có nguồn quỹ hoạt động riêng, tạo điều
kiện thuận lợi cho quá trình tố tụng đợc tiến hành nhanh chóng, khách quan và
công bằng. Và cũng không giống các Tòa án quân sự quốc tế và Tòa án hình sự
adhoc trớc đó chỉ đợc lập ra để xét xử các cá nhân về một tội phạm nhất định, đ8


ợc thực hiện ở những nơi nhất định từ trớc khi Tòa án này ra đời, ICC không có
hiệu lực hồi tố và không bị giới hạn thẩm quyền theo những vụ việc cụ thể. Ví dụ
nh Tòa án Ruanda đợc thành lập năm 1994 để truy tố các cá nhân phạm tội diệt
chủng và vi phạm nghiêm trọng Luật nhân đạo quốc tế trên lãnh thổ Ruanda, và
các công dân Ruanda thực hiện hành vi diệt chủng trên lãnh thổ các nớc láng
giềng. ICC chỉ xét xử các cá nhân thực hiện hành vi cấu thành các tội thuộc
quyền tài phán của Tòa án sau khi Quy chế có hiệu lực. Bất kỳ cá nhân nào phạm
một trong các tội quy định tại Điều 5 của Quy chế đều có thể bị đa ra trớc Tòa
án.
Mối quan hệ giữa Tòa án Nuremberg và Tokyo với thẩm quyền tài phán
của Tòa án quốc gia đợc giải quyết theo phơng thức mặc định, còn Tòa án Nam
T và Ruanda có thẩm quyền u tiên hơn Tòa án quốc gia. Trong khi đó, ICC đợc
thiết kế theo hớng không phải là cơ quan t pháp siêu quốc gia, không thay thế
hoàn toàn thẩm quyền tài phán của quốc gia mà chỉ đóng vai trò hỗ trợ, bổ sung
cho Tòa án quốc gia.
Tóm lại, với sự ra đời của Quy chế Rome một Tòa án hình sự quốc tế thờng trực đợc thành lập. Từ nay, những kẻ thực hiện tội ác dã man nhất, vi phạm
nghiêm trọng pháp luật quốc tế sẽ bị đem ra trớc công lý, cho dù kẻ đó có là ngời đứng đầu một quốc gia.

1.3.2. Đối với sự phát triển của Khoa học Luật hình sự quốc tế
Có thể khẳng định rằng, Quy chế Rome là một văn bản pháp lý có tính
tổng hợp trong lĩnh vực T pháp hình sự quốc tế vì nó chứa đựng các quy phạm
không chỉ về luật nội dung (Luật hình sự) mà còn cả về luật hình thức (Luật Tố
tụng hình sự). Dới đây là một số đánh giá về vai trò của Quy chế đối với sự phát
triển của Khoa học Luật hình sự tơng ứng với các chế định truyền thống của
Luật hình sự.
Thứ nhất, về các nguyên tắc chung của Luật hình sự, Quy chế Rome dành
hẳn Phần 3 (từ Điều 22 đến Điều 33) để quy định về vấn đề này. Quy chế nh một
sự tổng hợp của các nguyên tắc đợc ghi nhận trong các văn bản pháp luật liên
quan trớc đó, và trở thành "sợi chỉ đỏ xuyên suốt các quy định của Pháp luật
hình sự "
Trớc hết là nguyên tắc pháp chế, đây đợc coi là nguyên tắc truyền thống
quan trọng nhất của Luật hình sự. Nguyên tắc này đợc ghi nhận trong Quy chế
Rome với nhiều luận điểm tiến bộ, nh không có tội khi không có luật (Điều 22),
không có hình phạt khi không có luật (Điều 23).
Có thể nói nguyên tắc nhân đạo là một trong những nguyên tắc đợc thể
hiện rõ nét nhất trong Quy chế Rome. Ngay ở lời nói đầu của Quy chế đã quy
định "Nhận thấy rằng trong thế kỷ này, hàng triệu trẻ em, phụ nữ, nam giới đã
9


trở thành nạn nhân của những hành động tàn ác cha từng thấy, gây chấn động lơng tri nhân loại", và "Khẳng định rằng các tội ác nghiêm trọng nhất gây nên sự
lo ngại của toàn thể cộng đồng quốc tế phải bị trừng trị". Nguyên tắc này tiếp tục
đợc biểu hiện ở các điều khoản tiếp theo của Quy chế nh việc áp dụng và giải
thích luật phải phù hợp với các quyền con ngời (khoản 3 Điều 21); Trong trờng
hợp tội phạm đợc hiểu theo hai nghĩa thì phải giải thích theo hớng có lợi cho ngời đang bị điều tra, xét xử hoặc đã bị coi là có lỗi đối với tội phạm ấy (khoản 3
Điều 22); Không phải chịu trách nhiệm hình sự theo Quy chế Rome về những
hành vi đợc thực hiện trớc khi Quy chế này có hiệu lực (khoản 1 Điều 24); Nếu
có sự thay đổi trong điều luật áp dụng đối với vụ án cụ thể thì phải áp dụng điều

luật nào có lợi hơn cho ngời ấy (khoản 2 Điều 24); Không truy tố hình sự đối với
ngời cha thành niên phạm tội ( Điều 26)
Một trong những nguyên tắc cơ bản khác của Luật hình sự cũng đợc quy
định trong Quy chế Rome đó là nguyên tắc bình đẳng trớc pháp luật. Nguyên tắc
này đợc thể hiện ở Điều 21 "Việc giải thích và áp dụng luật phải phù hợp với các
quyền con ngời đã đợc quốc tế thừa nhận, không đợc mang tính phân biệt đối xử
về giới tính, độ tuổi, chủng tộc, màu da, ngôn ngữ, tôn giáo, hoặc tín ngỡng",
và Điều 27 theo đó, Quy chế này đợc áp dụng bình đẳng với mọi ngời không có
bất kỳ sự phân biệt nào dựa trên thân phận chính thức.
Đối với tội xâm hại hoà bình và an ninh quốc tế có một nguyên tắc rất đặc
trng đó là nguyên tắc không áp dụng thời hiệu. Đây đợc coi là một luận điểm
tiến bộ nhằm buộc cá nhân đã thực hiện hành vi tội ác phải chịu trách nhiệm
hình sự.
Ngoài ra, Quy chế còn quy định một số nguyên tắc khác, nh không xét xử
hai lần đối với một tội, nguyên tắc chịu trách nhiệm cá nhân, nguyên tắc trách
nhiệm do lỗi.
Thứ hai, về tội phạm, Quy chế Rome đợc đánh giá là Văn bản pháp lý quy
định khá rõ ràng, cụ thể những khái niệm và hành vi cấu thành tội phạm thuộc
quyền tài phán của Tòa án (tội phạm chiến tranh, tội diệt chủng, tội ác chống
nhân loại). Quy chế không chỉ là sự pháp điển hoá từ các Công ớc trớc đó mà
còn có sự mở rộng với nhiều luận điểm mới, tiến bộ (điều này sẽ đợc làm rõ hơn
ở Chơng 2 phần phân loại tội phạm).
Thứ ba, về các căn cứ loại trừ trách nhiệm hình sự, Quy chế Rome quy
định thành hai nhóm căn cứ chính
Nhóm 1: Loại trừ tính chất tội phạm của hành vi bao gồm các quy định tại
khoản 1 Điều 31, có thể đợc gọi một cách ngắn gọn là tình trạng mất năng lực
hành vi hình sự (do bị bệnh hoặc đang trong tình trạng say), phòng vệ chính
đáng và tình thế cấp thiết. Nh vậy khi hành vi tội phạm đợc thực hiện mà chủ thể
10



