Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ TÁI CẤU TRÚC THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (524.49 KB, 73 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

CÔNG TRÌNH THAM GIA XÉT GIẢI
GIẢI THƯỞNG “TÀI NĂNG KHOA HỌC TRẺ VIỆT NAM
NĂM 2012”

Tên công trình:

Thực trạng và vấn đề tái cấu trúc Thị trường chứng
khoán Việt Nam

Thuộc nhóm ngành khoa học: Khoa học Xã hội và Nhân văn

Hà Nội, 2012


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

CÔNG TRÌNH THAM GIA XÉT GIẢI
GIẢI THƯỞNG “TÀI NĂNG KHOA HỌC TRẺ VIỆT NAM
NĂM 2012”

Tên công trình: Thực trạng và vấn đề tái cấu trúc Thị trường chứng khoán
Việt Nam
Thuộc nhóm ngành khoa học: Khoa học Xã hội và Nhân văn

Họ và tên sinh viên: Nguyễn Thị Phương Thảo
Lớp:

Kinh tế Đầu tư 52A


Giáo viên hướng dẫn: Tiến Sĩ Trần Mai Hương

Hà Nội, 2012

(Nữ)
Năm thứ 2


DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Bảng 1: Cách thức hoạt động của 2 SGDCK..................................................11
Bảng 2: Quy mô TTCK giai đoạn 2000 - 2005 ...............................................12
Biểu đồ 1: Chỉ số VNIndex năm 2006..............................................................19
Biểu đồ 2: Chỉ số VNIndex 2007......................................................................23
Biều đồ 3: Chỉ số VNIndex 2008......................................................................26
Bảng 3: Quy mô TTCK giai đoạn 2010 - 2011 ..............................................29
Biểu đồ 4: Xu hướng biến động VN-Index giai đoạn 2010 - 2012.................29
Biểu đồ 6: Biểu đồ độ sâu tài chính .................................................................32
Biểu đồ 7: Số lượng công ty niêm yết, CTCK, số lượng tài khoản của nhà
đầu tư .................................................................................................................33
Biểu đồ 8: TTCK Việt Nam: vốn hóa và mức huy động vốn qua TTCK
hàng năm............................................................................................................34
Bảng 5: Đầu tư của các ngân hàng vào công ty khác.....................................42
Bảng 4: Tình hình hoạt động 1 số CTCK giai đoạn 2007 - 2010...................43
Biểu đồ 5: Biểu đồ thể hiện lỗ, lãi.....................................................................43


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Chữ đầy đủ


TTCKVN

Thị trường chứng khoán Việt Nam

TTCK

Thị trường chứng khoán

SGDCK

Sở giao dịch chứng khoán

SGDCKHN

Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội

SGDCK TP.HCM

Sở giao dịch chứng khoán TPHCM

TTGDCK

Trung tâm giao dịch chứng khoán

CTCK

Công ty chứng khoán

TTCP


Thị trường cổ phiếu

DNNN

Doanh nghiệp nhà nước

ĐKGD

Đăng kí giao dịch

TTTC

Thị trường tài chính

UBCKNN

Ùy ban chứng khoán nhà nước

CTNY

Công ty niêm yết

NHTM

Ngân hàng thương mại

NHNN

Ngân hàng nhà nước


TKKH

Tài khoản khách hàng

NHTMCP

Ngân hàng thương mại cổ phần

CCQ

Chứng chỉ quỹ

TPCP

Trái phiếu cổ phiếu

BĐS

Bất động sản


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
TTCK là một bộ phận quan trọng của thị trường vốn, hoạt động của nó nhằm
huy động những nguồn vốn tiết kiệm trong xã hội tập trung thành nguồn vốn lớn
tài trợ cho doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và Chính phủ để phát triển sản
xuất, tăng trưởng kinh tế hay cho các dự án đầu tư. Vì vậy chứng khoán luôn là
điểm nóng được các nhà đầu tư quan tâm. TTCKVN chính thức đi vào hoạt
động vào năm 2000 với việc vận hành SGDCK TP.HCM vào ngày 20/7/2000 và

SGDCK HN vào ngày 8/3/2005 (trước đó các SGDCK hoạt động với mô hình là
các TTGDCK và tổ chức dưới hình thức đơn vị sự nghiệp có thu thuộc
UBCKNN).
Trong 11 năm hoạt động, TTCK VN đã huy động được 400.000 tỷ đồng, khai
thác được rất nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước đầu tư vào Việt Nam. Từ đó,
giúp tận dụng được nguồn tiền nhàn rỗi, tạo đà cho các doanh nghiệp hoạt động
có hiệu quả... Tuy nhiên, trong 2-3 năm trở lại đây, thị trường đang có những
dấu hiệu mất cân bằng một cách rõ ràng. Các chỉ số liên tục tìm đáy mới, niềm
tin nhà đầu tư giảm sút, dòng tiền đổ vào cũng ngày càng cạn kiệt, giá trị cổ
phiếu suy giảm nghiêm trọng. TTCKVN, theo như các quỹ đầu tư nước ngoài
đánh giá là một trong những thị trường tệ nhất thế giới
Ai cũng có thể thấy, bức tranh "màu xám" của TTCK thời gian qua là hậu quả
của một chuỗi các tác động từ sự suy thoái của kinh tế vĩ mô, sự mất niềm tin
của nhà đầu tư, mà nguyên do chủ yếu là từ chất lượng hàng hoá và dịch vụ, sự
minh bạch thông tin trên thị trường ở mức thấp; cũng như vai trò của các thành


phần tham gia thị trường như công ty chứng khoán, các tổ chức trung gian chưa
được phát huy một cách đúng đắn.
Điều này gióng lên hồi chuông báo động về việc cần thiết phải có một cuộc thay
đổi triệt để từ gốc rễ TTCKVN, vấn đề tái cấu trúc trở nên cần thiết và cấp
bách. Tái cấu trúc thị trường chứng khoán là một hướng đi mà các thị trường tài
chính quốc tế đã từng trải qua sau mỗi chu kỳ hưng thịnh, suy thoái. Đặc biệt
trong giai đoạn hiện nay, thị trường tài chính quốc tế đã có sự biến đổi nhanh
trong cấu trúc thị trường cũng như hoạt động nghiệp vụ đòi hỏi TTCKVN cần
phải có bước đi thích hợp. Vì vậy chúng tôi chọn đề tài “Đánh giá thực trạng và
vấn đề tái cấu trúc Thị trường chứng khoán Việt Nam” để làm đề tài nghiên cứu
khoa học
2. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu gồm các mục đích cơ bản

