Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Nghiên cứu khoa học " Khảo sát, đánh giá tình hình triển khai chính sách hưởng lợi đối với hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng được giao, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp tại tỉnh Gia Lai và Đắc Lắc " pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.99 KB, 37 trang )

báo cáo
Khảo sát, đánh giá tình hình triển khai chính sách hưởng lợi đối với hộ gia
đình, cá nhân và cộng đồng được giao, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp tại
tỉnh Gia Lai và Đắc Lắc
Phạm Xuân Phương - Vụ Pháp
chế
Đỗ Anh Minh- Vụ Pháp chế
1. Bối cảnh
- Từ năm 1990 đến nay, Nhà nước đã ban hành một số văn bản quy phạm
pháp luật liên quan đến chính sách hưởng lợi đối với hộ gia đình, cá nhân được
giao, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp. Tuy nhiên, những văn bản trên mới tạo
khuôn khổ pháp lý cho việc triển khai chính sách hưởng lợi ở các địa phương. Câu
hỏi đặt ra là: việc vận dụng chính sách hưởng lợi đối với hộ gia đình, cá nhân,
cộng đồng được giao, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp ở các địa phương, các
vùng sinh thái diễn ra như thế nào? Những bất cập của chính sách hưởng lợi quốc
gia khi áp dụng vào điều kiện cụ thể của địa phương là gì? Một số tỉnh trong khi
Nhà nước chưa ban hành chính sách hưởng lợi thống nhất áp dụng trong phạm vi
cả nước đã ban hành tạm thời chính sách hưởng lợi áp dụng tại địa phương mình
có điểm nào không phù hợp với chính sách quốc gia và xử lý vấn đề đó như thế
nào? Xuất phát từ thực tế trên, việc nghiên cứu, khảo sát, đánh giá tình hình triển
khai thực hiện chính sách hưởng lợi đối với hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng
được giao, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp là cần thiết.
Tuy nhiên, chính sách" hưởng lợi" là một khái niệm rộng, trong phạm vi bài
viết này chỉ đề cập tới quyền hưởng lợi trên đất lâm nghiệp gồm: gỗ, củi, lâm sản
ngoài gỗ (LSNG), sản phẩm nông nghiệp trồng xen, nuôi trồng thuỷ sản, vật nuôi;
dịch vụ du lịch, sử dụng một phần đát lâm nghiệp chưa có rừng để sản xuất nông
nghiệp và ngư nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu tình hình triển khai chính sách hưởng lợi đối với hộ gia đình, cá
nhân, cộng đồng được giao, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp tại một số địa
phương thuộc 2 tỉnh: Gia Lai và Đắc Lắc. Làm rõ những bất cập, thiếu hụt và


những vấn đề nảy sinh khi triển khai chính sách hưởng lợi tại các địa phương.
- Tìm hiểu nguyện vọng của người dân và đề xuất của địa phương nơi nghiên
cứu liên quan đến tổ chức triển khai chính sách hưởng lợi.
- Đề xuất một số ý kiến liên quan đến tổ chức triển khai chính sách hưởng
lợi trong thời gian tới.
3. Phương pháp tiến hành
3.1. Thu thập tài liệu thứ cấp
- Nghiên cứu các văn bản liên quan đến chính sách hưởng lợi. Nghiên cứu
các báo
cáo liên quan đến giao đất , giao rừng cho hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng.
3.2. Chọn địa điểm khảo sát trực tiếp
Mỗi tỉnh chọn 2 huyện, mỗi huyện chọn 1 xã, mỗi xã chọn 2 thôn để khảo sát
trực tiếp. Mỗi tỉnh chọn 1 lâm trường quốc doanh (LTQD), 1 Ban quản lý rừng
phòng hộ có thực hiện khoán rừng và đất lâm nghiệp.
3.3. Phương pháp thu thập số liệu
- Làm việc, trao đổi với đại diện Sở NN và PTNT, Chi cục PTLN, một số
LTQD, ban quản lý rừng phòng hộ, UBND xã.thuộc 2 tỉnh: Gia Lai và Đắc Lắc.
- Phỏng vấn trực tiếp trưởng thôn, hộ gia đình được giao rừng, nhận khoán
rừng tự nhiên.
- Tổ chức trao đổi, thảo luận tại Tổ Công tác quốc gia về lâm nghiệp cộng
đồng tại Hà Nội. Khung nghiên cứu chuyên đề được mô tả ở sơ đồ 01