đang trong tình trạng mất năng lực hành vi hình sự hoặc hành vi đó không bị luật
hình sự cấm, thì hành vi đó không cấu thành tội phạm và do đó không thể chịu
trách nhiệm hình sự.
Nhóm 2: Loại trừ lỗi của chủ thể khi thực hiện hành vi. Nhóm này bao
gồm những trờng hợp do sai lầm về sự việc hoặc sai lầm về pháp luật (Điều 32),
tội phạm đợc thực hiện theo mệnh lệnh (Điều 33). Điều này có nghĩa là khi chủ
thể thực hiện hành vi không có lỗi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Thứ t, về hình phạt và quyết định hình phạt, Quy chế Rome không quy
định hình phạt tử hình mà hình phạt cao nhất là tù chung thân. Đây có thể nói là
một quan điểm nhân đạo, tiến bộ phù hợp với xu thế hiện nay đó là các nớc dần
bãi bỏ hình phạt tử hình. Bên cạnh hình phạt tù, Tòa án có thể áp dụng hình phạt
bổ sung nh phạt tiền hoặc tịch thu tài sản.
Việc quyết định hình phạt theo Quy chế Rome có các đặc điểm cơ bản:
Khi quyết định các hình phạt Tòa án phải căn cứ vào các quy định của Quy chế
và Các quy tắc về thủ tục và chứng cứ; Đối với hình phạt tù có thời hạn, Tòa án
phải tính cả thời gian tạm giam để trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù; Nếu
ngời bị kết án phạm nhiều tội, thì Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và
hình phạt chung, nhng thời hạn của hình phạt chung không đợc ít hơn thời hạn
của hình phạt riêng nghiêm khắc nhất và không đợc vợt quá 30 năm hoặc tù
chung thân.
Nh vậy, sự ra đời của Quy chế Rome đã góp phần xây dựng và phát triển
những lý luận trong Khoa học Luật hình sự quốc tế. Từ đây có thể khẳng định
một lần nữa rằng Luật hình sự quốc tế là một ngành luật độc lập trong hệ thống
pháp luật quốc tế, có đối tợng điều chỉnh và phơng pháp điều chỉnh riêng. Quy
chế Rome cũng sẽ góp phần bổ sung và làm phong phú kho tàng lí luận của
Khoa học Luật hình sự quốc gia.
3. Tình hình gia nhập Quy chế Rome hiện nay
Tính đến đầu năm 2007, đã có 104 quốc gia phê chuẩn và gia nhập Quy
chế Rome, 39 quốc gia đã ký nhng cha phê chuẩn. Trong đó có 27 nớc Châu Phi,

20 nớc Mĩ Latinh và Caribe, 12 nớc Châu á, 15 nớc Đông Âu, còn lại là các nớc
Tây Âu và những nớc khác. Campuchia là nớc Đông Nam á duy nhất tham gia
vào Quy chế.
Nhật Bản một trong những nớc lớn đã dành một lợng đáng kể trong dự
thảo ngân sách năm 2007 của mình để đóng góp với t cách là quốc gia thành
viên trong tơng lai của Toà án hình sự quốc tế [13]. Đây là một động thái quan
trọng thể hiện ý định gia nhập Quy chế Rome của nớc này.
Xem thêm Phụ lục để biết rõ hơn danh sách những quốc gia đã ký kết
hoặc phê chuẩn, gia nhập Quy chế Rome 1998.
11


Chơng II
Các vấn đề pháp lý cơ bản của Toà án hình sự quốc tế
theo Quy chế Rome 1998
1. Khái niệm tội phạm quốc tế
1.1. Định nghĩa
Theo Uỷ ban luật quốc tế, Tội phạm quốc tế đợc xác định là các hành
động chống lại luật pháp quốc tế, phát sinh do hành vi vi phạm nghĩa vụ của
quốc gia, xâm hại nghiêm trọng đến hoà bình và an ninh quốc tế [2]. Theo khoản
1 Điều 5 Quy chế Rome, Tòa án hình sự quốc tế có quyền tài phán đối với các
tội phạm nghiêm trọng nhất gây lo ngại cho toàn thể cộng đồng quốc tế (tức tội
phạm quốc tế).Tội phạm quốc tế bao gồm tội ác chiến tranh, tội chống lại nhân
loại, tội diệt chủng và tội xâm lợc.
Trong Khoa học Luật hình sự quốc tế cần phân biệt tội phạm quốc tế (hay
còn gọi là tội ác quốc tế) với tội phạm có tính chất quốc tế (hay còn gọi là tội
phạm điều ớc). Hai loại tội phạm này khác nhau ở một số điểm sau:
Thứ nhất, nếu nh tội phạm quốc tế trực tiếp xâm hại luật pháp quốc tế thì
tội phạm có tính chất quốc tế lại trực tiếp xâm hại đến trật tự pháp luật quốc gia
từ đó gián tiếp xâm hại đến quyền lợi của cộng đồng quốc tế. Thuộc nhóm tội

phạm có tính chất quốc tế bao gồm các tội phạm, nh khủng bố, cớp biển, làm
tiền giả, buôn bán ma tuý, buôn bán nô lệ, phụ nữ, trẻ em,
Thứ hai, tội phạm quốc tế phát sinh do hành vi vi phạm nghĩa vụ của quốc
gia, còn tội phạm có tính chất quốc tế không có mối liên hệ cụ thể với hành vi tội
phạm của quốc gia nhng nó cũng là mối nguy hiểm đối với trật tự pháp luật quốc
tế và quốc gia;
12


Thứ ba, khác với tội phạm có tính chất quốc tế, đối với tội phạm quốc tế
ngoài trách nhiệm hình sự quốc tế của cá nhân thì quốc gia còn phải chịu trách
nhiệm pháp lý quốc tế;
Thứ t, xét về mức độ nguy hiểm thì nhóm tội phạm có tính chất quốc tế
không nguy hiểm nh nhóm tội phạm quốc tế.
Trong thực tế hiện nay, tình hình tội phạm diễn biến rất phức tạp do tính
chất của hành vi phạm tội và hậu quả của tội phạm mà ngày càng có sự xích lại
gần nhau giữa khái niệm tội phạm quốc tế và tội phạm có tính chất quốc tế
[11,74].
1.2. Phân loại tội phạm quốc tế
Tội phạm quốc tế theo quy định tại Điều 5 của Quy chế Rome bao gồm
tội diệt chủng, tội chống nhân loại, tội phạm chiến tranh và tội xâm lợc. Hầu hết
các hành vi cấu thành tội phạm trên đều đã đợc đề cập trong một số Điều ớc
quốc tế quan trọng, nh Công ớc về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng 1948; 4
Công ớc Giơnevơ về bảo hộ nạn nhân chiến tranh năm 1949; Quy chế của một số
tòa án (Tòa án Nuremberg, Tòa án Tokyo, Tòa án Nam T, Tòa án Ruanda);.Vì
vậy, có thể nói rằng Quy chế Rome là sự tổng hợp và mở rộng từ các điều ớc nêu
trên.
1.2.1. Tội diệt chủng
Tội diệt chủng đã xuất hiện từ lâu trên thế giới. Loài ngời chúng ta đã
chứng kiến nhiều vụ diệt chủng điển hình trong suốt chiều dài lịch sử. Từ thế kỷ

