Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Hoạt động đầu tư theo dự án tại Tổng công ty tài chính cổ phần dầu khí Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (718.64 KB, 90 trang )

Luận văn tốt nghiệp
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA ĐẦU TƯ
PHẠM THỊ TÚ ANH

HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ THEO DỰ ÁN TẠI TỔNG CÔNG TY
TÀI CHÍNH CỔ PHẦN DẦU KHÍ VIỆT NAM.
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI, NĂM 2011
Luận văn tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Đầu tư theo dự án là một hình thức phổ biến, có hiệu quả, là công cụ quản lý
việc sử dụng vốn, vật tư, lao động để tạo ra các kết quả tài chính, kinh tế xã hội trong
một thời gian dài. Dự án đầu tư có tầm quan trọng đặc biệt với sự nghiệp phát triển
kinh tế nói chung và đối với từng doanh nghiệp nói riêng. Sự thành bại của một
doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào việc đầu tư dự án có hiệu quả hay không. Các
doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đã được chủ động trong việc huy động và sử dụng
vốn. Việc triển khai thực hiện hoạt động đầu tư theo dự án giúp doanh nghiệp mở
rộng quy mô, đổi mới máy móc thiết bị, nâng cao năng lực cạnh tranh….
Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam (PVFC) là một tổ chức tín
dụng phi ngân hàng và là đơn vị thành viên của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt
Nam. Từ ngày đầu thành lập, PVFC xác định hoạt động đầu tư, hợp tác đầu tư, thu
xếp vốn là các sản phẩm, dịch vụ mũi nhọn đưa lại doanh số lớn. PVFC sẽ phát huy
tối đa hạn mức đầu tư dự án được phép, nâng cao khối lượng vốn uỷ thác đầu tư, tập
trung vào các lĩnh vực: Dầu khí, năng lượng, khoáng sản, du lịch cao cấp, vật liệu
xây dựng và tham gia một số dự án ngành khác đạt hiệu quả kinh tế cao và đảm bảo
an toàn vốn đầu tư. Ngoài việc thu xếp vốn, PVFC còn thực hiện đầu tư, làm chủ đầu
tư trong các dự án như: Dự án thủy điên Sông Vàng, dự án thủy điện Bát đại Sơn, dự
án xây dựng sân Golf – Ninh Bình….


Bên cạnh những thành công khi thực hiện đầu tư dự án, hiện tại Tổng công ty
cổ phần dầu khí Việt Nam vẫn còn đang tồn tại nhiều yếu kém đó là chậm tiến độ
theo kế hoạch, khó khăn trong việc huy động vốn cho dự án đầu tư, công tác quản lý
dự án còn nhiều bất cập, khiếm khuyết từ việc chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư, vận
hành kết quả đầu tư. Từ thực tế đó, hiểu rõ tình hình đầu tư dự án đã và đang là một
yêu cầu đặt ra rất cấp thiết. Chính vì vậy: đánh giá đúng thực trạng và từ đó đưa ra
các giải pháp nhằm tăng cường đầu tư theo dự án đầu tư nói chung và đặc biệt là
Tổng công ty tài chính cổ phần dầu khí Việt Nam là vấn đề cần thiết và có ý nghĩa
trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ thực tế đó em đã chọn đề tài nghiên cứu với nội dung:
1
Luận văn tốt nghiệp
“Hoạt động đầu tư theo dự án tại Tổng công ty tài chính cổ phần dầu khí
Việt Nam”.
2. Mục đích nghiên cứu.
- Hệ thống hoá và góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lí luận chung về dự án
đầu tư và đầu tư theo dự án ở doanh nghiệp với mô hình Tập đoàn.
- Phân tích thực trạng đầu tư dự án ở TCT tài chính cổ phần dầu khí Việt Nam
- Đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường đầu tư theo dự án ở TCT.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3.1Đối tượng nghiên cứu: là các dự án đầu tư tại Tổng công ty tài chính cổ phần
dầu khí Việt Nam.
3.2 Phạm vi nghiên cứu: Luận văn đi sâu vào tìm hiểu, phân tích thực trạng đầu tư
dự án trong giai đoạn 2006-2010 tại PVFC. Các dự án đầu tư do TCT làm chủ
đầu tư.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn đựơc tác giả sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng, logic,
so sánh, phân tích tổng hợp, sử dụng mô hình SWOT đánh giá thực trạng..
Các số liệu trong luận văn dựa trên các báo cáo tổng hợp tình hình quản lý
và giám sát dự án đầu tư đối với các hoạt động đầu tư của PVFC, số liệu thực tế từ

các dự án tổng hợp, các bài viết được đăng trên các tạp chí, các tờ báo, sách, luận án,
các báo cáo hàng năm của Bộ tài chính, các trang Web…để từ đó tiếp cận, gợi mở
một số ý tưởng nghiên cứu.
5. Tên và kết cấu luận văn.
Tên luận văn: “Hoạt động đầu tư theo dự án tại Tổng công ty tài chính
cổ phần dầu khí Việt Nam”.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu
thành 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động đầu tư dự án trong doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng đầu tư theo dự án tại Tổng công ty tài chính cổ phần
dầu khí Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp tăng cường đầu tư theo dự án tại Tổng công ty tài
chính cổ phần dầu khí Việt Nam.

2
Luận văn tốt nghiệp
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ DỰ ÁN CỦA
DOANH NGHIỆP
1.1 Lí luận chung về dự án đầu tư.
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm
1.1.1.1 Khái niệm dự án đầu tư
Đầu tư là hoạt động sử dựng, kết hợp các nguồn lực (vốn, lao động, tài
nguyên, công nghệ) vào một công việc nhất định ở hiện tại nhằm mục đích thu được
các kết quả ở tương lai. Đầu tư là hoạt động rất đa dạng, phức tạp với nhiều hình thái
như: đầu tư gián tiếp, đầu tư trực tiếp, đầu tư chuyển dịch, đầu tư phát triển (ĐTPT),
đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài… Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư mà
người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và cận hành
kết quả đầu tư, còn đầu tư gián tiếp thì người đầu tư chỉ bỏ vốn mà không trực tiếp
tham gia quản lý, điều hành. Đầu tư chuyển dịch là việc bỏ vốn nhằm dịch chuyển
quyền sở hữu giá trị của tài sản mà không làm tăng giá trị tài sản. ĐTPT nhằm duy trì

và tạo ra năng lực mới, tài sản mới cho nền kinh tế. ĐTPT có vai trò quan trọng đối
với tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, tác động tới chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, vừa tác động tới tổng cung, vừa tác động tới tổng cầu của nền kinh tế.
Để đầu tư đảm bảo tính khoa học, đạt được mục tiêu, đem lại hiệu quả kinh tế,
xã hội cao thì trước khi bỏ vốn đầu tư phải làm tốt công tác chuẩn bị, phải xem xét,
tính toán toàn diện các khía cạnh kinh tế kỹ thuật, kinh tế tài chính, thị trường, điều
kiện tự nhiên, môi trường, các yếu tố chủ quan, khách quan…có liên quan và tác
động đến quá trình thực hiện đầu tư, quá trình khai thác vận hành các kết quả đầu tư.
Mọi sự xem xét, tính toán, dự đoán, chuẩn bị được thể hiện trong việc soạn thảo và
trình bày một cách khoa học các văn bản, tài liệu, hồ sơ…Về hình thức, đó chính là
các dự án đầu tư. Vì vậy, khi tiến hành các hoạt động đầu tư thì cần thiết phải tiến
hành theo các dự án đầu tư.
Đầu tư dự án là một phương thức cơ bản của ĐTPT, là hoạt động đầu tư, sử
dụng vốn, lao động, vật tư, và các công việc liên quan trên cơ sở tính toán hiệu quả
kinh tế xã hội theo kế hoạch đã định nhằm duy trì, tạo thêm các tiềm lực mới cho nền
kinh tế. Vốn đầu tư dự án là tổng hợp các nguồn lực được sử dụng trong quá trình
ĐTPT nhằm thực hiện các mục tiêu đầu tư.
3
Luận văn tốt nghiệp
Dự án đầu tư được nhìn nhận dưới nhiều giác độ khác nhau. Sự khác nhau về
quan niệm này bắt nguồn từ sự khác nhau trong quan niệm về dự án đầu tư nói
chung. Tại điều 5, Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành theo Nghị định số
52/1999/NĐ-CP quy định: “Dự án đầu tư là một tập hợp các đề xuất có liên quan đến
việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm
đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến,nâng cao chất lượng của
sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định (chỉ bao gồm hoạt động đầu
tư trực tiếp)”. Theo tác giả Bùi Mạnh Hùng: “Dự án đầu tư là tập hợp những đề xuất
về việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt
được sự tăng trưởng về số lượng, cải tiến hoặc nâng cao chất lượng của sản phẩm
hay dịch vụ nào đó trong khoảng thời gian nhất định.” Luật Đầu tư năm 2005 tại điều

