Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

triển khai chính sách đối ngoại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.53 KB, 9 trang )

Cùng với sự phát triển của xu thế toàn cầu hóa, các quốc gia phụ thuộc vào nhau ngày
càng chặt chẽ trong mọi lĩnh vực của đời sống: an ninh, văn hóa, kinh tế, chính trị...Nổi
bật trong lĩnh vực kinh tế, nền sản xuất không còn khép kín trong biên giới mỗi quốc gia,
nguồn vốn đầu tư, thông tin, sự giao lưu của con người phát triển mạnh mẽ trên phạm vi
toàn cầu. Trong khi đó, sự thiết lập của các thể chế đa phương, liên kết quốc tế, khu vực,
đặc biệt là sự ra đời của các không gian kinh tế chung ngay trong khu vực như: Khu vực
thương mại tự do Đông Nam Á (AFTA), khu vực hợp tác kinh tế châu Á Thái Bình
Dương (APEC), hay ở các thị trường khác trên thế giới như Thị trường chung châu Âu
(EC), Khu vực kinh tế tự do Bắc Mĩ (NAFTA), buộc các quốc gia trong đó có Việt Nam
phải lựa chọn thích nghi với xu thế thay vì khép kín.. Do đó vai trò của các tổ chức quốc
tế, khu vực và các khuôn khổ diễn đàn đa phương ngày càng thể hiện rõ nét. o đó trong
bài tiểu luận, em xin đưa ra kiến nghị triển khai chính sách đối ngoại với các diễn đàn đa
phương, cụ thể là :
Kiến nghị cách thức triển khai chính sách với mục tiêu thuyết phục WTO coi Việt Nam
là một nền kinh tế thị trường trước thời hạn 12 năm đã đặt ra trong cam kết bằng cách
chứng minh được tính chất thị trường của nền kinh tế, phù hợp các tiêu chí quy định
trong nội luật của nước thành viên WTO
Việc nghiên cứu kiến nghị của em dựa trên các phương pháp so sánh, phân tích, tổng
hợp…

I.
cơ sở triển khai chính sách đối ngoại của Việt Nam với các tổ chức quốc tế và
các diễn đàn đa phương:
Bất kể chính sách đối ngoại của quốc gia nào cũng đều nhằm phục vụ ba mục tiêu chủ
yếu: an ninh, phát triển và ảnh hưởng.


Trước hết là mục tiêu phát triển: tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển. Là
một nền kinh tế có xuất phát điểm thấp, vì vậy trong hoàn cảnh hiện nay phát triển là mục
tiêu được ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của nước ta. Do đó việc xây dựng
các mối quan hệ ổn định, tìm kiếm được nhiều đối tác và mở rộng thị trường được hết sức


chú trọng. Với việc tham gia các tổ chức quốc tế hay diễn đàn đa phương sẽ giúp cho
Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, mở rộng đa phương hóa, đa dạng
hóa các mối quan hệ mọi mặt đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, tranh thủ được những điều
kiện tối ưu nhất như vốn đầu tư, công nghệ, trình độ quản lí…để phát triển.
Tiếp đến là mục tiêu an ninh: vừa đảm bảo chủ quyền và an ninh quốc gia vừa lợi
dụng được xu thế quốc tế hóa để phát triển. Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, có
vị thế địa chiến lược quan trọng trên thế giới, luôn là mục tiêu để các nước lớn mở rộng
tầm ảnh hưởng. Trước xu thế liên kết tiểu khu vực, khu vực và quốc tế phát triển mạnh
mẽ, nhằm tạo dựng được môi trường an ninh ổn định để phát triển, linh hoạt việc Việt
Nam tham gia các tổ chức, diễn đàn đa phương, nhằm tìm kiếm sự ủng hộ và giúp đỡ của
cộng đồng thế giới là thật sự cần thiết.
Mục tiêu ảnh hưởng: Mở rộng quan hệ đa phương, tham gia tích cực các tổ chức,
diễn đàn quốc tế, Việt Nam có thể quảng bá hình ảnh đất nước, nâng cao uy tín, tiếng nói
trong khu vực cũng như trên thế giới, đóng góp vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại.
II.
Kiến nghị kế hoạch triển khai Chính sách đối ngoại của Việt Nam hiện nay
theo định hướng “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng
hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”
1. Kế hoạch triển khai chính sách hiện nay của Việt Nam và những vấn đề còn tồn
tại:
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4/2001) đã khẳng định: “Thực
hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tư chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa
các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Nhằm cụ thể hóa đường lối
đó, Bộ chính trị đã ra nghị quyết 07-NQ/TW (2001) làm rõ mục tiêu, quan điểm chỉ đạo,
nội dung, nhiệm vụ cụ thể của hội nhập kinh tế. Hội nhập với phương châm cơ bản là bảo
đảm nguyên tắc cùng có lợi trong quan hệ song phương và đa phương. Tức là không thiệt
hại đến lợi ích mà ta cần được hưởng, nhưng cũng phải châp nhận chia sẻ lợi ích một
cách hợp lý cho các đối tác. Nghị quyết 07 của bộ chính trị đã nêu rõ, phải “bảo đảm độc

