Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

HOẠT ĐỘNG ĐẤU THẦU CÁC DỰ ÁN MUA SẮM CHÍNH PHỦ CỦA VIỆT NAM DƯỚI ẢNH ẢNH HƯỞNG CỦA HIỆP ĐỊNH TPP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.62 KB, 80 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC........................................................................................................1
TỪ VÀ CỤM TỪ VIẾT TẮT.........................................................................4
DANH MỤC BẢNG BIỂU.............................................................................4
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................1
CHƯƠNG

1:

TỔNG

QUAN

VỀ

HIỆP

ĐỊNH

QUAN

HỆ

ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG VÀ NỘI DUNG
MUA SẮM CHÍNH PHỦ TRONG HIỆP ĐỊNH..........................................5
1.1.Bối cảnh ra đời........................................................................................5
1.2.Phạm vi điều chỉnh.................................................................................7
1.3. Mục tiêu và nguyên tắc..........................................................................9
1.4.Tình hình đàm phán.............................................................................11
1.5.Đàm phán đối với MSCP trong TPP...................................................13
1.6.Những cơ hội và thách thức của Việt Nam khi tham gia Hiệp định


TPP14
1.6.1. Sự cần thiết tham gia TPP của Việt Nam..........................................14
1.6.2. Những thuận lợi khi gia nhập TPP....................................................16
1.6.3. Những thách thức khi gia nhập TPP.................................................22
CHƯƠNG

2:

THỰC

TRẠNG

HOẠT

ĐỘNG

ĐẤU

THẦU

CÁC DỰ ÁN MUA SẮM CHÍNH PHỦ CỦA VIỆT NAM .......................26
2.1. Phân tích thực trạng hoạt động đấu thầu các dự án MSCP của Việt
Nam..............................................................................................................26
2.1.1. Đối tượng và phạm vi điều chỉnh Mua sắm chính phủ trong khuôn
khổ Hiệp định TPP .....................................................................................26
2.1.2. Hình thức chọn nhà thầu MSCP........................................................26
2.1.3. Chất lượng hoạt động MSCP...........................................................27
2.1.4. Năng lực nhà thầu Việt Nam.............................................................38
2.1.5. Một số hoạt động thầu tiêu biểu........................................................40



2.2. Đánh giá thực trạng hoạt động đấu thầu các dự án MSCP của Việt
Nam..............................................................................................................46
2.2.1. Thành công........................................................................................46
2.2.2. Hạn chế..............................................................................................48
CHƯƠNG

3:

ĐỊNH

HƯỚNG



MỘT

SỐ

GIẢI

PHÁP

ĐỂ HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG ĐẤU THẦU CÁC DỰ ÁN MUA SẮM
CHÍNH

PHỦ

CỦA


VIỆT

NAM

DƯỚI ẢNH HƯỞNG CỦA TPP..................................................................50
3.1. Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong lĩnh vực mua sắm
công dưới ảnh hưởng của TPP..................................................................50
3.1.1. Cơ hội................................................................................................50
3.1.2. Thách thức ........................................................................................53
3.2. Định hướng để nâng cao tính minh bạch trong hoạt động đấu thầu
các dự án mua sắm chính phủ...................................................................55
3.2.1. Cơ sở định hướng .............................................................................55
3.2.2. Bối cảnh quốc tế và Việt Nam dưới tác động của Hiệp định quan hệ
đối tác xuyên Thái Bình Dương..................................................................56
3.3. Giải pháp và một số kiến nghị đối nhằm nâng cao hiệu quả đấu
thầu các dự án mua sắm chính phủ của Việt Nam dưới tác động của
Hiệp định quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương................................60
3.3.1. Về phía nhà nước..............................................................................60
3.3.2. Về phía nhà thầu...............................................................................64
........................................................................................................................67
KẾT LUẬN....................................................................................................68
PHỤ LỤC 1....................................................................................................69
PHỤ LỤC 2: PHÂN CẤP QUẢN LÝ TRONG ĐẤU THẦU....................71
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................74



TỪ VÀ CỤM TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT
NGHĨA TIẾNG ANH

TẮT
ĐẦY ĐỦ
MSCP
TPP
Trans-Pacific Strategic Economic

NGHĨA TIẾNG VIỆT
ĐẦY ĐỦ
Mua sắm chính phủ
Hiệp định Đối tác xuyênThái

WTO
GPA

Partnership Agreement
World Trade Organization
Agreement of government

SPS
TBT

procurement
trong WTO
Sanitary and Phytosanitary Measures Hàng rào vệ sinh dịch tễ
Technical Barriers to Trade
Hàng rào kỹ thuật trong thương

BOT

Built-Operation-Transfer


mại
Hợp đồng xây dựng - chuyển

ODA
ADB

Official Development Assistance
The Asian Development Bank

giao - kinh doanh
Hỗ trợ phát triển chính thức
Ngân hàng Phát triển châu Á

EPC

Engineering -Procurement of Goods

Hợp đồng thiết kế, cung cấp

-Construction

thiết bị công nghệ và thi công

TNHH
FTA
UBND

Free Trade Agreement


APEC

Asia Pacific Economic Cooperation

IMF
VDR
SME
DNNN
HSDT
HSMT

International Monetary Fund
Vietnam Development Report
Small and medium enterprise

Bình Dương
Tổ chức Thương mại Thế giới
Hiệp định Mua sắm chính phủ

xây dựng công trình
Trách nhiệm hữu hạn
Hiệp định thương mại tự do
Ủy ban nhân dân
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu
Á-Thái Bình Dương
Quỹ tiền tệ quốc tế
Báo cáo Phát triển Việt Nam
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Doanh nghiệp nhà nước
Hồ sơ dự thầu

Hồ sơ mời thầu

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Các vòng đàm phán..........................................................................6
Bảng 1.2. GDP gia tăng theo quốc gia vào năm 2025 với kịch bản TPP........21


Bảng 1.3. Gia tăng thu nhập và kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam so với các
quốc gia TPP và một số quốc gia khác trong khu vực vào năm
2025...............................................................................................21
Bảng 2.1: Chỉ số cảm nhận tham nhũng ở Việt Nam giai đoạn 2001-2014....37
Bảng

3.1.