3, khoản 8 quy định: “Dự án đầu tư là tập hợp các đề xuất bỏ vốn trung và dài hạn
nào đó trong khoảng thời gian xác định”. Ngân hàng Thế giới cho rằng, dự án đầu tư
là tổng thể các chính sách, hoạt động và chi phí liên quan với nhau được hoạch định
nhằm đạt được mục tiêu nào đó trong thời gian nhất định.
Dự án đầu tư có thể được xem xét từ nhiều góc độ:
Xét về mặt hình thức: dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách
chi tiết có hệ thống các hoạt động và chi phí theo kế hoạch nhằm đạt được những kết
quả và thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai.
Xét về góc độ quản lý: Dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử dụng vốn,
vật tư, lao động để tạo ra cấc kết quả tài chính, kinh tế xã hội trong một thời gian dài.
Xét trên góc độ kế hoạch hóa: Dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch
chi tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất kianh doanh, phát triển kinh tế - xã hội,
làm tiền đề cho các quyết định đầu tư và tài trợ. Xét theo góc độ này, dự án đầu tư là
một hoạt động kinh tế riêng biệt nhỏ nhất trong công tác kế hoạch hóa nền kinh tế nói
chung (Một đơn vị sản xuất kinh doanh cùng một thời kỳ có thể thực hiện nhiều dự
án).
Xét về mặt nội dung: dự án đầu tư là một tổng thể các hoạt động và chi phí
cần thiết, được bố trí theo một kế hoạch chặt chẽ với lịch thời gian và địa điểm xác
định để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm thực hiện
những mục tiêu nhất định trong tương lai.
4
Luận văn tốt nghiệp
Tuy có thể đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về dự án đầu tư, nhưng bao giờ
cũng có bốn thành phần chính sau:
+ Các nguồn lực: Vốn, lao động, đất đai, tài nguyên thiên nhiên, thiết bị, công
nghệ, nguyên vật liệu..v..v..
+ Hệ thống các giải pháp đồng bộ, để thực hiện các mục tiêu, tạo ra các kết
quả cụ thể.
+ Các kết quả: Đó là những kết quả cụ thể, có thể định lượng được tạo ra từ
các hoạt động khác nhau của dự án.

+ Mục tiêu kinh tế xã hội của dự án: Mục tiêu nay thường được xem xét dưới
hai giác độ. Đối với doanh nghiệp đó là mục đích thu hồi vốn, tạo lợi nhuận và vị thế
phát triển mới của doanh nghiệp. Đối với xã hội đó là việc phù hợp với quy hoạch
định hướng phát triển, kinh tế, tạo thêm việc là và sản phẩm, dịch vụ cho xã hội, bảo
vệ tài nguyên và môi trường sinh thái.
Trong luận văn này, dự án đầu tư là tập hợp các hoạt động liên quan mật thiết
với nhau về sử dụng các nguồn lực để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối
tượng nhất định trên địa bàn cụ thể nhằm đạt được mục tiêu trong khoảng thời gian
xác định.
1.1.1.2 Đặc điểm dự án đầu tư.
Một là, dự án đầu tư có tính chu trình và được thực hiện theo một trình tự chặt
chẽ. Bất kỳ một công trình hay dự án đầu tư nào đều có một chu trình chung gồm: ý
tưởng hình thành dự án đầu tư, chuẩn bị dự án đầu tư, thực hiện dự án đầu tư, kết
thức đầu tư, bàn giao đưa vào sử dụng, vận hành các kết quả đầu tư và đánh giá kết
thúc dự án. Đầu tư dự án được xây dựng, luận chứng, thẩm định và phê duyệt theo
quy trình chặt chẽ, phức tạp. Điều này nhằm đảm bảo hơn tính khoa học, sự chắc
chắn của quá trình đầu tư dự án.
Hai là, dự án đầu tư có mục đích, mục tiêu rõ ràng. Dự án ngay từ giai đoạn
hình thành phải xác định được mục tiêu đầu tư. Việc thực hiện dự án nhằm giải quyết
được lợi ích về gì về kinh tế, xã hội, tài chính, ai được hưởng lợi từ dự án? Như vậy,
bất kỳ một dự án nào được lập, thẩm địnhv à phê duyệt đều phải đảm bảo tính mục
đích. Chỉ khi làm rõ tính mục đích của dự án đầu tư thì việc bỏ vốn để triển khai thực
hiện dự án mới ý nghĩa và mang lại hiệu quả.
5
Luận văn tốt nghiệp
Ba là, dự án luôn có tính kết quả. Kết quả của dự án chính là các công trình
xây dựng được hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng có thể là các công trình hạ tầng
kỹ thuật hoặc các công trình hạ tầng xã hội. Các kết quả của dự án đầu tư được tạo ra
nhằm thực hiện mục tiêu đề ra.
Bốn là, nguồn lực đảm bảo cho dự án. Để đảm bảo triển khai được các dự án

đầu tư đạt được mục tiêu đầu tư thì phải bố trí nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực)
ngay từ giai đoạn đầu tiên đến giai đoạn cuối cùng của chu trình đầu tư. Sẽ thiếu thực
tế nếu dự án đầu tư được lập ra nhưng không được bảo đảm chắc chắn về mặt nguồn
lực. Vì vậy, quá trình lập, thẩm định, phê duyệt dự án, vấn đề xác định nguồn lực và
tính khả thi của nó rất quan trọng, quyết định đến chất lượng và tiến độ thực hiện dự
án.
Năm là, về chủ thể tham gia dự án đầu tư. Bất kỳ một dự án đầu tư nào đều có
sự tham gia của các chủ thể bao gồm: chủ đầu tư, các nhà thầu, tổ chức tài trợ vốn và
các cơ quan quản lý.
Sáu là, dự án đầu tư bao giờ cũng được tiến hành trong một thời gian xác định.
Thời gian dài hay ngắn phụ thuộc vào quy mô, mức độ, tính chất của dự án.
1.1.2 Phân loại dự án đầu tư.
Để thuận tiện cho việc theo dõi, quản lý và đề ra các biện pháp nhằm nâng cao
hiệu quả của hoạt động đầu tư. Có thể phân loại dự án đầu tư theo các tiêu thức sau:
- Theo nguồn vốn thì dự án đầu tư có thể phân chia thành:
Một là, dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước phản ánh toàn bộ
những chi phí mà tiền Ngân sách nhà nước bỏ ra dùng cho việc xây dựng mới, mở
rộng, xây dựng lại và khôi phục tài sản cố định trong một thời kỳ nhất định, bao gồm:
chi phí khảo sát, quy hoạch, chi phí chuẩn bị và các khoản chi phí khác thực hiện
trong một thời kỳ nhất định. Vốn đầu tư của Nhà nước thuộc sở hữu Nhà nước nên
không có chủ đầu tư đích thực. Vốn nhà nước là sở hữu toàn dân, để thực hiện đầu tư
dự án Nhà nước ủy thác, giao quản lý vốn đó cho tổ chức hoặc cá nhân đại diện cho
vốn Nhà nước được pháp thực hiện các quá trình đầu tư. Việc quản lý vốn đầu tư dự
án của Nhà nước được thực hiện ở nhiều cơ quan, nhiều khâu theo sự phân cấp nhất
định. Đây là một nguồn vốn quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
của mỗi quốc gia.
6
Luận văn tốt nghiệp
Hai là, dự án đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước,
vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh: cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, tín dụng