XV ở Mĩ với việc thực dân da trắng tiêu diệt các bộ lạc thổ dân da đỏ; Thế kỷ
XVII-XIX thực dân Anh thảm sát các dân tộc bản địa ở Ai-len, Scôt-len, xứ Uên,
xứ Tasmania; Cho đến trớc và trong chiến tranh thế giới thứ II là vụ thảm sát
khủng khiếp nhất do phát xít Đức gây ra làm cho hơn 6 triệu ngời Do Thái thiệt
mạng;.Ngày nay, hành vi diệt chủng vẫn còn tiếp diễn ở một số nớc.
Khái niệm tội diệt chủng "đợc đề cập lần đầu tiên trong cuốn Sự thống trị
phát xít ở các vùng lãnh thổ châu Âu bị chiếm đóng của ông Rafael Lanpkin
xuất bản năm 1944" [4]. Tuy nhiên, khái niệm này chỉ đợc làm rõ tại Điều 2 và
Điều 3 Công ớc về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng 1948. Chúng ta có thể
dễ dàng nhận thấy rằng Quy chế Rome quy định về tội diệt chủng gần nh không
có gì khác so với Công ớc trên. Về mặt định nghĩa cả Quy chế Rome và Công ớc
về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng 1948 đều dựa trên 3 yếu tố chính:
Một là, thực hiện một trong các hành vi sau:
+ Giết các thành viên của nhóm;
+ Gây tôn hại nghiêm trọng về thể xác hoặc tinh thần cho các thành
viên của nhóm;
13


+ Cố ý áp đặt các điều kiện sống nhằm huỷ diệt về mặt thể chất toàn
bộ hoặc một bộ phận của nhóm;
+ áp đặt các biện pháp nhằm triệt sản trong nhóm;
+ Cỡng ép chuyển trẻ em của nhóm này sang nhóm khác.
Hai là, đối tợng hớng tới cuả tội phạm là một nhóm dân tộc, sắc tộc,
chủng tộc hoặc tôn giáo;
Ba là, có ý định tiêu diệt toàn bộ hay một bộ phận nhóm ngời đó.
Theo Điều 3 của Công ớc ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng, hành vi
diệt chủng có thể thực hiện dới nhiều vai trò diệt chủng, cố gắng phạm tội diệt
chủng, đồng phạm tội diệt chủng. Còn tại điểm b khoản 3 Điều 25 Quy chế
Rome cũng quy định "Ra lệnh, dụ dỗ hoặc xúi giục thực hiện tội phạm mà thực

tế đã xảy ra hoặc cha đạt". Nh vậy, bất kỳ ngời nào dù ở vai trò là ngời thực hiện
hành vi hay là ngời lập kế hoạch, ra lệnh thực hiện hành vi đó,đều có thể bị đa
ra xét xử. Ngoài ra cần lu ý yếu tố hành động theo mệnh lệnh của cấp trên không
phải là căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự ( Điều 33).
Một câu hỏi đặt ra là làm thế nào để phân biệt giữa tội diệt chủng với tội
ác chiến tranh và tội chống nhân loại? Đối với tội diệt chủng thì ý định phạm tội
mang tính chất quyết định. Ngời phạm tội phải thể hiện rõ là đã thực hiện một
hoặc nhiều hành vi nói trên với ý định huỷ diệt toàn bộ hoặc một phần nhóm dân
tộc, chủng tộc, sắc tộc hoặc tôn giáo. Nếu thiếu mục đích phạm tội này thì trong
hoàn cảnh tơng tự, hành vi phạm tội có thể cấu thành tội chống nhân loại hoặc
tội phạm chiến tranh.
1.2.2. Tội chống nhân loại
Khái niệm tội chống nhân loại đợc chính thức đề cập lần đầu tiên là tại
Điều 6 Hiến chơng Tòa án Nuremberg. Theo đó, kẻ phạm tội này tiến hành
những hành vi nh giết ngời, diệt chủng, bắt làm nô lệ, trục xuất và có những
hành động vô nhân đạo khác nhằm chống lại thờng dân hoặc tiến hành các vụ xử
tử vì lý do chính trị, chủng tộc hay tôn giáo. Sau Hiến chơng của Tòa án
Nuremberg, Đại hội đồng Liên hợp quốc ra một số Nghị quyết nh Nghị quyết số
3(I) ngày 13/01/1946 và Nghị quyết số 95(I) ngày 11/12/1946 mở rộng hơn khái
niệm tội chông nhân loại, bổ sung thêm những hành vi vô nhân đạo theo chính
sách A-pac-thai. Ngoài ra khái niệm về tội chống nhân loại còn đợc ghi nhận
trong Quy chế Tòa adhoc Nam T và Ruanda cũng nh nhiều Điều ớc quốc tế
khác.
Theo Quy chế Rome thì tội chống nhân loại đợc quy định tại Điều 7 bao
gồm các dấu hiệu sau:
Một là, thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 7;
Hai là, tấn công trên phạm vi rộng hoặc có hệ thống;
14



Ba là, đối tợng hớng đến của tội phạm là dân thờng;
Bốn là, tội chống nhân loại có thể thực hiện trong thời bình và thời chiến.
Nh vậy, so với khái niệm về tội chống nhân loại trớc kia thì Quy chế
Rome đã có sự mở rộng theo hai hớng. Số lợng tội ác ngày càng tăng, nhiều
hành vi mới đợc bổ sung bên cạnh những hành vi truyền thống nh phân biệt
chủng tộc, bạo lực tình dục có tính chất nghiêm trọng, làm mất tích,. Bối cảnh
của tội ác đã có sự thay đổi từ bối cảnh của các Hiệp ớc trớc kia là chiến tranh
nay tội ác này diễn ra kể cả trong thời bình.
Chúng ta cần phân biệt giữa tội phạm chiến tranh và tội chống nhân loại.
Hai loại tội phạm này có những điểm khác nhau. Cụ thể là nếu tội ác chiến tranh
chủ yếu đợc thực hiện bởi các thành viên trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia lực lợng vũ trang, thì tội chống nhân loại có thể đợc thực hiện bởi các đối tợng dân sự
hoặc quân sự. Nạn nhân của tội ác chiến tranh là dân thờng và các binh lính, còn
nạn nhân của tội chống nhân loại chủ yếu là dân thờng. Trong khi tội phạm chiến
tranh chỉ thực hiện trong thời chiến, thì tội chống nhân loại thực hiện cả trong
thời chiến lẫn thời bình. Có thể nói tội chống nhân loại có phạm vi tác động rộng
và gây hậu quả lớn hơn tội phạm chiến tranh vì tội phạm chiến tranh có thể đợc
thực hiện một cách biệt lập, trong khi tội chống nhân loại đòi hỏi tính quy mô
lớn và có hệ thống.
1.2.3. Tội phạm chiến tranh
Nh chúng ta đã biết, tội phạm chiến tranh là loại tội phạm xuất hiện từ rất
sớm. Hàng loạt các cuộc chiến tranh đã và đang diễn ra từ thời kỳ cổ đại cho đến
nay giữa các nớc trên thế giới. "Văn bản pháp luật đầu tiên đợc cho là quy định
trừng trị loại tội phạm này là đạo luật Leiber do Tổng thống Mĩ A. Lincoln ký
ban hành năm 1863 trong thời gian diễn ra cuộc nội chiến Nam - Bắc Mĩ" [4].
Không chỉ có vậy, loại tội phạm này còn đợc ghi nhận ở Công ớc LaHay IV năm
1907 về các Luật và tập quán trong chiến tranh; Quy chế Tòa án Nuremberg năm
1945 và Công ớc Giơnevơ về bảo hộ nạn nhân chiến tranh năm 1949.
Điều 8 Quy chế Rome đã định nghĩa tội phạm chiến tranh gồm bốn nhóm
chính.
Nhóm 1: Những hành vi vi phạm nghiêm trọng các Công ớc Giơnevơ 1949