Mức

độ

áp

dụng

thủ

tục

đấu

thầu


điện

tử

của các đối tác đàm phán Hiệp định TPP......................................51
Bảng 3.2. Tính minh bạch về thông tin trong đầu thầu MSCP
của 5 đối tác có chi tiêu cho MSCP lớn nhất................................52
Bảng 3.3. MSCPcủa các đối tác đàm phán Hiệp định TPP năm 2012............56


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Mua sắm chính phủ (MSCP) còn là một bài toán “bập bênh”, làm thế
nào giải quyết được xung đột lợi ích nhằm đạt được mục tiêu chung. Người
mua luôn muốn mua hàng hóa, dịch vụ chất lượng cao với giá rẻ nhất, hoặc
giá tốt nhất đối với mặt hàng chất lượng vừa phải từ một nhà cung cấp đáng
tin cậy. Trong khi đó, người bán thì muốn bán hàng với giá càng cao càng tốt.
Người sử dụng thì muốn có hàng chất lượng tốt, dễ sử dụng với giá cả thấp;
và giới quan chức thì muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ tiêu tiền thuế của dân
trong mua sắm công.
Có thể thấy, MSCP theo đuổi mục tiêu chung trong khi cố gắng làm hài
lòng tất cả các bên liên quan. Nó không chỉ là nhiệm vụ chính trị, mà còn trở
thành nhiệm vụ kinh tế - xã hội đầy chông gai.
Mỗi năm chính phủ các quốc gia bỏ ra một khoản tiền không nhỏ để chi
tiêu mua sắm, và đây là một thị trường khổng lồ cho các nhà cung cấp sản
phẩm và dịch vụ. Mua sắm chính phủ, vì thế, đã trở thành một chương lớn, và
là một vấn đề cho đến nay vẫn chưa đi đến thống nhất, trong đàm phán Hiệp

định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Trong 12 thành viên đàm phán TPP, mới chỉ một số quốc gia đã là
thành viên của Hiệp định MSCP (GPA) của Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), như Mỹ, Canada, Singapore, Nhật Bản. Một số quốc gia như Chile,
Việt Nam, Úc, đang là quan sát viên còn New Zealand thì đang đàm phán
tham gia, còn lại là đứng ngoài cuộc chơi GPA này.
Ở WTO, mỗi thành viên của GPA đều có các quy định riêng của mình,
nên việc đấu thầu mua sắm là một việc không hề dễ dàng. Với TPP, Mỹ đã đưa
vấn đề này trở thành một chương để các quốc gia cùng đàm phán. Và trong
hiệp định này, các quốc gia đàm phán đang muốn nâng vấn đề MSCP lên một
mức cao hơn nữa. Riêng với Việt Nam, đến nay vẫn chưa mở cửa với MSCP.


2

Dù được nhắc đến rất nhiều nhưng cho đến nay, TPP cụ thể như thế nào
vẫn chưa ai thực sự nắm rõ. Hầu hết các vòng đàm phán vẫn trong bí mật,
những thông tin có được chỉ mang tính khái quát, do đó các vấn đề TPP được
đề cập trong nghiên cứu dưới đây chưa phải là tuyên bố chính thức cuối cùng.
Xuất phát từ tính cấp thiết trên nhóm tác giả đã lựa chọn đề tài nghiên cứu
khoa học: “Hoạt động đấu thầu các dự án mua sắm Chính phủ của Việt Nam
dưới ảnh hưởng của Hiệp định quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương”.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu đề tài: Nghiên cứu hoạt động đấu thầu các dự án mua sắm
Chính phủ của Việt Nam dưới tác động của Hiệp định quan hệ đối tác xuyên
Thái Bình Dương chuẩn bị sẽ được ký kết với Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Thứ nhất, tổng quan về TPP và nội dung MSCP trong Hiệp định để từ
đó có cái nhìn bao quát về Hiệp định.
Thứ hai, phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động đấu thầu các dự án

MSCP của Việt Nam, qua đó thấy được những thành công và hạn chế trong
công tác đấu thầu của Việt Nam.
Thứ ba, đưa ra định hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn
thiện hoạt động đấu thầu các dự án MSCP của Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: hoạt động đấu thầu các dự án mua sắm công của
Việt Nam dưới tác động ảnh hưởng của Hiệp định quan hệ đối tác xuyên Thái
Bình Dương.
Phạm vi nghiên cứu
Không gian: Nghiên cứu các hoạt động đấu thầu mua sắm công của
Chính phủ Việt Nam trên cơ sở Luật đấu thầu của Việt Nam, có tính đến tiền
đề, điều kiện gia nhập TPP đối với mua sắm công, tác động của TPP tới mua
sắm công của Việt Nam trong tương lai.


3

Thời gian: Nghiên cứu hoạt động đấu thầu mua sắm công chủ yếu giai
đoạn từ năm 2010 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên phương pháp duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh, các
quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tổng hợp
kinh nghiệm các nước trên thế giới về những vấn đề liên quan đến MSCP.
Phương pháp nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở tổng hợp, phân tích,
so sánh, tích hợp số liệu kết hợp nghiên cứu lý luận với khảo sát thực tiễn;
phương pháp xã hội học, điều tra, tiếp cận hệ thống...
5. Kết cấu đề tài
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, đề tài
được kết cấu thành 3 chương lớn

Chương 1: Tổng quan về Hiệp định quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương
và nội dung mua sắm chính phủ trong Hiệp định.
Chương 2: Thực trạng hoạt động đấu thầu các dự án mua sắm chính phủ của
Việt Nam.
Chương 3: Định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động đấu thầu các
dự án mua sắm chính phủ của Việt Nam dưới ảnh hưởng của
Hiệp định quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương .
6. Đóng góp mới của nghiên cứu
Hệ thống hoá, phân tích, so sánh các cơ chế, chính sách liên quan đến
mua sắm công ở Việt Nam. Phân tích những cơ chế, chính sách do Chính phủ
và các ngành hữu quan ban hành qua đó đánh giá những thuận lợi, khó khăn
của từng loại cơ chế, chính sách đối với hoạt động mua sắm công hiện nay.
Đánh giá thực trạng hoạt động mua sắm công hiện nay trên cơ sở khảo
sát, điều tra, thu thập, phân tích các dữ liệu mua sắm công.


4

Phân tích những khó khăn, thuận lợi và đề xuất các giải pháp nhằm
hoàn thiện mua sắm công hiện nay về cơ chế chính sách, về điều kiện trang
thiết bị làm việc và con người thực hiện, về quan hệ phối hợp trong và ngoài
ngành, ảnh hưởng TPP với mua sắm công Việt Nam.