đầu tư phát triển của Nhà nước ngày càng đóng vai trò đáng kể trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có tác dụng
tích cực trong việc giảm đáng kể bao cấp vốn trực tiếp của Nhà nước. Với cơ chế tín
dụng, các đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay.
Chủ đầu tư là người vay vốn, phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm
hơn.
Ba là, dự án đầu tư bằng nguồn vốn huy động của doanh nghiệp và các nguồn
vốn khác. Đây là nguồn vốn có sự phát triển và thay đổi khá mạnh khi nền kinh tế có
sự chuyển biến. Các doanh nghiệp luôn là lực lượng đi đầu trong việc ứng dụng tiến
bộ khoa học công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội
và chấp hành pháp luật nên nguồn vốn xuất phát từ nó có vai trò hữu hiệu hỗ trợ cho
sự định hướng điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Bốn là, dự án đầu tư có vốn đầu tư nước ngoài
Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nuớc ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là
dòng lưu chuyển vốn quốc tế (international capital flows). Về thực chất, các dòng lưu
chuyển vốn quốc tế là biểu thị quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các
quốc gia trên thế giới. Trong các dòng lưu chuyển vốn quốc tế, dòng từ các nước phát
triển đổ vào các nước đang phát triển thường được các nước thế giới thứ ba đặc biệt
quan tâm. Dòng vốn này diễn ra với nhiều hình thức. Mỗi hình thức có đặc điểm,
mục tiêu và điều kiện thực hiện riêng, không hoàn toàn giống nhau.
Thứ nhất, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài :
Là vốn của các doanh nghiệp, các cá nhân người nước ngoài. Đầu tư trực tiếp
nước ngoài được thực hiên dưới các hình thức chủ yếu sau:
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh
- Doanh nghiệp liên doanh
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
- Các hợp đồng BOT, BT, BTO
Thứ hai, vốn đầu tư gián tiếp :
Là vốn của các chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ được
thực hiện dưới các hình thức viện trợ không hoàn lại, có hoàn lại, cho vay ưu đãi với

7
Luận văn tốt nghiệp
thời hạn dài lãi suất thấp cho các nước khác. Một hình thức quan trọng của hình thức
này là vốn ODA.
Vốn đầu tư nước ngoài là cần thiết đối với sự phát triển dự án đầu tư ở nước
ta. Nhưng cũng cần phải khẳng định một điều đối với sự phát triển đất nước, vốn
trong nước có vai trò quyết định, vốn đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng. Vốn
trong nước quyết định chủ động trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng, quyết định thực
hiện thắng lợi các mục tiêu xã hội, quyết định chủ động xây dựng một cơ cấu kinh tế
hợp lý tạo sự phát triển cân đối, quyết định tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc
làm, là bộ phận đối ứng để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tạo cơ sở thuận lợi để thu
hút vốn đầu tư nước ngoài. Còn vốn đầu tư nước ngoài hỗ trợ bổ sung những thiếu
hụt vốn đầu tư góp phần đẩy nhanh mức tiết kiệm nội địa và tăng tỷ trọng vốn đầu tư
nội địa, góp phần nâng cao trình độ khoa học công nghệ của nền kinh tế, của các
ngành, góp phần nầng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế.
Năm là, dự án đầu tư bằng bằng nguồn vốn hỗn hợp.
Việc phân loại này cho thấy tình hình huy động vốn từ mỗi nguồn, vai trò của
mỗi nguồn vốn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành, từng địa phương
và toàn bộ nền kinh tế cũng như có giải pháp thích hợp đối với việc quản lý các dự án
đối với từng nguồn vốn huy động.
- Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội: Dự án đầu tư có thể phân chia thành dự án
đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư phát triển khoa học kĩ thuật, dự án
đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng (kĩ thuật và xã hội)… hoạt động của các dự án đầu tư
này có quan hệ tương hỗ với nhau. Chẳng hạn các dự án đầu tư phát triển khoa học
kỹ thuật và cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh đạt hiệu quả cao, còn các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đến lượt
mình lại tạo tiềm lực cho các dự án đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, cơ sở hạ tầng
và các dự án đầu tư khác.
- Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi vốn đã bỏ ra.

Ta có thể phân chia các dự án đầu tư thành dự án đầu tư ngắn hạn (như dự án
đầu tư thương mại) và dự án đầu tư dài hạn (các dự án đầu tư sản xuất, đầu tư phát
triển khoa học kỹ thuật, xây dựng cơ sở hạ tầng …)
8
Luận văn tốt nghiệp
- Theo sự phân cấp quản lý dự án (theo thẩm quyền quyết định hoặc cấp giấy phép
đầu tư).
Tùy theo tầm quan trọng và quy mô của dự án, dự án đầu tư được chia làm 4
nhóm: dự án quan trọng quốc gia (do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư), dự án
nhóm A, dự án nhóm B, dự án nhóm C. Đối với các dự án nhóm B, dự án nhóm C.
Đối với các dự án đầu tư nước ngoài được chia thành 3 nhóm: dự án nhóm A, dự án
nhóm B và các dự án phân cấp cho các địa phương.
- Theo cấp độ nghiên cứu gồm 2 loại: Dự án tiền khả thi và dự án khả thi.
Dự án tiền khả thi là kết quả của giai đoạn nghiên cứu tiền khả thi (giai đoạn
sơ bộ lựa chọn dự án). Nội dung của dự án tiền khả thi còn sơ bộ chưa chi tiết. Kết
quả nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở mức độ đánh giá lại cơ hội đầu tư để lựa chọn
quyết định có nên chuyển sang giai đoạn tiếp theo; giai đoạn nghiên cứu khả thi hay
không.
Dự án khả thi là kết quả của giai đoạn nghiên cứu khả thi. Nội dung của dự án
khả thi chi tiết, mức độ chính xác cao. Nó là căn cứ để chủ đầu tư, các cơ quan có
thẩm quyền của nhà nước ra quyết định đầu tư hoặc cho phép đầu tư.
- Theo vùng lãnh thổ (theo tỉnh, vùng kinh tế của đất nước).
Cách phân loại này cho thấy tình hình đầu tư của từng tỉnh, từng vùng kinh tế
và ảnh hưởng của đầu tư đối với tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa
phương.
Ngoài ra trong thực tế, để áp dụng yêu cầu quản lý và nghiên cứu kinh tế,
người ta còn phân chia dự án đầu tư theo quan hệ sở hữu, theo quy mô và theo nhiều
tiêu thức khác.
- Theo cơ cấu tái sản xuất: Dự án đầu tư được phân thành dự án đầu tư theo chiều
rộng và dự án đầu tư theo chiều sâu. Trong đó dự án đầu tư chiều rộng thường đòi

hỏi khối lượng vốn lớn, thời gian thực hiện đầu tư và thời gian cần hoạt động để thu
hồi đủ vốn lâu, tính chất kỹ thuật phức tạp, độ mạo hiểm cao. Còn dự án đầu tư theo
chiều sâu thường đòi hỏi khối lượng vốn ít hơn, thời gian thực hiện đầu tư không lâu,
độ mạo hiểm thấp hơn so với đầu tư theo chiều rộng.
1.1.3 Quá trình hình thành và thực hiện một dự án đầu tư.
9
Luận văn tốt nghiệp
Chu kỳ của một dự án đầu tư là các bước hoặc các giai đoạn mà một dự án
phải trải qua bắt đầu từ khi dự án mới chỉ là ý đồ cho đến khi dự án được hoàn thành
chấm dứt hoạt động.
Các giai đoạn của chu kỳ dự án đầu tư gồm: Chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư
và vận hành các kết quả đầu tư (còn gọi là giai đoạn vận hành, khai thác của dự án).
Các bước công việc trong các giai đoạn của chu kỳ dự án đầu tư sản xuất công
nghiệp có thể được minh họa như sau:
10
Luận văn tốt nghiệp
Bảng 1.1.3 Các giai đoạn của chu kỳ dự án đầu tư.
Chuẩn bị đầu tư Thực hiện đầu tư
Vận hành kết quả đầu
tư (sx, kd, dv)
Nghiên
cứu phát
hiện các
cơ hội
đầu tư
Nghiên
cứu tiền
khả thi sơ
bộ lựa
chọn dự