lập, tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản


sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”, cho thấy những nguy cơ đã lường trước của hội
nhập quốc tế, đó là những âm mưu, thủ đoạn lợi dụng hợp tác kinh tế để can thiệp về
chính trị.
Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam vẫn đang mắc phải một số vấn đề như sau:
Việt Nam là một nước nhỏ, chưa có tầm ảnh hưởng trên thế giới mặc dù có tiếng
nói trong khu vực Đông Nam Á
Việt Nam có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, giá nhân công rẻ đều chưa toàn
diện nên áp lực cạnh tranh sẽ gia tăng mạnh hơn khi tham gia vào hợp tác kinh tế quốc tế,
nhất là từ phía Trung Quốc, Ấn Độ và phần lớn các nước ASEAN, vốn là những nước
sản xuất nhiều sản phẩm mang tính cạnh tranh với ta và lại có nhiều ưu thế hơn ta. Xu
hướng hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực hiện nay sẽ tạo ra sức ép đẩy ta đến trước
nguy cơ bị tụt hậu và chịu những thua thiệt của người đi sau nếu không kịp thời sửa đổi
và thích ứng.
Những điều kiện trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu hội nhập. VD: ý thức hệ,
công tác dự báo thị trường, hệ thống pháp luật chính sách quản lý, nền hành chính quốc
gia, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp…
Chưa có một chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế thị trường cho cả giai đoạn
dài với các lộ trình mở cửa trong từng lĩnh vực cụ thể để đảm bảo quá trình hội nhập kinh
tế đem lại hiệu quả tốt nhất.
2. Kiến nghị kế hoạch triển khai
2.1: Các phương hướng triển khai tổng quát :
- Duy trì và xây dựng hình ảnh đối tác tin cậy trong các diễn đàn đa phương và tổ chức
quốc tế bằng cách tích cực thực hiện các cam kết quốc tế, điển hình là các nguyên tắc cơ
bản của luật pháp quốc tế điều chỉnh mối quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia
thành viên phù hợp với hiến chương Liên Hợp Quốc, các chuẩn mực của ASEAN được
ghi nhận trong hiến chương ASEAN, các cam kết đã kí khi đàm phán ra nhập tổ chức
thương mại thế giới WTO…

- Tiếp tục đẩy mạnh quan hệ với các nước ASEAN, cam kết xây dựng cộng đồng kinh tế
ASEAN. Hoạt động tích cực trong các diễn đàn khu vực mà Việt Nam đã xây dựng được
tiếng nói có trọng lượng như ASEM ( Diễn đàn hợp tác Á- Âu) , APEC ( diễn đàn hợp
tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương ). Ủng hộ và củng cố duy trì định kì các kênh trao
đổi, đối thoại giữa các quốc gia trong các tổ chức quốc tế và diễn đàn đa phương mà Việt
Nam đã tham gia với nội dung chính là phát triển và chi tiết hơn nữa các lĩnh vực hợp tác
trên lĩnh vực pháp lý, xác định rõ lợi ích của mỗi thành viên.