5

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH QUAN HỆ
ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG VÀ NỘI DUNG
MUA SẮM CHÍNH PHỦ TRONG HIỆP ĐỊNH
1.1. Bối cảnh ra đời

TPP (Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement) là tên
gọi tắt của Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương có nguồn gốc từ Hiệp
định hợp tác Kinh tế chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (P4). Đầu tiên, TPP
được biết đến với tên là Pacific Three Closer Economic Partnership (P3-CEP)
và được Tổng thống Chile Ricardo Lagos, Thủ tướng Singapore Goh Chok
Tong, Thủ tướng New Zealand Helen Clark đưa ra thảo luận tại Hội nghị Cấp
cao APEC diễn ra năm 2002 ở Los Cabos, Mexico. Sau đó Brunei tham gia ở
vòng 5 vào tháng 4/2005. Sau vòng đàm phán này, Hiệp định lấy tên là P4,
được ký kết ngày 3/6/2005, có hiệu lực từ 28/5/2006 giữa 4 nước Singapore,
Chile, New Zealand, Brunei. Tháng 9/2008, Hoa Kỳ tỏ ý định muốn tham gia
đàm phán TPP, sau đó, tháng 11/2008, các nước Australia, Peru cũng tuyên bố
tham gia, lúc này, P4 được đặt tên lại là Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình
Dương (TPP). Tiếp đến Việt Nam ngày 13/11/2010 tuyên bố tham gia đàm
phán với tư cách thành viên đầy đủ, Canada tham gia vào tháng 10/2012 và
mới đây nhất, Nhật Bản tham gia đàm phán vào tháng 3/2013. Việt Nam đã
tuyên bố tham gia TPP với tư cách là thành viên đầy đủ từ ngày 13/11/2010.
Tính đến thời điểm hiện nay, có 12 quốc gia tham gia đàm phán, trong đó có
những đối tác thương mại quan trọng nhất của Việt Nam như: Hoa Kỳ, Nhật
Bản, Australia, Singapore. Với sự tham gia của các nền kinh tế lớn trên thế
giới, TPP trở thành khu vực kinh tế với hơn 790 triệu dân, đóng góp 40%
GDP và chiếm 1/3 thương mại toàn cầu.


6

Bảng 1.1: Các vòng đàm phán
Vòng đàm
phán
Vòng 1


Thời gian
15-19/3/2010

Địa điểm
Melbourne, Australia

Thành viên
tham gia
Hoa Kỳ, Australia,
Brunei. Chile, New
Zealand,

Vòng 2
Vòng 3
Vòng 4
Vòng 5
Vòng 6
Vòng 7
Vòng 8
Vòng 9
Vòng 10
Vòng 11
Vòng 12
Vòng 13
Vòng 14
Vòng 15
Vòng 16
Vòng 17
Vòng 18
Vòng 19

Vòng 20
Hội nghị Bộ

14-18/06/2010
4-9/10/2010
6-10/12/2010
14-18/1/2011
24/3-1/4/2011
15-24/6/2011
6-15/9/2011
22-29/10/2011
5-9/12/2011
2-9/3/2012
8-18/5/2012
2-10/7/2012
6-15/9/2012
3-12/12/2012
4-13/3/2013
15-24/5/2013
15-24/7/2013
22-30/8/2013
7-10/12/2013
21-25/02/2014

trưởng
Hội nghị Bộ 19-20/5/2014

Peru,

San Francisco, Mỹ

Brunei
Auckland, New Zealand
Santiago, Chile
Singapore
Hồ Chí Minh, Việt Nam
Chicogo, Ilinois, Mỹ
Lima, Peru
Kuala Lumpur, Malaysia
Melbourne, Australia
Dallas, Texas, Mỹ
San Diego, California, Mỹ
Lessburg, Virginia, Mỹ
Auckland, New Zealand

Singapore, Việt Nam
Như trên
Như trên
Như trên
Như trên
Như trên
Như trên
Như trên
Như trên
Như trên
Như trên
Như trên
Như trên
Như trên
Thêm Canada và


Singapore
Lima, Peru
Kota Kinabalu, Malaysia
Brunei
Singapore
Singapore

Mehico
Như trên
Như trên
Thêm Nhật Bản
Như trên
Như trên
Như trên

Singapore

Như trên

trưởng

(Nguồn: Tổng hợp từ trang />Mỗi năm chính phủ các quốc gia bỏ ra một khoản tiền không nhỏ để chi
tiêu mua sắm, và đây là một thị trường khổng lồ cho các nhà cung cấp sản
phẩm và dịch vụ. Trong 12 thành viên đàm phán TPP, một số quốc gia đã là
thành viên của Hiệp định MSCP (GPA) của Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) như Mỹ, Canada, Singapore, Nhật Bản; 3 quốc gia Chile, Việt Nam,
Úc, đang là quan sát viên còn lại New Zealand đang đàm phán tham gia. Còn


7


lại là không tham gia GPA. Mỗi quốc gia đều có tiêu chuẩn riêng về MSCP,
điều này gây trở ngại cho MSCP trong phạm vi quôc tế. Do đó, Mỹ đã đưa
vấn đề này trở thành một chương để các quốc gia cùng đàm phán.
1.2. Phạm vi điều chỉnh
Phạm vi điều chỉnh của TPP bị quy định bởi ít nhất 3 yếu tố sau
Thứ nhất, TPP – Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
Chính thức được khởi động vào tháng 9/2009 đến nay, TPP đã trải qua
19 phiên đàm phán chính thức (tính đến hết tháng 12/2014) và rất nhiều phiên
đàm phán, trao đổi cấp kỹ thuật ở phạm vi hẹp. TPP là một hiệp định hướng
tới một tiêu chuẩn rất cao, thậm chí có thể coi là một tiêu chuẩn chưa từng có
tiền lệ trước đây. Quá trình hội nhập và toàn cầu hóa hoạt động thương mại
trên thế giới đã chứng kiến 3 thế hệ các FTA, FTA thế hệ thứ nhất tập trung ở
việc tự do hóa lĩnh vực thương mại hàng hóa (cắt giảm thuế quan, loại bỏ các
rào cản phi thuế), sang các FTA thế hệ thứ hai: mở rộng phạm vi tự do hóa
sang các lĩnh vực dịch vụ nhất định (xóa bỏ các điều kiện tiếp cận thị trường
trong các lĩnh vực dịch vụ liên quan), và FTA thế hệ thứ ba tiếp tục mở rộng
phạm vi tự do về dịch vụ, đầu tư. Như vậy, theo xu hướng nội dung FTA ngày
càng mở rộng.
FTA đang chứng kiến xu hướng mới, mở rộng, đề cập đến cả các vấn
đề phi thương mại như lao động, môi trường… Là 1 trong những hiệp định
mới nhất, “FTA của thế kỷ XXI”, phạm vi của Hiệp định này, vì vậy, TPP
được dự kiến là sẽ rất rộng và phức tạp, với các vấn đề thương mại và phi
thương mại đan xen.
Thứ hai, TPP ngày càng mở rộng thành viên
Ban đầu TPP chỉ có sự tham gia của P4 gồm Singapore, Chile, New
Zealand, Brunei. Ban đầu thành lập, TPP chưa có sức hút do nền kinh tế P4
chưa có ảnh hưởng lớn với nền kinh tế thế giới. Bước ngoặt được tạo ra khi
Hoa Kỳ tỏ ý định muốn tham gia đàm phán TPP vào tháng 9/2008. Ảnh



