Lời nói đầu
Việt Nam là một trong những quốc gia đa dân tộc, trải qua
mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước các dân tộc luôn kề vai sát
cánh gắn bó máu thịt bên nhau trong đấu tranh chống ngoại xâm,
chống thiên tai địch hoạ và xây dựng đất nước. Các dân tộc Việt
Nam là một cộng đồng thống nhất trong đa dạng, bản sắc văn hoá
từng dân tộc tạo nên sự đa dạng, phong phú cuả nền văn hiến Việt
Nam.
Vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ
bản lâu dài đồng thời là vấn đề cấp bách cuả Cách mạng nước ta
hiện nay. Công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm
vụ của toàn Đảng, toàn dân, và của cả hệ thống chính trị trong đó
công tác dân tộc giữ vai trò hết sức quan trọng. Với chức năng là cơ
quan tham mưu, nghiên cứu đề xuất chính sách xây dựng và tham
gia hoạch định hệ thống chính sách, phối hợp cùng các ngành,các
cấp, các tổ chức triển khai thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước. Cơ quan công tác dân tộc đã có những đóng góp tích cực
vào thành công của công tác dân tộc trong thời gian qua, góp phần
vào thắng lợi chung của Cách mạng Việt Nam. Uỷ ban Dân tộc là
cơ quan chịu trách nhiệm chính trong công tác dân tộc của cả nước,
có chức năng quản lý các công tác dân tộc. Vụ Pháp chế là đơn vị
thuộc Uỷ ban Dân tộc tham mưu cho Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban
thực hiện quản lý Nhà nước bằng pháp luật về lĩnh vực công tác dân
tộc. Trong nhiều năm qua Vụ đã thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ
của đơn vị mình một cách xuất sắc. Pháp luật ngày có vai trò quan
trọng trong đời sống, Đảng và Nhà nước ta lại đang xây dựng Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Nhưng để nhân dân sống
và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật không phải là đơn giản đặc
biệt đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Phổ biến và giáo dục
pháp luật là một công tác rất quan trọng không chỉ đối với đồng bào
dân tộc mà còn có ý nghĩa đối với các cán bộ làm công tác dân tộc.
Trong thời gian thực tập tại Vụ Pháp chế ở Uỷ ban Dân tộc, qua
nghiên cứu, tìm hiểu tôi thấy tầm quan trọng của công tác này nên
tôi quyết định chọn đề tài của báo cáo thực tập này là:
“Hoàn thiện cơ cấu tổ chức để hoạt động tuyên truyền
phổ biến giáo dục cho đồng bào dân tộc đạt hiệu quả cao”.
Với trình độ còn hạn chế và thời gian thực tập không nhiều, tôi
chưa đi sâu tìm hiểu kỹ nhưng những gì tôi trình bày trong bản báo
cáo là kết quả thu hoạch được trong hai tháng thực tập tại cơ quan.
Qua báo cáo tôi cũng xin đưa ra một số kiến nghị chủ quan của
mình góp phần hoàn thiện cơ cấu tổ chức để hoạt động tuyên truyền
phổ biến giáo dục cho đồng bào dân tộc đạt hiệu quả tốt nhất.
Qua đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới Lãnh đạo Uỷ ban Dân
tộc, Lãnh đạo và chuyên viên của Vụ Pháp chế đã giúp đỡ tôi rất
nhiều trong thời gian thực tập tại cơ quan. Và xin gửi lời cảm ơn sâu
sắc tới thầy giáo PGS – TS Phạm Kim Giao đã hướng dẫn tôi hoàn
thành báo cáo này.
CHƯƠNG I :
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ UỶ BAN DÂN TỘC VÀ VỤ PHÁP CHẾ
A – KHÁI QUÁT CHUNG VỀ UỶ BAN DÂN TộC.
I. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CƠ QUAN DÂN TộC QUA CÁC THỜI
KỲ.
Ngay từ khi Cách mạng tháng Tám giành được thắng lợi, giữa bộn bề
công việc của một Nhà nước mới, Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ Tịch đã đặc
biệt quan tâm tới công tác Dân tộc và Miền núi. Vì vậy, Hồ Chủ Tịch đã ký
Sắc lệnh số 58/SL thành lập Bộ Nội vụ trong Bộ Nội vụ có Nha dân tộc thiểu
số.Nha có nhiệm vụ sưu tầm tài liệu và nghiên cứu mọi vấn đề chính trị, hành
chính, văn hoá, xã hội, kinh tế, tài chính có quan hệ mật thiết với dân tộc thiểu
số;củng cố tinh thần đoàn kết và tình thân ái giữa các dân tộc và chống mọi
mưu mô chia rẽ.
Từ năm 1947-1954, phòng Quốc dân thiểu số thay thế cho Nha dân tộc
thiếu số và Nha thuộc Ban dân vận Trung ương.Nhiệm vụ của phòng Quốc
dân vẫn là kế thừa những nhiệm vụ của Nha dân tộc thiểu số
Để đáp ứng yêu cầu của Cách mạng trong giai đoạn mới từ 1955-1959,
Tiểu Ban dân tộc Trung ương được thành lập thay thế cho phòng Quốc dân.
Tổ chức bộ máy vẫn còn rất giản đơn, ngoài những nhiệm vụ kế thừa Phòng
Quốc dân, tiểu ban còn có một số nhịêm vụ khác : giúp Trung ương đề ra chủ
trương thực hiện chính sách dân tộc, trực tiếp phụ trách việc thực hiện một số
công tác đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số, tổ chức các cuộc gặp gỡ giữa các
dân tộc.
Ban Dân tộc được thành lập sau Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần
thứ III (1955-1959), nhiệm vụ vẫn là kế thừa các giai đoạn trước.