- Chủ động đóng góp sâu sắc hơn nữa trong các hoạt động của Liên Hợp Quốc nhằm giúp
cho tổ chức này hoạt động có hiệu quả hơn, công bằng hơn trong khả năng phù hợp với vị
thế của Việt Nam hiện nay-.cụ thể là : đóng góp vào các lực lượng gìn giữ hòa bình ở các
địa bàn trọng yếu trong khu vực, tham gia vào các nỗ lực nhằm hạn chế và ngăn chặn sản
xuất các loại vũ khí hủy diệt, tham gia và ủng hộ các chương trình, chiến dịch do Liên
Hợp Quốc khởi xướng nhằm đối phó với các vấn đề toàn cầu như nghèo đói, biến đổi khí
hậu, khủng hoảng dầu lửa… Ngoài ra, đối với lĩnh vực kinh tế trong khuôn khổ Liên Hợp
Quốc, Việt Nam cần chủ động thúc đẩy cải cách các cơ chế tài chính quốc tế như WB và
IMF theo hướng nâng cao vai trò của các nước đang phát triển và nước nghèo; chuẩn bị
tốt hơn để chủ động đề ra chủ trương, lựa chọn cán bộ đủ năng lực và phẩm chất tham gia
Vòng đàm phán Doha, nhằm kết thúc vòng đàm phán này có lợi cho các nước đang phát
triển, trong đó có Việt Nam.
-Bên cạnh việc mở rộng quan hệ với các tổ chức trên thế giới, Việt Nam cũng nên xúc
tiến hơn nữa các khía cạnh của đời sống kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, đa dạng hóa phải trên
cơ sở có định hướng và có chọn lọc, hướng vào các lĩnh vực quan trọng: công nghệ cao,
công nghệ phụ trợ của các tổ chức kinh tế đối tác, các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng
cao, như dịch vụ ngân hàng và các ngành kinh tế có ưu thế. Trong đó, chúng ta nên chú
trọng, có quan tâm đặc biệt đến lĩnh vực ngân hàng, bởi đẩy mạnh hội nhập ngân hàng,
xây dựng hệ thống ngân hàng vững mạnh sẽ là kênh dẫn nhập vốn hàng đầu, là bà đỡ tốt
nhất cho nền kinh tế đang cần vốn như Việt Nam và đang từng bước chuyển dịch cơ cấu
vốn theo định hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.

- Việt Nam từ trước đến nay chỉ tập trung vào các ngành nông, thủy hải sản, mà chưa chú
trọng đến các ngành dịch vụ, mang lại nguồn thu nhập lớn cho nền kinh tế quốc gia. Việc
này khiến cho nền kinh tế Việt Nam bị bó hẹp và khó có thể phát triển một cách toàn diện
để cạnh tranh với các nền kinh tế trên thế giới. Ngoài ra, hạn chế này còn tạo điều kiện
cho các nước lớn chèn ép và gây khó khăn cho Việt Nam.
-Việt Nam là một nước có tiềm năng du lịch lớn, nhưng chưa được khai thác hiệu quả và
đúng mức. Việt Nam cần tận dụng lợi thế là thành viên chính thức của các tổ chức quốc
tế nhằm quảng bá hình ảnh Việt Nam phát triển dịch vụ du lịch, đóng góp cho nền kinh tế
trong nước.
- Tích cực đẩy mạnh quảng bá hình ảnh Việt Nam như một điểm đến đầu tư an toàn, ổn
định, nhiều tiềm năng để thu hút sự chú ý từ các tổ chức quốc tế thông qua mạng lưới
thông tin: các kênh truyền hình trong nước và quốc tế, đài tiếng nói, báo chí, thông qua tổ
chức các buổi hội thảo, diễn đàn để giới thiệu về nền kinh tế tiềm năng và qua các cuộc
tiếp xúc với lãnh đạo các nước, với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài để có cơ hội
giới thiệu trực tiếp.


2.2 : Các kiến nghị kế hoạch triển khai cụ thể

Về phần này em xin đề xuất phương hướng triển khai chính sách trên kinh tế với chính
sách kinh tế là trọng tâm. Cụ thể là kiến nghị triển khai kế hoạch hội nhập chủ động và
tích cực trong lĩnh vực kinh tế với tổ chức WTO.
Hạn chế của nền kinh tế phi thị trường:
Về mặt nguyên tắc, WTO được xây dựng trên nguyên tắc mỗi nước thành viên đối xử
công bằng với nhau. Nhưng như một cái giá của sự gia nhập, những nước vào sau luôn
phải chịu những điều khoản ngặt nghèo hơn. Để được gia nhập tổ chức này, bên cạnh
những nhượng bộ về cắt giảm trợ cấp, mở cửa thị trường cho một loạt mặt hàng, mở cửa
thị trường tài chính, Việt Nam cũng phải chấp nhận bị giữ lại trong danh sách các nước bị
coi là có “nền kinh tế phi thị trường”, bên cạnh Trung Quốc và một vài nước thành viên
khác của WTO.