8

hưởng của Hoa Kỳ đã lôi kéo lần lượt các quốc gia khác: Australia, Peru,
Canada, Nhật Bản, Mexico, Việt Nam, Malaysia.
TPP thực hiện theo cơ chế mở mà theo đó, những nước quan tâm có thể
đàm phán ra nhập. Sau 10 năm, thành viên TPP đã lên đến 12 quốc gia tham
gia đàm phán và có khả năng sẽ còn được mở rộng. Hàn Quốc, Colombia,
Costa Rica, Indonesia, Đài Loan, Thái Lan, và nhiều nước khác đang có ý
định tham gia vào TPP. Điều đáng chú ý là Trung Quốc vẫn đang đứng ngoài
TPP và chưa có ý định tham gia. Như vậy, một khi TPP đàm phán thành công,
nền kinh tế Trung Quốc có thể chịu ảnh hưởng nặng nề và TPP có thể coi là
Hiệp định mà Mỹ sử dụng để đối chọi với nền kinh tế Trung Quốc.
Thứ ba, tăng độ mở các lĩnh vực
- Thuế quan: Mục tiêu ban đầu của Hiệp định là giảm 90% các loại thuế
xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên ngay sau khi TPP được ký kết và
hướng tới xóa bỏ 100% thuế xuất nhập khẩu.
- Dịch vụ: Tăng mức độ mở cửa các lĩnh vực dịch vụ, đặc biệt là dịch
vụ tài chính.
- Đầu tư: Tăng cường các quy định liên quan đến đầu tư nước ngoài và
bảo vệ nhà đầu tư.
- Quyền sở hữu trí tuệ: Tăng mức độ bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ
cao hơn so với mức trong WTO (WTO+).
- Các biện pháp SPS, TBT: Siết chặt các yêu cầu về vệ sinh dịch tễ và
rào cản kỹ thuật.
- Cạnh tranh và mua sắm công: Tăng cường cạnh tranh, đặc biệt trong
lĩnh vực mua sắm công.
- Các vấn đề lao động: đặc biệt là các vấn đề về quyền lập hội (nghiệp
đoàn), quyền tập hợp và đàm phán chung của người lao động, quy định cấm
sử dụng mọi hình thức lao động cưỡng bức, quy định cấm khai thác lao động

trẻ em, quy định không phân biệt đối xử trong lực lượng lao động.


9

- Các vấn đề phi thương mại khác: Tăng yêu cầu về môi trường.
Đối với chương MSCP, phạm vi điều chỉnh của TPP bao gồm:
- Các cơ quan nêu trong Phụ lục khi mua sắm hàng hóa, dịch vụ, xấy
lắp thuộc phạm vi điều chỉnh nêu trong Phụ lục.
- Phạm vi có thể bao gồm các hoạt động mua, thuê, thuê mua và hợp
đồng nhượng quyền, BOT (đang đàm phán).
- Gói thầu có giá từ ngưỡng quy định tại Phụ lục trở lên.
- Nội dung Phụ lục bao gồm: ngưỡng giá gói thầu, danh sách cơ quan,
tổ chức, hàng hóa, dịch vụ, dịch vụ xây dựng, các lưu ý chung, ngoại trừ,
công thức điều chỉnh giá gói thầu để xác định ngưỡng giá gói thầu thuộc
phạm vi điều chỉnh.
Phạm vi điều chỉnh trong TPP gồm 4 đặc trưng cơ bản
Thứ nhất, TPP phải là hiệp định đòi hỏi cao với việc xóa bỏ các hàng
rào thuế quan và phi thuế thông thường với tất cả các thành viên.
Thứ hai, TPP phải xử lý các vấn đề liên quan đến chính sách thương
mại điện tử và phân khúc quá trình sản xuất kinh doanh trong chuỗi cung ứng
hiện đại.
Ba là, TPP duy trì sự liên kết giữa các nước phát triển và đang phát
triển.
Bốn là, TPP đề cập đến rất nhiều chính sách “sau đường biên giới”,
đảm bảo quy chế chính sách minh bạch, có khả năng dự đoán. TPP giám sát,
xử lý các vấn đề về tiêu chuẩn lao động, môi trường, MSCP, DNNN…
TPP với phạm vi điều chỉnh rộng và sâu cho thấy quá trình đàm phán là
không hề đơn giản. Thực tế, tiến trình đàm phán TPP kéo dài đã cho thấy mức
độ khó khăn phức tạp của quá trình đàm phán, đòi hỏi các quốc gia nỗ lực hơn