án
Nghiên
cứu
khả thi
(lập dự
án –
LCKT)
Đánh
giá và
quyết
định
(thẩm
định
dự án)
Hoàn
tất các
thủ tực
để
triển
khai
thực
hiện
đầu tư
Thiết
kế và
lập dự
toán
thi
công
xây

lắp
công
trình
Thi
công
xây
lắp
công
trình
Chạy
thử và
nghiệm
thu sử
dụng
Sử
dụng
chưa
hết
công
suất
Sử
dụng
công
suất ở
mức
cao
nhất
Công
suất
giảm

dần và
kết
thực
dự án
1.1.3.1 Giai đoạn chuẩn bị đầu tư.
Giai đoạn này chính là giai đoạn tạo tiền đề và quyết định thành công hay thất
bại ở hai giai đoạn sau, đặc biệt là đối với giai đoạn vận hành kết quả đầu tư.
Do đó, đối với giai đoạn chuẩn bị đầu tư, vấn đề chất lượng, vấn đề chính xác
của các kết quả nghiên cứu, tính toán và dự toán là quan trọng nhất. Trong quá trình
soạn thảo dự án phải dành đủ thời gian và chi phí theo đòi hỏi của các nghiên cứu.
Làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư sẽ tạo tiền đề cho việc sử dụng có hiệu quả
vốn đầu tư của dự án ở giai đoạn thực hiện đầu tư (đúng tiến độ, không phải phá đi
làm lại, tránh được những chi phí không cần thiết khác…) và vận hành các kết quả
đầu tư. Điều này cũng tạo cơ sở cho quá trình hoạt động của dự án được thuận lợi,
nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư và có lãi (đối với các dự án sản xuất kinh doanh),
nhanh chóng phát huy hết năng lực phục vụ dự kiến (đối với các dự án xây dựng kết
cấu hạ tầng và dịch vụ xã hội).
1.1.3.2 Giai đoạn thực hiện đầu tư.
Ở giai đoạn này, vốn đầu tư của dự án được chi ra và nằm khê đọng trong suốt
những năm thực hiện đầu tư. Đây là những năm vốn không sinh lời. Thời gian thực
hiện đầu tư càng kéo dài, vốn ứ đọng càng nhiều, tổn thất càng lớn. Lại thêm những
tổn thất do thời tiết gây ra đối với vật tư, thiết bị chưa hoặc đang được thi công, đối
với các công trình đang được xây dựng dở dang. Đến lượt mình, thời gian thực hiện
11
Luận văn tốt nghiệp
đầu tư lại phụ thuộc nhiều vào chất lượng công tác chuẩn bị đầu tư, vào việc quản lý
quá trình thực hiện đầu tư, quản lý việc thực hiện những hoạt động khác có liên quan
trực tiếp đến các kết quả của quá trình thực hiện đầu tư đã được xem xét trong dự án
đầu tư.
1.1.3.3 Giai đoạn vận hành kết quả đầu tư.

Vận hành các kết quả của giai đoạn thực hiện đầu tư (giai đoạn sản xuất kinh
doanh dịch vụ hay giai đoạn vận hành khai thác của dự án; đời dự án) nhằm đạt được
các mục tiêu của dự án. Nếu các kết quả do giai đoạn thực hiện đầu tư tạo ra đảm bảo
tính đồng bộ, giá thành thấp, chất lượng tốt, đúng tiến độ, tại địa điểm thích hợp, với
quy mô tối ưu thì hiệu quả hoạt động của các kết quả này và tổ chức quản lý hoạt
động các kết quả đầu tư. Làm tốt công việc của giai đoạn chuẩn bị đầu tư và thực
hiện đầu tư tạo thuận lợi cho quá trình tổ chức quán lý phát huy tác dụng của các kết
quả đầu tư. Thời gian phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư còn được gọi là đời
của dự án hay tuổi thọ kinh tế của công trình, nó gắn với đời sống của sản phẩm (do
dự án tạo ra) trên thị trường.
1.2 Hoạt động đầu tư dự án của doanh nghiệp.
1.2.1 Khái niệm và đặc điểm.
Đầu tư dự án của doanh nghiệp là một hình thức phổ biến, là công cụ quản lý
việc sử dụng vốn, vật tư, lao động của doanh nghiệp để tạo ra các kết quả tài chính,
kinh tế xã hội trong một thời gian dài. Dự án đầu tư có tầm quan trọng đặc biệt với
đối với từng doanh nghiệp nói riêng. Sự thành bại của một doanh nghiệp phụ thuộc
rất lớn vào việc đầu tư dự án có hiệu quả hay không.
Doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế do đó các yếu tố của nền kình tế
không những là những nhân tố tác động trực tiếp đến doanh nghiệp mà còn tác động
đến hoạt động đầu tư theo dự án của Doanh nghiệp.
Ngoài những đặc điểm chung của dự án đầu tư, dự án đầu tư của doanh
nghiệp có những đặc điểm như:
Thứ nhất, do ngành nghề kinh doanh của từng doanh nghiệp là khác nhau nên
dự án đầu tư của doanh nghiệp tự bản thân đã có những điểm khác biệt mang đặc
trưng của từng doanh nghiệp, loại hình, ngành nghề.
12
Luận văn tốt nghiệp
Thứ hai, nguồn vốn huy động của từng doanh nghiệp huy động vào dự án đầu
tư cũng khác nhau. Doanh nghiệp có thể đóng vai trò là chủ đầu tư trực tiếp, góp vốn
đầu tư đóng vai trò thứ phát, hoặc liên kết đầu tư.

Thứ ba, mỗi doanh nghiệp có cách thức quản lý dự án khác nhau. Dự án đầu
tư ở mỗi doanh nghiệp chịu sự quản lý khác nhau của từng doanh nghiệp, ảnh hưởng
trực tiếp đến hiệu quả đầu tư theo dự án của doanh nghiệp.
1.2.2 Vai trò của dự án đầu tư đối với doanh nghiệp.
Một nhà đầu tư muốn đem tiền đi đầu tư thu lợi nhuận về cho bản thân thì căn cứ
quan trọng nhất để nhà đầu tư có nên đầu tư hay không là dự án đầu tư. Nếu dự án
đầu tư hứa hẹn đem lại khoản lợi cho chủ đầu tư thì nhất định sẽ thu hút được chủ
đầu tư thực hiện. Nhưng để có đủ vốn thực hiện dự án chủ đầu tư phải thuyết phục
các tổ chức tài chính tài chính cho vay vốn và cơ sở để các nhà tài chính cho vay
vốn thì phải dựa vào dự án có khả thi hay không? Vậy dự án đầu tư là phương tiện
thu hút vốn. Dựa vào dự án, các nhà đầu tư có cơ sở để xây dựng kế hoạch đầu tư,
theo dõi, đôn đốc và kiểm tra tình hình thực hiện dự án. Đồng thời bên cạnh chủ
đầu tư thuyết phục các nhà tài chính cho vay vốn thì dự án cũng là công cụ để tìm
kiếm các đối tác liên doanh. Một dự án tuyệt vời sẽ có nhiều đối tác để ý, mong
muốn cùng tham gia để có phần lợi nhuận. Nhiều khi các chủ đầu tư có vốn nhưng
không biết mình nên đầu tư vào đâu có lợi, rủi ro ít nhất, giảm thiểu chi phí cơ hội
vì vậy dự án còn là một công cụ cho các nhà đầu tư xem xét, tìm hiểu lựa chọn cơ
hội đầu tư tốt nhất. Ngoài ra, dự án đầu tư còn là căn cứ để soạn thảo hợp đồng liên
doanh cũng như để giải quyết các mối quan hệ tranh chấp giữa các đối tác trong
quá trình thực hiện dự án.
Tóm lại, dự án đầu tư luôn giữ vị trí quan trọng. Đối với doanh nghiệp dự án
đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế và có quan hệ hữu cơ với sự phát triển, nhằm đẩy
mạnh hoạt đông đầu tư và đáp ứng nhu cầu kinh doanh. Nếu hoạt động đầu tư dự án
phát triển sẽ mang lại không những hiệu quả về kinh tế xã hội mà còn giúp doanh
nghiệp mở rộng mạng lưới kinh doanh.
1.2.3 Nguồn vốn và nội dung đầu tư dự án của doanh nghiệp.
Thứ nhất, vốn huy động từ nội bộ: Giải pháp tài chính thông thường là chủ
đầu tư phải đảm bảo được một phần kinh phí đầu tư ban đầu bằng vốn tự có của
mình, chủ yếu là đầu tư vào tài sản cố định.
13