áp dụng cho các cuộc xung đột vũ trang mang tính quốc tế với điều kiện đợc
thực hiện nh một phần trong một kế hoạch hoặc chính sách hoặc nh một phần
của tội phạm này đợc thực hiện trên quy mô lớn (điểm a khoản 2 Điều 8).
Nhóm 2: Những hành vi khác vi phạm nghiêm trọng luật pháp và tập quán
đợc áp dụng trong xung đột vũ trang có tính chất quốc tế (điểm b khoản 2 Điều
8). ở nhóm này, các hành vi chủ yếu bắt nguồn từ Công ớc La Hay 1907; Nghị
định th bổ sung I các Công ớc Giơnevơ năm 1977. Tuy nhiên, Quy chế Rome
15


cũng quy định một số điểm mới đó là thừa nhận các hành vi vi phạm về giới tính,
tình dục, cỡng bức nhập ngũ, tuyển mộ trẻ em dới 15 tuổi vào quân ngũ và tấn
công nhân viên làm công tác nhân đạo là tội ác chiến tranh.
Nhóm 3: Những hành vi vi phạm nghiêm trọng Điều 3 chung của các
Công ớc Giơnevơ ngày 12/8/1949 trong trờng hợp xung đột vũ trang không
mang tính chất quốc tế, cụ thể là bất kỳ hành vi nào đợc thực hiện nhằm vào
những ngời không tham gia tích cực vào chiến sự, kể cả các binh sĩ đã hạ vũ khí
và những ngời đã bị loại khỏi vòng chiến đấu do bị ốm, bị thơng, bị giam giữ hay
vì bất kỳ lý do nào khác (điểm c khoản 2 Điều 8).
Nhóm 4: Những hành vi khác vi phạm nghiêm trọng luật và tập quán áp
dụng trong xung đột vũ trang không mang tính quốc tế, trong khuôn khổ pháp
luật quốc tế (điểm e khoản 2 Điều 8). Cần lu ý một điểm là những tội phạm này
chỉ có thể xảy ra khi có xung đột vũ trang diễn ra trên lãnh thổ của một quốc gia
giữa quân đội của quốc gia đó với các nhóm vũ trang có tổ chức hoặc giữa các
nhóm này với nhau (điểm f khoản 2 Điều 8).
Tìm hiểu Điều 8 Quy chế Rome chúng ta có thể rút ra một số nhận xét
sau:
Một là, việc quy định về tội phạm chiến tranh trong các cuộc vũ trang
không mang tính quốc tế đã gây ra nhiều tranh cãi. Một số quốc gia cho rằng
đây là công việc nội bộ của quốc gia, do đó xác định phạm vi thẩm quyền của

ICC trong trờng hợp này sẽ là can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia đó.
Tuy nhiên, khoản 3 Điều 8 của Quy chế một lần nữa khẳng định sự tôn trọng chủ
quyền quốc gia "Không một quy định nào ảnh hởng đến trách nhiệm của một
Chính phủ trong việc duy trì hoặc tái thiết pháp luật và trật tự trong nớc hoặc
trong việc bảo vệ sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia bằng mọi biện
pháp hợp pháp".
Hai là, điểm d, f khoản 2 Điều 8 đã giới hạn phạm vi quyền tài phán của
ICC đối với các hành vi áp dụng cho xung đột vũ trang không mang tính chất
quốc tế. Các quy định này không coi tình trạng lộn xộn và căng thẳng nội bộ,
nh các cuộc bạo động, các hành vi bạo lực đơn lẻ và rời rạc và một số hành vi
khác là xung đột vũ trang không mang tính quốc tế.
1.2.4. Tội xâm lợc
Trớc Quy chế Rome, Tòa án Nuremberg đã lên án chiến tranh xâm lợc,
coi hành động gây chiến tranh xâm lợc không chỉ là tội phạm quốc tế, mà còn là
tội phạm quốc tế nghiêm trọng nhất. Năm 1974, Đại hội đồng Liên hợp quốc
thông qua định nghĩa xâm lợc, theo đó xâm lợc về bản chất là hành động của
một quốc gia chống lại một quốc gia khác. Uỷ ban pháp luật quốc tế của Liên
hợp quốc đã xác định việc cá nhân cũng có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về
16


hành vi xâm lợc và chỉ những ngời ở vị trí lãnh đạo ra lệnh hoặc tham gia tích
cực vào các hoạt động trên mới có thể phải chịu trách nhiệm hình sự. Nh vậy, rõ
ràng định nghĩa của Uỷ ban tập trung chủ yếu vào trách nhiệm cá nhân hơn là
quy tắc của luật quốc tế trong việc ngăn cấm các cuộc xâm lợc do quốc gia tiến
hành.
Mặc dù tội xâm lợc đã đợc đa vào danh mục các tội phạm thuộc thẩm
quyền của ICC, song do các thành viên cha thống nhất đợc khái niệm về tội này
nên Quy chế Rome tạm thời cha có hiệu lực điều chỉnh cho đến khi có sự thoả
thuận, bổ sung của quốc gia thành viên.

2. Quy chế Rome về các thiết chế của ICC
2.1. Nguyên tắc chung
Theo khoản 1 Điều 4 Quy chế Rome "Tòa án có địa vị pháp nhân quốc tế.
Tòa án có năng lực pháp lý cần thiết cho việc thực hiện chức năng và hoàn thành
mục tiêu của mình". Nh vậy, Tòa án là tổ chức quốc tế độc lập, đợc thành lập
trên cơ sở Điều ớc quốc tế ký kết giữa các quốc gia. Tuy nhiên, Tòa án vẫn có
những mối liên hệ chặt chẽ với Liên hợp quốc. Có thể nói, "ý tởng về việc thành
lập một Toà án hình sự quốc tế đã xuất hiện từ rất sớm, thậm chí trớc khi Liên
hợp quốc ra đời. Song ý tởng này lại chỉ đợc tiếp tục nuôi dỡng và thực hiện bởi
Liên hợp quốc" [8]. Trở lại lịch sử ra đời của ICC, ta có thể nhận thấy, vai trò
quan trọng của Uỷ ban pháp luật quốc tế (thuộc Liên hợp quốc) trong việc cho ra
bản dự thảo Quy chế Rome. Điều này phần nào nói lên tác động tích cực của
Liên hợp quốc đối với sự ra đời của ICC.
Tại Điều 2 Quy chế Rome quy định "Tòa án quan hệ với Liên hợp quốc
trên cơ sở một thoả thuận đợc Hội đồng các Quốc gia thành viên của Quy chế
này thông qua và do Chánh án Tòa án đại diện cho Tòa án ký". Trên thực tế, thoả
thuận này đã đợc ký kết vào ngày 4/10/2004 (Theo công báo của Tòa án hình sự
quốc tế, tài liệu ICC- ASP 13/Res.1, annexe). Biểu hiện của mối quan hệ giữa
ICC và Liên hợp quốc thông qua việc hai tổ chức này luôn có quan hệ hỗ trợ và
hợp tác với nhau trong quá trình hoạt động. Về phía Liên hợp quốc, tổ chức này
cam kết sẽ cung cấp những thông tin, tài liệu cần thiết theo yêu cầu của Tòa án,
và để các nhân viên của mình ra làm chứng trớc Tòa. Còn Tòa án, Tòa án có thể
thông báo đến Hội đồng Bảo an những trờng hợp các quốc gia bất hợp tác với
Tòa theo quy định tại điểm b khoản 5 và khoản 7 Điều 87.
Song song với mối quan hệ chung đó, ICC còn có mối quan hệ với một số
cơ quan chính của Liên hợp quốc, đặc biệt là với Hội đồng Bảo an. Vai trò của
Hội đồng Bảo an đối với Tòa án thể hiện:
Hội đồng Bảo an có quyền thông báo và yêu cầu Trởng Công tố điều tra
một vụ việc theo quy định tại Chơng VII Hiến chơng Liên hợp quốc (điểm b
17