nữa, nhượng bộ vì lợi ích chung.
1.3. Mục tiêu và nguyên tắc


10

Về mục tiêu: Không còn rào cản đáng kể (về thuế quan, hàng rào phi
thuế quan, các điều kiện gia nhập-hoạt động trên thị trường) cho hàng hóa,
dịch vụ của đối tác với mức độ tự do cao hơn nhiều so với các hiệp định
thương mại khác.
Ngoài ra, TPP sẽ còn thống nhất nhiều luật lệ, quy tắc chung giữa các
nước như: quyền của người lao động, bảo vệ môi trường, chi tiêu chính phủ,
tính minh bạch, DNNN, sở hữu trí tuệ, chất lượng thực phẩm, hay an toàn
lao động…
Về nguyên tắc
Nguyên tắc không phân biệt đối xử gồm 2 nguyên tắc
Nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc (Most Favoured Nation, viết tắt là
MFN): theo nguyên tắc này, một quốc gia phải dành cho tất cả các quốc gia
đối tác một chế độ ưu đãi thương mại thuận lợi như nhau. Trong các điều ước
quốc tế cũng như luật thương mại quốc gia, đãi ngộ tối huệ quốc thường được
thể hiện dưới dạng quy định cho các sản phẩm hàng hoá dịch vụ có xuất xứ từ
một quốc gia đối tác được hưởng chế độ thương mại "không kém ưu đãi hơn
chế độ ưu đãi nhất" mà quốc gia sở tại dành cho các những sản phẩm hàng
hoá dịch vụ tương tự của bất kỳ quốc gia nào khác. Thực hiện nguyên tắc này,
các quốc gia sẽ được bảo đảm rằng quốc gia đối tác thương mại của mình sẽ
không dành cho quốc gia khác chế độ thương mại ưu đãi hơn, qua đó triệt tiêu
lợi thế cạnh tranh của họ đối với sản phẩm hàng hoá dịch vụ cụ thể trong cạnh
tranh với các quốc gia liên quan đó.
Nguyên tắc đối xử quốc gia (National Treatment – viết tắt là NT):
Thành viên phải có nghĩa vụ đối xử bình đẳng giữa trong nước và nước ngoài.

Một nhà nước phải cung cấp đối xử bình đẳng với những công dân của các
quốc gia khác đang tham gia vào thỏa thuận. Các hàng hóa nhập khẩu và sản
xuất trong nước phải được đối xử bình đẳng, ít nhất là sau khi hàng hoá nước
ngoài đã vào thị trường.


11

1.4. Tình hình đàm phán
Cách thức đàm phán: mỗi bên đều có quyền đưa ra đề xuất của mình,
chấp nhận hoặc không chấp nhận đề xuất của đối tác (không có một hệ thống
quy chuẩn sẵn), với 21 nhóm đàm phán, 29 chương, 2 loại đàm phán: lời vănmở cửa thị trường (hàng hóa, dịch vụ, mua sắm công, đầu tư), 2 kiểu đàm
phán (đa phương, song phương).
Các quy định trong cách thức tiếp cận của hiệp định TPP là cách tiếp
cận chọn-bỏ. Khác với cách tiếp cận chọn-cho (chỉ liệt kê các lĩnh vực cam
kết mở cửa, những lĩnh vực không liệt kê thì không có nghĩa vụ gì); theo cách
tiếp cận này, chỉ cho phép các nước bảo lưu một số lượng hạn chế các ngành,
phân ngành, mà phải giải trình với lý do hợp lý để được bảo lưu, các nội dung
không được liệt kê trong danh mục này được hiểu là cam kết thức hiện.
Chưa có kết quả đàm phán chính thức. Các nước TPP thỏa thuận về
nguyên tắc bảo mật nội dung đàm phán nên thông tin rất chung chung, mang
tính tuyên bố).
Đến hết năm 2014, các nước đã kết thúc đàm phán các nội dung: Hợp
tác và xây dựng năng lực; doanh nghiệp nhỏ và vừa, vì sự phát triển, gắn kết
môi trường chính sách, tạo thuận lợi cho dây chuyền cung ứng; thống nhất lời
văn của chương nhập cảnh tạm thời của khách kinh doanh, chương viễn thông.
Ngoài ra, các nước đã kết thúc cơ bản chương chính sách cạnh tranh (không
bao gồm các vấn đề DNNN). Trong tuyên bố của các nhà lãnh đạo TPP ngày
10/11 (sau Hội nghị Bộ trưởng các nước đàm phán TPP tại Australia) nêu rõ,
đến nay chỉ còn một số ít các vấn đề còn tồn tại và tiến trình đàm phán đã đạt

nhiều tiến bộ hơn trước.
Tuyên bố chung của Bộ trưởng và Trưởng các đoàn đàm phán TPP sau
Hội nghị Bộ trưởng tại Sydney tháng 10/2014 đã đạt được tiến bộ đáng kể
trên hai nội dung đàm phán cơ bản của Hiệp định đó là: đàm phán về tiếp cận
thị trường và đàm phán về các quy tắc trong thương mại và đầu tư.


12

Một số diễn tiến nổi bật trong đàm phán TPP thời gian vừa qua
Các nước TPP có thể sẽ không xóa bỏ toàn bộ thuế quan
Ban đầu, các nước hướng tới mục tiêu xóa bỏ 100% các dòng thuế, tuy
nhiên điều này khó có thể đạt được là do
- Nhật Bản kiên quyết không mở cửa 5 thị trường nông sản nhạy cảm là
thịt, sữa, đường, gạo và lúa mỳ.
- Ngày 19/5/2014, Bộ Trưởng Thương mại New Zealand Tim Groser đã
ra tín hiệu rằng chính phủ nước này có thể để mở khả năng một hiệp định TPP
cuối cùng không xóa bỏ toàn bộ thuế quan đối với các sản phẩm nông nghiệp
mà vẫn giữ lại một số dòng thuế, miễn sao vẫn đàm bảo một kết quả tổng thể
cuối cùng “có chất lượng cao”.
- Mới đây, Hoa Kỳ không kêu gọi xóa bỏ toàn bộ thuế quan như trước
kia mà chỉ mong muốn đạt được “xóa bỏ thuế quan và mở cửa thị trường đáng
kể cho hàng hóa xuất khẩu của Hoa Kỳ”.
Nhật Bản có thể chỉ dành nhượng bộ riêng cho Hoa Kỳ
Theo đó, Nhật Bản mở cửa 5 thị trường nông sản cho riêng Hoa Kỳ để đổi
lại Hoa Kỳ không áp dụng các biện pháp trả đũa với sản phẩm ô tô của Nhật
Bản. tuy nhiên, điều này đã vấp phải sự phản đối của các nước trong TPP.
Bộ trưởng Thương mại New Zealand Tim Groser nhấn mạnh: bất kỳ
cam kết nào của Nhật bản với Hoa Kỳ phải được thiết kế sao cho các nước
TPP khác cũng phải được lợi tương tự.