Bước ngoặt đánh dấu một sự phát triển của cơ quan là ban dân tộc được
nâng lên thành Uỷ ban Dân tộc của Chính phủ (1959-1986)-đây là cơ quan có
quyền hạn, trách nhiệm ngang một bộ trong Chính phủ. Hiến pháp Nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980 ra đời, những đòi hỏi bộ máy
Nhà nước phải hoàn thiện hơn hệ thống các quản lý, lãnh đạo sự phát triển
của đất nước. Vì vậy, ngày 16/02/1987, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Trường Chinh đã ký quyết định số
78/HĐNN, kiện toàn một bước các cơ quan thuộc Hội đồng Bộ trưởng. Trong
đó có nội dung : Giải thể Uỷ ban Dân tộc của Chính phủ, chỉ còn là Ban Dân
tộc Trung ương là cơ quan có trách nhiệm tham mưu cho Trung ương Đảng
về các vấn đề dân tộc theo Quyết định số 38-QĐ/TW của Ban Bí thư Ban
chấp hành Trung ương Đảng Cộng sảnViệt Nam
Năm 1992, Hiến pháp Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có
những thay đổi nhằm đáp ứng kịp thời những đòi hỏi mới cao hơn phù hợp
hơn với xu thế phát triển của đất nước.Ngày 20/03/1993, Thủ tướng Võ Văn
Kiệt thay mặt Chính phủ ký Nghị định số 11/CP về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Uỷ ban Dân tộc và Miền núi. Đến ngày
13/08/1998, Thủ tướng Phan Văn Khải đã ký ban hành Nghị định số 59/1998
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,và cơ cấu tổ chức của Uỷ ban Dân tộc và
Miền núi thay thế cho Nghị định 11/CP.Uỷ ban Dân tộc và Miền núi là cơ
quan của Chính phủ, có chức năng quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực công
tác dân tộc và miền núi trong phạm vi cả nước đồng thời là cơ quan tham mưu
cho Trung ương Đảng và Chính phủ về chính sách chung và chính sách cụ thể
đối với miền núi và dân tộc thiểu số.
Từ năm 2003, Uỷ ban Dân tộc được thành lập trên cơ sở đổi tên Uỷ ban
Dân tộc và Miền núi, trụ sở được ổn định và phát triển theo tinh thần Nghị
định số 51/2003/NĐ-CP do Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải ký ngày
16/05/2003, quy định bổ sung và hoàn thiện chức, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Uỷ ban Dân tộc.
II . CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA UỶ BAN
DÂN TộC
1. Chức năng.
Uỷ ban Dân tộc là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ có chức năng quản
lý Nhà nước về lĩnh vực công tác dân tộc trong phạm vi cả nước; quản lý các
dịch vụ công và thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại
doanh nghiệp có vốn Nhà nứơc thuộc Uỷ ban quản lý theo quy định cuả pháp
luật
2. Nhiệm vụ và quyền hạn
Nhiệm vụ và quyền hạn của Uỷ ban Dân tộc được quy định tại Nghị
định số 86/2002/NĐ-CP ngày 05 tháng 11 năm 2002 của Chính phủ quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bé, cơ quan ngang bé
2.1. Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các dự án luật, pháp lệnh
và các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật khác về dân tộc;
2.2. Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chiến lược, quy hoạch phát
triển, kế hoạch dài hạn, năm năm và hàng năm, chương trình mục tiêu quốc
gia, chương trình hành động và các công trình quan trọng thuộc lĩnh vực công
tác dân tộc;
2.3. Ban hành các quyết định, chỉ thị, thông tư thuộc phạm vi quản lý
Nhà nước của Uỷ ban;
2.4. Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và chịu trách nhiệm thực hiện các
văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình
sau khi được phê duyệt và các văn bản pháp luật khác thuộc pạhm vi quản lý
của Uỷ ban; thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về dân tộc;
2.5. Điều tra, nghiên cứu, tổng hợp về nguồn gốc lịch sử, phát triển của
các dân tộc, các téc người,các dòng téc; đặc điểm thành phần dân tộc, kinh tế
xã hội, đời sống văn hoá, phong tục tập quán và những vấn đề khác về các
dân tộc
2.6. Phối hợp với các Bé, cơ quan ngang Bé, cơ quan thuộc Chính phủ,
Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức xã hội ở Trung ương trong việc thực hiện các chủ trương,
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước về quyền dùng tiếng nói, chữ viết,
về phát triển giáo dục, mở mang dân trí, ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
dân tộc thiểu số; về chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào dân tộc thiểu sè .
2.7. Chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình quốc gia về dân số; tổ
chức chỉ đạo thực hiện chính sách bình đẳng đoàn kết, công bằng xã hội giữa
các dân tộc, chống mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc;
2.8. Chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bé, cơ quan thuộc
Chính phủ và chính quyền địa phương chỉ đạo thực hiện các dự án, mô hình
thí điểm, các chính sách ưu đãi ở vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn do
Chính phủ giao; tổng kết thực tiễn và nhân rộng các mô hình phát triển có
hiệu quả.
2.9. Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện công tác định canh,
định cư đối với đồng bào dân tộc thiểu số;
2.10. Tổ chức và chỉ đạo thực hiện các biện pháp cụ thể để duy trì, bảo
tồn và phát triển các téc người;
2.11. Chủ trì, phối hợp với các Bé, ngành liên quan giúp Chính phủ xác
định tiêu chí phân định các khu vực theo trình độ phát triển ở vùng dân tộc và
miền núi, điều chỉnh các tiêu chí cho phù hợp với nhịp độ phát triển theo đúng
từng thời kỳ;
2.12. Tiếp đón, thăm hỏi đồng bào dân tộc thiểu số; phối hợp với các
bộ, ngành và địa phương giải quyết các nguyện vọng chính đáng cho đồng
bào theo đúng chế độ chính sách và quy định của pháp luật.
2.13. Chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Giáo dục và Đào tạo trong
việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là người dân
tộc thiểu số;
2.14. Tham gia thẩm định các đề án, dự án đầu tư có liên quan đến phát
triển kinh tế - xã hội ở các vùng dân tộc thiểu số; thẩm định và kiểm tra việc
thực hiện các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực dân tộc;
2.15. Chủ trì, phối hợp với các Bé, ngành liên quan trong việc đổi mới
và tăng cường công tác tuyên truyền, vận động đồng bào các dân tộc thực
hiện chủ chương, chính sách pháp luật về dân tộc;
2.16. Thực hiện hợp tác Quốc tế trong lĩnh vực công tác dân tộc theo
quy định của pháp luật;
2.17. Tổ chức và chỉ đạo thực hiện kế hoạch nghiên cứu khoa học trong
lĩnh vực công tác dân tộc;
2.18. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, cụ thể thuộc quyền đại diện chủ
sở hữu phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp có vốn Nhà nước thuộc
Uỷ ban quản lý theo quy định của pháp luật;
2.19. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham
nhòng, tiêu cực và xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực công tác dân
tộc thuộc thẩm quyền của uỷ ban;
2.20. Quyết định và chỉ đạo thực hiện chương trình cải cách hành chính
của uỷ ban theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành chính của
Nhà nước đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt;
2.21. Quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế; chỉ đạo thực hiện chế độ
tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật đối với cán
bộ, công chức, viên chức nhà nước thuộc phạm vi quản lý của uỷ ban; đào
tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ đối với cán bộ, công chức, viên
chức và những người làm công tác dân tộc;
2.22. Quản lý tài chính, tài sản được giao và tổ chức thực hiện ngân
sách được phân bổ theo quy định của pháp luật.