Thứ nhất, làm rõ những vấn đề cơ bản về TTCK và cơ sở để tái cấu trúc TTCK
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng TTCK VN và làm rõ nhận yêu cầu và
tính cấp thiết của việc tái cấu trúc.
Thứ ba, đề xuất những giải pháp trên cơ sở tái cấu trúc và phát triển TTCK VN
bền vững
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: TTCK Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động của TTCK VN từ 2000 đến nay
4. Phương pháp nghiên cứu:
Bài nghiên cứu khoa học sử dụng các phương pháp nghiên cứu thống kê, phân
tích logic, kết hợp giữ lý luận và tình hình thực tế; đồng thời sử dụng phương


pháp tổng hợp số liệu, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích đánh giá
báo cáo tổng kết đưa ra các nhận định và giải pháp.
5. Kết cấu đề tài:
Chương 1: Tổng quan về TTCK Việt Nam
Chương 2: Thực trạng TTCK Việt Nam và yêu cầu tái cấu trúc
Chương 3: Tái cấu trúc TTCK



1

Chương 1: Tổng quan về TTCK và vấn đề tái cấu trúc TTCK
1.1. Thị trường chứng khoán
1.1.1. Khái niệm
Chứng khoán là những giấy tờ có gía và có khả năng chuyển nhượng, xác định
số vốn đầu tư; chứng khoán xác nhận quyền sở hữu hoặc quyền đòi nợ hợp
pháp, bao gồm các điều kiện về thu nhập và tài sản trong một thời hạn nào đó.

1.1.2. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển
Do sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu về tích vốn trong xã hội tăng lên, đa
dạng và phong phú; người thì cần vốn cho mục đích tiêu dùng hay đầu tư, người
thì có vốn nhàn rỗi muốn cho vay để sinh lời. Đầu tiên, họ tìm gặp nhau trực
tiếp trên cơ sở quen biết. tuy nhiên sau đó, khi cung cầu vốn không ngừng tăng
lên thì hình thức vay, cho vay trực tiếp dựa trên quan hệ quen biết không đáp
ứng được; Vậy cần phải có một thị trường cho cung và cầu gặp nhau, đáp ứng
các nhu cầu tài chính của nhau – Đó là TTTC. Thông qua TTTC, nhiều khoản
vốn nhàn rỗi được huy động vào tiêu dùng, đầu tư, tạo đòn bẩy cho phát triển
kinh tế.
Các phương thức giao dịch ban đầu được diễn ra sơ khai ở ngoài trời với những
ký hiệu giao dịch bằng tay và có thư ký nhận lệnh của khách hàng. Ở Mỹ năm
1921, khu chợ này được chuyển từ ngoài trời vào trong nhà, SGDCK chính thức
được thành lập.
Ngày nay, theo sự phát triển của công nghệ khoa học kỹ thuật, các phương thức
giao dịch ở các SGDCK cũng được cải tiến dần theo tốc độ và khối lượng yêu
cầu nhằm đem lại hiệu quả và chất lượng cho giao dịch, các SGDCK đã dần dần
sử dụng máy vi tính để truyền các lệnh đặt hàng và chuyền dần từ giao dịch thủ
công kết hợp với máy vi tính sang sử dụng hoàn toàn hệ thống giao dịch điện tử
thay cho thủ công trước kia.
Lịch sử phát triển các TTCK thế giới trải qua một sự phát triển thăng trầm lúc
lên, lúc xuống, vào những năm 1875-1913, TTCK thế giới phát triển huy hoàng
cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế thế giới lúc đó, nhưng rồi đến "ngày thứ
năm đen tối " tức ngày 29/10/1929 đã làm cho TTCK Tây, Bắc Âu và Nhật bản


2

khủng hoảng . Khi chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, TTCK hồi phục dần và
phát triển mạnh . Đến năm 1987 một lần nữa TTCK thế giới điên đảo với "ngày

thứ hai đen tối" do hệ thống thanh toán kém cỏi không đảm đương được yêu cầu
của giao dịch, sụt giá chứng khoán mạnh làm mất lòng tin và phản ứng dây
chuyền mà hậu quả của nó còn nặng hơn cuộc khủng hoảng năm 1929. Theo
quy luật tự nhiên, sau gần hai năm, TTCK Thế giới lại đi vào giai đoạn ổn định
và phát triển đến ngày nay. Cứ mỗi lần khủng hoảng như vậy, giá chứng khoán
của tất cả các TTCK trên Thế giới sụt kinh khủng ở mỗi khu vực và mỗi nước ở
những mức độ khác nhau gây ra sự ngừng trệ cho TTCK toàn cầu và cũng ảnh
hưởng trực tiếp tới nền kinh tế mỗi nước.
Cho đến nay, phần lớn các nước trên Thế giới đã có khoảng trên 160 SGDCK
phân tán khắp các châu lục bao gồm cả các nước trong khu vực Đông nam Á
phát triển vào những năm 1960 -1970 vào ở các nước ở Đông Âu như Balan,
Hunggari, Séc, Nga, và Châu Á như Trung quốc vào những năm 1980 - đầu năm
1990.
Lịch sử hình thành và phát triển của TTCK trên Thế giới cho thấy thời gian đầu,
thị trường hình thành một cách tự phát, đối tượng tham gia chủ yếu là các nhà
đầu cơ, dần dần về sau mới có sự tham gia ngày càng đông đảo của công chúng.
Khi thị trường bắt đầu xuất hiện dấu hiệu trục trặc và bất ổn, chính phủ buộc
phải can thiệp bằng cách thành lập các cơ quan quản lý nhằm bảo vệ quyền lợi
của công chúng đầu tư và sau đó dần dần hệ thống pháp lý cũng bắt đầu được
ban hành. Kinh nghiệm đối với những thị trường mới hình thành về sau này cho
thấy thị trường sau khi thiết lập chỉ có thể hoạt động có hiệu quả, ổn định và
nhanh chóng nếu có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt về hàng hoá, luật pháp, con
người, bộ máy quản lý và đặc biệt sự giám sát và quản lý nghiêm ngặt của Nhà
nước.
Song cũng có một số TTCK có sự trục trặc ngay từ ban đầu như TTCK Thái
Lan, Inđônêsia, hoạt động trì trệ một thời gian dài do thiếu hàng hoá và do
không được quan tâm đúng mức, TTCK Philippine kém hiệu quả do thiếu sự chỉ
đạo và quản lý thống nhất hoạt động của 2 Sở giao dịch chứng khoán Makita và
Manila, TTCK Balan, Hungari gặp trục trặc do việc chỉ đạo giá cả quá cao hoặc
quá thấp.