Điều 13). Trong thoả thuận đợc ký kết giữa Tòa án với Liên hợp quốc, tại khoản
1 Điều 17 quy định: Trong trờng hợp này, Tổng th ký Liên hợp quốc sẽ là ngời
trung gian chuyển quyết định bằng văn bản và các tài liệu đi kèm của Hội đồng
Bảo an cho Tòa án, và là ngời đợc Tòa án thông báo tiến trình giải quyết vụ việc
tuân theo Quy chế Tòa án và Quy tắc về thủ tục và chứng cứ của Tòa án. Nh vậy,
sự can thiệp của Hội đồng Bảo an trong trờng hợp này có thể giúp Tòa án mở
rộng thẩm quyền của mình. Cụ thể là, nguyên tắc về xác định thẩm quyền theo
lãnh thổ sẽ không đợc đặt ra. Mặc dù đây là một quy định nhằm tránh bỏ lọt tội
phạm, song thủ tục này rất khó có khả năng thực hiện do việc thực hiện quyền
phủ quyết (vecto) của các thành viên thờng trực.
Hội đồng Bảo an còn có quyền hoãn hoạt động điều tra, truy tố của Tòa
án. Theo Điều 16 Quy chế Rome, Hội đồng Bảo an có thể thông qua một nghị
quyết theo Chơng VII Hiến chơng Liên hợp quốc, yêu cầu Tòa án hoãn việc điều
tra hoặc truy tố. Quy định này đã gây ra nhiều tranh luận. Một số quốc gia cho
rằng điều này đã tạo cho Hội đồng Bảo an quyền can thiệp quá lớn vào hoạt
động của Tòa án, trái với tinh thần xây dựng một thiết chế xét xử quốc tế độc
lập. Nhng nếu nhìn nhận một cách khách quan hơn về bối cảnh và điều kiện để
Hội đồng Bảo an có quyền hành động theo quy định tại Điều 16 là khi nền hoà
bình bị đe doạ, bị phá hoại hoặc có hành vi xâm lợc, thì rõ ràng điều 16 không
tạo ra một thẩm quyền mới cho Hội đồng Bảo an.
Một trong những vai trò rất lớn của Hội đồng Bảo an đó là việc định nghĩa
tội xâm lợc. Khoản 2 Điều 5 Quy chế Rome quy định: " Tòa án sẽ thực hiện
quyền tài phán đối với tội xâm lợc và các điều kiện để Tòa án thực hiện quyền
tài phán đối với tội này đợc thông qua theo các Điều 121 và Điều 123. Quy định
này phải phù hợp với các quy định liên quan của Hiến chơng Liên hợp quốc".
Điều 121 và 123 quy định về thủ tục sửa đổi Quy chế Rome sau thời hạn 7 năm
kể từ ngày Quy chế này có hiệu lực. Nh vậy, để ICC có thể thực hiện đợc thẩm
quyền tài phán của mình đối với tội xâm lợc thì các quốc gia thành viên phải xây

dựng đợc định nghĩa tội xâm lợc. Tuy nhiên, ngay cả khi đã có định nghĩa thì
ICC cũng chỉ có thể tiến hành điều tra, truy tố đối với trờng hợp cụ thể sau khi đã
có xác định trớc đó của Hội đồng Bảo an về việc tồn tại hành vi xâm lợc của
quốc gia theo quy định tại Điều 39 Hiến chơng Liên hợp quốc.
2.2. Cơ cấu tổ chức của ICC
Để hoàn thành chức năng và nhiệm vụ của một thiết chế tài phán quốc tế
độc lập, Quy chế Rome đã thiết kế các cơ quan của ICC theo đúng mô hình của
tòa án quốc tế thờng trực:
* Ban Chánh án, gồm Chánh án, Phó Chánh án thứ nhất và Phó Chánh án
thứ hai do 18 Thẩm phán bầu ra với đa số tuyệt đối. Các Chánh án, Phó Chánh
18


án có nhiệm kỳ 3 năm hoặc cho đến khi kết thúc nhiệm kỳ Thẩm phán của mình
trong trờng hợp nhiệm kỳ này kết thúc sớm hơn. Họ có quyền đợc tái ứng cử một
lần theo quy định tại khoản 1 Điều 38. Ban Chánh án có nhiệm vụ điều hành Tòa
án trừ Văn phòng Công tố. Tuy nhiên, Ban Chánh án sẽ phối hợp với Văn phòng
Công tố về những vấn đề mà cả hai cùng quan tâm.
* Các hội đồng, ngay sau khi kết thúc bầu chọn Thẩm phán, Tòa án sẽ tổ
chức thành các bộ phận phúc thẩm, sơ thẩm và dự thẩm.
Bộ phận phúc thẩm gồm Chánh án và 4 Thẩm phán. Các Thẩm phán đợc
chỉ định vào bộ phận phúc thẩm sẽ làm việc tại bộ phận này trong suốt nhiệm kỳ
của mình. Bộ phận sơ thẩm gồm Phó Chánh án thứ hai và 5 Thẩm phán khác.
Các Thẩm phán đợc chỉ định vào Bộ phận sơ thẩm sẽ làm việc tại bộ phận này
trong thời hạn 3 năm, và sau đó cho đến khi kết thúc các vụ việc đang đợc bộ
phận này giải quyết. Bộ phận dự thẩm gồm có Phó Chánh án thứ nhất và 6 Thẩm
phán khác. Các Thẩm phán đợc chỉ định vào Bộ phận dự thẩm sẽ làm việc tại bộ
phận này trong thời hạn 3 năm, và sau đó cho đến khi kết thúc các vụ việc đang
đợc bộ phận này giải quyết. Việc chỉ định các Thẩm phán vào các bộ phận căn
cứ vào tính chất, chức năng của mỗi bộ phận và trình độ chuyên môn, kinh

nghiệm của Thẩm phán đợc bầu chọn vào Tòa án, sao cho mỗi bộ phận đều có sự
kết hợp thích đáng về mặt chuyên môn trong Luật hình sự, Luật Tố tụng hình sự
và trong Luật quốc tế. Bộ phận sơ thẩm và dự thẩm sẽ gồm nhiều Thẩm phán có
kinh nghiệm xét xử hình sự hơn.
Các chức năng t pháp của Tòa án sẽ do hội đồng trong từng bộ phận thực
hiện. Hội đồng dự thẩm, với chức năng chính là cho phép hoặc không cho phép
mở cuộc điều tra và quyết định sơ bộ trong việc xác định vụ việc có thuộc thẩm
quyền tài phán của ICC hay không. Ngoài ra, tại khoản 3 Điều 57 còn quy định
một số chức năng khác của Hội đồng dự thẩm nh: Ra lệnh hoặc trát cần thiết cho
việc điều tra; Tiến hành bảo vệ và bảo đảm bí mật cho ngời bị hại; Cho phép Trởng Công tố tiến hành các bớc điều tra cụ thể trên lãnh thổ của một quốc gia
thành viên;.. Các chức năng của Hội đồng dự thẩm do ba hoặc một Thẩm phán
của Bộ phận dự thẩm thực hiện. Hội đồng sơ thẩm có chức năng chính là xét xử
với hội đồng gồm ba Thẩm phán. Hội đồng phúc thẩm gồm tất cả các Thẩm phán
của bộ phận phúc thẩm với chức năng chính là xem xét lại quyết định, phán
quyết, bản án của Tòa án.
* Văn phòng Công tố, hoạt động độc lập nh một cơ quan riêng biệt của
Tòa án. Văn phòng Công tố chịu trách nhiệm nhận những thông báo và thông tin
quan trọng về tội phạm thuộc thẩm quyền tài phán của Tòa án; Kiểm tra những
thông tin này và tiến hành điều tra, truy tố trớc Tòa án. Văn phòng Công tố đặt
dới sự lãnh đạo của Trởng Công tố. Trởng Công tố có toàn quyền quản lý và điều
19