Kh

o sát,
đ
ánh giá tì

nh hình tri

n khai
chính sách hưởng lợi
M

c tiêu nghiên c

u

Nghiên c

u
các văn bản
liên quan
đến chính
sách hưởng
lợi
Tìm hi

u
tình hình
triển khai
chính sách
hưởng lợi tại
địa phương
Đ

xu


t




















4. Kết quả nghiên cứu, khảo sát thực tế về việc vận dụng chính sách
hưởng lợi tại tỉnh Gia Lai và Đắc Lắc.
4.1. Tỉnh Gia Lai
4.1. 1. Tình hình triển khai chính sách hưởng lợi đối với hộ gia đình, cá
nhân được khoán rừng tự nhiên
4.1.1.1. Về khía cạnh pháp lý
- Ngày 2/10/2003, Tỉnh Gia Lai đã ban hành Quyết định số 106/2003/QĐ-
UB của UBND tỉnh Gia Lai kèm theo bản quy định tạm thời về giao khoán rừng
có hưởng lợi theo Quyết định 178 (gọi tắt là Quyết định 106). Văn bản này được

ban hành áp dụng tại địa phương trên cơ sở vận dụng Nghị định 01/CP ngày
4/1/1995 của Chính phủ về việc giao khoán đất nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản
trong các doanh nghiệp nhà nước (gọi tắt là Nghị định 01/CP) và Quyết định số
178/2001/QĐ-TTg ngày 12/1/2001 của Thủ tướng Chính phủ về quyền hưởng lợi,
nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao, được thuê, nhận khoán rừng và đất
lâm nghiệp (gọi tắt là Quyết định 178).
Đối tượng áp dụng của Quyết định 106 là các LTQD, các ban quản lý rừng
phòng hộ. Phạm vi điều chỉnh của văn bản này là quy định chính sách khoán rừng
tự nhiên là rừng sản xuất có hưởng lợi theo Quyết định 178.
Như vậy, Quyết định 106 chỉ quy định chính sách khoán rừng có hưởng lợi
đối với rừng sản xuất, không quy định chính sách khoán rừng có hưởng lợi đối với
loại rừng phòng hộ. Quyết định 178 quy định đối tượng được hưởng lợi từ rừng
gồm các hộ gia đình, cá nhân được giao, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp, trong
khi đó Quyết định 106 bổ sung thêm đối tượng hưởng lợi là cộng đồng làng bản.
- Theo Quyết định 178, các hộ gia đình, cá nhân nhận khoán rừng và đất lâm
nghiệp theo hình thức nhận khoán theo công việc, công đoạn, theo hàng năm
không thuộc đối tượng hưởng lợi, chỉ có hộ gia đình nhận khoán lâu dài theo Nghị
định 01/CP mới thuộc đối tượng áp dụng chính sách hưởng lợi theo Quyết định
178, Quyết định 106 cũng đã thể hiện rõ quy định trên.
- Về quyền hưởng lợi, Quyết định 178 quy định rõ tỷ lệ sản phẩm khai thác
chính hộ gia đình, cá nhân nhận khoán rừng được hưởng tuỳ thuộc vào từng loại
rừng (phòng hộ, sản xuất) và tình trạng rừng theo phân loại quy định tại Quyết
định số 682/QĐKT ngày 01/8/1984 của Bộ Lâm nghiệp (nay là Bộ Nông nghiệp
và PTNT) về việc ban hành bản quy phạm thiết kế kinh doanh rừng (sau đây gọi là
Quyết định số 682/QĐKT). Tỷ lệ phân chia sản phẩm quy định trong Quyết định
178 là đối với hộ gia đình, cá nhân được giao khoán rừng tự nhiên thuộc loại rừng
gỗ lá rộng thường xanh và nửa rụng lá, nếu hộ gia đình nhận khoán rừng Khộp và
các loại rừng khác thì theo Thông tư liên tịch số 80/2003/TTLT/BNN-BTC ngày
03/9/2003 của Bộ Nông nghiệp và PTNT và Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện
Quyết định 178 (gọi tắt là Thông tư 80), mức tỷ lệ phân chia sản phẩm do UBND

cấp tỉnh quy định, điều đó có nghĩa là, khung tỷ lệ phân chia sản phẩm quy định
trong Quyết định 178 không áp dụng cho loại rừng Khộp và các loại rừng khác
(rừng Thông, rừng Quế ).
Thông tư 80 còn hướng dẫn công thức tính toán phân chia sản phẩm khai
thác chính giữa các bên. Cụ thể:
Khoản tiền phải nộp
ngân sách xã khi phân
chia sản phẩm
=