Đàm phán dệt may đạt tiến triển tuy nhiên đàm phán về quy tắc xuất xứ
ngày càng phức tạp
Quy tắc cộng gộp và tỷ lệ tối thiểu của nguyên liệu không có xuất xứ
nội khối đang là vấn đề gây nhiều tranh cãi.
Tuy nhiên, bước tiến đạt được là TPP thống nhất là sẽ áp dụng cả hai
phương pháp doanh nghiệp tự chứng nhận xuất xứ sẽ là phương pháp chính
áp dụng phổ biến, nhưng việc xin giấy chứng nhận xuất xứ từ cơ quan có


13

thẩm quyền sẽ vẫn được sử dụng trong một số trường hợp ngoại lệ và trong
một khoảng thời gian nhất định sau khi TPP có hiệu lực.
Đàm phán về DNNN sẽ loại trừ lĩnh vực dịch vụ
Các quan điểm về DNNN trong TPP
- Hoa Kỳ: Áp dụng nguyên tắc minh bạch và cạnh tranh áp dụng riêng
cho DNNN để đảm bảo bình đẳng với doanh nghiệp tư nhân, áp dụng
cho DNNN cấp liên bang.
- Australia: DNNN vẫn kinh doanh trên hệ thống chung, tuy nhiên nếu
có DNNN nào được hưởng vị thế thì phải nộp lại cho NN phần lợi
ích đó.
- Singapore: Không thể bình đẳng giữa DNNN và DN tư nhân.
Hội nghị Bộ trưởng các nước TPP tại Singapore (diễn ra từ 2225/2/2014) đã đi đến thống nhất Chính phủ các nước TPP sẽ không bị hạn chế
trong việc hỗ trợ cho các DNNN khi DNNN đó cung ứng dịch vụ tại thị
trường nội địa. Và các nguyên tắc về cạnh tranh bình đẳng mà các nước đang
đàm phán để đưa vào Chương DNNN trong TPP, nếu có, sẽ chỉ áp dụng cho
các DNNN hoạt động trong lĩnh vực sản xuất hàng hóa và các DNNN cung
cấp dịch vụ ra nước ngoài. Như vậy, những DNNN của các nước TPP hoạt
động trong các lĩnh vực như tài chính, viễn thông, y tế, giáo dục, phân phối,
chuyển phát.... trong thị trường nội địa, nơi mà chúng thường chiếm vị thế

độc quyền, sẽ không bị điều chỉnh.
Ý tưởng mới về bảo hộ sở hữu trí tuệ với dược phẩm
Các nước TPP đã bắt đầu xem xét một phương pháp tiếp cận mới cho
vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm, theo đó vẫn sẽ thiết lập một
gói các nghĩa vụ/tiêu chuẩn chung, duy nhất cho tất cả các nước tham gia (cả
phát triển và đang phát triển) nhưng cho phép lộ trình thực thi dài hơn đối với
các nước đang phát triển, thu nhập thấp.
1.5. Đàm phán đối với MSCP trong TPP


14

Hiện tại, 12 quốc gia thành viên TPP đang đàm phán về những cam kết
mở cửa thị trường dựa trên một biểu cam kết riêng xoay quanh ba tiêu chí.
Thứ nhất, các bên sẽ xây dựng cam kết cơ quan nào của chính phủ sẽ phải mở
cửa đấu thầu cho các đối tác TPP. Thứ hai là phạm vi hàng hóa dịch vụ nào
các nhà cung cấp TPP được quyền tham gia, và cuối cùng là ở ngưỡng giá trị
chào thầu bao nhiêu trở lên thì phải mở cửa.
Các quan điểm trong TPP
- Các nước đã thông nhất về nguyên tắc minh bạch hóa.
- Tuy nhiên, Hoa kỳ chỉ mở cửa mua sắm công ở các đơn vị cấp liên
bang, Canada và Singapore yêu cầu phải mở cửa ở cả cấp bang.
- Với chuyện chọn bỏ hay chọn cho cơ quan nào và loại hàng hóa dịch
vụ nào sẽ được đưa ra chào thầu cho các thành viên TPP vẫn chưa đi đến kết
luận cuối cùng.
1.6. Những cơ hội và thách thức của Việt Nam khi tham gia Hiệp định
TPP
1.6.1. Sự cần thiết tham gia TPP của Việt Nam
Việc tham gia đàm phán TPP là phù hợp với định hướng chiến lược của
Việt Nam là tham gia hội nhập kinh tế quốc tế một cách sâu rộng, toàn diện,

phù hợp với điều kiện của đất nước, và mang lại nhiều lợi ích cho đất nước.
Về địa chính trị, hiệp định TPP, VN-EU FTA và RCEP (Hiệp định Đối
tác Kinh tế Toàn diện Khu vực, viết tắt tiếng Anh: Regional
Comprehensive Economic Partnership) giúp tạo lập sự cân bằng giữa các
nước lớn (Mỹ, EU, Trung Quốc). Đây là định hướng chiến lược trong quan
hệ ngoại giao của Việt Nam.
Về mặt thể chế, tham gia TPP, một hiệp định chất lượng cao sẽ tạo ra
sức ép, “buộc” Việt Nam phải đẩy mạnh việc hoàn thiện thể chế nền kinh
tế, thúc đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình
tăng trưởng. Kinh nghiệm từ việc ký kết BTA, tham gia WTO cho thấy nền


15

kinh tế Việt Nam đều cần những “sức ép” từ bên ngoài để thúc đẩy quá
trình đổi mới và đạt được những giai đoạn tăng trưởng kinh tế.
Về mặt kinh tế, mang lại lợi ích kinh tế lớn cho Việt Nam trong việc
phát triển kinh tế và đảy mạnh xuất khẩu, tạo thuận lợi cho thương mại và
hiệu quả trong chuỗi cung ứng, hiện đại hoá các lĩnh vực dịch vụ, đẩy
nhanh cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước, mở cửa thị trường mua
sắm; thuận lợi trong tiếp cận thị trường tất cả các nước TPP, trong đó có
các lĩnh vực quan trọng của Việt Nam như nuôi trồng thuỷ sản, dệt may, da
giầy, đồ nội thất; được giảm thuế đối với hàng hoá xuất khẩu; cải thiện các
biện pháp hạn chế nhập khẩu; có cơ hội được công nhận là nền kinh tế thị
trường sớm hơn...
Để thúc đẩy cải cách kinh tế và nâng cao trình độ phát triển của Việt
Nam rất cần thiết phải mở cửa nền kinh tế. Đồng thời, những cải cách và
chính sách mở cửa tích cực lại tạo cơ hội để Việt Nam hội nhập quốc tế
thành công. TPP vừa tạo ra thách thức, vừa tạo ra sức ép để Việt Nam đẩy
mạnh cải cách thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh, cải cách khu vực