Những hệ lụy của phi thị trường
Cái dễ thấy nhất là sự khó khăn của Việt Nam trong việc tự bảo vệ trước đe dọa bị
kiện bán phá giá.
Lấy Thị trường Mỹ. Theo quy định của Mỹ, bán phá giá xảy ra khi một hãng xuất khẩu
bán ra nước ngoài một sản phẩm thấp hơn giá trong nước, hoặc thấp hơn chi phí sản xuất.
Đúng hơn là những thoả thuận mua bán tự do này bị các nước nhập khẩu coi là chào hàng
gian lận và nâng mức thuế chống bán phá giá.
Thế nhưng điều đáng bàn là cái căn cứ để Bộ Thương mại Mỹ cho rằng một mặt
hàng nhập khẩu là quá rẻ? Tạm bỏ qua các thủ thuật về số liệu, các cách tính “quy về
không” đã làm tốn không biết bao nhiêu cuộc cãi vã, thì với một nền kinh tế phi thị
trường, việc này trở nên quá dễ với Bộ Thương mại Mỹ (DOC). Trong trường hợp này,
DOC đơn giản kết luận không cần điều tra tính toán giá tại nước sở tại bởi, đã là phi thị
trường, thì cung và cầu cũng là những con số phi thị trường, và đương nhiên không thể
lấy giá do nước bị kiện phá giá cung cấp làm cơ sở để điều tra. Thay vì vậy, DOC sẽ chọn
một nước thay thế khác có điều kiện tương tự Việt Nam để so sánh, như vậy sẽ rất bất lợi
cho chúng ta.
Mỹ là thị trường lớn nhất của Việt Nam và là nước đầu tiên sử dụng biện pháp
thuế chống bán phá giá với Việt Nam. Nhưng không chỉ Mỹ. Tháng 10 năm 2006, Liên


minh châu Âu EU đã khẳng định Việt Nam bán phá giá sản phẩm giày mũ da, căn cứ vào
giá của Brazil - nước được chọn làm nước thay thế để tính giá thành. Năm 2005, EU cũng
đã đánh thuế đối với xe đạp Việt Nam, và mức giá dùng cho điều tra được so sánh với giá
xe đạp sản xuất tại San Luis Potosi, Mexico.
Lấy một ví dụ khác, trong thời gian gần đây, cá tra của Việt Nam bị đưa vào danh
sách đỏ do quỹ động vật hoang dã thế giới WWF công bố. Điều này đồng nghĩa với việc
WWF khuyên người tiêu dùng toàn cầu nên dùng loại thủy sản khác, thay thế cá tra của
Việt Nam, gây bất lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam
Tại sao lại phi thị trường
Nhưng theo tiêu chuẩn nào Việt Nam bị coi là nền kinh tế phi thị trường? Đơn giản nhất

là EU, Mỹ và các nước lớn khác có luật lệ của riêng mình. Lý do mà Mỹ nêu ra là muốn
Việt Nam loại bỏ việc kiểm soát tỷ giá và cố định giá, thông thoáng hơn nữa cho đầu tư
nước ngoài, tự do thương lượng tiền lương và hạn chế phát triển khu vực sở hữu nhà
nước.
Thế nhưng,các nhà bán lẻ tại ngay nước Mỹ sẽ là những người đầu tiên phản đối những
rào cản bảo hộ. Đương nhiên họ phải thích hàng dệt may hay thủy sản giá rẻ từ Việt Nam
hơn những người sản xuất ở nuớc Mỹ
Học thuyết lợi thế so sánh của Ricardo và lý thuyết thương mại tự do cũng chỉ là lý
thuyết.Còn trên thực tế quyền lực thương mại vẫn nằm ở đâu đó giữa các nhóm lợi ích tại
các nước giàu. Và mọi thứ rủi ro thì cứ dồn về phía các nước xuất khẩu.
Thương mại thế giới liệu có thể có công bằng khi cái mà nó thể hiện ra, cho đến nay, vẫn
là một cuộc chơi mà một phía luôn được quyền áp đặt luật chơi của mình cho phía kia,
cuộc chơi mà dòng rủi ro luôn chảy theo một chiều duy nhất.