TTCK là một định chế tài chính không thể thiếu được trong đời sống kinh tế của


3

những nước theo cơ chế thị trường và nhất là những nước đang phát triển đang
cần thu hút luồng vốn lớn dài hạn cho nền kinh tế quốc dân.
1.1.3. Đặc điểm
Tính thanh khoản (tính lỏng): Tính lỏng của tài sản là khả năng chuyển tài sản
đó thành tiền mặt. Khả năng này cao hay thấp phụ thuộc vào khoảng thời gian
và chi phí cần thiết cho việc chuyển đổi và rủi ro của việc giảm sút giá trị của tài
sản đó do chuyển đổi. Chứng khoán có tính lỏng cao hơn so với các tài sản khác,
thể hiện qua khả năng chuyển nhượng cao trên thị trường và nói chung, các
chứng khoán khác nhau có khả năng chuyển nhượng là khác nhau.
Tính rủi ro: Chứng khoán là các tài sản tài chính mà giá trị của nó chịu tác động
lớn của rủi ro, bao gồm rủi ro có hệ thống và rủi ro không có hệ thống. Rủi ro có
hệ thống hay rủi ro thị trường là loại rủi ro tác động tới toàn bộ hoặc hầu hết các
tài sản. Loại rủi ro này chịu tác động của các điều kiện kinh tế chung như: lạm
phát, sự thay đổi tỷ giá hối đoái, lãi suất v.v. Rủi ro không hệ thống là loại rủi ro
chỉ tác động đến một tài sản hoặc một nhóm nhỏ tài sản. Loại rủi ro này thường
liên quan tới điều kiện của nhà phát hành.
Tính sinh lợi: Chứng khoán là một tài sản tài chính mà khi sở hữu nó, nhà đầu tư
mong muốn nhận được một thu nhập lớn hơn trong tương lai. Thu nhập này
được bảo đảm bằng lợi tức được phân chia hằng năm việc tăng giá chứng khoán
trên thị trường.
1.1.4. Chức năng cơ bản của TTCK
Thứ nhất, TTCK là công cụ quan trọng trong việc huy động vốn trung và dài
hạn.
Với chi phí thấp, khả năng chủ động trong việc lựa chọn đối tượng, lượng vốn
cần thiết cũng như hình thức huy động vốn, TTCK có vai trò rất lớn trong việc

trợ giúp cho các doanh nghiệp thu hút, huy động vốn cho hoạt động sản xuất –
kinh doanh một cách dễ dàng. Nếu như trước đây các tổ chức tín dụng là chỗ
dựa tiềm tàng về vốn cho các doanh nghiệp, từ nguồn vốn nhỏ nhất trong thời


4

gian dài nhất theo nhu cầu, thì đến nay khi nền kinh tế phát triển, TTCK đã mở
ra cơ hội huy động vốn mới cho các doanh nghiệp.
Không chỉ đóng vai trò là công cụ huy động vốn, TTCK còn là môi trường đầu
tư thuận lợi của công chúng. TTCK là môi trường đầu tư lành mạnh với cơ hội
lựa chọn phong phú. Những nguồn tiền tiết kiệm của dân cư được sử dụng với
hiệu suất cao nhất thông qua việc lựa chọn các loại chứng khoán với mức độ an
toàn và linh hoạt khác nhau khiến cho các nhà đầu tư có thể lựa chọn hình thức
đầu tư phù hợp với khả năng và sở thích của mình. Có thể nói, TTCK là một
trong những cơ sở đánh giá giá trị của doanh nghiệp và của nền kinh tế một cách
tổng hợp (kể cả giá trị hữu hình và giá trị vô hình) thông qua các chỉ số giá
chứng khoán trên thị trường là kết quả của quá trình cạnh tranh, đảm bảo cho
hiệu suất sử dụng vốn của doanh nghiệp nói riêng và của cá nhân nền kinh tế nói
chung đạt hiệu quả cao nhất
Thứ hai, TTCK là công cụ thực hiện chính sách tài chính tiền tệ quốc gia và các
chính sách vĩ mô khác.
TTCK phản ánh các giá cả chứng khoán của các doanh nghiệp và các ngành
kinh tế. Mức độ giao động giá chứng khoán cho thấy dấu hiệu tiêu cực. Chính vì
vậy, có thể nói rằng TTCK là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ
hữu hiệu để Chính phủ điều hành việc thực hiện các chính sách vĩ mô. Thông
qua TTCK, Chính phủ thực hiện “cân đối lại” ngân sách nhà nước bằng việc
phát hành các loại trái phiếu Chính phủ. Đây chính là nội dung quan trọng nhằm
thực hiện chính sách tài chính quốc gia. Việc thực hiện tốt chính sách tài chính
quốc gia tạo căn cứ chắc chắn cho việc ổn định giá trị đồng tiền, là nội dung cơ

bản và quan trọng nhất của chính sách tiền tệ quốc gia. Chính vì thế, TTCK tạo
môi trường thuận lợi cho Chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Thứ ba, TTCK đóng vai trò tạo khả năng thanh khoản cho các chứng khoán.