3. Cơ cấu tổ chức của Uỷ ban.
Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy.
B – VỤ PHÁP CHẾ.
I. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ VÀ CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA VỤ PHÁP CHẾ.
1. Vị trí, chức năng của Vụ Pháp chế.
Vụ Pháp chế là tổ chức của Uỷ ban Dân tộc, có chức năng tham mưu
giúp Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban thực hiện quản lý Nhà nước bằng pháp
luật về lĩnh vực công tác dân tộc; tổ chức thực hiện công tác xây dựng pháp
luật, thẩm định, rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật liên quan
đến lĩnh vực công tác dân tộc; phổ biến giáo dục pháp luật, kiểm tra việc thực
hiện các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực công tác dân tộc trong phạm
vi cả nước.
2. Nhiệm vụ và quyền hạn.
2.1. Tham mưu giúp Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban trình Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh; Nghị quyết,
Nghị định hàng năm theo yêu cầu quản lý Nhà nước; làm đầu mối giúp Bộ
trưởng, Chủ nhiệm triển khai thực hiện chương trình đó theo kế hoạch đã
được phê duyệt và các dự án khác theo phân công của Chính phủ.
2.2. Thẩm định về mặt pháp lý các dự thảo văn bản quy phạm pháp
luật, văn bản do các đơn vị thuộc Uỷ ban soạn thảo trước khi trình Bộ trưởng,
Chủ nhiệm Uỷ ban ký ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành.
2.3. Chủ trì, phối hợp với các đơn vị thuộc Uỷ ban và các cơ quan khác
có liên quan soạn thảo các dự thảo, các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh
vực công tác dân tộc.
2.4. Làm đầu mối giúp Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban tham gia ý kiến
các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, các Bé, ngành, địa
phương gửi lấy ý kiến.
2.5. Tổ chức rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật liên
quan về lĩnh vực công tác dân tộc, đề xuất phương án xử lý trình Bộ
trưởng,Chủ nhiệm Uỷ ban quyết định.
2.6. Phối hợp với các đơn vị khác thuộc Uỷ ban trong đề xuất với Bộ
trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban.
2.7. Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và các đơn vị thuộc Uỷ ban
Dân tộc tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật trong hệ thống cơ quan công tác
dân tộc.
2.8. Nghiên có lý luận và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn việc thực hiện
pháp luật về lĩnh vực công tác dân tộc; xây dựng báo cáo về hoạt động trong
lĩnh vực công tác dân tộc.
2.9. Quản lý, phân công, nhận xét, đánh giá và theo dõi việc chấp hành
nội quy và hiệu quả công tác của cán bộ, công chức thuộc Vụ. Quản lý tài sản
được Uỷ ban giao cho đơn vị mình. Đề xuât việc thực hiện các chế độ, chính
sách đối với cán bộ, công chức thuộc biên chế của Vụ, trình Bộ trưởng, Chủ
nhiệm Uỷ ban quyết định.
3. Cơ cấu tổ chức của Vụ Pháp chế.
3.1. Lãnh đạo Vụ có Vụ trưởng và các Phó vụ trưởng.
Vụ trưởng do Bé trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban bổ nhiệm và miễn nhiệm.
Vụ trưởng chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban về toàn bộ
hoạt động của Vụ.
Phó Vụ trưởng là người giúp việc cho Vụ trưởng do Bé trưởng, Chủ
nhiệm Uỷ ban bổ nhiệm và miễn nhiệm theo đề nghị củaVụ trưởng. Phó Vụ
trưởng chịu trách nhiệm trong từng lĩnh vực công tác do Vụ trưởng phân
công.
3.2. Vụ Pháp chế được tổ chức hoạt động trực tuyến giữa lãnh đạo Vụ
với các chuyên viên theo quy chế làm việc của Vụ.
II. QUY CHẾ LÀM VIỆC VÀ QUAN HỆ GIẢI QUYẾT CÔNG VIỆC TRONG VÔ.
1. Quy chế làm việc.
1.1. Nguyên tắc làm việc.
- Vô làm việc theo nguyên tắc tập trung, dân chủ. Vụ trưởng chịu trách
nhiệm trước Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban về toàn bộ hoạt động của Vụ. Phó
vụ trưởng là người giúp việc cho Vụ trưởngthực hiện nhiệm vụ do Vụ trưởng
phân công; chịu trách nhiệm trứoc Vụ trưởng về nhiệm vụ được phân công
- Khi giải quyết công việc Vụ trưởng làm việc trực tiếp với Phó vụ
trưởng và chuyên viên trong Vô.
1.2.
Phạm vi giải quyết công việc.
Lãnh đạo Vụ bàn bạc tập thể, Vụ trưởng quyết định những công việc :
triển khai nhiệm vụ hàng năm, đột xuất của Vụ theo quy chế của Uỷ ban ;
Xây dựng kế hoạch công tác hàng tháng, hàng quý, hàng năm; Tổ chức thực
hiện các chương trình, dự án các nhiệm vụ công tác trọng tâm được lãnh đạo
Uỷ ban phê duyệt; Bố trí, sắp xếp tổ chức, phân công nhiệm vụ trong lãnh đạo
Vụ và chuyên viên; Thực hiện công tác thi đua, khen thưởng và kỷ luật đối
với cán bộ, công chức trong Vô.
2. Quan hệ giải quyết công việc trong Vô.
2.1. Phạm vi giải quyết công việc của Vụ trưởng và quan hệ công tác
đối với các Phó Vụ trưởng.
- Vô trưởng quản lý, điều hành mọi hoạt động của Vụ theo quy định
của Uỷ ban và chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban về kết
quả và mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao của đơn vị
- Vô trưởng ký trình Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban về kế hoạch và nội
dung triển khai công tác của Vụ; thừa lệnh Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban ký
các văn bản giao dịch, trao đổi nghiệp vụ công tác với các đơn vị thuộc Uỷ
ban, các đơn vị có liên quan thuộc các bộ, ngành, các tổ chức chính trị – xã
hội và các địa phương.