DNNN, hoàn thiện hệ thống luật pháp…Những cải cách này trước mắt là
để bảo đảm đủ điều kiện cho Việt Nam bước vào "sân chơi” TPP…, song
về lâu dài, có tác động tích cực đối với lành mạnh hóa nền kinh tế, thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Thông qua TPP, các quan hệ thương mại, đầu tư và hợp tác giáo dục,
khoa học công nghệ giữa Việt Nam với các thành viên TPP có thể cải thiện,
mở rộng nhanh chóng. Theo đó, tạo thêm nguồn lực từ bên ngoài giúp Việt
Nam phát triển, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn mới.
Theo nghiên cứu của Trung tâm Đông – Tây (Mỹ), các quốc gia có
quy mô kinh tế nhỏ, đặc biệt là Việt Nam sẽ nhận được nhiều lợi ích nhất
từ TPP cũng như các hiệp định thương mại tự do trong khu vực. Trung tâm


16

này dự báo, đến năm 2025, GDP của Việt Nam sẽ tăng thêm 14,7%, chủ
yếu nhờ vào việc mở rộng thương mại thông qua TPP.
1.6.2. Những thuận lợi khi gia nhập TPP
Nếu ra đời, TPP sẽ trở thành một trong những khu vực thương mại
lớn nhất thế giới với hơn 800 triệu người, đóng góp hơn 40% GDP của thế
giới và khoảng 30% kim ngạch thương mại toàn cầu và mang lại lợi ích
tổng thể cho tất cả các quốc gia tham gia vào hiệp định.
Đối với Việt Nam, có thể phân tích cụ thể các thuận lợi khi tham gia
TPP như sau:
(i) Nhóm các lợi ích khai thác từ thị trường nước ngoài (các nước đối
tác TPP)
Lợi ích ở thị trường các nước đối tác TPP mà Việt Nam có thể tận
dụng từ TPP thể hiện ở 2 hình thức chủ yếu:
-


Lợi ích thuế quan (đối với thương mại hàng hóa):

Lợi ích này được suy đoán là sẽ có được khi hàng hóa Việt Nam
được tiếp cận các thị trường này với mức thuế quan thấp hoặc bằng 0. Như
vậy lợi ích này chỉ thực tế nếu hàng hóa Việt Nam đang phải chịu mức thuế
quan cao ở các thị trường này và thuế quan là vấn đề duy nhất cản trở sức
cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên các thị trường này.
Là một nền kinh tế định hướng xuất khẩu, việc chúng ta có thể tiếp
cận các thị trường lớn như Hoa Kỳ với mức thuế suất bằng 0 hoặc thấp như
vậy sẽ mang lại một lợi thế cạnh tranh vô cùng lớn và một triển vọng hết
sức sáng sủa cho nhiều ngành hàng của chúng ta, kéo theo đó là lợi ích cho
một bộ phận lớn người lao động hoạt động trong các lĩnh vực phục vụ xuất
khẩu. Lợi ích này không chỉ dừng lại ở những nhóm mặt hàng mà Việt
Nam đang có thế mạnh xuất khẩu (ví dụ như dệt may, giầy dép…), nó còn
là động lực để nhiều nhóm mặt hàng khác hiện chưa có kim ngạch đáng kể
có điều kiện để gia tăng sức cạnh tranh. Nói một cách khác, lợi thế này


17

không chỉ nhìn từ góc độ hiện tại mà còn được nhìn thấy ở cả tiềm năng
trong tương lai.
Tuy nhiên, lợi ích này cần được đánh giá một cách chừng mực hơn,
đặc biệt khi quyết định đánh đổi quyền tiếp cận thị trường Việt Nam của
hàng hóa nước ngoài để có được những lợi ích này. Cụ thể:
+ Thực tế, cơ hội tăng mạnh xuất khẩu không phải cho tất cả khi mà
ví dụ đối với Hoa Kỳ, hàng thủy sản chưa chế biến hay đồ gỗ (hai lĩnh vực
xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang thị trường này) thực tế đã đang được
hưởng mức thuế suất gần bằng 0, vì vậy có TPP hay không cũng không
quan trọng. Cũng như vậy, dù rằng tương lai không hẳn chắc chắn nhưng

một số mặt hàng có thể được Hoa Kỳ xem xét cho hưởng GSP “miễn phí”
nếu chúng ta có nỗ lực vận động tốt mà không cần TPP với những cái giá
phải trả có thể lớn (bằng việc mở cửa thị trường nội địa cũng như những
ràng buộc khác). Đối với các ngành thuộc nhóm này, lợi ích thuế quan là
không đáng kể (hoặc không có). Tình trạng tương tự với một số thị trường
khác (ví dụ Úc, New Zealand, Peru hiện đã áp dụng mức thuế 0% cho các
sản phẩm thủy sản như cá, tôm, cua… của Việt Nam);
+ Đối với những mặt hàng khác, trong khi cơ hội tăng xuất khẩu với
giá cạnh tranh là có thật và rất lớn (ví dụ dệt may, da giầy), những rào cản
dưới dạng quy định kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ hay kiện phòng vệ thương mại
với quy chế nền kinh tế phi thị trường mà Hoa Kỳ thực hiện rất có thể sẽ vô
hiệu hóa lợi ích từ việc giảm thuế quan. Cũng như vậy những điều kiện
ngặt nghèo về lao động, về xuất xứ nguyên liệu cũng có thể khiến hàng hóa
Việt Nam không tận dụng được lợi ích từ việc giảm thuế trong TPP.
Nói một cách khác, những lợi ích về thuế quan trên thị trường nước
đối tác TPP (đặc biệt là Hoa Kỳ) chỉ thực sự đầy đủ khi xem xét tất cả các
yếu tố. Và nếu bất kỳ yếu tố nào trong số những rào cản đối với hàng xuất
khẩu không được cải thiện thì lợi ích thuế quan từ TPP sẽ bị giảm sút, thậm


18

chí nếu những rào cản này bị lạm dụng, lợi ích từ thuế quan có thể bị vô
hiệu hóa hoàn toàn. Phương án đàm phán về thuế quan vì vậy cần phải lưu
ý đến tất cả những yếu tố này.
-