5

Nhà đầu tư có thể chuyển đổi chứng khoán của họ thành tiền mặt hoặc các loại
chứng khoán mà họ mong muốn khác tại thị trường. Chính tính thanh khoản của
chứng khoán giúp cho thị trường sôi động, đồng thời cũng là một trong những
yếu tố quyết định mức hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Vì vậy,
bản thân tính thanh khoản và hoạt động của thị trường có mối quan hệ nội tại,
bảo đảm cho TTCK hoạt động an toàn, hiệu quả.
Bất kỳ quốc gia nào có TTCK đều phải tính toán sự ảnh hưởng của đầu tư nước
ngoài đối với nền kinh tế trong nước. Có thể nói, TTCK thu hút đầu tư nước
ngoài với độ nhậy lớn. Đối với những hình thức đầu tư tài chính thông qua thị
trường có vai trò quan trọng đối với quốc gia đang phát triển. Vì vậy, nếu thị
trường có tính ổn định, môi trường đầu tư thuận lợi, cơ hội nhận vốn đầu tư
nước ngoài sẽ lớn hơn. Điều này lại được phản ánh trong tính thanh khoản của
chứng khoán và những giới hạn đầu tư chứng khoán đối với nhà đầu tư nước
ngoài (kể cả nhà đầu tư có tổ chức và đầu tư cá thể). Đối với việc thu hút đầu tư
trực tiếp cũng tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa doanh nghiệp chứng
khoán trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ tư, TTCK có mối quan hệ mật thiết với quá trình cổ phần hoá các doanh
nghiệp nhà nước.
Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã tạo điều kiện hết sức quan
trọng thúc đẩy quá trình phát triển của thị trường sơ cấp cũng như hình thành thị
trường thứ cấp ở Việt Nam. Việc phát hành cổ phiếu của các doanh nghiệp được
cổ phần hoá làm sôi động hơn thị trường phát hành, chuyển hoá phần vốn tiết
kiệm trong dân chúng thành vốn kinh doanh. Việc niêm yết cổ phiếu trên thị

trường tập trung làm tăng thêm và sôi động thêm lượng hàng hoá tại thị trường
thứ cấp. Thực tế cho thấy, các cổ phiếu niêm yết tại thị trường tập trung hiện nay
đều là cổ phiếu của các công ty cổ phần hình thành từ con đường cổ phần hoá.
Ngược lại, TTCK cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình cổ phần hoá


6

doanh nghiệp nhà nước, từ giai đoạn cổ phần hoá đến giai đoạn niêm yết chứng
khoán và khi có nhu cầu phát hành chứng khoán để tăng vốn doanh nghiệp.
Thứ năm, phân tích các yếu tố tác động qua lại của TTCK trong thị trường tài
chính.
Hệ thống pháp luật phản ánh chính sách tiền tệ quốc gia, gây ảnh hưởng trực
tiếp đến cơ cấu tiền của toàn xã hội. Chính sách lãi suất của Chính phủ làm thay
đổi cơ cấu tiền trong lưu thông, làm ảnh hưởng trực tiếp đến luồng tiền và mức
độ giao dịch của các nhà đầu tư trên TTCK. Lãi suất cơ bản của ngân hàng trung
ương (Ngân hàng Nhà nước đối với Việt Nam) có ảnh hưởng trực tiếp đến lãi
suất thị trường tín dụng (bao gồm cả lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay, lãi suất tái
chiết khấu), đồng thời, kích ứng mức độ sôi động TTCK (thông qua biến động
các chỉ số giá chứng khoán). Những biến động về lãi suất như vậy sẽ ảnh hưởng
tới nguồn cung cấp vốn cho các nhà kinh doanh trong mở rộng đầu tư và hình
thành vốn, làm cho nguồn vốn được đưa vào đầu tư có chi phí thấp nhất, các bộ
phận thị trường tài chính có mức độ tự cạnh tranh cao nhất. Ngoài ra, thị trường
ngoại hối cũng như cán cân thương mại cũng ảnh hưởng trực tiếp đến giao dịch
trên TTCK. Đối với đồng nội tệ có sức mua ổn định, chỉ số giá chứng khoán có
mức độ cân bằng tương đối so với thị trường nước ngoài sẽ không xảy ra tình
trạng luồng tiền được chuyển ra đầu tư nước khác. Sức mua đối ngoại của đồng
tiền ổn định cũng tạo cho nhà đầu tư chứng khoán an tâm, không có sự chuyển
dịch đầu tư từ bộ phận thị trường này sang bộ phận thị trường khác, xa lánh
TTCK (chẳng hạn từ thị trường chứng skhoán chuyển sang thị trường ngoại hối,

thị trường bất động sản…). Những yếu tố kinh tế như tốc độ tăng trưởng, chính
sách đầu tư của Nhà nước, thay đổi cơ cấu tổ chức hoặc người đứng đầu bộ máy
nhà nước, tác động của các tổ chức tiền tệ quốc tế đều có thể làm biến động
TTCK. Từ những phân tích trên, điều dễ nhận thấy là TTCK rất nhạy cảm với
các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội; việc ổn định và phát triển các yếu tố đó
chính là cơ sở quan trọng để TTCK ổn định và phát triển.


