Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG ĐẤU THẦU TẠI DỰ ÁN NÂNG CẤP ĐÔ THỊ NAM ĐỊNH TRONG GIAI ĐOẠN II NĂM 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.03 KB, 34 trang )

HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG ĐẤU THẦU TẠI DỰ ÁN
NÂNG CẤP ĐÔ THỊ NAM ĐỊNH TRONG GIAI ĐOẠN II
NĂM 2008-2012
3.1. Nội dung, kế hoạch thực hiện Dự án nâng cấp đô thị Nam Định giai đoạn
II năm 2008-2012.
Giai đoạn II dự án nâng cấp đô thị thành phố Nam Đinh, đầu tư tập trung 3 hạng
mục, hạng mục I, hạng mục II và hạng mục VI. Các hạng mục giai đoạn II của dự án
được triển khai đồng bộ trong bao gồm:
Hạng mục I nâng cấp cơ sở hạ tầng cấp 3, của các khu vực thu nhập thấp giai
đoạn II, được triển khai ở 19 phường với diện tích 293 ha. Tổng số hộ hưởng lợi từ
dự án là 19.096 hộ trong tổng số 215 tổ dân của 25 Khu dân cư thu nhập thấp còn lại,
trong đó có 2 hộ phải di dời GPMB. Kinh phí GPMB dự tính 16,96 tỷ đồng. Tổng
mức đầu tư dự tính 10,721 triệu USD. Trong đó cộng đồng dân cư đóng góp 3% kinh
phí xây lắp là 3,934 tỷ. Suất đầu tư tính cho 1 Ha: 585.579 VND tương đương
36,598USD/Ha. Suất đầu tư tính cho 1 Hộ: 8,98 triệu dồng tương đương 561USD/
Hộ Các Công ty tư vấn thực hiện các gói thầu: CP 7.2; CP 7.3; CP 7.4 đã hoàn thành
báo cáo nghiên cứu khả thi. Giai đoạn II hạng mục I gồm có 18 gói thầu trong đó có
15 gói thầu xây lắp nâng cấp cơ sở hạ tầng cấp 3 bao gồm hệ thống thoát nước,
đường giao thông và điện chiếu sáng của 19 phường còn lại trong thành phố, và 3 gói
thầu tư vấn giám sát thi công xây dựng của 18 gói thầu xây lắp trên. Đến cuối năm
2008 triển khai kế hoạch đấu thầu cho 5 gói thầu xây lắp và 03 gói thầu tư vấn giám
sát.
Hạng mục II được triển khai xây dựng mới và nâng cấp cơ sở hạ tầng chính cấp
1 và cấp 2, trong thành phố bao gồm: hệ thống thoát nước chính, đường giao thông và
các hồ điều hoà. Số hộ bị ảnh hưởng do giải phóng mặt bằng thi công xây dựng công
trình: 61 hộ, trong đó có 6 hộ phải di chuyển. Kinh phí giải phóng mặt bằng dự kiến
8,5 tỷ đồng. Tổng đầu tư 14,138 triệu USD được chia thành 06 gói thầu xây lắp bao
gồm các gói: gói thầu CP12 nâng cấp hồ Bảo Bối, hồ Năng Tĩnh; gói thầu CP13 Các
tuyến cống chính lưu vực Hàng Thao; gói thầu CP14 Tuyến thoát nước đường Mạc
Thị Bưởi; gói thầu CP15 nâng cấp cống trên đường Nguyễn Trãi, Trần Đăng Ninh,
2


đường Điện Biên và đường Mỹ Xá; gói thầu CP16 nâng cấp cống nối hồ Truyền
Thống với kênh T3-11, kênh Phúc Trọng; gói thầu CP17 nâng cấp cống thoát nước
đường Hùng Vương, tuyến cống Liên Hà hạ tầng đường Nguyễn Cơ Thạch và kè hồ
Truyền Thống, và 03 gói thầu tư vấn giám sát thi công. Việc triển khai thực hiện giai
đoạn II hạng mục này dự kiến đến tháng 8/2008 sẽ làm thủ tục đấu thầu 2 gói thầu
CP12; CP13 và gói thầu tư vấn giám sát thi công cho hai gói thầu này.
Hạng mục VI giai đạon II, bao gồm 12 gói thầu sử dụng nguồn vốn viện trợ
không hoàn lại để xây dựng năng lực cho Ban quản lý dự án, đào tạo nâng cấp cộng
đồng chính quyền địa phương, các cơ quan công ích trong việc vận hành và bảo
dưỡng cơ sở hạ tầng, các chiến dịch truyền thông về dự án, cũng như tuyển chọn các
tư vấn giám sát đánh giá tác động môi trường , giám sát kế hoach hành động tái định
cư giai đoạn II.
3.2. Hoàn thiện một số điều kiện cho phù hợp với thông lệ quốc tế.
3.2.1. Hoàn thiện một số nội dung và sửa đổi, bổ sung Nghị định 111/CP của
Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật đấu.
Việt nam mới làm quen với nền kinh tế thị trường, chúng ta mới bắt đầu nghiên
cứu những thông lệ quốc tế về đấu thầu. Hiện nay Luật đấu thầu của Việt Nam đã có
hiệu lực đi vào hoạt động được 2 năm, tuy nhiên để phát huy hiệu quả thì chúng ta
cần phải có chỉnh sửa bổ sung cho hoàn chỉnh hơn. Trong hoạt động đấu thầu các
công trình xây dựng có phương thức quản lý riêng để xây dựng các công trình. Nếu
đem những qui định trong nước để áp dụng với những công trình của nước ngoài tại
nước ta thì nhiều khi làm cho người nước ngoài không hiểu và khó chấp nhận. Một
mặt phương thức quản lý của ta thiếu chặt chẽ. Trên thế giới hiện nay đã sử dụng
phương thức giao nhận thầu xây lắp và áp dụng khá phổ biến và có rất nhiều ưu điểm
so với cách của ta.
Đấu thầu là phạm trù kinh tế tồn tại một cách khách quan trong nền kinh tế thị
trường. Mục tiêu của công tác đấu thầu là giúp người mua lựa chọn được phương án
mua hàng hoá và dịch vụ lợi nhất, trên cơ sở cạnh tranh của những người bán (nhà
thầu). Để khuyến khích các nhà thầu tích cực tham dự thầu, bên mua phải có những
3