- Vô trưởng uỷ quyền cho các Phó Vụ trưởng ký văn bản trình hoặc văn
bản giao dịch trong phạm vi hoạt động triển khai nhiệm vụ được phân công
sau khi có sự thống nhất với Vụ trưởng.
- Trong thời gian vắng mặt, Vụ trưởng uỷ nhiệm cho Phó Vụ trưởng
thay mặt Vụ trưởng điều hành công việc của Vụ
2.2.
Phạm vi giải quyết công việc và mối quan hệ giữa các Phó Vụ
trưởng.
- Thay mặt Vụ trưởng chỉ đạo, giải quyết các công việc hoặc nhiệm vụ
được phân công và chịu trách nhiệm trước Vụ trưởngvề chất lượng, hiệu quả
công việc
- Các phó Vụ trưởng làm việc trực tiếp với các chuyên viênđể giải
quýêt công việc.
2.3. Phạm vi giải quyết công việc của chuyên viên.
- Căn cứ vào nhiệm vụ công tác được phân công, chuyên viên phảI xây
dựng kế hoạch công tác hàng tháng,hàng quý, 6 tháng, và hàng năm trình lãnh
đạo Vụ. Chuyên viên có thể được lãnh đạo Vụ giao nhiệm vụ khác khi cần
thiết.
- Chuyên viên chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ được
phân công trước Vụ trưởng và các Phó Vụ trưởng trực tiếp phụ trách giao
nhiệm vụ.
-Chuyên viên không tự ý phát hành văn bản, tài liệudo Vụ quản lý khi
chưa được sự đồng ý của lãnh đạo Vụ.
- Chuyên viên chấp hành tốt kỷ luật lao động và nội quy của cơ quan
Uỷ ban.
- Chuyên viên có trách nhiệm phối hợp công việc chặt chẽ và tạo điều
kiện giúp đỡ lẫn nhau để hoàn thành nhiệm vụ được giao
- Thường xuyên trao đổi, cung cấp thông tin liên quan khi giải quyết
nhiệm vụ được lãnh đạo Vụ giao.
CHƯƠNG II:
CÔNG TÁC PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO
DÂN TộC THIỂU SỐ CỦA VỤ PHÁP CHẾ.
I. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC PHỔ BIẾN PHÁP
LUẬT.
Công tác phổ biến giáo dục pháp luật có vị trí quan trọng trong đời
sống xã hội.Trong công cuộc đổi mới hiện nay, nhất là chúng ta đang xây
dựng một Nhà nước pháp quyền Việt Nam, Nhà nước của dân, do dân và vì
dân thì công tác này càng có ý nghĩa quan trọng hơn bao giê hết. Vì thế, nhiều
Văn kiện của Đảng và Nhà nước đã nhấn mạnh đến công tác tuyên truyền phổ
biến, giáo dục pháp luật: văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI, VII, VIII
của Đảng; Nghị quyết Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng;
dưới sự lãnh đạo của Đảng các chủ trương về công tác phổ biến giáo dục pháp
luật đã được thể chế hoá bằng các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước
: Hiến pháp 1992, Luật tổ chức Chính phủ, các Chỉ thị của Thủ tướng Chính
phủ.
Nh vậy, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng về công tác phổ biến giáo
dục pháp luật và chủ trương này đang từng bước được cụ thể hoá để phù hợp
với tình hình thực tế đổi mới của đất nước. Đó là những cơ sở lý luận và cơ sở
pháp lý quan trọng giữ vai trò định hướng cơ bản, lâu dài cho công tác tuyên
truyền phổ biến giáo dục pháp luật . Việc nghiên cứu, triển khai và cụ thể hoá
cho phù hợp với mỗi ngành, mỗi lĩnh vực, mỗi địa phương nhằm nâng cao
nhận thức pháp luật cho người dân góp phần nâng cao hiệu lực pháp luật là
điều có ý nghĩa thực tiễn to lớn. Đặc biệt đối với lĩnh vực công tác Dân tộc và
Miền núi ở nước ta thì việc giáo dục và vận dụng cụ thể các chủ trương chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước sao cho phù hợp với đặc điểm tâm
lý, tập quán, trình độ dân trí của từng vùng, từng dân tộc để nâng cao hiệu lực
pháp luật càng có ý nghĩa thiết thực.
II. TÌNH HÌNH NHẬN THỨC PHÁP LUẬT CỦAĐỒNG BÀO DÂN TộC
THIỂU SỐ HIỆN NAY.
1. Sù cần thiết của việc tổ chức công tác phổ biến giáo dục pháp luật.
Công tác phổ biến giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của hoạt động
thực thi pháp luật, là cầu nối để chuyển tải pháp luật vào đời sống.Đây là
công tác cực kỳ quan trọng đòi hỏi sự phối hợp giữa nhiều cơ quan Nhà nước,
nhiều cấp, nhiều ngành, tổ chức xã hội. Với tính chất và quy mô nh vậy công
tác này đòi hỏi phải được tổ chức chặt chẽ, có định hướng, có kế hoạch, tổ
chức triển khai đôn đốc tăng cường kiểm tra tổng kết rút kinh nghiệm và nhân
rộng kết quả.
Đối với đồng bào dân tộc thiểu số thì tình hình hiểu biết và thực hiện
pháp luật còn rất nhiều hạn chế. Nhiều nơi vì đồng bào không nắm được quy
định của pháp luật nên đã bị các phần tử xấu kích động lôi kéo vào các hoạt
động trái pháp luật, vi phạm chủ trương chính sách của Đảng như tiếp tay cho
buôn bán trái phép các chất ma tuý,vận chuyển hàng lậu, tiền giả ở vùng biên
giới … Một số nơi, do phong tục lạc hậu, mê tín, dị đoan, đã có những hành
động đối xử với chính người thân trong gia đình, gây nên những cảnh ngộ rất
đau lòng… Những tồn tại đó do nhiều nguyên nhân nhưng một nguyên nhân
không thể không kể đến đó là sự thiếu hiểu biết về pháp luật. Do đó, nếu
không tìm các giải pháp để nâng cao trình độ dân trí về pháp luật và nâng cao
ý thức pháp luật cho đồng bào các dân tộc thiểu số thì việc tuân thủ pháp luật
của dồng bào vẫn là nan giải.
2. Tình hình nhận thức pháp luật của đồng bào dân tộc thiểu số hiện
nay.