Luận văn tốt nghiệp
Ưu điểm của nguồn vốn này là chi phí huy động vốn thấp, vốn sở hữu của
doanh nghiệp nên chủ đầu tư có toàn quyền chủ động quyết định sử dụng chúng. Mặt
khác, nguồn vốn huy động từ nội bộ thường có chi phí cơ hội thấp do đó an toàn hơn
cho chủ đầu tư trong quá trình đầu tư.
Tuy nhiên nếu tăng quá lớn tỉ lệ tài trợ từ vốn nội bộ làm suy giảm khả năng
tài chính hiện tại của công ty, ảnh hưởng đến hoạt động khác của công ty. Làm giảm
tỉ suất sinh lợi vốn có của doanh nghiệp.
Thứ hai, vốn vay: Trong quá trình đầu tư, người ta thường sử dụng các nguồn
vốn vay trung và dài hạn để tài trợ cho dự án, chủ yếu bổ sung vào tài sản cố định.
Doanh nghiệp nhận được các khoản tài trợ này từ những thành phần không
phải là chủ sở hữu của nó sau khi nó được chuyển cho doanh nghiệp. Phải trả lãi cho
các khoản tiền đã vay. Mức lãi suất được trả cho các khoản nợ vay thường theo một
mức ổn định được thoả thuận khi vay. Doanh nghiệp phải hoàn trả lại toàn bộ vốn
vay cho các chủ nợ vào một thời điểm nào đó trong tương lai, ngoại trừ trường hợp là
phiếu tuần hoàn. Công ty có thể phải thế chấp bằng các loại tài sản như hàng hoá các
loại, tài sản cố định, quyền sở hữu tài sản, cổ phiếu hay các biện pháp bảo lãnh cho
vay.
Trường hợp này rủi ro tài chính sẽ phát sinh do doanh nghiệp phải gánh chịu
một khoản lãi phải trả cố định.
Thứ ba, vốn cổ phần: khi khả năng huy động từ nguồn vốn tích luỹ bị hạn
chế, các nhà đầu tư thường tìm nguồn tài trợ mới bằng cách tăng vốn cổ phần. Nhìn
chung không có sự khác biệt đáng kể nào giữa việc huy động vốn từ nội bộ với việc
phát hành thêm cổ phần mới về chi phí tăng vốn ngoại trừ việc phát hành cổ phần
thường làm phát sinh thêm một khoản chi phí phát hành.
Đặc điểm cơ bản của việc tài trợ bằng vốn cổ phần: vốn được tài trợ bởi chủ sở
hữu của các doanh nghiệp cụ thể ở đây là của chủ dự án; không phải trả lãi cho vốn
cổ phần đã huy động được mà sẽ chia lợi tức cổ phần cho các chủ sở hữu nếu doanh
nghiệp là ra được lợi nhuận; lợi tức cổ phần chia cho các cổ đông tuỳ thuộc vào quyết
định của Hội đồng quản trị và nó thay đổi theo mức lợi nhuận mà công ty đạt được;

doanh nghiệp không phải hoàn trả những khoản tiền vốn đã nhận được cho chủ sở
hữu trừ khi doanh nghiệp đóng cửa và chia tài sản; doanh nghiệp không phải thế chấp
tài sản hay nhờ bảo lãnh, bởi vốn huy động là của chủ sở hữu.
14
Luận văn tốt nghiệp
Trong việc sử dụng vốn cổ phần, chủ dự án nên tập trung nó cho việc đầu tư vào
tài sản cố định đảm bảo một tỉ lệ hợp lý trong cơ cấu vốn đầu tư.
Nếu vốn tự có và vốn cổ phần chiếm tỉ lệ quá cao trong tổng kinh phí đầu tư có
thể dẫn đến lợi nhuận trên vốn tự có giảm tuy rằng lúc đó mức độ độc lập của doanh
nghiệp cao hơn và doanh nghiệp có nhiều cơ hội để quyết định kinh doanh mạo hiểm
hơn.
Nhưng nếu vốn tự có ít, dự án thường phải tìm kiếm các khoản tài trợ tài chính
thường là thông qua các khế ước vay nợ từ ngân hàng. Điều này dẫn đến sự bất lợi
cho doanh nghiệp vì phải chịu áp lực lớn của gánh nặng nợ nần dẫn đến việc phải hy
sinh nhiều lợi ích để thanh toán các khoản lãi vay đồng thời dễ mất tự chủ trong kinh
doanh, khó khăn trong việc ra quyết định kinh doanh.
Nói tóm lại, tuỳ theo mục đích của từng loại chi phí mà khai thác các nguồn vốn phù
hợp. Đối với chi phí hình thành nên tài sản cố định và một phần tài sản lưu động thì
nên khai thác nguồn vốn vay dài hạn. Đối với chi phí không thu hồi được không tham
gia vào hình thành tài sản của dự án nên khai thác vốn tự hoặc vay ngắn hạn. Đối với
kinh phí hình thành nên tài sản lưu động thì nên khai thác nguồn vốn vay ngắn hạn
hoặc trung hạn.
Do đặc điểm của dự án đầu tư là sản phẩm hàng hóa đặc biệt mang tính đơn
chiếc nên nội dung cụ thể của các dự án là khác nhau. Xây dựng một dự án đầu tư
bao gồm các bước từ nghiên cứu cơ hội đầu tư, nghiên cứu tiền khả thi và nghiên cứu
khả thi. Các bước này nhằm tạo lập được một dự án có khả năng thực thi và có hiệu
quả (chúng ta gọi là tính khả thi). Trong bước đó, chúng ta nghiên cứu xây dựng
những thành phần cơ bản của một dự án. Xét tổng quát, dự án đầu tư bao gồm 4
thành phần chính: mục tiêu của dự án, các kết quả, các hoạt động và các nguồn lực.
Mục tiêu là cái đích mà dự án phải đạt đên, muốn đạt được mục tiêu đó dự án phải