qui định mang tính pháp lý nhằm tạo ra các cuộc cạnh tranh hết sức khách quan, công
bằng và minh bạch.
Luật Đấu thầu và Nghị định 111/2006/NĐ-CP về hướng dẫn thi hành Luật Đấu
thầu đi vào cuộc sống trên một năm qua đã thực sự phát huy hiệu quả. Tuy nhiên,
trong quá trình thực hiện có một số vướng mắc, khó khăn chúng ta cần chỉnh sửa, bổ
sung cần thiết cho nghị định này, không để ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện các dự
án.
Thứ nhất, đó là loại bỏ những nội dung không cần thiết, chỉnh sửa, bổ sung một
số nội dung để làm rõ hơn, dễ thực hiện hơn, nhằm giảm thiểu các thủ tục hành chính
về đấu thầu.Cụ thể Luận văn đề nghị bổ sung :
- Để tăng tính cạnh tranh trong đấu thầu Điều 3 cần bổ sung: Nhà thầu tham gia
đấu thầu với nhà thầu tư vấn lập hồ sơ mời thầu, đánh giá hồ sơ dự thầu; nhà thầu
thực hiện hợp đồng với nhà thầu tư vấn giám sát thực hiện hợp đồng được coi là độc
lập về tổ chức, không cùng phụ thuộc vào một cơ quan quản lý và độc lập về tài
chính.
- Bổ sung tại điểm d khoản 1 Điều 11 của Luật Đấu thầu: Nhà thầu tham gia đấu
thầu gói thầu thuộc dự án với chủ đầu tư của dự án được coi là độc lập về tổ chức,
không cùng phụ thuộc vào một cơ quan quan lý và độc lập về tài chính .
Điều này là một nhân tố quan trọng để nhà thầu được phép tham dự thầu với tư
cách một nhà thầu độc lập tức là phải tự chủ về tài chính không phụ thuộc vào chủ
đầu tư. Có như vậy các nhà thầu khi tham gia đấu thầu mới tránh được sự chỉ đạo,
điều hành của các cơ quan quản lý trực tiếp hoặc tránh bị lệ thuộc vào một cấp quản
lý nhất định.
- Khoản 1 Điều 14 như sau: Thời gian để nhà thầu chuẩn bị hồ sơ quan tâm tối
thiểu là 15 ngày ( hiện tại 5 ngày) đối với đấu thầu trong nước và 20 ngày ( hiện tại 10
ngày) đối với đấu thầu quốc tế kể từ ngày đăng tải đầu tiên thông báo mời nộp hồ sơ
quan tâm, có vậy nhà thầu mới đủ thời gian chuẩn bị.
4
- Khoản 3 Điều 27 cần bổ sung thêm: Trong trường hợp gói thầu phức tạp, nếu
thấy cần thiết thì bên mời thầu báo cáo chủ đầu tư cho phép nhà thầu có hồ sơ dự