Hiện nay, tình hình tôn trọng và thực hiện pháp luật ở miền núi, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số đang là vấn đề được quan tâm. Các tệ nạn xã hội
như nghiện hót, cờ bạc,tảo hôn, mê tín, dị đoan,chặt phá rừng khai thác bừa
bãi, du canh du cư, và các vi phạm pháp luật khác vẫn thường xuyên xảy ra ở
nhiều nơi. Có một thực trạng là do trình độ dân trí thấp nên nhiều văn bản
pháp luật quan trọng của Nhà nước đã ban hành và có hiệu lực từ lâu nhưng
vẫn chưa được phổ biến giáo dục đến với dân một cách đầy đủ, ngay cả đến
cán bộ cấp tỉnh cũng chỉ 50% được nghiên cứu, học tập; cấp huyện 30%;cấp
xã từ 2 đến 3%; còn nhân dân vùng sâu, xa, thì hầu như không được phổ biến
giáo dục pháp luật.Việc tham gia của người dân vào công tác xây dựng pháp
luật càng hạn chế hơn. Qua khảo sát của Bộ Tư pháp ở các tỉnh : Lào Cai, Sơn
La, Quảng Bình, Gia Lai, Kon Tum với các nhóm đồng bào điển hình : Khùa,
Sách, Tày, Nùng, Thái, Vân Kiều, Ba Na, Gia Rai… cho thấy 62% cho rằng
vi phạm pháp luật là vì không biết pháp luật; 40,2% cho rằng vi phạm pháp
luật vì không được phổ biến, học tập pháp luật. Cũng qua khảo sát thực tế ở
một số địa phương trên cho thấy nội dung pháp luật được phổ biến giáo dục
có tỷ lệ cao nhất là Hiến pháp 52,1%; Luật Hôn nhân và Gia đình 51%, Luật
đất đai 50%; Luật bảo vệ và phát triển rừng 47,3%; các văn bản khác ở địa
phương chỉ chiếm 18,6%. Tương ứng với nội dung pháp luật được phổ biến
giáo dục là các hình thức như tuyên truyền miệng 94,6%;qua hoà giải 73,4%;
qua lễ hội 36,7%; qua sinh hoạt văn hoá dân tộc 48,9%; qua các buổi chợ
phiên 75%, qua thi tìm hiểu pháp luật 94%.
Tóm lại, có thể khái quát về thực trạng nhận thức pháp luật và phổ biến
giáo dục pháp luật hiện nay của đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi còn
nhiều hạn chế và hình thức tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật cho đồng
bào còn nghèo nàn và thiếu tính hệ thống thiếu quy mô đồng bộ.
III. NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SÈ HÌNH THỨC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT.
1. Nguyên nhân.
Có rất nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến nhận thức pháp luật của đồng
bào thiểu số nhưng ở đây chỉ đề cập đến một số yếu tố chủ yếu về khách quan
và chủ quan.
. Khách quan.
Do địa bàn cư trú của đồng bào dân tộc thiểu số chủ yếu là ở miền núi,
vùng cao, sâu, biên giới, hải đảo …Nhìn chung cả miền Bắc, miền Trung, Tây
Nguyên đều là những vùng có địa hình rất phức tạp bị chia cắt bởi hệ thống
thung lòng suối sâu, đèo cao rất khó khăn cho giao thông đi lại và giao lưu
văn hoá giữa các bản làng với nhau…Vì thế đồng bào dân tộc ở những vùng
này Ýt có điều kiện tiếp xúc với thông tin về pháp luật.
Cơ sở hạ tầng thấp kém nhất là về giao thông. Tuy đã có một số tuyến
chính nhưng phần lớn nhỏ hẹp, thường bị sụt lún khi mưa lũ. Nhiều xã ở các
huyện vùng cao chưa có đường ôtô đi đến. Đó là trở ngại quá lớn cho quá
trình phát triển kinh tế – xã hội ở các tỉnh miền núi phía Bắc cũng như việc
chuyển tải thông tin pháp luật đến đồng bào.
Đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào còn gặp nhiều khó khăn,
do kinh tế phát triển chậm, thu nhập thấp nên số hộ đói còn khá nhiều. Đói
nghèo đi liền với bệnh tật :bệnh sốt rét, bướu cổ. Đói nghèo đi lion với một số
tệ nạn xã hội: trộm cắp, cờ bạc, nghiện hót. Chính vì mức sống còn thấp kém
như vậy nên đa số đồng bào hàng ngày còn phải lo toan cơm áo để tồn tại
trong cuộc sống đầy khó khăn vì thế vấn đề trau dồi tri thức về văn hoá, khoa
học, tri thức về pháp luật còn Ýt được chú ý.
Bên cạnh đó còn do trình độ học vấn phổ thông thấp kém, đời sống văn
hoá đơn điệu. Ở một số vùng trình độ của cán bộ quản lý cũng rất thấp có nơi
Chủ tịch, bí thư xã còn trong diện xoá mù chữ. Cơ sở vật chất cho công tác
giáo dục thấp kém thiếu trường líp cho học sinh, thiếu nhà ở cho giáo viên,
thiếu sách giáo khoa và thiếu giáo viên nhất là giáo viên có trình độ cao do đó
hiệu quả giáo dục thấp.
Trình độ học vấn thấp kém, thiếu các cơ sở văn hoá cần thiết sẽ là trở
ngại lớn cho việc tiếp thu tri thức pháp luật vì gắn liền với trình độ học vấn
thấp kém sẽ là mảnh đất tốt cho các tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan Èn náu.
1.2. Chủ quan.
Thiếu sự đầu tư, quan tâm đến lực lượng cán bộ làm công tác phổ biến
giáo dục pháp luật ở các sở Tư pháp .Thời gian và lực lượng chuyển tải các
thông tin pháp luật đến với đông đảo đồng bào còn rất hạn chế.Ngay cả ở Vụ
pháp chế cán bộ vẫn còn thiếu vì thế hiệu quả công việc đạt được còn hạn
chế. Kinh phí, phương tiện đầu tư cho công tác tuyên truyền phổ biến giáo
dục pháp luật rất hạn chế.
Chưa đầu tư nghiên cứu thảo đáng để chọn lọc những hình thức giáo
dục pháp luật phù hợp với từng vùng, từng nhóm dân tộc, từng dân tộc ở vùng
đồng bào dân tộc miền núi, trong khi nhu cầu hiểu biết pháp luật của đồng
bào là lớn.