7

1.1.5. Các chủ thể tham gia TTCK
Nhà phát hành
- Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua TTCK. Nhà
phát hành là người cung cấp các chứng khoán - hàng hoá của TTCK.
- Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu Chính
phủ và trái phiếu địa phương.
- Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
- Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu,
chứng chỉ thụ hưởng,... phục vụ cho hoạt động của họ.
Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên TTCK. Nhà
đầu tư có thể được chia thành 2 loại:
- Các nhà đầu tư cá nhân
- Các nhà đầu tư có tổ chức
Các tổ chức kinh doanh trên TTCK
- Công ty chứng khoán
- Quỹ đầu tư chứng khoán
- Các trung gian tài chính
Các tổ chức có liên quan đến TTCK
- Cơ quan quản lý Nhà nước

- Sở giao dịch chứng khoán


8

- Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
- Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán
- Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán
- Các tổ chức tài trợ chứng khoán
- Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm
1.1.6. Cấu trúc và phân loại cơ bản của TTCK
Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn
TTCK được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thức cấp
Thị trường sơ cấp: Là thị trường phát hành các chứng khoán hay là nơi mua bán
các chứng khoán lần đầu tiên. Tại thị trường này, giá cả của chứng khoán là giá
phát hành. Việc mua bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp làm tăng vốn cho
nhà phát hành.
Thị trường thứ cấp: Là thị trường giao dịch mua bán, trao đổi những chứng
khoán đã được phát hành nhằm mục đích kiếm lời, di chuyển vốn đầu tư hay di
chuyển tài sản xã hội
Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường
Thị trường tập trung (Sở giao dịch chứng khoán): Người mua và người bán gặp
nhau tại một địa điểm nhất định để tiến hành giao dịch, mua bán, trao đổi chứng
khoán
Thị trường phi tập chung (OTC): Là thị trường của các nhà buôn, những người
tạo ra thị trường. Ở thị trường này không có địa điểm giao dịch chính thức mà
có thể diễn ra tại tất cả các quầy, sàn giao dịch của các thành viên thông qua
điện thoại hay mạng máy tính diện rộng. Khối lượng giao dịch của thị trường
này lớn hơn rất nhiều lần so với thị trường Sở giao dịch.



9

Căn cứ phân loại theo hàng hóa
TTCK có thể phân thành thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu và thị trường
các công cụ dẫn suất
Thị trường trái phiếu: Là thị trường mà hàng hóa được bán là trái phiếu
Thị trường cổ phiếu: Khác với thị trường nợ (thị trường trái phiếu), thị trường
cổ phiếu là nhơi giao dịch, mua bán, trao đổi các giấy tờ xác nhận cổ phần đóng
góp của cổ đông.
Thị trường công cụ dẫn suất: Là nơi các chứng khoán phái sinh được mua và
bán
1.2. Tái cấu trúc TTCK
Trong quá trình hình thành và phát triển TTCK còn nhiều bất cập, hạn chế chưa
phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế. Những hạn chế này được biểu
hiện qua một số mặt sau: số lượng các công ty chứng khoán không cân xứng với
thị trường; năng lực tài chính và quy mô hoạt động còn hạn hẹp; chỉ số an toàn
tài chính giảm rủi ro cao; nguồn nhân lực, cở sở vật chất kém;...vì vậy phải tái
cấu trúc để khắc phục những hạn chế và ngày càng hoàn thiện TTCK.


10

Chương 2: Thực trạng TTCKVN và yêu cầu tái cấu trúc
2.1. Quá trình hình thành và phát triển TTCKVN
2.1.1. Quá trình hình thành
Sau nhiều năm chuẩn bị và chờ đợi , ngày 11-7-1998 Chính phủ đã ký Nghị định
số 48/CP ban hành về chứng khoán và TTCK chính thức khai sinh cho
TTCKVN ra đời. Cùng ngày, Chính phủ cũng ký quyết định thành lập TTGDCK
đặt tại TP.HCM và Hà Nội. Việc chuẩn bị cho TTCKVN thực ra đã do UBCK ra

đời bằng Nghị định 75/CP ngày 28-11-1996.
TTGDCK TP.HCM được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TT ngày
11-7-1998 và chính thức đi vào hoạt động thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào
ngày 28-7-2000.
TTGDCKHN đã chính thức chào đời vào ngày 8/3/2005. Chỉ số VN-Index so
sánh giá trị thị trường hiện hành với giá trị thị trường cơ sở vào ngày gốc 28-72000, khi TTCK chính thức đi vào hoạt động. Giá trị thị trường cơ sở trong công
thức tính chỉ số được điều chỉnh trong các trường hợp như niêm yết mới, huỷ
niêm yết và các trường hợp có thay đổi về vốn niêm yết. Công thức tính chỉ số
VN-Index :
Chỉ số VN-Index = (Giá trị thị trường hiện hành / Giá trị thị trường cơ
sở)
x
100
2.1.2. Cách thức hoạt động của 2 SGDCKHN và SGDCKHCM


11

Bảng 1: Cách thức hoạt động của 2 SGDCK
SGDCKHN

SGDCK TP.HCM

T2 đến T6 hàng tuần (trừ ngày lễ)
Đối với CP và Đối với trái
Chứng chỉ quỹ
phiếu
đầu tư
Sáng: 09h – 11h30
Chiều: 13h – 14h15


Giá tham chiếu CP đang
GD

GD
khớp
lệnh

GD
GD theo
thỏa phương thức
thuận thỏa thuận từ
8h30 – 11h
8h30– 10h30
10h30 – 11h

Giá cơ sở của ngày GD gần nhất trước đó

Biên độ giá

± 7% đối với CP, không
áp dụng với TP

±5%

Phương thức GD

Khớp lệnh liên tục và
thỏa thuận, thoản thận


Khớp lệnh liên tục và khớp
lệnh đính kỳ, thỏa thuận

Lệnh GD

Lệnh giới hạn

Lệnh thị trường, lệnh giới
hạn

Đợn vị GD

Lô chẵn với GD khớp
lệnh là 100 CP, TP.

Đơn vị GD lô chẵn

Lô lẻ: Từ 1 đến 99 CK
Phương thức thanh toán

T+3

Qua bảng trên, ta có thể nhận thấy được những đặc điểm nổi bật nhất cũng như
sự giống và khác nhau trong phương thức giao dịch của 2 SGDCK.