Khối lượng lâm
sản khai thác tại
bãi giao
x Giá cây
đứng
x Tỷ lệ
phải nộp
ngân sách

Công thức (1)
Công thức (1) có thể vận dụng để phân chia sản phẩm giữa bên giao khoán và bên
nhận khoán như sau:
Khoản tiền phải nộp cho
bên giao khoán khi phân
=

Khối lượng lâm
sản khai thác tại
x Giá cây
đứng

x Tỷ lệ
phải nộp
cho bên
chia sản phẩm bãi giao giao
khoán
Công thức (2).
Khoản tiền bên nhận
khoán được hưởng
=

Số tiền bán gỗ
tại bãi giao
- Thuế tài
nguyên
- Khoản
tiền nộp
bên giao
khoán
Công thức (3).
Bên giao khoán và bên nhận khoán phải chịu chi phí khai thác, vận xuất lâm
sản tương ứng với phần sản phẩm mà mỗi bên được hưởng. Cũng theo Thông tư
80, để thực hiện chính sách hưởng lợi, UBND cấp tỉnh phải ban hành bảng giá cây
đứng. Bảng giá cây đứng này chỉ có ý nghĩa để làm cơ sở phân chia sản phẩm khai
thác chính giữa các bên. Như vậy, các tỉnh có thể vận dụng theo 2 cách sau:
Thứ nhất, áp dụng bảng giá cây đứng mà cấp tỉnh đã ban hành để làm cơ sở
tính thuế tài nguyên (đối với gỗ khai thác từ rừng tự nhiên), thuế sử dụng đất nông
nghiệp (đối với gỗ khai thác từ rừng trồng) để phân chia quyền hưởng lợi.
Thứ hai, UBND cấp tỉnh có thể ban hành bảng giá cây đứng để áp dụng
riêng cho việc phân chia quyền hưởng lợi giữa các bên theo Quyết định 178.
Trường hợp này được vận dụng khi quyền lợi của bên giao khoán và bên nhận

khoán có sự chênh lệch đáng kể, việc điều chỉnh giá cây đứng cao thấp sẽ điều
chỉnh lợi ích của các bên vì từ công thức (2) cho thấy 2 nhân tố không thể thay đổi
, đó là khối lượng lâm sản khai thác tại bãi giao và tỷ lệ sản phẩm phải nộp cho
bên giao khoán. Muốn điều chỉnh lợi ích của người nhận khoán hay giao khoán chỉ
có thể điều chỉnh giá cây đứng. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, bảng giá cây đứng
đó chỉ có ý nghĩa để phân chia quyền hưởng lợi theo Quyết định 178 chứ không
phải áp dụng chung cho việc tính thuế tài nguyên hay thuế sử dụng đất nông
nghiệp.
- Trong Quyết định số 178 và Thông tư 80, rừng được phân chia thành 5 loại
trạng thái, như loại rừng IA,IB,IC (đất trống, đất chưa có rừng); IIA, IIB, IIIA1
(rừng phục hồi sau nương rẫy hoặc sau khai thác); IIIB, IIIA2, IIIA3, IVA, IVB
(rừng trung bình và giàu) Người nhận khoán trạng thái rừng khác nhau thì tỷ lệ
sản phẩm được hưởng khác nhau, hơn nữa tỷ lệ sản phẩm quy định trong Quyết
định 178 là quy định cho loại rừng gỗ lá rộng thường xanh và nửa rụng lá. Trong
khi đó, quyết định 106 quy định tỷ lệ phân chia sản phẩm áp dụng chung cho các
loại rừng, điều này có thể dẫn tới quyền lợi của nguời nhận khoán rừng không
công bằng, lợi ích của ngưòi nhận khoán rừng Khộp có thể thấp hơn người nhận
khoán rừng gỗ lá rộng thường xanh và nửa rụng lá.
- Quiyết định 106 chỉ quy định 2 loại trạng thái rừng làm cơ sở phân chia sản
phẩm: (1)- Rừng tự nhiên có trữ lượng đạt tiêu chuẩn khai thác ngay tại thời điểm
khoán (loại rừng từ trạng thaí IIIA2 trở lên). (2)- Rừng có trữ lượng trung bình,
dưới trung bình nhưng chưa đủ cường độ khai thác chính, rừng nghèo, rừng tái
sinh sau nương rẫy (loại rừng trạng thái từ loại IIA1- IIIA1). Cách phân chia trạng
thái rừng này đơn giản, dể áp dụng, tuy nhiên sẽ nảy sinh mất công bằng về quyền
hưởng lợi vì các trạng thái rừng chỉ áp dụng một mức tỷ lệ là 1,5 - 2% cho mỗi
năm nhận khoán. Để khắc phục sự không công bằng khi phân chia quyền hưởng
lợi, Quyết định 106 cũng ghi rõ đối với loại rừng nghèo Nhà nước có thể hỗ trợ
kinh phí ban đầu cho người nhận khoán những khu rừng này. Tuy nhiên, nguồn
kinh phí này lấy ở đâu? là bao nhiêu cho 1 ha rừng? với thời gian hỗ trợ bao lâu?
là cả một vấn đề nan giải nếu chúng ta giao khoán hàng vạn ha rừng nghèo cho hộ