Qua điều tra khảo sát, điều tra sự hiểu biết pháp luật của cán bộ, nhân
dân do dự án VIE-98/001 của Bộ Tư pháp với 900 phiếu khảo sát trong đó có
30% số người được điều tra là người dân tộc thiểu số thì 20% ý kiến cho rằng:
để xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội của đất nước thì yêu cầu đầu tiên và
tiên quyết là cần phải tuân thủ pháp luật . Điều đó đặt ra cho các cấp, các
ngành là phải nghiên cứu, đánh giá một cách khách quan, khoa học về thực
trạng phổ biến giáo dục pháp luật ở vùng đồng bào dân tộc miền núi để từ đó
có kế hoạch nội dung và biện pháp giáo dục cho phù hợp và có hiệu quả.
1. Các hình thức phổ biến giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc
thiểu số.
Qua nghiên cứu thực trạng nhận thức và tình hình thực hiện pháp luật
của đồng bào dân tộc thiểu số, tôi thấy để nâng cao ý thức pháp luật cho đồng
bào cần đẩy mạnh hơn nữa công tác giáo dục cho đồng bào bằng nhiều hình
thức và nội dung khác nhau phù hợp với mỗi địa bàn cụ thể.
2.1.
Phổ biến thông qua các hoạt động lễ hội.
ĐÓ đưa pháp luật đến với đồng bào dân tộc thiểu số nhất là ở vùng cao,
sâu, xa công tác phổ biến pháp luật có thể thực hiện bằng nhiều hình thức
khác nhau, nhưng không phải tất cả các hình thức đều phù hợp với mọi đối
tượng. Vấn đề đặt ra là phải lùa chọn loại hình thích hợp để lồng ghép với các
hoạt động giáo dục khác nhằm đưa pháp luật đến với đồng bào dân tộc một
cách có hiệu quả nhất. Rất khó để xây dựng một mô hình chung để áp dụng
chung cho tất cả các dân tộc thiểu số, bởi vì trong 53 dân tộc thiểu số ở nước
ta mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hoá riêng. Vì vậy, nếu chỉ đơn điệu sơ cứng
một vài mô hình rồi áp dụng chung cho mọi đối tượng là điều phi thực tế. Vụ
Pháp chế bằng một loạt các hoạt động nghiên cứu và cả thực tiễn đã tận dụng
một số hoạt động văn hoá truyền thống của đồng bào để lồng ghép vào nội
dung phổ biến giáo dục pháp luật. Trong xu thế trở về cội nguồn hiện nay một
số lễ hội đang được khôi phục và có ý nghĩa giáo dục cao: hội đền Gióng,
ngày giỗ tổ Hùng Vương, hội chợ Viềng …Thông qua các hoạt động văn hoá
truyền thống các nội dung pháp luật sẽ có độ thẩm thấu cao dễ đi vào lòng
người hơn là mở một chuyên đề riêng chỉ có nội dung là pháp luật. Trong khi
trình độ văn hoá dân trí của đồng bào còn hạn chế không thể bắt người dân
thuộc lòng các quy định cụ thể của pháp luật, chỉ có qua các lễ hội đồng bào ý
thức được những điều pháp luật cho phép , không cho phép sau đó truyền
miệng cho nhau không vi phạm.
Hình thức giáo dục này khá đơn giản, dễ áp dụng, dễ đi vào lòng người.
Người nghe không bị trạng thái tâm lý căng thẳng nh tập trung vào để học
trong hội trường. Nội dung giáo dục thì linh hoạt, hình thức, ngôn ngữ đa
dạng có thể sử dụng ngôn ngữ địa phương.
2.2.
Phổ biến pháp luật thông qua việc dạy và học pháp luật trong
các trường phổ thông dân tộc nội trú.
Đây là hình thức phổ biến khoa học nhất vì đó là việc trang bị cho thế
hệ trẻ không chỉ về khoa học văn hoá nói chung mà còn thêm hiểu biết về
pháp luật thông qua việc truyền thụ các kiến thức pháp luật, những quy định
của Nhà nước về cách ứng xử hàng ngày trong các mối quan hệ xã hội, để từ
đó hình thành ý thức trong họ để họ tự điều chỉnh các hành vi ứng xử của
mình theo chuẩn mực pháp luật do Nhà nước quy định.
Hiện nay, việc giáo dục pháp luật cho học sinh dân tộc miền núi được
đưa vào nội dung giáo dục công dân. Theo khảo sát thực tế ở một số trường
phổ thông miền núi trong những năm qua cho thấy việc dạy và học pháp luật
ở các trường dân tộc nội trú thường có hệ thống và đạt hiệu quả cao hơn. Ví
dụ ở tỉnh Lào Cai có hơn 50 vạn dân, 27 dân tộc anh em trong đó 70% là
đồng bào các dân tộc thiểu sè : Tầy, Mông, Pa Dí…chủ yếu sống ở các xã
vùng cao, địa hình giao thông phức tạp, trình độ dân trí thấp,tình trạng mù
chữ và thất học cao. Do đó, việc triển khai tuyên truyền giáo dục còng nh tiếp
thu và thực hiện các chủ trương chính sách phát triển kinh tế – xã hội gặp
nhiều khó khăn và hạn chế. Từ mù chữ dẫn đến mù pháp luật chính vì vậy dẫn
đến các tệ nạn.Do đó, việc triển khai tuyên truyền giáo dục còng nh tiếp thu
và thực hiện các chủ trương chính sách phát triển kinh tế – xã hội gặp nhiều
khó khăn và hạn chế.
Ưu điểm của hình thức này là nội dung phổ biến có bài bản, được đội
ngò những người chuyên nghiệp cã kiến thức về sư phạm đảm nhận. Đối
tượng phổ biến lại là những người đang trong độ tuổi ham học ham hiểu biết
nên kiến thức đọng lại trong trí nhớ lâu hơn. Nhưng đối tượng hạn chế, học
sinh còn phải học nhiều môn khác nhiều trường hợp coi nhẹ môn học giáo
dục công dân. Bên cạnh đó đội ngò giáo viên chủ yếu là kiêm nhiệm do đó
tính chuyên môn không cao, không xác định được rõ ý thức trách nhiệm và
tầm quan trọng của môn học nên dạy qua loa đại khái, đơn điệu, chất lượng
không cao, học sinh khó tiếp thu.
2.3.
Phổ biến pháp luật thông qua tuyên truyền miệng.