đem lại kết quả gì, cần có các hoạt động nào để có được kết quả và cuối cùng để đảm
bảo các hoạt động có thể thực hiện được cần có các nguồn lực nào.
Trong đó, mục tiêu của dự án được thể hiện ở 2 mức:
Thứ nhất, mục tiêu tổng thể: mục tiêu phát triển là những lợi ích kinh tế xã hội
do thực hiện dự án đem lại. Đối với xã hội đó là việc phù hợp với quy hoạch định
hướng phát triển, kinh tế, tạo thêm việc là và sản phẩm, dịch vụ cho xã hội, bảo vệ tài
nguyên và môi trường sinh thái.
15
Luận văn tốt nghiệp
Thứ hai, mục tiêu trước mắt là mục đích cụ thể cần đạt được của việc thực
hiện dự án. Đối với doanh nghiệp đó là mục đích thu hồi vốn, tạo lợi nhuận và vị thế
phát triển mới của doanh nghiệp.
Các kết quả đó là những kết quả cụ thể, có định lượng, được tạo ra từ các hoạt
động khác nhau của dự án.
Các hoạt động là những nhiệm vụ hoặc hành động được thực hiên trong dự án
để tạo ra các kết quả nhất định.
Các nguồn lực về vật chất, tài chính và con người cần thiết để tiến hành hoạt
động của dự án. Giá trị hoặc chi phí của các nguồn lực này chính là vốn đầu tư cần
cho dự án.
1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư dự án của doanh
nghiệp.
1.2.4.1 Khả năng huy động vốn, sử dụng vốn
Vốn đầu tư cho dự án bao gồm vốn cố định và vốn lưu động. Vốn cố định là
vốn đầu tư vào tài sản cố định (máy móc thiết bị, nhà xưởng,…), vốn lưu động là vốn
đầu tư vào tài sản lưu động (nguyên vật liêu, tiền mặt…)
Vốn đầu tư được thực hiện trước khi dự án hoạt động (xây dựng,…) và trong
quá trình dự án hoạt động. Do đó, khi lập dự án đầu tư cần tính toán đầy đủ nhu cầu
vốn của các năm, xác định được nguồn vốn của dự án từ đó xác định được cơ cấu
nguồn vốn cũng như điều chỉnh qui mô dự án cho phù hợp với khả năng huy động
vốn và hiệu quả của dự án.

Có thể nhận thấy khả năng huy động nguồn vốn cho dự án là nhân tố rất quan
trọng trong quyết định đầu tư dự án. Một dự án nếu không đảm bảo nguồn vốn huy
động và dòng tiền của dự án không khả thi thì dự án sẽ không có hiệu quả. Ngược lại,
khi nguồn vốn cho dự án được đảm bảo và dòng tiền dự án khả thi thì dự án sẽ mang
lại hiệu quả.
1.2.4.2 Công tác kế hoạch hóa và chủ trương của dự án
Kế hoạch hóa và chủ trương của dự án là một nội dung của công tác kế hoạch
hóa, là quá trình xác định mục tiêu đầu tư và đề xuất những giải pháp tốt nhất để đạt
mục tiêu đó với hiệu quả cao.
Kế hoạch hóa đầu tư dự án trong cơ chế thị trường là việc lập kế hoạch theo
chương trình phát triển và dự án. Chương trình phát triển là công cụ thực hiện kế
16
Luận văn tốt nghiệp
hoạch, là tập hợp các mục tiêu biện pháp nhằm phối hợp thực hiện một cách hiệu quả
nhất mục tiêu kế hoạch đề ra trong điều kiện thời gian và nguồn lực nhất định.
Kế hoạch đầu tư theo dự án là tập hợp các kế hoạch về vốn, kế hoạch chuẩn bị
đầu tư và sử dụng vốn đầu tư cho các dự án. Một kế hoạch đầu tư theo dự án thường
bao gồm các nội dung như: kế hoạch cho công tác điều tra khảo sát và lập qui hoạch
ngành, lãnh thổ, qui hoạch xây dựng đô thị và nông thôn, kế hoạch chuẩn bị đầu tư
(bao gồm vốn để thực hiện việc điều ta, khảo sát, lập dự án tiền khả thi, lập dự án khả
thi, thẩm định dự án và quyết định đầu tư). Kế hoạch chuẩn bị dự án bao gồm vốn chi
cho việc thực hiện công tác khảo sát thiết kế kỹ thuật, lập tổng dự toán, lập hồ sơ mời
thầu , đền bù giải phóng mặt bằng và các chi phí khác có liên quan đến công tác
chuẩn bị thực hiện dự án đầu tư, kế hoạch thực hiện đầu tư bao gồm vốn đầu tư để
thực hiện việc mua sắm vật tư thiết bị, thi công xây lắp công trình và các chi phí khác
có liên quan đến việc đưa dự án vào khai thác sử dụng.
Kế hoạch đầu tư dự án theo lĩnh vực đầu tư, ngành.
Kế hoạch đầu tư dự án theo địa phương, vùng lãnh thổ.
Kế hoạch bố trí vốn theo các giai đoạn của quá trình đầu tư theo dự án.
Việc lập trình thực hiện các hạng mục công trình, từng công việc trong mỗi

hạng mục, phải đảm bảo cho dự án có thể đi vào vận hành hoặc hoạt động đúng thời
gian dự định. Đối với các dự án có quy mô lớn, có nhiều hạng mục công trình.kỹ
thuật xây dựng phức tạp, để lập trình thực hiện dự án đòi hỏi phải phân tích một cách
có hệ thống và phương pháp. Cụ thể là liệt kê, sắp xếp, phân tích nhằm xác định:
- Thời gian cần hoàn thành từng hạng mục công trình và cả công trình.
- Những hạng mục nào phải hoàn thành trước, những hạng mục nào có thể làm
sau, những công việc nào có thể làm song song.
- Ngày bắt đầu hoạt động sản xuất.
1.2.4.3 Nguồn lực phục vụ trực tiếp cho dự án
Nguồn lực phục vụ trực tiếp cho dự án bao gồm nguồn cung cấp nguyên vật
liệu đầu vào và nguồn nhân lục.
Nguồn nguyên liệu đầu vào: Nguồn và khả năng cung cấp đều đặn nguyên liệu
cơ bản để sản xuất là điều kiện rất quan trọng để xác định tính sống còn cũng như
tầm cỡ của đa số các dự án. Trong nhiều ngành công nghiệp, việc lựa chọn kỹ thuật
sản xuất, máy móc thiết bị tuỳ thuộc vào các đặc điểm của các nguyên liệu chính,
17
Luận văn tốt nghiệp
trong khi các dự án khác số lượng tiềm năng sẵn có của nguuyên liệu xác định tầm cỡ
của dự án.
Nguồn cung cấp vật liệu cơ bản phải đảm bảo đủ sử dụng trong suốt đời sống
của thiết bị. Nội dung của việc xác định nguyên liệu đầu vào bao gồm:
- Loại và đặc điểm của nguyên liệu cần thiết.
- Tính toán nhu cầu đầu vào cho sản xuất từng năm.
- Tình trạng cung ứng.
- Yêu cầu về dự trữ nguyên vật liệu.
- Nguồn và khả năng cung cấp.
- Chi phí cho từng lịch trình cung cấp.
Nguồn nhân lực: Căn cứ vào yêu kỹ thuật công nghệ và kế hoạch sẽ sản xuất
của dự án để ước tính số lượng lao động cần thiết (lao động trực tiếp,gián tiếp và bậc
thợ tương ứng cho mỗi loại công việc). Nguồn lao động; được chú ý trước hết là số

lao động có sẵn tại địa phương sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi hơn từ những nơi
khác. Dự án quan tâm đến chi phí lao động bao gồm chi phí để tuyển dụng và đào
tạo, chi phí cho lao động trong các năm hoạt động của dự án sau này. Vì vậy, nguồn
nguyên liệu đầu vào và nguồn nhân lực là những nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đến
hoạt động đầu tư dự án của doanh nghiệp.
1.2.4.4 Tình hình kinh tế xã hội liên quan đến dự án đầu tư.
Có thể coi tình hình kinh tế xã hội là nền tảng của dự án đầu tư. Nó thể hện
khung cảnh đầu tư, có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển và hiệu quả kinh
tế tài chính của dự án. Tình hình kinh tế xã hội đề cập các vấn đề sau đây:
- Điều kiện địa lý tự nhiên (Địa hình, khí hậu, địa chất…) có liên quan đến việc
lựa chọn thực hiện và phát huy hiệu quả của dự án này
- Điều kiện về dân số và lao động có liên quan đến nhu cầu và khuynh hướng tiêu
thụ sản phẩm, đến nguồn lao động cung cấp cho dự án.
- Tình hình chính trị, môi trường pháp lý, các luật lệ và các chính sách ưu tiên
phát triển của đất nước tạo điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn cho dự án đầu tư
- Tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước của địa phương, tình hình phát
triển kinh doanh của ngành (Tốc độ gia tăng GDP, tỷ lệ đầu tư so với GDP, quan hệ
giữa tích luỹ và tiêu dùng, GDP/ đầu người, tỷ suất lợi nhuận sản xuất kinh doanh )
có ảnh hưởng đến quá trình thực hiện và vận hành dự án đầu tư.
18
Luận văn tốt nghiệp
- Tình hình ngoại hối, dự trữ ngoại tệ, cán cân thanh toán và nợ nần có ảnh hưởng
đến các dự án phải xuất nhập khẩu hàng hoá.
Tuy nhiên, các dự án nhỏ có thể không cần nhiều dữ kiện kinh tế vĩ mô như
vậy. Còn các dự án lớn thì cũng tuỳ thuộc vào mục tiêu, đặc điểm và phạm vi tác
dụng của dự án mà lựa chọn các vấn đề có liên quan đến dự án để xem xét.
Vị trí địa lý của dự án đầu tư là nhân tố quan trọng trong quyết định đầu tư dự
án của doanh nghiệp. Đối với mỗi một dự án đầu tư nghiên cứu vị trí địa lý của dự án
là nhân tố hết sức quan trọng trong giai nghiên cứu cơ hội đầu tư. Vị trí địa lý ảnh
hưởng đến việc phục vụ triển khai thực hiện dự án và sản phẩm đầu ra của dự án có