12

2.2. Thực trạng hoạt động của TTCKVN từ 2000 đến nay
2.2.1. Giai đoạn 2000 – 2005: Giai đoạn TTCK chập chững những bước đi

đầu tiên
Việc khai trương đưa TTGDCK TP.HCM đi vào hoạt động từ tháng 7 – 2000
đã đánh dấu một bước tiến lớn trong công cuộc cải cách nền kinh tế của Việt
Nam . Thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Ở thời điểm lúc
này chỉ có 2 doanh nghiệp niêm yết 2 loại cổ phiếu (REE và SAM) với số vốn
270 tỷ đồng và một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao dịch.
TTCKVN chính thức đi vào hoạt động với 6 CTCK làm “nòng cốt” là BVSC,
BSC, SSI, FSI, TLS, ACBS. Từ đó cho đến 2005, thị trường luôn ở trong trạng
thái trầm lắng ngoại trừ cơn sốt vào năm 2001(chỉ số VN-Index cao nhất đạt
571.04 điểm sau 6 tháng đầu năm nhưng chỉ trong vòng chưa đầy 4 tháng, từ
tháng 6 đến tháng 10, các cổ phiếu niêm yết đã mất giá tới 70% giá trị, chỉ số
VN-Index sụt từ 571,04 điểm vào ngày 25/4/2001 xuống chỉ còn khoảng 200
điểm vào tháng 10/2001. Trong 4 tháng này, trong khi nhiều nhà đầu tư tháo
chạy khỏi thị trường với ý định không bao giờ quay lại thì một số nhà đầu tư
khác vẫn bình tĩnh bám trụ, âm thầm mua bán và tiếp tục kiếm được lợi nhuận.
Trong 5 năm chỉ số VN-Index lúc cao nhất chỉ có 300 điểm, mức thấp nhất
xuống đến 130 điểm. Lý do chính là ít hàng hoá, các doanh nghiệp niêm yết
nhỏ, không nổi tiếng, không hấp dẫn nhà đầu tư trong nước.
Ngày 8/3/2005 TTGDCK HN chính thức đi vào hoạt động. Giai đoạn tỉnh ngủ
dần xuất hiện từ năm 2005 khi tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài được
nâng từ 30% lên 49% (trừ lĩnh vực ngân hàng).
Trong 5 năm đầu tiên, dường như thị trường không thực sự thu hút được sự quan
tâm của đông đảo công chúng và các diễn biến tăng giảm của thị trường
chưa tạo ra tác động xã hội mở rộng để có thể ảnh hưởng tới sự vận hành của
nền kinh tế cũng như tới cuộc sống của mỗi người dân.
Ta có thể nhận định rõ được điều đó thông qua bảng số liệu sau:

Bảng 2: Quy mô TTCK giai đoạn 2000 - 2005
Năm


2000

2001

2002

2003

2004

2005


13

Số CT
NY/ĐKGD

5

5

20

22

26

41


0.28

0.34

0.48

0.39

0.64

1.21

7

8

9

12

13

14

2908

8774

13520


15735

21616

31316

Mức vốn
hóa TTCP
(%GDP)
Số lượng
CTCK
Số TKKH

Nguồn: UBCK và tác giả tổng hợp
TTCK Việt Nam trong 5 năm đầu đã chứng kiến nhiều thay đổi lớn, có ảnh
hưởng quan trọng đến sự phát triển của lĩnh vực này trong tương lai.
 Những sự kiện nổi bật liên quan đến chứng khoán nước nhà trong 5 năm
đầu hoat động.
• Chuyển Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) về Bộ Tài chính
Sau gần 5 năm điều hành TTCK như một cơ quan độc lập trực thuộc Chính phủ,
cuối tháng 1/2004, UBCKNN được chính thức chuyển về Bộ Tài chính theo
Nghị định 66/2004/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ. Về cơ bản, cơ cấu tổ chức
của UBCKNN không có thay đổi lớn sau khi chuyển đổi, duy chỉ có tên gọi các
vụ chức năng được đổi thành các ban.
Việc UBCKNN và Bộ Tài chính “cùng chung trận địa” được xem là “điều kiện
quan trọng để thúc đẩy TTCK phát triển”, có ý nghĩa đặc biệt trong việc gắn kết
TTCK với thị trường tiền tệ, thị trường tài chính.
• Khung pháp lý về chứng khoán và TTCK từng bước được hoàn thiện
Năm 2004 ban hành các thông tư hướng dẫn Nghị định 144/2003/NĐ-CP khung pháp lý cao nhất và quan trọng nhất về chứng khoán và TTCK. Tiếp đến
là việc ban hành Nghị định 187/2004/NĐ-CP thay thế Nghị định 64/2002/NĐCP về cổ phần hóa DNNN. UBCKNN đã trình Chính phủ ban hành Nghị định