thầu xếp thứ nhất vào thương thảo sơ bộ về hợp đồng để tạo thuận lợi cho việc
thương thảo hoàn thiện hợp đồng sau khi có kết quả trúng thầu.
- Thứ hai, bổ sung các quy định về thực hiện hợp đồng trong đấu thầu, đặc biệt
là những vấn đề liên quan tới khâu thanh toán hợp đồng, hiện được phản ánh là rất
bất cập và là nhân tố lớn gây chậm trễ cả về tiến độ cũng như quyết toán của dự án.
Nếu chiểu theo đúng quy định của Luật Đấu thầu, thì nhà thầu phải được thanh toán
đúng theo quy định trong hợp đồng đã ký với chủ đầu tư. Cụ thể điều kiện thanh toán
thỏa thuận trong hợp đồng phải là căn cứ pháp lý duy nhất để nhà thầu được thanh
toán. Như thế mới đúng theo cơ chế thị trường, bởi lẽ, qua đấu thầu đã xác định được
giá tốt nhất trên thị trường. Nếu đấu thầu xong, xác định được giá đưa vào hợp đồng
để rồi giá đó lại bị điều chỉnh bởi các quy định khác nữa khi thanh, quyết toán thì
không còn ý nghĩa của đấu thầu. Thực tế, việc thanh toán, quyết toán lại thực hiện
theo các quy định về định mức, về đơn giá do các cơ quan quản lý ngành khác ban
hành. Hậu quả là cả nhà thầu và chủ đầu tư đều phải lao tâm, khổ tứ với mỗi lần
thanh toán, quyết toán công trình.... Đây là phản ánh thực tế. Thực tế này lại chính là
nhân tố đang gây cản trở, chậm trễ trong các dự án, ảnh hưởng lớn đến tốc độ phát
triển kinh tế - xã hội. Yêu cầu cấp thiết là các cơ quan quản lý là phải đưa ra giải
pháp để tháo gỡ khó khăn vướng mắc do những qui định về định mức và đơn giá do
các cơ quan quản lý ban hành và phải thực hiện đúng theo hợp đồng đã ký giữa chủ
đầu tư và nhà thầu vì giá trị hợp đồng là giá tốt nhất , giá thị trường đã thông qua đấu
thầu.
3.2.2. Hoàn thiện đấu thầu tuyển chọn tư vấn cần bổ sung thêm nội dung tuyển
chọn tư vấn cá nhân:
Trong Nghị định 111/2006/NĐ-CP hướng dẫn thi hành luật đấu thầu đối với
việc tuyển chọn dịch vụ tư vấn theo hình thức đấu thầu rộng rãi và hạn chế. Hình
thức này thích hợp đối với nhà thầu tư vấn là các Công ty tư vấn các tổ chức tư vấn
đòi hỏi có sự tham gia kết hợp của một nhóm chuyên gia thuộc các chuyên nghành và
lĩnh vực khác nhau để thực hiện đồng thời nhiệm vụ. Tuy nhiên thực tế có một số
5
dịch vụ tư vấn chỉ giới hạn trong phạm vi công việc nhỏ, nằm trong một chuyên

ngành, một lĩnh vực nhất định và chỉ cần sự hỗ trợ của một chuyên gia tư vấn thực
hiện. Do vậy chúng ta không thể áp dụng theo hình đấu thầu nêu trên.
Học viên đề xuất bổ sung thêm ‘‘Tuyển chọn tư vấn cá nhân’’ trong tuyển chọn
dịch vụ tư vấn cho những dịch vụ tư vấn với tính chất, nội dung và phạm vi công việc
tư vấn thực hiện một cách độc lập mà không cần phải nhiều chuyên gia hoặc sự hỗ
trợ chuyên môn từ cá nhân hay tổ chức khác, chủ đầu tư xét thấy cá nhân chuyên gia
tư vấn có thể đảm nhiệm được hoặc việc sử dụng tư vấn cá nhân là có lợi. Việc lựa
chọn tư vấn cá nhân được thực hiện theo quy trình:
Bên mời thầu chuẩn bị điều khoản tham chiếu cho nhiệm vụ của tư vấn bao
gồm: Mô tả tóm tắt về phạm vi, khối lượng, chất lượng và thời gian thực hiện công
việc; Yêu cầu về năng lực, trình độ của tư vấn và dự toán chi phí. Sau đó Bên mời
thầu sẽ yêu cầu sự bày tỏ nguyện vọng.
Các ứng viên sẽ được yêu cầu đệ trình bản Lý lịch kỹ thuật của mình bằng cách
sử dụng biểu chuẩn. Bên mời thầu chọn tối thiểu 3 hồ sơ lý lịch khoa học của 3 chuyên
gia tư vấn phù hợp với yêu cầu nêu trong điều khoản tham chiếu tiến hành đánh giá
kinh nghiệm, năng lực, hiệu quả của ứng viên trong việc thực thi nhiệm vụ.
Ứng viên có năng lực thích hợp và kinh nghiệm nhất sẽ được mời đàm phán
hợp đồng dựa trên điều khoản tham chiếu và dự toán chi phí.
3.2.3. Cần có sự điều chỉnh theo hướng chú ý hơn đến chất lượng kỹ thuật, không
phải là cạnh tranh bằng giá trong đấu thầu tư vấn
Đối với việc lựa chọn dịch vụ tư vấn, quy định mua sắm của Ngân hàng thế giới
cho phép sử dụng 5 phương pháp đánh giá gồm lựa chọn trên cơ sở Chất lượng và Giá
(QCBS), Lựa chọn trên cơ sở năng lực của nhà tư vấn (CQ), lựa chọn theo giá thấp nhất
Least cost, Lựa chọn trên cơ sở chất lượng (QBS) và Lựa chọn tư vấn cá nhân. Các
nguyên tắc này cần được chú trọng hơn trong khi tiến hành xây dựng khung pháp luật về
đấu thầu. Đặc biệt đối với nguyên tắc không đàm phán về giá, trong quy định của WB,
giá dự thầu của nhà thầu luôn phải được coi là cố định, thậm chí nếu việc chào hàng
không đáp ứng yêu cầu trong hồ sơ mời thầu thì được cam kết thay bằng hàng hoá, dịch
vụ đáp ứng yêu cầu mà không thay đổi về giá. Quy định đấu thầu của Ngân hàng hợp tác
6