phù hợp hay không. Nếu một dự án triển khai tại nơi có vị trí địa lý và địa bàn không
phù hợp cho dự án và sản phẩm đầu ra không đáp ứng nhu cầu thì dự án coi như thất
bại. Vùng, lãnh thổ quyết định ngành nghề của dự án đầu tư, công tác triển khai dự
án. Vì thế, nghiên cứu kỹ vị trí địa lý của dự án đầu tư là hết sức quan trọng và cần
thiết.
1.3 Các chỉ tiêu kết quả và hiệu quả đầu tư theo dự án của doanh nghiệp
1.3.1 Các chỉ tiêu kết quả.
Kết quả của hoạt động đầu tư được biểu hiện ở khối lượng vốn đầu tư đã được
thực hiện, ở các tài sản cố định được huy động hoặc năng lực sản xuất kinh doanh
phục vụ tăng thêm. Khối lượng vốn đầu tư thực hiện bao gồm tổng số tiền đã chi để
tiến hành các hoạt động của công cuộc đầu tư như là các chi phí cho công tác chuẩn
bị đầu tư, xây dựng nhà cửa và các cấu trúc hạ tầng, mua sắm thiết bị máy móc, để
tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và chi phí khác theo quy định của thiết kế dự
toán và được ghi trong dự án đầu tư.
Chỉ tiêu kết quả của đầu tư theo dự án của doanh nghiệp cũng bao gồm 2 chỉ
tiêu là số lượng dự án được triển khai và quy mô vốn đầu tư theo dự án. Số lượng dự
án là kết quả của dự án đầu tư thể hiện về mặt chiều rộng, đánh giá được phần nào
hoạt động đầu tư dự án của doanh nghiệp. Số lượng và quy mô dự án phản ánh khả
năng của doanh nghiệp trong hoạt động đầu tư dự án. Tùy theo số lượng và quy mô
của dự án có thể đánh giá được sự đầu tư, vị thế và năng lực của doanh nghiệp. Một
doanh nghiệp với nhiều dự án có quy mô lớn thể hiện khả năng quản lý, đầu tư của
doanh nghiệp.
19
Luận văn tốt nghiệp
1.3.2 Các chỉ tiêu hiệu quả đầu tư theo dự án.
1.3.2.1 Các chỉ tiêu hiệu quả đầu tư về mặt tài chính theo dự án.
Nghiên cứu dự án về mặt tài chính là một nội dung rất quan trọng của quá
trình thiết lập hay thẩm định một dự án đầu tư. Thông qua phân tích tài chính, chúng
ta xác định được quy mô đầu tư, cơ cấu các loại vốn, cơ cấu các nguồn tài trợ cho dự
án, tính toán thu chi, lỗ lãi và những lợi ích thiết thực mang lại cho nhà đầu tư và cho

cả cộng đồng. Trên cơ sở nghiên cứu tài chính, nhà đầu tư có được kết quả đánh giá
hiệu quả về mặt tài chính của việc đầu tư, đó là kết luận quan trọng nhất để làm cơ sở
cho việc quyết định có nên tiến hành đầu tư hay không.
Để phân tích đánh giá một chủ thể, hoặc đối tượng nào đó, người ta phải áp
dụng các phương pháp, các tiêu chuẩn cụ thể nhằm rút ra những kết luận xác đáng.
Có nhiều cách khác nhau để đánh giá phương diện tài chính của một dự án đầu tư,
nhưng hiện nay người ta thường sử dụng những chỉ tiêu cơ bản sau:
- Chỉ tiêu giá trị hiện tại
- Chỉ tiêu tỉ lệ hoàn vốn nội bộ
- Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn đầu tư.
Cụ thể các chỉ tiêu này như sau:
* Chỉ tiêu giá trị hiện tại (NPV)
Giá trị hiện tại ròng của một dự án bằng tổng giá trị hiện tại của các dòng
tiền sau thuế trừ đi tổng giá trị hiện tại của các khoản đầu tư cho dự án.
∑∑
==
+

+
=
n
i
i
i
n
i
i
i
r
C

r
B
NPV
00
)1()1(
Trong đó: Ci: Dòng tiền sau thuế của dự án tương ứng với năm i
Bi: Là các khoản đầu tư cho dự án trong năm i
n: Số năm thực hiện dự án.
r: Tỉ lệ chiết khấu mà nhà đầu tư mong muốn hoặc là chi phí sử
dụng vốn bình quân.
Chỉ tiêu giá trị hiện tại cho biết quy mô của dòng tiền (quy đổi về giá trị hiện
tại) có thể thu được từ dự án, một chỉ tiêu mà các nhà đầu tư rất quan tâm (hiện tại là
thời điểm ban đầu khi mà dự án được xuất vốn đầu tư.
* Chỉ tiêu tỉ lệ hoàn vốn nội bộ (IRR)
20
Luận văn tốt nghiệp
Tỉ lệ hoàn vốn nội sinh là tỉ lệ mà tại đó giá trị hiện tại của các dòng tiền sau
thuế đúng bằng giá trị hiện tại của các khoản đầu tư cho dự án.
IRR là tỉ suất chiết khấu mà tại đó NPV = 0, và được tính theo công thức sau:
21
1
121
)(
NPVNPV
NPV
rrrIRR

−+=
Trong đó: r
1

là tỉ suất chiết khấu sao cho NPV1 < 0 (càng gần 0 càng tốt)
r
2
là tỉ suất chiết khấu sao cho NPV2 > 0 (càng gần 0 càng tốt)
NPV1: Giá trị hiện tại ròng ứng với tỉ suất chiết khấu r1
NPV2: Giá trị hiện tại ròng ứng với tỉ suất chiết khấu r2
Chỉ tiêu IRR có ý nghĩa rất quan trọng. Nó cho biết mức độ sinh lợi mà dự án
có thể đạt được, đem so với chi phí sử dụng vốn để thấy việc đầu tư lợi nhiều hay ít.
Nó phản ánh mức độ an toàn của dự án trong trường hợp thị trường có nhiều biến
động.
* Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn (T)
- Thời gian hoàn vốn đầu tư đó là thời gian mà các kết quả của quá trình đầu tư
cần hoạt động để có thể thu hồi đủ vốn đã bỏ ra bằng các khoản lợi nhuận thuần hoặc
tổng lợi nhuận thuần và khấu hao thu hồi hàng năm.
Công thức tính như sau:
T=
vo
I
W+D
Trong đó:
T là thời gian thu hồi vốn
Wi là lợi nhuận thu được hàng năm.
D là khấu hao hàng năm.
Dự án đầu tư có thời gian thu hồi vốn càng ngắn so với thời gian thu hồi vốn định
mức hoặc của công trình tương tự thì càng tốt, thể hiện sự hiệu quả trong việc thu hồi
vốn đầu tư.
Trong thực tế người ta thường tính thời gian thu hồi vốn đầu tư từ lợi nhuận thuần
và khấu hao. Khi tính chỉ tiêu này người đầu tư phải quan tâm lựa chọn phương pháp
khấu hao hàng năm làm sao vừa để không làm cho giá thành cao quá, vừa để kịp thu
21