hành văn phòng, kể cả nhân sự, thiết bị và các nguồn lực khác của văn phòng.
Giúp việc cho Trởng Công tố là một hoặc một số Phó Công tố và các cố vấn có
kinh nghiệm pháp luật.
Trởng Công tố và Phó Công tố là những ngời có phẩm chất đạo đức tốt, có
năng lực cao và có kinh nghiệm thực tiễn sâu rộng trong lĩnh vực truy tố, xét xử
các loại vụ án hình sự. Họ phải thành thạo một trong ít nhất một ngoại ngữ làm
việc của Tòa án. Trởng Công tố do Hội đồng Quốc gia thành viên bầu theo đa số

tuyệt đối. Phó Công tố đợc bầu theo thể thức tơng tự từ danh sách ứng cử viên do
Trởng Công tố đề xuất. Trởng Công tố và Phó Công tố làm việc với nhiệm kỳ 9
năm và không đợc tái ứng cử, trừ khi nhiệm kỳ đợc bầu trớc đó ngắn hơn. Trởng
Công tố và Phó Công tố phải có quốc tịch khác nhau. Họ không đợc tham gia bất
kỳ hoạt động nào mà chắc chắn có thể ảnh hởng đến chức năng công tố hoặc sự
độc lập của họ. Họ cũng không đợc tham gia vào bất kỳ công việc nào có tính
chất nghề nghiệp ( khoản 5 Điều 42). Ngoài ra, Trởng Công tố cũng nh Phó
Công tố không đợc tham gia vào bất kỳ vụ kiện nào khi có căn cứ nghi ngờ về sự
không vô t của họ (khoản 7 Điều 42). Mọi vấn đề liên quan đến việc tuyên bố
không đủ t cách đối với Trởng Công tố và Phó Công tố sẽ do Hội đồng Quốc gia
thành viên quyết định (khoản 8 Điều 42).
* Văn phòng Lục sự chịu trách nhiệm về các lĩnh vực hành chính và dịch
vụ, không mang tính chất t pháp của Tòa án. Đứng đầu Văn phòng Lục sự là
Chánh Lục sự, đợc các Thẩm phán bầu bằng bỏ phiếu kín với đa số tuyệt đối trên
cơ sở khuyến nghị của Hội đồng Quốc gia thành viên. Các Thẩm phán có thể bầu
một Phó Lục sự theo thể thức tơng tự dới sự giới thiệu của Chánh Lục sự nếu
thấy cần thiết. Chánh Lục sự và Phó Lục sự phải là ngời có đạo đức tốt, năng lực
cao, có kiến thức xuất sắc và thông thạo ít nhất một trong những ngôn ngữ làm
việc của Toà án. Chánh Lục sự làm việc với nhiệm kỳ 5 năm và đợc quyền tái
ứng cử một nhiệm kỳ. Phó Lục sự làm việc với nhiệm kỳ 5 năm hoặc ít hơn theo
quyết định của đa số tuyệt đối các Thẩm phán (khoản 5 Điều 43). Chánh Lục sự
thành lập phòng Nạn nhân và Nhân chứng để đa ra các biện pháp bảo vệ và bảo
đảm an ninh, t vấn và các trợ giúp thích hợp khác cho ngời làm chứng và ngời bị
hại tham gia tố tụng tại toà án và những ngời gặp nguy hiểm do lời khai của ngời
làm chứng (khoản 6 Điều 43). Mọi hoạt động tác nghiệp của phòng này đợc thực
hiện sau khi đã thống nhất với phòng công tố.
* Thẩm phán, theo khoản 1 Điều 36 Tòa án có 18 Thẩm phán do quốc gia
thành viên đề cử. Mỗi quốc gia thành viên có thể đề cử một ứng cử viên cho bất
kỳ cuộc bầu chọn nào mà ngời đó không nhất thiết phải là công dân quốc gia
mình nhng trong bất kỳ trờng hợp nào cũng phải là công dân của một quốc gia

thành viên. Tiêu chuẩn của Thẩm phán đợc quy định khá cụ thể trong Quy chế
20


Rome. Các thẩm phán đợc chọn trong số những ngời có phẩm chất đạo đức cao,
vô t và chính trực, hội đủ các điều kiện theo yêu cầu để đợc bổ nhiệm vào các
chức vụ cao nhất của ngành t pháp tại quốc gia họ. Không chỉ có vậy, mỗi ứng cử
viên để bầu chọn vào Tòa án phải:
+ Có năng lực về mặt Luật hình sự và Luật Tố tụng hình sự và kinh
nghiệm liên quan cần thiết nh là Thẩm phán, công tố viên, luật s bào chữa hoặc
các chức vụ tơng tự, trong hoạt động tố tụng hình sự;
+ Có năng lực trong những lĩnh vực liên quan của Luật pháp quốc tế, nh
Luật Nhân đạo quốc tế, Luật Nhân quyền và kinh nghiệm sâu rộng trong lĩnh
vực pháp lý chuyên môn, liên quan đến công tác xét xử của Toà án.
Việc bầu Thẩm phán phải dựa trên nguyên tắc có sự đại diện của các hệ
thống pháp luật chính trên thế giới, sự đại diện công bằng về khu vực địa lý và sự
đại diện công bằng giữa Thẩm phán nam và Thẩm phán nữ (khoản 8 Điều 36).
Không cho phép hai Thẩm phán cùng là công dân của một quốc gia. Trong trờng
hợp một ngời là công dân của nhiều quốc gia thì ngời đó sẽ đợc coi là công dân
của quốc gia mà ở đó ngời này thực hiện thờng xuyên các quyền dân sự, chính
trị. Các Thẩm phán sẽ đợc bầu bằng bỏ phiếu kín tại phiên họp của Hội đồng
Quốc gia thành viên. Thẩm phán đợc bầu là ngời đạt số phiếu cao nhất và phải
đủ 2/3 số phiếu của đại diện các nớc có mặt và bỏ phiếu.
Tại khoản 9 Điều 36 quy định về nhiệm kỳ của Thẩm phán. Theo đó, tại
lần bầu chọn đầu tiên, 1/3 số Thẩm phán trúng cử sẽ đợc lựa chọn bằng rút thăm
để làm việc với nhiệm kỳ 3 năm, 1/3 làm việc với nhiệm kỳ 6 năm, và số còn lại
sẽ làm việc với nhiệm kỳ 9 năm. Thẩm phán có nhiệm kỳ 3 năm đợc quyền tái
ứng cử một nhiệm kỳ đầy đủ. Còn Thẩm phán có nhiệm kỳ 9 năm không đợc tái
ứng cử.
Số lợng Thẩm phán có thể tăng lên theo đề nghị của Ban Chánh án và đợc

Hội đồng Quốc gia thành viên thông qua. Tuy nhiên, Ban Chánh án phải chỉ rõ lý
do tại sao việc tăng số lợng Thẩm phán là cần thiết và chính đáng. Sau khi đề
nghị tăng số lợng Thẩm phán đợc thông qua và có hiệu lực. Ban Chánh án vào
bất kỳ thời điểm nào, căn cứ vào khối lợng công việc có thể đề nghị giảm số lợng
Thẩm phán. Nếu đề nghị này đợc Hội đồng Quốc gia thành viên thông qua thì số
lợng Thẩm phán sẽ giảm dần khi nhiệm kỳ của các Thẩm phán kết thúc cho tới
khi đạt đợc số lợng cần thiết và không đợc ít hơn 18 Thẩm phán (khoản 2 Điều
36).
Các Thẩm phán độc lập trong khi thực hiện chức năng của mình. Họ
không đợc tham gia những hoạt động mà chắc chắn có thể gây ảnh hởng đến các
chức năng xét xử hoặc sự độc lập của mình. Họ phải làm việc chuyên trách tại
trụ sở và không đợc tham gia công việc khác mang tính chất nghề nghiệp. Để
21