quốc tế Nhật Bản (JBIC) với mục đích nguồn tiền tài trợ của JBIC phải được sử dụng
sao cho bảo đảm tính kinh tế, tính hiệu quả, đồng thời đảm bảo sự minh bạch trong quá
trình đấu thầu, không phân biệt đối xử đối với các nhà thầu hợp lệ nên đấu thầu cạnh
tranh quốc tế ICB được ưu tiên sử dụng.
Công tác đấu thầu tuyển chọn tư vấn được thực hiện trên cơ sở Luật Đấu thầu
và Nghị định số 111/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006 của Chính phủ hướng dẫn thi hành
Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng. Trong thời gian
qua đã có nhiều dự án đấu thầu tuyển chọn tư vấn, thực tế quá trình tuyển chọn đã
xuất hiện các xu hướng chưa lành mạnh cần được điều chỉnh.
Theo thông lệ quốc tế, để tuyển chọn tư vấn bao giờ cũng qua bước lập danh
sách ngắn từ 3 đến 5 công ty, và gửi thư mời đến các công ty tư vấn có trong danh
sách ngắn lập đề xuất kỹ thuật và đề xuất tài chính tham gia dự tuyển. Với số ít công
ty tư vấn, tham gia dự tuyển sẽ tạo điều kiện để các tư vấn có nhiều sáng tạo trong đề
xuất kỹ thuật của họ. Hiện các tổ chức quốc tế sử dụng phổ biến phương pháp lựa
chọn tư vấn dựa trên cơ sở chất lượng dịch vụ (QBS), tức là HSDT tư vấn nộp thành
2 phong bì: phong bì đề xuất kỹ thuật và phong bì đề xuất tài chính. Tư vấn nào có
điểm kỹ thuật cao hơn sẽ được mời vào vòng 2 mở phong bì tài chính và thương thảo
hợp đồng trên cơ sở đề xuất tài chính.
Các quy định về phương pháp đánh giá hồ sơ dự thầu của WB vừa bảo đảm sự
chặt chẽ, tiên tiến nhưng lại linh hoạt. Trong các phương pháp đánh giá của WB thì
phương pháp đánh giá trên cơ sở xem xét cả hai yếu tố chất lượng tư vấn, chi phí tư
vấn được sử dụng nhiều và đây là một phương pháp đánh giá khắc phục được tình
trạng các nhà tư vấn ép bên mua trả chi phí cao nhất cho các dịch vụ cung cấp.
Nguyên tắc cơ bản trong quy định mua sắm của WB luôn được quán triệt là: không
phân biệt đối xử; không đàm phán về giá; bảo đảm sự cạnh tranh, công bằng, minh
bạch trong quá trình đấu thầu; không vi phạm về quy định đấu thầu; được điều chỉnh
theo thời gian và chống tham nhũng.
Theo ý kiến của đa số tổ chức tư vấn và các cơ quan quản lý dự án hiện nay thì
phương pháp tuyển chọn tư vấn, kết hợp giữa chất lượng và giá này vốn có ưu điểm là
minh bạch về tài chính. Song khi áp dụng ở Việt Nam, quy định đã không coi trọng yếu