Luận văn tốt nghiệp
hồi vốn đầu tư trước khi kết thúc đời kinh tế của dự án hoặc trước khi máy móc lạc
hậu kỹ thuật.
1.3.2.1 Các chỉ tiêu hiệu quả đầu tư dự án về mặt xã hội.
Nguồn lực của mỗi đơn vị, mỗi ngành, mỗi địa phương và cả quốc gia đều
khan hiếm và có hạn. Vì vậy, nguồn lực sử dụng cho dự án này sẽ làm giảm nguồn
lực sử dụng cho dự án khác. Bất cứ dự án nào ra đời cũng làm giảm các đầu vào hiện
có của nền kinh tế và làm tăng thêm các đầu ra. Cho nên luôn luôn phải xem xét có
đáng phải mất các đầu vào này để lấy các đầu ra đó không? Tức là phải lựa chọn dự
án sao cho đạt hiệu quả kinh tế quốc dân cao nhất. Vậy thực chất của nghiên cứu kinh
tế dự án là đánh giá các lợi ích và chi phí của dự án, chấp nhận hay loại bỏ dự án
nhằm đạt được các mục tiêu đề ra.
Lợi ích kinh tế xã hội chính là sự so sánh giữa lợi ích được dự án tạo ra với cái
giá mà xã hội phải trả để sử dụng tài nguyên có hiệu quả nhất đối với nền kinh tế
quốc dân.
Lợi ích kinh tế xã hội là lợi ích được xem xét trên phạm vi toàn xã hội, toàn bộ
nền kinh tế quốc dân, tức là ở tầm vĩ mô. Lợi ích này khác với lợi ích về mặt tài
chính chỉ xem xét ở tầm vi mô liên quan đến từng doanh nghiệp.
Lợi ích kinh tế xã hội của một dự án đầu tư là hiệu số của các lợi ích mà nền
kinh tế quốc dân và xã hội thu được trừ đi những đóng góp mà xã hội phải bỏ ra khi
dự án được thực hiện.
Lợi ích kinh tế mà xã hội thu được có nhiều khi không định lượng được như
sự phù hợp dự án đối với những mục tiêu phát triển kinh tế, những lĩnh vực được ưu
tiên, ảnh hưởng dây chuyền đối với sự phát triển các ngành khác.
Lợi ích kinh tế xã hội cũng được dự tính trên cơ sở các dự báo nên nó cũng có
tính biến động, rủi ro. Lợi ích kinh tế xã hội của dự án được đánh giá thông qua
những chỉ tiêu sau:
- Giá trị gia tăng của dự án.
- Đóng góp cho ngân sách nhà nước.
- Việc làm và thu nhập cho người lao động.

22
Luận văn tốt nghiệp
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ THEO DỰ ÁN TẠI
TỔNG CÔNG TY TÀI CHÍNH CỔ PHẦN DẦU KHÍ
VIỆT NAM (PVFC).
2.1 Giới thiệu chung về PVFC
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của PVFC.
Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam (PVFC) là một tổ chức tín
dụng phi ngân hàng và là đơn vị thành viên của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt
Nam, được thành lập theo quyết định số 04/2000/QĐ-VPCP ngày 30 tháng 3 năm
2000 của Bộ trưởng, Chủ nhiệm văn phòng chính phủ.
Tổng Công ty bắt đầu hoạt động từ ngày 01 tháng 12 năm 2000 theo Giấy
phép hoạt động số 12/GP-NHNN ngày 25 tháng 10 năm 2000 của Ngân hàng Nhà
nước Việt nam ban hành kèm theo Quyết định số 456/2000/QĐ-NHNN ngày 25
tháng 10 năm 2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và Giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh số 113108 ngày 23 tháng 8 năm 2000 do Sở kế hoạch và Đầu tư Hà
nội cấp.
Là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng, PVFC thành viên 100% vốn của Tổng
Công ty Dầu khí Việt Nam lúc bây giờ, ra đời với phương châm hoạt động “Vì sự
phát triển vững mạnh của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam”. Việc thành lập PVFC là
một dấu mốc quan trọng, một tầm nhìn mới trong chiến lược phát triển của ngành
năng lượng Dầu khí và hướng tăng trưởng vững bền nền kinh tế Việt Nam trong thế
kỷ 21.
Năm 2000, Công ty chính thức đặt trụ sở hoạt động đầu tiên tại 34B Hàn
Thuyên – Hà Nội.
Năm 2003, thực hiện chủ trương xây dựng Tập đoàn dầu khí VIệt Nam thành
tập đoàn công nghiệp – thương mại – tài chính dầu khí, với khả năng tài chính mạnh,
Công ty đã triển khai tốt việc phát hành trái phiếu của Tập đoàn dầu khí trong nước
thu về 300 tỷ đồng mệnh giá, tăng nguồn vốn trung và dài hạn, tạo kênh huy động
vốn ổn định phát triển cho ngành.

Năm 2004 là năm đột phá trong hoạt động của PVFC, với việc ra mắt HĐQT,
PVFC đã hoàn thiện cơ cấu tổ chức theo mô hình mới, triển khai và áp dụng thành
công hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001: 2000.
23
Luận văn tốt nghiệp
Năm 2005 Công ty tăng vốn điều lệ lên 300 tỷ đồng, tổng cộng có 7 phòng
giao dịch và 2 Chi nhánh đi vào hoạt động, Tổng tài sản của PVFC đạt 6.828 tỷ đồng.
Năm 2006 Công ty chính thức tăng vốn điều lệ lên 1000 tỷ đồng và phát hành
trái phiếu tài chính dầu khí, tổng khối lượng huy động quy đổi 690 tỷ đồng.
Năm 2007 PVFC chính thức tăng vốn điều lệ lên 3000 tỷ đồng, đánh dấu bước
ngoặt quan trọng trong quá trình hoạt động và phát triển của Công ty. Trong năm
2007 PVFc phát hành thành công trái phiếu tài chính dầu khí 2007 với tổng khối
lượng huy động đạt 1500 tỷ đồng.
Năm 2008 Công ty chính thức tăng vốn điều lệ lên 5000 tỷ đồng và thực hiện
cổ phần hóa đổi tên thành Tổng công ty tài chính cổ phần dầu khí Việt Nam.
Bảng 2.1.1 Các đơn vị thành viên của PVFC
STT Tên Công ty
Vốn
Điều lệ
Tỷ lệ PVFC nắm giữ
1
Công ty CP Đầu tư và Tư vấn Tài chính
Dầu khí (PVFC Invest) ĐKKD số:
0103017832 ngày 7/6/2007 do Sở KHĐT
Hà Nội cấp
500 tỷ
đồng
49% Trong đó: Vốn PVFC:
11%; Vốn Uỷ thác của
CBCNV: 38%

2
Công ty CP Bất động sản Tài chính Dầu
khí (PVFC Land) ĐKKD số:
0103017950 ngày 15/06/2007 do Sở
KHĐT Hà Nội cấp
500 tỷ
đồng
49% Trong đó: Vốn PVFC:
11%; Vốn Uỷ thác của
CBCNV: 38%
3
Công ty CP Quản lý quỹ Tài chính Dầu
khí (PVFC Capital)
100 tỷ
đồng
11% vốn điều lệ
4 Công ty CP Truyền thông Tài chính Dầu
khí (PVFC Media) Đăng ký kinh doanh:
0103018501 ngày 19/7/2007 do Sở
KHĐT Hà Nội cấp
100 tỷ
đồng
11% vốn điều lệ
Nguồn: www.pvfc.com.vn
Chức năng nhiệm vụ của Tổng Công ty tài chính.
Tổng công ty tài chính cổ phần dầu khí Việt Nam cung cấp cho khách hàng
các dịch vụ tài chính đa dạng bao gồm:
Sản phẩm tiền có từ huy động vốn
24

×