gia đình. Mặt khác,Quyết định 106 quy định khung tỷ lệ hưởng lợi, chứ không quy
định mức tỷ lệ hưởng lợi cụ thể cho các địa phương hoặc tiểu vùng trong tỉnh,
trong khi đó theo tinh thần Thông tư 80, UBND cấp tỉnh căn cứ vào tình hình thực
tế của từng địa phương trong tỉnh, tình trạng rừng khi giao hoặc khoán cho hộ gia
đình, cá nhân quy định mức tỷ lệ sản phẩm khai thác chính hộ gia đình được giao,
nhận khoán rừng được hưởng trong khung tỷ lệ quy định tại Quyết định 178. Việc
UBND cấp tỉnh chỉ quy định khung tỷ lệ sản phẩm sẽ rất khó áp dụng cho các đơn
vị tham gia khoán rừng (LTQD, ban quản lý rừng). Ai sẽ là người quyết định tỷ lệ
phân chia sản phẩm cụ thể. Có thể có 2 trưòng hợp xẩy ra:
Thứ nhất, Bên giao khoán và Bên nhận khoán thống nhất tỷ lệ phân chia sản
phẩm trong khung tỷ lệ quy định (1,5-2%/năm) được quy định trong Quyết định
106.
Thứ hai, Bên giao khoán tự quyết định tỷ lệ phân chia sản phẩm giữa các
bên.
- Tỉnh Gia Lai chưa có văn bản nào hướng dẫn chính sách hưởng lợi từ rừng
đối với hộ gia đình nhận khoán, bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh rừng tự nhiên là rừng
phòng hộ theo tinh thần Quyết định 178. Việc khoán rừng và đất lâm nghiệp đối
với rừng đặc dụng, rừng phòng hộ áp dụng theo tinh thần Quyết định số
661/1998/QĐ-TTg ngày 29/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về mục tiêu, nhiệm
vụ, chính sách và tổ chức thực hiện dự án trồng mới 5 triệu ha rừng (gọi tắt là
Quyết định 661). Theo đó, người nhận khoán bảo vệ, khoanh nuôi rừng phòng hộ,
rừng đặc dụng được hưởng 50.000đ/ha/năm với thời gian tối đa là 5 năm. Khoán
khoanh nuôi xúc tiến tái sinh có trồng bổ sung, người nhận khoán được hưởng
1.000.000triệu đ/ha với thời gian 6 năm. Năm đầu 350.000đ/ha; năm thứ 2- 3 mỗi
năm 250.000 đ/ha, từ năm thứ 4 trở đi mỗi năm 50.000đ/ha.
Như vậy, xét về khía cạnh pháp lý, tỉnh Gia Lai thực hiện 2 cơ chế khoán
rừng và đất lâm nghiệp.
(1)- Khoán rừng và đất lâm nghiệp rừng phòng hộ, rừng đặc dụng theo tinh
thần Quyết định 661.
(2)- Khoán rừng tự nhiên là rừng sản xuất có hưởng lợi theo Quyết định 178