7
tố kỹ thuật, cùng với các hồ sơ tuyển chọn tư vấn có nội dung điều khoản tham chiếu và
các nội dung khác chưa được hoàn hảo đã khiến thực tế quá trình tuyển chọn tư vấn
trong thời gian ngắn vừa qua đã xuất hiện các xu hướng chưa lành mạnh.
Hồ sơ dự thầu, dù có làm thế nào đi chăng nữa, cho dù tư vấn dự thầu là ai đi nữa,
quy mô như thế nào đi nữa, thì việc chấm điểm kỹ thuật của hồ sơ dự thầu cũng chỉ
chênh lệch trên dưới 4-5 điểm. Khi đó, ai bỏ thầu giá thấp người đó sẽ trúng thầu. Đây là
nguy cơ đáng cảnh báo nhất của công tác đấu thầu tư vấn hiện nay. Tiêu chuẩn đánh giá
tổng hợp được xây dựng trên cơ sở tiêu chuẩn đánh giá về mặt kỹ thuật và về mặt tài
chính, trong đó tỷ trọng điểm về mặt kỹ thuật không được quy định thấp hơn 70% tổng
số điểm và tỷ trọng điểm về mặt tài chính không được quy định cao hơn 30% tổng số
điểm; Ngân hàng thế giới qui định tỷ trọng điểm tài chính thường không quá 20%.
Phân tích kỹ hơn về tiêu chuẩn đánh giá kỹ thuật của hồ sơ mời thầu được quy
định tại Điều 15 khoản 1 của Nghị định số 111/2006/NĐ-CP, có nhiều điểm chưa
hợp lý: về tiêu chuẩn đánh giá về kỹ thuật ‘‘Trong đó tỷ trọng điểm về mặt kỹ thuật
không được quy định thấp hơn 70% tổng số điểm và tỷ trọng điểm về mặt tài chính không
được quy định cao hơn 30% tổng số điểm’’ [ 18 ].
Trong điều kiện nước ta hiện nay, khi mà giá dịch vụ tư vấn còn thấp so với
quốc tế thì với phương pháp lựa chọn tư vấn như hiện nay, các tư vấn cạnh tranh
bằng giá sẽ làm cho tư vấn không thể phát triển lành mạnh được.
Phương thức tuyển chọn tư vấn phù hợp với thực tế Việt Nam hiện nay là cần
nhanh chóng tiếp cận với thông lệ quốc tế. Cơ chế chỉ định thầu tư vấn chỉ nên áp
dụng đối với những công việc, giai đoạn chưa có định lượng (như lập đồ án quy
hoạch, báo cáo đầu tư). Với những giai đoạn, công việc đã cụ thể, đã định lượng (dự
án đầu tư, thiết kế kỹ thuật, giám sát...) nên áp dụng đấu thầu để phát huy tính cạnh
tranh, xác định chi phí khách quan, không bị rào cản của tỉ lệ chi phí tư vấn, tạo điều
kiện cho các tư vấn tự đổi mới vươn lên.
Theo phương pháp lựa chọn này, Nghị định số 111/2006/ NĐ-CP của Chính
phủ, ngày 29/9/2006 đề nghị cần được sửa đổi triệt để để có thể lựa chọn tư vấn dựa
vào yếu tố năng lực kỹ thuật là chính. Nghị định này hiện nay làm giảm tính hấp dẫn

của đấu thầu và không tạo được lực lượng tư vấn có chất lượng cao. Vì vậy quy định
8
tư vấn lập dự án không được tham gia thiết kế kỹ thuật là chưa phù hợp trong điều
kiện hiện nay. Cần sớm quy định lại tỷ trọng điểm đề xuất kỹ thuật và đề xuất tài
chính để xác định điểm tổng hợp, để đảm bảo lựa chọn được tư vấn có chất lượng
cao đáp ứng được yêu cầu về thời gian cũng như chất lượng lập hồ sơ dự án. Nên bổ
sung cho các thang điểm kỹ thuật từ 85, 90 trong điểm tổng hợp đối với một hồ sơ dự
thầu để khuyến khích về mặt kỹ thuật và thông qua đó không khuyến khích hạ giá
trong việc đấu thầu tuyển chọn tư vấn.
Mạnh dạn áp dụng đấu thầu quốc tế đối với các dự án lớn để chuyển giao công
nghệ. Đây cũng là biện pháp buộc các tư vấn trong nước phải tự mình hoàn thiện,
nâng cao tính chuyên nghiệp sớm tiến tới quản lý các loại chi phí tư vấn theo thông lệ
quốc tế, trước mắt đề nghị điều chỉnh ngay tỉ lệ chi phí cho tư vấn giám sát.
3.2.4. Hoàn thiện cách đánh giá năng lực của nhà thầu cho phù hợp hơn.
Một số dự án xuất hiện khá nhiều ý kiến phàn nàn từ chủ đầu tư rằng quá trình
triển khai thi công bị chậm do năng lực tài chính yếu kém của các nhà thầu. Lại có
nhiều ý kiến cho rằng, đang có một khoảng cách lớn giữa hồ sơ kinh nghiệm, khả
năng tài chính được thể hiện qua bài thầu với thực lực của nhiều nhà thầu. Phải
chăng, các chủ đầu tư đang bị nhà thầu qua mặt do tồn tại một phương pháp đánh giá
năng lực tài chính của các nhà thầu thiếu chính xác, nặng về cảm tính?
Năng lực tài chính của nhà thầu khi tham dự thầu là khả năng đảm bảo về vốn
và các điều kiện tài chính của nhà thầu để có thể thực hiện phần công việc được giao
qua chỉ định thầu hoặc đấu thầu. Cùng với giá bỏ thầu, đây là một trong những tiêu
chí quan trọng giúp các chủ đầu tư lựa chọn được nhà thầu có đủ năng lực hoàn thành
các phần việc đã đề ra trong hồ sơ mời thầu.
Vấn đề đặt ra ở đây là đánh giá năng lực tài chính nhà thầu tại các dự án hiện
chưa phản ánh chính xác “trọng lượng” thực sự của các nhà thầu. Dự án sử dụng vốn
ODA, quan điểm và phương pháp tính toán xác định năng lực tài chính dự thầu của
nhà thầu khi tham gia đấu thầu là việc xác định khả năng tài chính thực của nhà thầu,
được tính toán dựa trên cơ sở giá trị tài sản ròng trừ đi giá trị khối lượng còn lại của