3, Kiến nghị cách thức triển khai chính sách với mục tiêu thuyết phục WTO coi Việt
Nam là một nền kinh tế thị trường trước thời hạn 12 năm đã đặt ra trong cam kết
bằng cách chứng minh được tính chất thị trường của nền kinh tế, phù hợp các tiêu
chí quy định trong nội luật của nước thành viên WTO.
Theo cam kết đa phương gia nhập WTO, Việt Nam chấp nhận bị coi là nền kinh tế phi thị
trường trong 12 năm, tức là không muộn hơn 31/12/2018. Tác động của các cam kết này
là Việt Nam phải chịu các ràng buộc trong việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá,


chống trợ cấp trong các vụ kiện liên quan đến xuất khẩu hàng hoá từ Việt Nam sang các
nước thành viên WTO.
* Xác lập rõ vai trò của nhà nước trong nền kinh tế
Thực tế cho thấy, vẫn còn tình trạng níu bám vào tư duy cũ mang tính chất bao cấp chưa
phân định rõ ràng, rành mạch giữa vai trò, chức năng nhà nước với vai trò, chức năng của
thị trường dẫn đến khó khăn trong việc xác định đầy đủ các cơ chế của nền kinh tế thị
trường.

Với sự bảo hộ của nhà nước, chúng ta vẫn duy trì độc quyền, hạn chế cạnh tranh, phân
biệt đối xử giữa quốc doanh với dân doanh, có nhiều hạn chế về các thị trường vốn, lao
động, dịch vụ, nhà đất, bất động sản, khoa học - công nghệ. Tiếng nói của người tiêu
dùng chưa được chú ý đầy đủ chưa giải quyết được những vấn nạn nhức nhối như tham
nhũng, lãng phí, thiếu minh bạch...
Cách thức triển khai đặt ra trước hết là cần có những thay đổi mạnh mẽ về vai trò của nhà
nước- giảm thiểu sự can thiệp quá sâu của nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Vai trò
chính của nhà nước trong nền kinh tế thị trường là định hướng chiến lược, cơ sở hạ tầng,
an sinh xã hội và an ninh quốc gia .Trong sự phát triển kinh tế vai trò của nhà nước cần
chú trọng ở mức định hướng, giảm các chính sách bảo hộ. Để làm tốt điều này, Việt Nam
cần tích cực học hỏi kinh nghiệm quản lý của các nước có nền kinh tế tương đối giống
với nước ta trong khu vực, trao đổi thể mạnh để cùng hợp tác và phát triển.
* Thúc đẩy vai trò của các doanh nghiệp tư nhân
Chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, không nên lập
thêm các tổng công ty nhà nước hay xí nghiệp quốc doanh không thuộc các ngành trọng
tâm, trọng điểm. Thay vì đó, cần tạo hành lang pháp lý và điều kiện thuận lợi cho việc
thành lập và phát triển các tập đoàn tư nhân, xây dựng các tập đoàn tư nhân trở thành
những trụ cột, những động lực chính của nền kinh tế.
Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế thuộc khu vực Nhà
nước hay tư nhân. Điều này sẽ tạo điều kiện để Nhà nước chuyển bớt một phần các
nguồn lực đầu tư nước ngoài cũng như nguồn thu thuế trong nước sang các lĩnh vực hiệu
quả hơn xét cả về mặt kinh tế, xã hội và môi trường, giảm bớt những thất thoát, lãng phí
như đã xảy ra, mặt khác, tăng cường huy động sự tham gia đóng góp của các nguồn vốn


xã hội vào tiến trình phát triển và tạo điều kiện cho những người có năng lực thực sự phát
triển nền kinh tế nước nhà.
Ngoài ra, cần đảm bảo quản lý để sự phát triển các tập đoàn tư nhân không những không
đối lập với sự phát triển của các tập đoàn nhà nước, mà còn bổ sung, hỗ trợ, tăng nguồn
lực cho sự phát triển của kinh tế nhà nước.