(Quyết định 106).
4.1.1.2. Khía cạnh thực tiển
Kết quả nghiên cứu, khảo sát thực tế một vài địa phương trong tỉnh có thể
khái quát lại như sau:
a. Khoán rừng và đất lâm nghiệp theo tinh thần Quyết định số 661.
- Ban quản lý rừng phòng hộ Hà Ra thực hiện khoán bảo vệ rừng tự nhiên là
rừng phòng hộ cho hộ gia dình, cho cộng đồng thôn (Chơ rơn1, Chơ rơn 2, xã Hà
ra, huyện Măng Giang) với đơn giá 50.000đ/ha/năm. Thanh toán chia thành 2 lần
trong 1 năm. Tuy nhiên, trong hợp đồng giao khoán còn ghi rõ, khi nào Bên giao
khoán nhận được kinh phí của Nhà nước thì mới thanh toán cho người nhận
khoán.
Như vậy, việc ký kết hợp đồng giao khoán rừng phòng hộ được ký hàng năm
và Bên giao khoán chỉ ký hợp đồng với hộ gia đình tương ứng với diện tích rừng
chắc chắn được kinh phí nhà nước cấp. Trong trường hợp do nguyên nhân nào đó,
kinh phí nhà nước không cấp, bên giao khoán không tiến hành ký hợp đồng khoán
và tự tổ chức lực lượng bảo vệ rừng. Ban quản lý rừng Hà Ra được giao quản lý
10.800 ha rừng tự nhiên là rừng phòng hộ, trong đó diện tích khoán khoảng
5.000ha, chiếm khoảng 50% diện tích rừng tự nhiên được giao quản lý. Theo
Quyết định 661, Nhà nước chỉ cấp kinh phí khoán bảo vệ, khoanh nuôi rừng tự
nhiên là rừng phòng hộ với thời gian tối đa 5 năm. Sau 5 năm, hộ nhận khoán vẫn
tiếp tục nhận khoán sẽ không được hưởng tiền công khoán 50.000đ/ha/năm mà
thay vào đó được hưởng lợi từ rừng theo Quyết định178, như thu hái lâm sản
ngoài gỗ (LSNG), chăn thả gia súc dưới tán rừng, tận dụng cây gỗ chết khô, cây
đổ gãy, cây sâu bệnh, sản phẩm tỉa thưa; được khai thác chính với cường độ không
quá 20% khi rừng phòng hộ được phép khai thác và được hưởng tỷ lệ như sau:
- Nếu nhận khoán rừng loại IC (chưa có rừng) được hưởng 95% giá trị sản
phẩm; rừng phục hồi sau nương rẫy: 75-85%; rừng có trữ lượng ở mức trung bình
trở lên(>100m
3
/ha), mỗi năm hộ nhận khoán được hưởng 2% giá trị sản phẩm,