các hợp đồng mà nhà thầu đang thực hiện dang dở. Điều này đã đáp ứng nhu cầu về
vốn của dự án trong khoảng thời gian nhà thầu thực hiện hợp đồng.
9
Nếu nhà thầu thấy khả năng của mình chưa đáp ứng yêu cầu tài chính của Dự án,
họ có thể đề nghị ngân hàng có tín nhiệm cho vay một số tiền nhất định khi trúng thầu.
Trong khi đó, đối với các dự án sử dụng vốn trong nước, chúng ta thường áp dụng một
số chỉ tiêu: doanh thu trung bình trong 3-5 gần kề ( bằng 2-3 lần giá trị gói thầu ); lợi
nhuận trong 3-5 gần kề (không nhỏ hơn 0); độc lập về tài chính...
Điều này đã được nhận định trong trang thông tin điện tử của Bộ giao thông
vận tải “Phương pháp đánh giá này còn đơn giản, mới chỉ đưa ra một vài chỉ tiêu về
kết quả kinh doanh mà không xác định được khả năng huy động đủ vốn thực tế của
nhà thầu để đảm bảo thi công công trình đúng chất lượng và tiến độ. Với một chiếc
“cân” chưa chuẩn như vậy, việc các chủ đầu tư bị nhà thầu qua mặt là điều hoàn toàn
không khó hiểu!” [ 30 ]
Vì vậy việc áp dụng phương pháp đánh giá năng lực tài chính nhà thầu của các
tổ chức tài chính quốc tế vào các dự án là vấn đề hết sức cấp bách.
3.2.5. Về xác định giá trị gói thầu và giá trúng thầu của Nhà thầu:
Giá trúng thầu cũng đang là vấn đề cần được xem xét. Nguyên tắc chung quy
định tại Điều 29 Luật Đấu thầu và tại các Điều 23, 24 Nghị định 111/2006/CP là các
nhà thầu sau khi đã vượt qua bước đánh giá về năng lực kinh nghiệm và kỹ thuật thì
nhà thầu trúng thầu là nhà thầu có giá đánh giá thấp nhất sau khi sửa lỗi số học và
hiệu chỉnh nhưng không vượt giá gói thầu được duyệt trong kế hoạch đấu thầu.
Nguyên tắc này rất thích hợp với một vài nước phát triển có trình độ cao vì họ có các
hệ thống luật pháp đầy đủ về cạnh tranh, về chống phá giá về hệ thống giám sát thi
công chặt chẽ. Tuy nhiên ở nhiều nước phát triển và đang phát triển khác (ở châu
Âu ) lại áp dụng nguyên tắc: lấy giá bình quân bỏ thầu của các nhà thầu làm căn cứ
xét thầu (đương nhiên là loại bỏ nhà thầu không đáp ứng yêu cầu về mặt kỹ thuật,
hoặc bỏ giá quá cao hay quá thấp trước khi chia giá bỏ thầu bình quân). Trong điều
kiện thực tế của Việt Nam, khi mà cả ba yếu tố cạnh tranh, chống phá giá và giám sát
chất lượng chưa hoàn thiện cũng cần xem xét tham khảo các phương pháp áp dụng

cho phù hợp, để chống tình trạng các nhà thầu phá giá rồi sau đó dùng các biện pháp
tiêu cực để bù đắp sự thiếu hụt như tình trạng thực tế đã xảy ra trong những năm qua.
10
Về mặt nguyên tắc chung, ngành xây dựng phải cung cấp cho xã hội các sản phẩm
đạt yêu cầu về chất lượng và tiến độ với giá cả hợp lý.
Xuất phát từ các luận điểm nói trên, luận văn đề xuất khi nghiên cứu xác định
giá trị gói thầu chúng ta nên nắm vững 4 nguyên tắc sau đây:
Nguyên tắc 1: Giá cả thị trường xây dựng cùng như giá cả thị trường nói chung,
vận hành theo quy luật giá trị và chịu sự tác động của các quy luật cung cầu và quy luật
cạnh tranh, cho nên thường xuyên biến động. Các giao dịch trong thị trường xây dựng
thường diễn ra trong thời hạn khá dài, có thể trong nhiều năm, nên sự biến động giá cả
trong các thị trường có yếu tố sản xuất càng không thể tránh khỏi.
Nguyên tắc 2: Giá xây dựng là giá đặt hàng sản xuất, ra giá trước rồi mới sản
xuất sau. Việc tạo giá là cả một quá trình, mỗi giai đoạn có loại giá đặc thù như giá
ước toán, khái toán, dự toán, giá đấu thầu, giá tạm ứng, giá thanh toán, quyết toán.
Mỗi loại giá sau cụ thể hoá và chính xác hoá loại giá trước những giá cuối cùng có
giá trị trả tiền là giá thanh toán. Khi đặt hàng chưa phải đã lường hết đầy đủ các yếu
tố về khảo sát, thiết kế nên còn cần phải bổ sung chi phí trong quá trình xây dựng.
Ngoài ra còn có các yếu tố rủi ro bất khả kháng như biến động lớn về kinh tế vĩ mô,
về chính sách, về thiên tai... làm thay đổi giá cả và chi phí xây dựng. Do đó khi thanh
toán buộc phải xét đến các biến động không do lỗi của nhà thầu. Vì vậy, hợp đồng
giao nhận thầu, một văn bản then chốt thể hiện kết quả giao dịch thị trường, cần phải
chứa đựng mọi ràng buộc cần thiết có liên quan đến các vấn đề nói trên. Chủ đầu tư
phải có khoản dự phòng để ứng phó với các biến động giá cả. Tóm lại khi quản lý chi
phí xây dựng thì phải nắm vững đặc điểm của giá cả xây dựng.
Nguyên tắc 3: Nhà nước có vai trò kép trong quản lý chi phí xây dựng, bao gồm
vai trò quản lý Nhà nước và vai trò chủ đầu tư (người bỏ vốn). Cần phân biệt rõ hai
vai trò này, không được lẫn lộn.
Nguyên tắc 4: Kinh tế nước ta vẫn đang trong thời kỳ đổi mới. Một mặt chúng
ta chưa có nhiều hiểu biết và kinh nghiệm quản lý chi phí và giá cả trong thị trường