144/NĐ-CP về chứng khoán và TTCK thay thế Nghị định 48/NĐ-CP trước đây,


14

trên cơ sở đó đã trình Bộ Tài chính ban hành các quy chế, thông tư hướng dẫn
liên quan. Các chính sách về thuế, về quản lý ngoại hối, kế toán, kiểm toán cũng
đã được nghiên cứu, đề xuất để Bộ Tài chính và các Bộ ngành liên quan ban
hành.
• Hai hiệp hội chứng khoán quan trọng(VAFI, VASB) được thành lập
Đó là Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI) và Hiệp hội Kinh
doanh chứng khoán Việt Nam (VASB). Ra mắt ngày 4/1/2004, VAFI đến nay
đã kết nạp được gần 200 thành viên, trong đó, có 28 thành viên là các tổ chức;
còn VASB ra đời muộn hơn (14/5/2004), tập hợp được 14 thành viên, gồm 13
CTCK và một công ty quản lý quỹ đầu tư. Với vai trò, nhiệm vụ của mình, Hiệp
hội chứng khoán đã tham gia với UBCKNN trong việc xây dựng khuôn khổ
pháp lý, đào tạo tuyên truyền và giám sát hoạt động của các thành viên.
Việc ra đời các hiệp hội này sẽ tạo thêm cầu nối giữa doanh nghiệp, CTCK, giới
đầu tư với các cơ quan quản lý, từ đó tạo thêm sức mạnh cho hoạt động kinh
doanh chứng khoán và niềm tin cho công chúng đầu tư. VAFI và VASB đã có
những đề xuất và kiến nghị thiết thực với các cơ quan quản lý, nhằm bảo vệ
quyền lợi hợp pháp cho các nhà đầu tư và thúc đẩy TTCK phát triển.
• TTGDCKHN ra đời và phát triển
Một trong những điểm khác biệt lớn của TTGDCKHN so với TTGDCKTP
HCM là các doanh nghiệp (vốn điều lệ tối thiểu 5 tỷ đồng, hoạt động kinh doanh
của năm liền kề có lãi và có ít nhất 50 cổ đông) chỉ cần ĐKGD chứ không cần
phải xin phép niêm yết. Như vậy, với sự ra đời của TTGDCKHN đã đi vào hoạt
động từ 14 tháng 7 năm 2005 tạo cho các doanh nghiệp và giới đầu tư có thêm
một sân chơi mới bên cạnh TTGDCK TPHCM.
• Chứng chỉ quỹ đầu tiên được niêm yết trên TTCK

Ngày 8/11/2004, Quỹ Đầu tư chứng khoán Việt Nam (VF1) chính thức lên sàn,
với khối lượng niêm yết lên tới 30 triệu đơn vị, tương đương 300 tỷ đồng đã góp
phần đa dạng hóa “thực đơn” cho các nhà đầu tư.
Khi niêm yết, chứng chỉ VF1 không được tính vào “rổ” VN-Index, nhưng vẫn
chịu sự khống chế trong biên độ (5%) như đang áp dụng với cổ phiếu.
• Doanh nghiệp bị hủy niêm yết


15

Đó là trường hợp của Công ty cổ phần Cáp treo Núi Bà Tây Ninh (Catour).
Catour bị UBCKNN hủy giấy phép niêm yết vào ngày 21/12/2004 do không
triển khai việc niêm yết sau 3 tháng được cấp phép.Đây là trương hợp đầu tiên
bị hủy niêm yết cho thấy việc quản lý, giám sát TTCK đã được UBCKNN coi
trọng, thông qua đó đã phát hiện các vi phạm, uốn nắn kịp thời, và có biện pháp
xử lý nghiêm những vụ việc vi phạm, bởi vậy bước đầu đã tạo được lòng tin nơi
công chúng
• Xuất hiện nhiều quỹ đầu tư nước ngoài
Điển hình là Quỹ đầu tư Phan-xi-phăng (PXP). Quỹ PXP do một số tổ chức và
cá nhân nước ngoài góp vốn thành lập với mục đích chính là đầu tư vào
TTCKVN. Sau gần 1 năm hoạt động, PXP đã tăng quy mô vốn 5 triệu USD lúc
ban đầu lên gấp đôi và đã đầu tư trên 15 loại cổ phiếu trên sàn.
Ngoài PXP, Quỹ Vietnam Growth Fund (VGF), do Công ty Dragon Capital
thành lập, cũng vừa xuất hiện với quy mô dự kiến 75 triệu USD. Công ty
Finansa lập quỹ mới sau khi thanh lý Quỹ Vietnam Frontier Fund (VFF). Nhiều
nhà đầu tư nước ngoài đã tham gia mua bán chứng khoán và thực tế hoạt động
cho thấy nhiều cổ phiếu của các công ty niêm yết như Ree, Sacom…các nhà đầu
tư nước ngoài đã nắm giữ ở mức tối đa cho phép (30% cổ phiếu niêm yết). Đây
là dấu hiệu cho thấy nếu chúng ta có sản phẩm hàng hoá tốt trên TTCK sẽ thu
hút nguồn vốn từ bên ngoài vào và nguồn vốn này sẽ góp phần thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế của đất nước.Sự xuất hiện của thêm nhiều quỹ đầu tư nước ngoài
sẽ góp phần quan trọng trong việc kích cầu TTCK.
• Doanh nghiệp được phép trả cổ tức bằng cổ phiếu
Điển hình là Công ty cổ phần Cơ điện lạnh (REE) là doanh nghiệp niêm yết đầu
tiên được UBCKNN cho phép thực hiện trả cổ tức bằng cổ phiếu và thưởng cổ
phiếu cho nhân viên và năm 2004 là năm đầu tiên REE thực hiện kế hoạch này.
Kế hoạch của REE là trả 50% cổ tức bằng tiền mặt và 50% còn lại bằng cổ
phiếu theo giá thị trường có chiết khấu một tỷ lệ khoảng 10%. Tỷ lệ cổ tức dự
kiến trong ba năm 2004, 2005 và 2006 là 13%, 14% và 15%.Tạo ra tính linh
hoạt cho thị trường, thu hút thêm nhiều nhà đầu tư và doanh nghiệp tham gia
niêm yết.
• Ban hành quy chế niêm yết cổ phiếu ngân hàng
Ngân hàng Nhà nước cũng đã chính thức ban hành quy chế niêm yết và phát
hành cổ phiếu ra công chúng đối với cổ phiếu của các ngân hàng thương mại cổ