* Thúc đẩy cơ chế định giá đúng
Định giá đúng là một nguyên lý cơ bản của kinh tế thị trường, là yếu tố chi phối phản ánh
đúng quan hệ cung cầu trên thị trường, đảm bảo tính khách quan trong việc đánh giá tốc
độ tăng trưởng kinh tế, làm cơ sở cho các quyết định đầu tư phát triển của cả nền kinh tế
nói chung, đặc biệt ảnh hưởng đến thúc đẩy ngoại thương, thu hút đầu tư nước ngoài, mở
rộng hợp tác kinh tế với các nước trong WTO cũng như là cơ sở để các nước nhận định
tính thị trường của nền kinh tế Việt Nam.
Việt Nam cần từng bước đưa ra các chính sách triển khai xác định giá đúng, sát với giá
thị trường trong nước và tương đối ngang bằng với giá thị trường khu vực và thế giới.
Việc Việt Nam chủ động tích cực tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN,
ASEAN+6 ( AFTA, ACFTA, AIFTA, AKFTA…..) sẽ là một hướng đối ngoại triển khai
tốt, nhằm xóa bỏ rào cản giữa hàng hóa trong và ngoài nước, tạo ra mức giá cả gần gũi
nhất với quy luật cung cầu.
* Tích cực đàm phán trong các cơ chế đa phương
APEC là một cơ chế đa phương mà Việt Nam tham gia tích cực ,Thực hiện chủ trương
chung về tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, sự tham gia của Việt Nam tại
APEC có nhiều chuyển biến tích cực, được bạn bè quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Có
thể nói, sau 10 năm tham gia, APEC đã mang lại nhiều tác động tích cực đối với tăng
trưởng, phát triển của Việt Nam trên nhiều phương diện, trong đó có thể kể đến việc góp
phần nâng cao nội lực của đất nước. Thực hiện các cam kết hợp tác trong APEC góp
phần thúc đẩy trao đổi thương mại và đầu tư của Việt Nam với các nền kinh tế trong khu
vực. Ngoài ra, các dự án hợp tác của Quỹ APEC, tuy không lớn nhưng cũng góp phần
nâng cao năng lực của Việt Nam trong nhiều lĩnh vực, nhất là nâng cao kiến thức và kinh
nghiệm hội nhập cho đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập. Bên cạnh đó, sự tham gia
cùng những đóng góp tích cực của Việt Nam trong 10 năm qua, chúng ta đã tạo dựng
được vai trò và hình ảnh tốt trong khu vực APEC nói riêng và trên thế giới nói chung
Hiện nay, Việt Nam đã được 18 quốc gia coi là nền kinh tế thị trường đầy đủ, trong đó có
ASEAN. Việc xúc tiến quan hệ kinh tế tốt đẹp với các nước ASEAN sẽ tạo cho Việt



Nam một đòn bẩy vững chắc để thúc đẩy quan hệ thương mại với các nước khác trong
WTO - qua đó tích cực đàm phán trong các cơ chế song phương cũng như đa phương,
thuyết phục nhiều quốc gia trong WTO công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường.

Kết luận.
Để phát triển đất nước, việc chủ động và tích cực hội nhập quốc tế theo một lộ
trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước là vô cùng cấp thiết. Thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển theo định hướng
chính sách đối ngoại rộng mở, “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời
mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt nam là bạn, là đối tác tin cậy của
các nước trong cộng đồng quốc tế tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu
vực”. Đối với những đối tác là các tổ chức quốc tế và diễn đàn đa phương thì chúng ta
phải có cách triển khai thích hợp về mọi mặt đặc biệt là về kinh tế và văn hóa nhằm tạo
các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc hội nhập quốc tế sâu và rộng, góp phần đẩy
mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.

Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình kinh tế đối ngoại Việt Nam- nhà xuất bản chính trị quốc gia
• Trang Web dantri.com.vn
• Vietbao.com
• Báo điện tử đảng cộng sản Việt Nam
• Thời báo kinh tế Việt Nam



×