xây dựng, mặt khác cũng không được gây ra những xáo trộn đột ngột quá lớn đối với
hiện trạng, do đó cần có giai đoạn quá độ, trước khi chuyển đổi sang áp dụng trọn
vẹn cơ chế thị trường xây dựng khu vực và quốc tế.
11
Vì vậy việc xác định giá trị của gói thầu, cần nắm vững các nguyên tắc trên
chúng ta mới đạt được mục đích có được sản phẩm xây dựng có chất lượng với giá
cả đảm bảo phục vụ cho lợi ích của chủ đầu tư và nhà thầu.
Hiện tượng bỏ giá thầu thấp hiện nay dẫn tới các hiện tượng làm bừa, làm ẩu,
bớt xén nguyên vật liệu, gây tổn hại đến chất lượng công trình, ảnh hưởng đến lợi ích
dài hạn và sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp.
Để xác định giá trị trúng thầu đảm bảo tính khả thi thực hiện dự án đảm bảo lợi
ích của chủ đầu tư và nhà thầu, cần quy định giá dự thầu của nhà thầu không được
thấp hơn giá thành hợp lý của gói thầu. Giá thành hợp lý là chi phí của nhà thầu đủ để
bù đắp chi phí biến đổi (chi phí vật liệu, chi phí nhân công, chi phí sử dụng máy thi
công và chi phí chung cấp doanh nghiệp phân bổ cho công trường). Giá thành ở đây
là giá thành cá biệt, là chi phí mà nhà thầu phải chi ra để hoàn thành gói thầu chứ
không phải là giá thành bình quân xã hội. Để ngăn chặn nhà thầu bỏ thầu với giá thấp
hơn giá thành cần thực hiện các biện pháp xây dựng định mức nội bộ riêng của nhà
thầu theo trình độ quản lý sản xuất kinh doanh, thực hiện nghiêm chỉnh chế độ bảo
lãnh đấu thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng làm cho nhà thầu phải suy nghĩ kỹ khi
quyết định báo giá dự thầu; nhà thầu phải tăng cường hạch toán giá thành để có cơ sở
bỏ giá thầu không thấp hơn giá thành.
Luận văn này chỉ đề cập đến một số vấn đề mang tính tổng quá, mà nghĩ là có
ích cho việc nghiên cứu, trên cả bình diện kinh tế học (lý luận) và thể chế thị trường
(thực tiễn) trong việc xác định giá gói thầu và giá trúng thầu của nhà thầu, để quản lý
chi phí đầu tư xây dựng một cách triệt để hơn, phù hợp với cơ chế thị trường, tức là
phù hợp với cơ chế giá cả, cơ chế cung cầu và cơ chế cạnh tranh đang chi phối sự vận
hành của thị trường xây dựng nước ta.
3.2.6. Nâng cao năng lực của cán bộ quản lý, tổ chuyên gia xét thầu, chuyên
nghiệp hoá hoạt động đấu thầu của chủ đầu tư.