Lợi ích tiếp cận thị trường (đối với thương mại dịch vụ và đầu tư)

Về lý thuyết Việt Nam sẽ được tiếp cận thị trường dịch vụ của các

nước đối tác thuận lợi hơn, với ít các rào cản và điều kiện hơn. Tuy vậy
trên thực tế dịch vụ của Việt Nam hầu như chưa có đầu tư đáng kể ở nước
ngoài do năng lực cung cấp dịch vụ của các doanh nghiệp Việt Nam còn
yếu kém. Trong tương lai, tình hình này có thể thay đổi đôi chút (với
những nỗ lực trong việc xuất khẩu phần mềm, đầu tư viễn thông hay một số
lĩnh vực dịch vụ khác) tuy nhiên khả năng này tương đối nhỏ.
Ngoài ra, với hiện trạng mở cửa tương đối rộng về dịch vụ của các
đối tác quan trọng trong TPP như hiện nay, lợi ích này có thể không có ý
nghĩa (bởi có hay không có TPP thì thị trường dịch vụ của họ cũng đã mở
sẵn rồi). Đây cũng chính là lý do nhiều ý kiến cho rằng các nước phát triển
sẽ được lợi về dịch vụ trong TPP trong khi những nước như Việt Nam hầu
như không hưởng lợi gì từ việc này.
(ii) Nhóm các lợi ích khai thác được tại thị trường nội địa (Việt Nam)
Trong thực thi các FTA, thị trường nội địa thường được hiểu là nơi
chịu thiệt hại. Tuy nhiên, đối với trường hợp của Việt Nam, nhiều chuyên
gia nhấn mạnh rằng chúng ta có thể “có lời” từ TPP ngay cả ở thị trường
nội địa, nơi vốn được xem là “chỉ chịu thiệt” từ các FTA nói chung.
“Khoản lời” này nằm ở những khía cạnh sau đây:
-

Lợi ích từ việc giảm thuế hàng nhập khẩu từ các nước

TPP: Người tiêu dùng và các ngành sản xuất sử dụng nguyên liệu nhập
khẩu từ các nước này làm nguyên liệu đầu vào sẽ được hưởng lợi từ hàng
hóa, nguyên liệu giá rẻ, giúp giảm chi phí sinh hoạt và sản xuất, từ đó có
thể giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của những ngành này;


19


-

Lợi ích từ những khoản đầu tư, dịch vụ đến từ Hoa Kỳ và các

nước đối tác TPP: Đó là một môi trường kinh doanh cạnh tranh hơn, mang
lại dịch vụ giá rẻ hơn chất lượng tốt hơn cho người tiêu dùng, những công
nghệ và phương thức quản lý mới cho đối tác Việt Nam và một sức ép để
cải tổ và để tiến bộ hơn cho các đơn vị dịch vụ nội địa;
-

Lợi ích đến từ những thay đổi thể chế hay cải cách để đáp ứng

những đòi hỏi chung của TPP: TPP dự kiến sẽ bao trùm cả những cam kết
về những vấn đề xuyên suốt như sự hài hòa giữa các quy định pháp luật,
tính cạnh tranh, vấn đề hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, chuỗi
cung ứng, hỗ trợ phát triển… Đây là những lợi ích lâu dài và xuyên suốt
các khía cạnh của đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt có ý nghĩa đối với
nhóm doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất (doanh nghiệp nhỏ và vừa) và
do đó là rất đáng kể;
-

Lợi ích đến từ việc mở cửa thị trường mua sắm công: Mặc dù

mức độ mở cửa đối với thị trường mua sắm công trong khuôn khổ TPP
chưa được xác định cụ thể nhưng nhiều khả năng các nội dung trong Hiệp
định về mua sắm công trong WTO sẽ được áp dụng cho TPP, và nếu điều
này là thực tế thì lợi ích mà Việt Nam có được từ điều này sẽ là triển vọng
minh bạch hóa thị trường quan trọng này – TPP vì thế có thể là một động
lực tốt để giải quyết những bất cập trong các hợp đồng mua sắm công và
hoạt động đấu thầu xuất phát từ tình trạng thiếu minh bạch hiện nay;

-

Lợi ích đến từ việc thực thi các tiêu chuẩn về lao động, môi

trường: Mặc dù về cơ bản những yêu cầu cao về vấn đề này có thể gây khó
khăn cho Việt Nam (đặc biệt là chi phí tổ chức thực hiện của Nhà nước và
chi phí tuân thủ của doanh nghiệp) nhưng xét một cách kỹ lưỡng một số
tiêu chuẩn trong đó (ví dụ về môi trường) sẽ là cơ hội tốt để Việt Nam làm
tốt hơn vấn đề bảo vệ môi trường (đặc biệt trong đầu tư từ các nước đối tác
TPP) và bảo vệ người lao động nội địa.


20

Theo một nghiên cứu định lượng của Trung tâm Đông – Tây (Trung
tâm nghiên cứu được Quốc hội Mỹ thành lập), thì tác động của TPP trong
thời gian đầu là tương đối nhỏ, song đến năm 2025, TPP có thể đem lại gia
tăng thu nhập cho nền kinh tế toàn cầu lên đến 104 tỷ USD. Nghiên cứu
này đề cập đến hai con đường hướng tới tự do hóa trong khu vực châu Á –
Thái Bình Dương: thứ nhất là đi từ các hiệp định thương mại tự do của các
nước trong khu vực, mà chủ yếu bắt đầu từ các hiệp định của ASEAN, rồi
tiến đến một hiệp định thương mại tự do cho cả khu vực; thứ hai là đi từ
TPP, mở rộng dần cho các nước trong khu vực, và tiến đến xây dựng hiệp
định cho tất cả các quốc gia trong khu vực. Trong nghiên cứu này, các quốc
gia TPP được hiểu là bên cạnh 11 quốc gia đã chính thức nhận lời tham gia
đàm phán còn có thêm Nhật Bản và Hàn Quốc, tổng cộng là 13 quốc gia.
Nghiên cứu này chỉ ra rằng TPP là con đường dẫn đến tự do hóa khu vực
đem lại lợi ích nhiều nhất cho các quốc gia. Vào năm 2025 GDP toàn cầu
gia tăng 104,3 tỷ USD, tương ứng với mức gia tăng 0,1%. Tất cả các quốc
gia tham gia TPP đều thu được lợi ích từ Hiệp định này.



×