Đó là việc truyền đạt một nội dung cụ thể những quy phạm pháp luật
của Nhà nước đến các đối tượng nhằm giúp các đối tượng hiểu và thực hiện
đúng các quy định của Nhà nước. Hình thức này mang tính chính xác cao,
phân tích nội dung sâu sắc. Người được truyền đạt có thể thông qua sự biểu
đạt tình cảm cô thể để thu hót người nghe. Nhựơc điểm của hình thức này là
hạn chế về đối tượng, hạn chế về nội dung.
2.4.
Phổ biến và giáo dục thông qua các hoạt động hoà giải.
Phương thức này đã từ lâu đời và thực sự trở thành một hình thức phổ
biến. Qua hoà giải sẽ là dịp tốt để giáo dục pháp luật cho mọi người. Hình
thức này rất gần gũi với đời thường, không làm phức tạp thêm vấn đề.
Hoạt động hoà giải có tác dụng lan truyền rất lớn . Hình thức giáo dục
pháp luật thông qua hoạt động hoà giải sẽ đạt hiệu quả cao hơn một số hình
thức khác, qua hoà giải các quy phạm pháp luật được đưa vào cuộc sông một
cách sâu sắc hơn, đối tượng tiếp thu một cách tự nguyện. Tuy nhiên để nâng
cao hơn nữa hiệu quả của các hoạt động hoà giải vấn đề không chỉ dừng lại ở
kinh nghiệm thực tiễn mà cần được nâng lên nữa bằng việc tổ chức kịên toàn
đội ngò làm công tác hoà giải bồi dưỡng về kiến thức pháp luật.
2.5.
Phổ biến thông qua các già làng, trưởng bản.
Mỗi một bản đều có trưởng bản, do dân bầu thường là những người có
uy tín đứng đầu các dòng họ.Trưởng bản là người có uy tín mọi mặt trong đời
sống xã hội, biết cóng bái, am hiểu các phong tục tập quán, các kinh nghiệm
sản xuất có quan hệ rộng rãi. Do những đặc điểm cá biệt của đội ngò già làng
trưởng bản nh vậy nên công tác phổ biến giáo dục pháp luật ở đồng bào thiểu
số nếu biết tổ chức tốt thì sẽ có hiệu quả cao. Để thu hót được đội ngò này
vào công tác tuyên truyền pháp luật thì các ngành,các cấp, cần xây dựng nội
dung,hình thức bồi dưỡng nghiệp vụ pháp luật cho phù hợp để động viên,
khuyến khích kịp thời.
2.6. Phổ biến thông qua hoạt động của báo chí, đài phát thanh, truyền
hình.
Trong thời đại ngày nay báo chí, đài phát thanh, truyền hình đang đóng
một vai trò rất quan trọngtrong đời sống tinh thần của toàn xã hội. Các thông
tin về kinh tế – xã hội và pháp luật được chuyển tải trên các phương tiện đang
thể hiện rõ tác dụng ở nhiều nơi. Các phương tiện thông tin đã cung cấp rất
nhiều thông tin chính xácđể các cơ quan thực hiện pháp luật điều tra, xem xét
làm rõ đúng sai để kịp thời chuyển tải đến với đông đảo nhân dân. Nhưng
hình thức này mới chỉ phát huy tác dụng đối với các đối tượng thuộc phạm vi
thị trấn, thị xã, thành phố và một số cụm xã lớn. Còn đối với các đối tượng
thuộc vùng sâu, vùng xa, hình thức này chưa phát huy được ưu thế. Nguyên
nhân của tình trạng này là do phương tiện truyền thông đại chúng ở miền núi
còn rất khó khăn. Mặc dù còn một số hạn chế nhất định nhưng trong tương lai
với việc thành công của chương trình phủ sóng phát thanh truyền hình toàn
quốc như hiện nay đang triển khai chắc rằng hình thức này sẽ phát huy hiệu
quả.
2.7. Phổ biến thông qua việc xây dựng và thực hiện Hương ước, quy
ước của làng, bản, thôn, Êp.
Cùng với việc không ngừng đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật
phục vụ cho yêu cầu quản lý của Nhà nước thực hiện chủ trương mở rộng dân
chủ xã hội chủ nghĩa thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nhiều địa phương
trong cả nước đã và đang xây dựng, hoàn thiện hương ước, quy ước làng văn
hoá trên cơ sở kế thừa những tích cực cuả hương ước cũ phù hợp với quy định
của pháp luật. hình thức này đã có tác dụng rất lớn.
IV. NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ.
1. Đánh giá chung về công tác phổ biến giáo dục pháp luật.
Sau hơn 5 năm thực hiện Nghị quyết Liên tịch số 01/1999/NQLT – TP
– VHTT – NNPTNT – DTMN, được sự quan tâm của cấp uỷ, chính quyền địa
phương và sự nỗ lực của các Bộ, ngành tham gia ký Nghị quyết công tác này
đã đạt được những kết quả bước đầu: từng bước nâng cao ý thức pháp luật
của nhân dân tạo thãi quen nâng cao ý thức pháp luật,sử dụng pháp luật để
bảo vệ quyền và lợi Ých hợp pháp của mình, hướng dẫn người dân tích cực
tham gia vào các hoạt động xã hội. Người dân đã và đang phát huy tính chủ
động trong tham gia quản lý Nhà nước góp phần phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Công tác phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc đã dần đi vào nề nếp
theo kế hoạch cụ thể, được thực hiện thường xuyên, có trọng tâm,trọng điểm
hơn trước. Nội dung được lùa chọn phù hợp với đối tượng và nhiệm vụ chính
trị, kinh tế, xã hội ở địa phương, đã sử dụng các hình thức tuyên truyền phù
hợp tạo hiệu quả tuyên truyền cao.
2. Phương hướng và một số kiến nghị .
2.1. Phương hướng.
- Tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các Vụ đơn vị thuộc Uỷ ban, các Vụ ở
Bộ Tư pháp và Ban Dân tộc các tỉnh tổ chức phổ biến pháp luậtcho cán bộ,
công chức thuộc hệ thống cơ quan làm công tác dân tộc và nhân dân ở nông
thôn, vùng sâu, xa.
- Phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và các địa phương triển khai
thực hiện đề án “Nâng cao hiểu biết pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số,
đồng bào vùng biên giới”.
- Phối hợp với một số tạp chí để tuyên truyền hoạt động phổ biến giáo
dục pháp luật của cơ quan.
Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả của công tác phổ biến giáo dục
pháp luật.
Để nâng cao hiệu lực hiệu quả trong công tác tổ chức và hoạt động
quản lý của Vụ Pháp chế trong lĩnh vực dân tộc tôi xin có một số kiến nghị
sau:
- Vụ cần quản lý chặt chẽ, tăng cường chỉ đạo, điều hành mội công việc
của Vụ và của Uỷ ban. Trên cơ sở kế hoạch chung được lãnh đạo Uỷ ban phê
duyệt phân công công việc cho những chuyên viên từng nhiệm vụ cụ thể, phê
duyệt kế hoạch cho cá nhân đăng ký thi đua và thực hiện việc kiểm tra hàng
tháng
- Để thực hiện các nhiệm vô chung cần tăng cường phối hợp với lãnh
đạo các Vụ, đơn vị thuộc Uỷ ban và Vụ của các ngành, Bộ có liên quanthực
hiện việc xây dựng Luật Dân tộc và các văn bản quy phạm khác.
- Tăng cường đi công tác cơ sở để nắm bắt, kiểm tra việc thực hiện văn
bản ở các địa phương, ngành , học tập kinh nghiệm các Bộ, ngành trong công
tác soạn văn bản. Tạo điều kiện để cho cán bộ công chức của Vụ được học tập
để nâng cao trình độ.
- Đề nghị Lãnh đạo Uỷ ban tạo điều kiện cơ sở vật chất làm việc (máy
vi tính) để đảm bảo tốt hơn trong công tác được giao
- Năm 2007 hoàn thành Luật Dân tộc là việc quan trọng. Để đảm bảo
tiến độ chất lượng văn bản, Vụ kiến nghị Bộ trưởng thường xuyên quan tâm,
chỉ đạo tạo điều kiện để hoàn thành công việc.
*Biện pháp để thực hiện:
- Từng cán bộ, công chức trong Vụ đề cao tinh thần học hỏi, chủ
độnghơn nữa trong công tác phát huy tinh thần đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau
trong công tác, trong việc phấn đấu, rèn luyện và trong cuộc sống.
- Xây dựng kế hoạch hàng tháng, hàng quý của Vụ, cá nhân. Có sổ theo
dõi nhận xét hàng tháng.
- Tranh thủ sự lãnh đạo của Uỷ ban, tăng cường quan hệ phối hợp học
hỏi đối với đơn vị, các Vụ trong Uỷ ban. Phối hợp với các đơn vị liên quan
ngoài Uỷ ban trong công tác pháp chế
- Có sự phân công hợp lý cho cán bộ, công chức trong Vô.
- Chú trọng nâng cao trình độ cán bộ, công chức về nhận thức và hiểu
biết chung nhiệm vụ công việc của Uỷ ban, về công tác pháp chế để mỗi
người có thể đảm nhận được những công việc có yêu cầu cao hơn.
- Chú trọng công tác nắm tình hình thực hiện pháp luật ở cơ sở, duy trì
chế độ đi công tác.
Trên đây là một số ý kiến mang tính chủ quan, chưa bám sát được
những điều kiện thực tế trong hoạt động của Vụ. Nhưng đó là những kiến
nghị mà tôi rất tâm huyết được rót ra trong thời gian thực tập ở Vụ, hy vọng
phần nào giúp Vụ hoàn thiện hơn trong hoạt động quản lý về công tác dân
tộc.
V. KẾT LUẬN.
Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật là phương châm, là mục
tiêu để chúng ta xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Để
pháp luật thực sự đi vào cuộc sống của mỗi người dân, nhất là đồng bào dân
tộc thiểu số thì không thể thiếu công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật. Mỗi
người bằng nhiều hình thức hãy tìm hiểu và sống, làm việc theo pháp luật để
tự bảo vệ mình và để xây dựng Nhà nước mà mình làm chủ.
Với khả năng và trình độ của một sinh viên sắp ra trường như tôi và
nhiều bạn sinh viên khác cùng khoá, đợt thực tập này là một cơ hội để chúng
tôi có thể mở mang thêm hiểu biết của bản thân, về lĩnh vực mà chúng tôi đã
được học trong trường. Trong quá trình thực tập tại Vụ Pháp chế, tôi đã vận
dụng kiến thức được học tại Học viện Hành chính kết hợp với thực tiễn và
tình hình tổ chức và hoạt động quản lý Nhà nước về lĩnh vực dân tộc của Vụ
đã giúp tôi nâng cao một bước nhận thức và hình thành chuyên môn quản lý
Nhà nước mà tôi đã được học. Quá trình thực tập đã giúp tôi rèn luyện được
phương pháp công tác cũng như năng lực xử lý thông tin trong quản lý mặc
dù thời gian thực tập không nhiều. Qua thời gian thực tập tại Vụ đối chiếu với
yêu cầu, mục đích của việc thực tập tôi thấy nội dung thực tập đã đáp ứng
được yêu cầu. Nhờ được trang bị kiến thức quản lý Nhà nước tại Học viện khi
về thực tập tại Vụ được tiếp xúc trực tiếp với công việc và được lãnh đạo,
chuyên viên của Vụ nhiệt tình giúp đỡ, hướng dÉn, chỉ bảo tận tình tôi đã gắn
kết thành thạo giữa lý thuyết với thực hành, vì vậy đã hoàn thành tốt công
việc được giao.
Một lần nữa tôi còng xin trân thành cảm ơn lãnh đạo Uỷ ban, lãnh đạo
Vụ Pháp chế mà đặc biệt là các chuyên viên của Vụ đã cung cấp tài liệu và
chỉ bảo chúng tôi trong công việc rất nhiệt tình, đã tạo điều kiện để chúng tôi
hoàn thành tốt đợt thực tập này. Và tôi cũng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc trân
thành tới các thầy cô trong đoàn hướng dẫn thực tập, đặc biệt gửi lời cảm ơn
tới thầy giáo PGS – TS Phạm Kim Giao đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi
hoàn thành báo cáo trong đợt thực tập. Tôi xin chúc các Lãnh đạo của Uỷ ban
Dân tộc, Lãnh đạo Vụ Pháp chế, các anh chị chuyên viên Vụ Pháp chế – nơi
tôi thực tập và kính chúc các thầy cô giáo Học viện nói chung và thầy cô
hướng dẫn thực tập một sức khoẻ tốt để công tác và một cuộc sống hạnh
phóc.