3.2.6.1. Nâng cao năng lực của cán bộ quản lý nhà nước:
Con người luôn luôn xác định là nhân tố quan trọng và quyết định. Đảng và
nhà nước ta chú trọng việc đào tạo nâng cao năng lực trình độ của cán bộ quản lý và
12
thực hiện đổi mới cơ chế quản lý trong thời gian qua đã có thay đổi. Khi Luật đấu
thầu được ban hành và có hiệu lực thì việc tổ chức triển khai thực hiện là một công
việc cực kỳ quan trọng, cần được các cấp, các ngành, địa phương và cơ sở nghiêm
túc quán triệt và thi hành để Luật Đấu thầu thật sự được đi vào cuộc sống. Thạc sỹ
Nguyễn Lê Phong đã nêu rõ ‘‘ Một số chuyên gia có lý khi luận bàn về sự thành công
của một văn bản quy phạm pháp luật với đại ý như sau: Một văn bản luật dù được
chuẩn bị tốt mấy đi nữa thì cũng chỉ mới đảm bảo thành công 50%, phần 50% còn lại
là tuỳ thuộc váo quá trình tổ chức thực hiện, nghĩa là tuỳ thuộc vào người thực hiện
và cơ quan quản lý các cấp.’’ [ 7 ].
Cần có sự cải cách cơ bản trong công tác tuyển và sử dụng cán bộ trong bộ máy
quản lý nhà nước về đấu thầu. Kiên quyết trung thành với nguyên tắc công bằng và
minh bạch trong việc tuyển chọn và sử dụng cán bộ. Không tuyển vào đội ngũ những
người không đủ trình độ chuyên môn.
Công tác đào tạo và đào tạo lại đối với nhân sự trong Ban quản lý, phải được
làm thường xuyên, tạo điều kiện cho mỗi cán bộ, công chức không ngừng nâng cao
trình độ chuyên môn và năng lực công tác. Tiến tới chuyên môn hoá sâu những người
làm công tác đấu thầu.
Cùng với chính sách tiền lương khuến khích, cần chú trọng đặc biệt đến công
tác đời sống của cán bộ, công chức. Tạo mọi điều kiện để cán bộ, công chức có thể
nâng cao mức thu nhập trong phạm vi có thể. Có chính sách đãi ngộ thích hợp đối với
cá nhân có thành tích trong công tác hoặc có sáng kiến đem lại hiệu quả kinh tế cho
đất nước. Xử lý nghiêm đối với các hành vi vi phạm pháp luật, dù người vi phạm ở
bất cứ cương vị công tác nào.
Thường xuyên xem xét, đánh giá kết quả làm việc của cán bộ, công chức (theo
các chuẩn mực mang tính định lượng) trên cơ sở đó, bố trí sắp xếp lại một cách
khoa học nhằm phát huy cao nhất khả năng và sở trường công tác của từng cán bộ.

3.2.6.2. Nâng cao năng lực của chuyên gia xét thầu:
Chuyên gia xét thầu phải là những cán bộ am hiểu sâu về lĩnh vực chuyên môn
mà mình phụ trách, đồng thời có kiến thức quản lý nhà nước về đầu tư và xây dựng
cơ bản, am hiểu các quy định về đấu thầu phải đảm bảo tính chuyên nghiệp. Cần
13
nâng cao năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ trực tiếp điều hành công tác đấu
thầu.
Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản qui phạm pháp luật về đấu thầu, nhằm qui
định và hướng dẫn việc lựa chọn nhà thầu đảm bảo mục tiêu cạnh tranh, công bằng,
minh bạch và đạt hiệu quả kinh tế. Cùng với việc ban hành chính sách, Nhà nước
cũng đã chú trọng công tác đào tạo, tập huấn giúp cho đội ngũ những người làm công
tác quản lý đấu thầu ở cơ sở và những người trực tiếp điều hành công tác đấu thầu
hiểu được bản chất, mục tiêu của công tác đấu thầu, cũng như qui trình thực hiện việc
lựa chọn nhà thầu. Hiện nay công tác đấu thầu đã thực sự đi vào cuộc sống. Đội ngũ
những người làm công tác đấu thầu càng ngày càng đông về số lượng và tinh về kỹ
thuật. Tuy nhiên, do còn một số hạn chế nhất định khiến công tác đấu thầu chưa thực
sự tạo ra môi trường cạnh tranh và đem lại hiệu quả mong muốn.
Chủ đầu tư có thể tự thành lập tổ chuyên gia xét thầu bằng cách cử những cán
bộ của mình tham gia tổ chuyên gia xét thầu. Ưu điểm của hình thức này là am hiểu
lĩnh vực đấu thầu, và hiểu rõ những yêu cầu của chủ đầu tư. Tuy nhiên, nhược điểm
của hình thức này là đội ngũ cán bộ được bố trí thực hiện công tác phức tạp này
không chuyên nghiệp, thiếu kiến thức và kinh nghiệm về đấu thầu.
Chủ đầu tư có thể thuê tư vấn thực hiện việc xét thầu. Về hình thức, nó đảm bảo
khách quan hơn, chuyên nghiệp hơn trong việc xét thầu, nhưng thực tế nhiều tổ chức
tư vấn này lại không được cập nhật kiến thức, hoặc là đã quá quen thuộc với khu vực
mà họ tham gia xét thầu nên không tránh khỏi hiện tượng kinh nghiệm chủ nghĩa
hoặc thân quen.
Để nâng cao chất lượng đấu thầu, chủ đầu tư khi lựa chọn cán bộ để thành lập
“Tổ chuyên gia xét thầu” hoặc thuê “Tổ chuyên gia xét thầu” phải bảo đảm tính
chuyên nghiệp. Tính chuyên nghiệp không phải là chuyên làm việc xét thầu, “Tổ

chuyên gia xét thầu chuyên nghiệp” được đề cập ở đây chính là “Tổ chuyên gia xét
thầu” có tính chuyên nghiệp cao, tức là những thành viên tham gia tổ xét thầu phải
đảm bảo các điều kiện tối thiểu sau:
- Am hiểu pháp luật về đầu tư và đấu thầu. Cần tiến hành thi tuyển để đánh giá
kiến thức của các ứng viên về các quy định luật pháp của Nhà nước về đầu tư về đấu

×