16

phần có ý nghĩa tích cực cho TTCK và cho hoạt động của các ngân hàng, vừa
giúp tạo hàng cho TTCK, vừa giúp các ngân hàng có điều kiện tốt hơn trong
việc huy động vốn trên TTCK phục vụ hoạt động kinh doanh giúp hoạt động của
các ngân hàng minh bạch, rõ ràng hơn.
 Đánh giá TTCK 5 năm đầu hoạt động
Về mặt cung, có quá ít công ty sẵn sàng hoặc có khả năng đáp ứng các tiêu chí
để được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Đặc biệt, mức độ công khai
thông tin doanh nghiệp - điều cần thiết để niêm yết trên TTCK là cản trở lớn đối
với nhiều công ty ở Việt Nam trong thời điểm này trong khi đây là việc cần làm
để việc niêm yết trên thị trường chứng khoán (và các yêu cầu pháp lý gắn liền
với việc niêm yết) trở nên hấp dẫn hơn đối với các doanh nghiệp niêm yết tiềm
năng, và giúp trung tâm giao dịch chứng khoán phát triển trở thành một nhân tố

quan trọng và hữu dụng về mặt kinh tế.
Những nguyên nhân nêu trên đã làm cho hoạt động huy động vốn cổ phần hiện
có diễn ra nhiều hơn trên thị trường "chợ đen" không chính thức. Nơi các công
ty với thông tin công bố kém minh bạch hơn vẫn có thể tiến hành bán cổ phiếu.
Do không được quản lý và giám sát, thị trường vốn không chính thức này có
nguy cơ trở thành nạn nhân của một hoặc nhiều vụ bê bối tài chính. Điều này có
thể gây hại đến niềm tin đang ngày càng tăng lên của công chúng vào đầu tư vốn
cổ phần và đẩy lùi sự phát triển của hoạt động huy động vốn cổ phần ở Việt
Nam.
Lòng tin của công chúng vào lĩnh vực tài chính của Việt Nam đã gia tăng đáng
kể tuy vẫn còn nhiều hạn chế. Hậu quả của sự sụp đổ những chương trình tín
dụng và phá sản ngân hàng không nên bị quên lãng, và không được lặp lại trong
các lĩnh vực khác của hoạt động tài chính, bao gồm cả hoạt động huy động vốn
cổ phần. Vì vậy, thử thách đặt ra phải loại bỏ dần thị trường chợ đen, chủ yếu
bằng cách tăng cường các quy định về quản lý và giám sát thu hút thêm nhiều
công ty có cổ phiếu hiện đang giao dịch trên thị trường OTC không chính thức
tiến hành niêm yết trên trung tâm giao dịch chứng khoán chính thức. Việc sử
dụng cẩn trọng các ưu đãi về thuế có thể là một công cụ hỗ trợ đạt được mục
tiêu này.
Xét về khía cạnh cầu, hầu hết các nhà đầu tư ở thị trường chứng khoán chủ yếu
là các nhà đầu tư cá nhân. Cũng như các nhà đầu tư cá nhân ở nhiều thị trường
chứng khoán Đông Nam Á khác, họ có xu hướng đầu tư mang tính đầu cơ ngắn
hạn và ít quan tâm đến các chiến lược đầu tư dài hạn hơn trên cơ sở những hiểu


17

biết căn bản về hoạt động kinh doanh của công ty. Điều này giải thích một phần
cho sự biến động thường xuyên của chỉ số VN-Index trong hai năm đầu hoạt
động cũng như tình trạng sụt giảm tiếp theo.

Cộng đồng các nhà đầu tư hiện nay ở Việt Nam thiếu các nhà đầu tư có tư cách
pháp nhân, và do đó không tạo ra một nền tảng đủ mạnh để làm tăng đáng kể số
lượng các công ty được niêm yết và giá trị lũy kế của các cổ phiếu lưu hành trên
thị trường chứng khoán. Một thị trường chứng khoán lý tưởng nên bao gồm
nhiều loại nhà đầu tư cá nhân và tổ chức, sử dụng các chiến lược đầu tư đa dạng
để tạo ra một tập hợp phong phú hơn các đối tượng tham gia thị trường và tăng
khối lượng giao dịch. Do đó nảy sinh yêu cầu rõ ràng là cần: phát triển các tổ
chức tài chính trong nước và sản phẩm tài chính liên quan đến thị trường chứng
khoán, cho phép các tổ chức tài chính nước ngoài tham gia nhiều hơn nữa vào
thị trường này trong nước.
Thực TTCKVN chỉ có thể phát triển lâu dài với vai trò là một phần hợp nhất
không thể thiếu của một chương trình phát triển lĩnh vực tài chính ở tầm lớn hơn
chứ không phải là một dự án độc lập. Điều này đòi hỏi sự điều phối chính sách
chặt chẽ giữa các cơ quan hữu quan của Chính phủ với các đóng góp về xây
dựng chính sách và sự tham gia của các doanh nghiệp và các tổ chức tài chính
(cả ở trong và nước ngoài). Quyết định về việc sáp nhập UBCKNN vào Bộ Tài
Chính tạo cơ hội cho việc phối hợp chính sách chặt chẽ hơn nhằm hướng tới sự
phát triển thị trường vốn ở Việt Nam.
Các chi phí cố định cho hoạt động của một hoặc nhiều TTCK có thể khá cao đối
với một nước đang phát triển như Việt Nam. Vì vậy, nếu thị trường chứng khoán
không đạt được những mục tiêu chính của nó - là công cụ cho các công ty huy
động vốn dài hạn để phát triển, và là nơi để các nhà đầu tư tổ chức và cá nhân
đầu tư các nguồn tiết kiệm vào nhiều loại tài sản, hoạt động của TTCK cần được
xem xét lại một cách nghiêm túc.
UBCKNN đang tiến hành xây dựng một bộ Luật Chứng khoán toàn diện, dự
định trình lên Quốc hội vào năm 2005. Việc ban hành trong tương lai một bộ
luật đồng bộ quản lý ngành chứng khoán, và sự ra đời các quy định hướng dẫn
thực thi hiệu quả để hỗ trợ việc thực hiện luật này, tạo cơ hội xây dựng môi
trường luật pháp có lợi cho sự phát triển TTCK ở Việt Nam. Những điểm yếu và
thiếu sót trong khuôn khổ pháp lý hiện tại có thể được đề cập và khắc phục.



×