đảm bảo tính khách quan khi xét xử, một Thẩm phán sẽ không đợc tham gia vào
các vụ kiện trong các trờng hợp: Có căn cứ hợp lý nghi ngờ sự vô t của thẩm
phán; Thẩm phán đó trớc đây đã tham gia với bất kỳ t cách nào trong vụ án đó trớc Toà hình sự quốc tế, hoặc trong một vụ án hình sự có liên quan đến vụ án nói
trên đợc giải quyết ở quốc gia liên quan đến ngời đang bị điều tra, truy tố.
* Hội đồng Quốc gia thành viên, là cơ quan giám sát và lập pháp của ICC.
Mỗi quốc gia thành viên có một đại diện tại Hội đồng kèm theo ngời dự khuyết
và ngời cố vấn. Các quốc gia khác đã ký kết Quy chế hay văn kiện cuối cùng có
thể là quan sát viên trong Hội đồng (khoản 1 Điều 112). Hội đồng sẽ thành lập
một văn phòng gồm Chủ tịch, hai Phó Chủ tịch và 18 thành viên do Hội đồng
bầu ra với nhiệm kỳ 3 năm. Văn phòng có tính chất đại diện, có tính đến sự phân
bổ công bằng về mặt địa lý và đại diện tơng xứng của các hệ thống pháp luật cơ
bản trên thế giới. Văn phòng sẽ nhóm họp thờng xuyên khi cần nhng ít nhất mỗi
năm một lần. Văn phòng có chức năng hỗ trợ cho Hội đồng thực hiện các nhiệm
vụ của mình.
Hội đồng Quốc gia thành viên họp tại trụ sở Tòa án hoặc của Liên hợp

quốc mỗi năm một lần và khi hoàn cảnh yêu cầu sẽ tổ chức các phiên họp đặc
biệt. Hội đồng có trách nhiệm quyết định rất nhiều vấn đề nh: Thông qua các
kiến nghị của Uỷ ban trù bị; Quyết định ngân sách của Tòa án; Quyết định việc
bầu cử Thẩm phán; Thay đổi số lợng Thẩm phán, Trởng Công tố và Phó Công tố.
Mỗi quốc gia thành viên có một lá phiếu. Các quyết định của Hội đồng sẽ
đợc cố gắng thông qua bằng đồng thuận trong Hội đồng và Văn phòng. Nếu
không đạt đợc sự đồng thuận, quyết định sẽ đợc thông qua bằng bỏ phiếu. Đối
với những quyết định về các vấn đề thực chất phải đợc thông qua với đa số 2/3
đại biểu có mặt biểu quyết với điều kiện đa số tuyệt đối các quốc gia thành viên
là số đại biểu cần thiết để biểu quyết. Đối với những quyết định về các vấn đề
thủ tục phải đợc thông qua bằng đa số thờng trong các quốc gia thành viên có
mặt biểu quyết.
Quốc gia thành viên cha nộp phần đóng góp tài chính cho các chi phí của
Tòa án không đợc quyền biểu quyết tại Hội đồng và Văn phòng nếu số tiền nợ
bằng hoặc vợt quá phần đóng góp của hai năm trớc đó. Tuy nhiên Hội đồng vẫn
có thể cho phép Quốc gia thành viên đó biểu quyết nếu thấy rằng việc chậm trả
tiền đóng góp là do những điều kiện nằm ngoài sự kiểm soát của Quốc gia thành
viên đó (khoản 8 Điều 112). Ngôn ngữ chính thức và ngôn ngữ làm việc của Hội
đồng là các ngôn ngữ của Đại hội đồng Liên hợp quốc.
3. Quy định về Thẩm quyền tài phán của ICC
3.1. Thẩm quyền của ICC đối với tội phạm quốc tế
3.1.1. Tính chất thẩm quyền tài phán của ICC
22


Phải khẳng định một điều rằng, ICC không phải là một Tòa án ''siêu quốc
gia", tức Tòa án cấp trên của Tòa án quốc gia để thay thế thẩm quyền tài phán
quốc gia của các nớc thành viên. ICC cũng không có chức năng nh một tòa
kháng án để xem xét lại quyết định đã tuyên của Toà quốc gia. Thực chất, thẩm
quyền của ICC mang tính chất bổ sung cho thẩm quyền tài phán quốc gia, hiểu

theo cả hai phơng diện, Luật quốc gia và Luật quốc tế. Về phơng diện Luật quốc
gia, tội phạm quốc tế đợc điều chỉnh bởi pháp luật hình sự của từng nớc, dù
truyền thống và cách quy định cụ thể của pháp luật các nớc có sự khác nhau. Với
tính chất xâm hại trực tiếp đến quyền lợi và trật tự pháp luật của từng quốc gia,
tội phạm quốc tế luôn bị trừng trị bằng Luật Hình sự của một nớc. Cụ thể, Bộ
luật hình sự năm 1999 Nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định "Bộ
luật hình sự đợc áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam" (khoản 1 Điều 5).
Nh vậy, Tòa án quốc gia có thẩm quyền trớc tiên trong việc xét xử 4 loại
tội phạm thuộc thẩm quyền của của ICC. ICC chỉ thực hiện thẩm quyền tài phán
của mình khi quốc gia đó không muốn hoặc không có khả năng tiến hành điều
tra, truy tố và xét xử một cách thực sự (khoản 1 Điều 17). Để xác định một quốc
gia không muốn điều tra, truy tố, Toà án sẽ xem xét xem có tồn tại một hoặc
nhiều yếu tố sau hay không
+ Thủ tục tố tụng đã hoặc đang đợc tiến hành hoặc quyết định của cơ quan
có thẩm quyền của quốc gia đó nhằm bao che cho cá nhân thoát khỏi trách
nhiệm hình sự;
+ Có sự trì hoãn vô lý thủ tục tố tụng nhằm tránh đa cá nhân liên quan ra
trớc công lý;
+ Thủ tục tố tụng đã hoặc đang không đợc tiến hành một cách độc lập,
công bằng hoặc đợc tiến hành nhằm tránh đa cá nhân liên quan ra trớc công lý.
Để xác định việc một quốc gia không có khả năng điều tra truy tố trong
một trờng hợp cụ thể, Tòa án sẽ xem xét có phải do hệ thống t pháp quốc gia bị
sụp đổ hoàn toàn hoặc phần lớn hay do không có hệ thống t pháp mà quốc gia đó
không thể bắt giữ đợc ngời bị buộc tội, không thể thu thập đợc chứng cứ, hoặc
không thể tiến hành tố tụng đợc.
Một trờng hợp ngoại lệ của nguyên tắc bổ sung cho thẩm quyền tài phán
hình sự quốc gia đó là trờng hợp Hội đồng Bảo an đa một vụ việc ra trớc Tòa án.
Lúc này, không còn sự phân định thẩm quyền giữa ICC và Tòa án quốc gia mà đơng nhiên ICC có thẩm quyền u thế và quốc gia phải có nghĩa vụ hợp tác.
Trên thực tế, nguyên tắc bổ sung cho thẩm quyền tài phán quốc gia có ý
nghĩa hết sức quan trọng. Có nhiều trờng hợp, quốc gia có thẩm quyền không

muốn thực hiện thẩm quyền tài phán đối với công dân nớc khác khi có hành vi
23


thuộc nhóm tội phạm quốc tế xảy ra trên lãnh thổ nớc mình, vì phải chịu sức ép
từ phía quốc gia mà công dân đó mang quốc tịch. Không chỉ có vậy, nguyên tắc
này còn nhằm tránh xảy ra tình trạng xung đột thẩm quyền giữa Tòa án quốc gia
và ICC, tránh bỏ lọt tội phạm thực hiện tốt mục tiêu bắt các cá nhân phải chịu
trách nhiệm cho các tội ác nghiêm trọng nhất mà chúng đã gây ra làm cả cộng
đồng quốc tế phải lo ngại.
Có thể nhận thấy rằng nguyên tắc bổ sung thẩm quyền tài phán quốc gia
cha từng xuất hiện trớc đó trong lịch sử pháp luật quốc tế. Chúng ta có thể xem
xét mối quan hệ giữa Tòa án quốc gia với một số Tòa án hình sự quốc tế ra đời
trớc ICC để thấy rõ hơn điều này. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, các quốc gia
thắng trận đã thiết lập hai Tòa án quân sự quốc tế ở Nuremberg và Tokyo để truy
tố những tên tội phạm sừng sỏ nhất phe Trục (Liên minh Đức, ý, Nhật). Tòa án
Nuremberg đợc thành lập ngày 8/8/1945 theo Hiệp ớc London, còn Tòa án
Tokyo đợc thành lập ngày 16/11/1946. Đây đợc coi là Tòa án của những kẻ chiến
thắng đối với kẻ chiến bại. Mối quan hệ về thẩm quyền xét xử giữa Tòa án quân
sự quốc tế với Tòa án quốc gia đợc "giải quyết theo phơng thức mặc định"[12].
Tòa án quân sự quốc tế sẽ xét xử tội phạm chiến tranh, tội chống hoà bình và
chống loài ngời (Điều 6 Quy chế Tòa án Nuremberg). Còn những tội phạm khác
sẽ thuộc thầm quyền xét xử Tòa án quốc gia hoặc Tòa án do lực lợng chiếm đóng
quản trị.
50 năm sau đó hai Tòa án hình sự quốc tế adhoc đợc Hội đồng Bảo an
thiết lập trên cơ sở của Chơng VII Hiến chơng Liên hợp quốc. Hội đồng Bảo an
đã ra Nghị quyết 827 (25/5/1993) thành lập Tòa Nam T và Nghị quyết 955
(8/11/1995) thành lập Tòa Ruanda. Hai Tòa án hình sự vụ việc này có thẩm
quyền u thế hơn Tòa án quốc gia "loại trừ thẩm quyền xét xử của Toà án quốc
gia" [12]. Tòa án có quyền yêu cầu Tòa án quốc gia chuyển vụ việc cho mình xử

lí vào bất kỳ thời điểm tố tụng nào và Tòa án quốc gia phải chấp nhận (Điều 9
Quy chế Tòa án Nam T; Điều 8 Quy chế Tòa án Ruanda).
3.1.2. Căn cứ xác định thẩm quyền tài phán của ICC
Thứ nhất, các tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của ICC. Lời nói đầu của
Quy chế Rome có viết " Nhận thấy rằng trong thế kỷ này, hành triệu trẻ em, đàn
bà, đàn ông đã trở thành nạn nhân của những hành động tàn ác cha từng thấy,
làm sửng sốt lơng tri nhân loại". Những kẻ gây tội ác đó là tội phạm chung của
loài ngời, vì vậy, nhân loại và các quốc gia yêu chuộng hoà bình, công lý phải có
trách nhiệm đấu tranh, ngăn ngừa để duy trì một thế giới hoà bình, ổn định. ICC
ra đời với chức năng của một thiết chế tài phán quốc tế độc lập nhằm trừng trị
các tội ác quốc tế nghiêm trọng nhất tội diệt chủng, tội chống nhân loại, tội
24


phạm chiến tranh và tội xâm lợc, đã thể hiện rõ nét mong muốn đó của cộng
đồng quốc tế.
Trong Quy chế Rome đối với các tội diệt chủng, chống nhân loại và tội ác
chiến tranh đã có định nghĩa và quy định cụ thể các yếu tố cấu thành tội phạm.
Điều 6 quy định 5 loại hành vi cụ thể cấu thành tội diệt chủng, Điều 7 quy định
11 loại hành vi cấu thành tội chống loài ngời cùng với sự giải thích cụ thể về mỗi
hành vi, Điều 8 quy định 50 hành vi cấu thành tội chiến tranh.
Riêng đối với tội xâm lợc, việc đa tội xâm lợc vào danh mục những tội
phạm thuộc thẩm quyền xét xử của ICC là kết quả của cuộc thảo luận, đấu tranh
căng thẳng tại Hội nghị Rome. Nhiều nớc quan điểm rằng không nên đa tội danh
này vào danh mục tội phạm thuộc quyền tài phán của ICC vì trong lịch sử pháp
luật quốc tế cha có định nghĩa rõ ràng về tội xâm lợc. Mặc dù trên thực tế tội
xâm lợc đã từng đợc định nghĩa trong Nghị quyết 3314 năm 1974 của Đại hội
đồng Liên hợp quốc, song cũng rất khó để thống nhất định nghĩa này. Hơn nữa
chỉ có Hội đồng Bảo an mới có vai trò quyết định theo nh quy định tại Điều 39
của Hiến chơng Liên hợp quốc. Một số nớc khác thì cho rằng tội xâm lợc là tội

phạm quốc tế quan trọng nên không thể không thuộc thẩm quyền của ICC. Cuối
cùng thì các nớc cũng thoả hiệp đợc với nhau nhất trí đa tội xâm lợc vào danh
mục các tội phạm thuộc thẩm quyền tài phán của ICC.
Tuy nhiên, trớc mắt ICC vẫn cha thể thực hiện đợc quyền xét xử đối với tội
phạm này cho đến khi các Quốc gia thành viên thống nhất đợc định nghĩa. Hiện
nay nhóm làm việc đặc biệt về tội xâm lợc do Hội đồng Quốc gia thành viên
thành lập đang tích cực soạn thảo định nghĩa về tội này.Theo dự kiến định nghĩa
về tội này sẽ đợc đa lên Hội đồng Quốc gia thành viên tại phiên họp đánh giá về
Quy chế Rome năm 2009.
Một câu hỏi đặt ra là liệu Toà án có mở rộng thẩm quyền tài phán của
mình đối với các tội phạm khác hay không? Ngày nay, cùng với sự phát triển của
toàn cầu hoá, các tội phạm có tính chất quốc tế ngày càng trở nên nguy hiểm với
nhiều thủ đoạn tinh vi, gây hậu quả lớn cho cộng đồng quốc tế. Ví dụ điển hình
có thể nói đến ở đây là tội phạm khủng bố và tội phạm ma tuý.
Trên thực tế, văn bản dự thảo Quy chế đệ trình tại Hội nghị cấp cao về
việc thành lập Tòa hình sự quốc tế cũng có đề cập đến nhiệm vụ xét xử các tội
phạm khủng bố và buôn bán ma tuý quốc tế của ICC và đa ra định nghĩa về các
loại tội phạm này. Hầu hết các quốc gia tham dự Hội nghị đều thừa nhận 2 loại
tội phạm trên là đặc biệt nghiêm trọng, ảnh hởng đến tình hình kinh tế, chính trị,
xã hội của nhiều nớc. Tuy nhiên, các quốc gia vẫn cha đạt đợc sự thống nhất
chung về định nghĩa các tội phạm này. Một số quốc gia cho rằng điều tra tội
phạm ma tuý vợt quá khả năng của Toà án. Giải pháp đợc đa ra là các quốc gia
25


×