phần sản phẩm còn lại nộp bên giao khoán. Hộ nhận khoán phải chịu chi phí khai
thác, vận xuất gỗ tới bãi giao và thuế tài nguyên phần sản phẩm được hưởng. Như
vậy, Nhà nước đã có chủ trương cho phép khai thác rừng phòng hộ với cường độ
thấp (với điều kiện khu rừng đó đảm bảo chức năng phòng hộ theo quy định) để
giải quyết một phần khó khăn về kinh phí. Tuy nhiên khảo sát thực tế cho thấy nổi
lên những vấn đề sau đây:
- Rừng phòng hộ khoán cho dân bảo vệ có trữ lượng lớn phần lớn phân bố ở
vùng núi cao, đường xá đi lại khó khăn, chi phí vận xuất, vận chuyển quá lớn, hơn
nữa, có nơi không có thị trường tiêu thụ gỗ. Cho nên người nhận khoán hầu như
không quan tâm đến việc khai thác chính gỗ trên rừng nhận khoán mà chỉ quan
tâm đến tiền công khoán 50.000đ/ha/năm và thu hái LSNG.
- Diện tích rừng tự nhiên là rừng phòng hộ giao khoán cho hộ gia đình là loại
rừng nghèo, LSNG hầu như không có gì, trong khi đó phải chờ một thời gian dài
(hàng chục năm) mới có thể khai thác gỗ. Nếu Nhà nước không tiếp tục thanh toán
tiền công khoán 50.000d/ha/năm thì nguy cơ người dân sẽ huy bỏ hợp đồng. Hiện
nay, bên giao khoán chưa biết xử lý vấn đề này như thế nào? vì hoạt động quản lý,
bảo vệ, khoanh nuôi rừng phòng hộ thuộc hoạt động công ích do Ngân sách nhà
nước cấp. Bên giao khoán không có nguồn kinh phí nào để trả tiếp tiền công
khoán trong khi những khu rừng đó vẫn phải bảo vệ.
- Có ý kiến cho rằng, không nên quy định quyền hưởng lợi từ rừng đối với
rừng phòng hộ mà nên trả tiền công khoán hàng năm vì phần lớn rừng phòng hộ
hiện còn gần khu dân cư thuộc loại rừng nghèo thời gian khai thác chính quá dài
(trên 30 năm) nên việc quy định quyền hưởng lợi từ rừng trở lên không có ý nghĩa.
ý kiến này trái với chủ trương của Nhà nước là giảm bao cấp bảo vệ rừng phòng
hộ tăng quyền hưởng lợi từ rừng nhưng lại phù hợp với một số nơi. Vấn đề đặt ra
ở đây là có nên xây dựng chính sách hưởng lợi áp dụng cho một số vùng sinh thái
đặc thù không?
- Khoán đất lâm nghiệp để trồng rừng phòng hộ chủ yếu khoán theo công
việc hoặc hàng năm hoặc theo công đoạn, như khoán phát thực bì, cuốc hố, hoặc
khoán trồng và chăm sóc 3 năm đầu sau đó giao lại rừng cho Bên giao khoán để

khoán cho các hộ khác hoặc cũng có thể bên giao khoá tự tổ chức bảo vệ.
- Thực hiện khoán bảo vệ rừng phòng hộ cho cộng đồng thôn. Tuy nhiên,
thôn không phải là đối tượng được nhận khoán rừng, cho nên để hợp pháp hoá
diện tích rừng trên, thôn cử một số hộ gia đình ký hợp đồng trực tiếp với Bên giao
khoán, toàn bộ số tiền công khoán nộp lại cho Quỹ của thôn để chi trả cho hộ trực
tiếp tuần tra rừng, một phần tiền còn lại xây dựng quỹ của thôn hoặc phục vụ cho
các công việc của cộng đồng ( làm đường, xây cầu )
Như vậy, khảo sát thực tế tại tỉnh Gia Lai cho thấy, chính sách hưởng lợi theo
Quyết định 178 cho trường hợp giao khoán rừng phòng hộ gặp nhiều khó khăn,
tính khả thi không cao. Chính sách này chỉ áp dụng thích hợp đối với rừng phòng
hộ có trữ lượng, nơi có đường vận xuất, vận chuyển, có thị trường tiêu thụ lâm
sản. Những khu rừng có khả năng thu hái LSNG hàng ngày cũng có thể áp dụng
duy trì chính sách hưởng lợi theo Quyết định 178. Có nghĩa là, người nhận khoán
nhận tiền công khoán tối đa là 5 năm, thời gian tiếp theo người nhận khoán không
được nhận tiền công khoán mà được phép khai thác LSNG, tận dụng gỗ trong quá
trình thực hiện các biện pháp kỹ thuật lâm sinh (cây đổ gãy, sâu bệnh, cây chết
khô).
- Nhận thức của người dân không rõ về chính sách khoán, lẫn lộn giữa chính
sách khoán với chính sách xoá đói giảm nghèo. Chính sách khoán quy định trả tiền
công khoán trực tiép cho người bảo vệ rừng chứ không phải để giải quyết một
phần khó khăn của cộng đồng ở vùng sâu, vùng xa.
b. Thực hiện chính sách giao khoán rừng tự nhiên là rừng sản xuất có
hưởng lợi theo Quyết định 178.
Khảo sát thực tế cho thấy:
- Trong Quyết định số 178, phân chia rừng thành 5 loại trạng thái rừng.
Người dân hầu như không hiểu cách phân chia này vì phần lớn họ là người dân tộc
ít người, trình độ dân trí thấp, tuy nhiên họ cũng cho rằng nhận khoán tình trạng
rừng khác nhau thì hộ nhận khoán phải được hưởng quyền lợi khác nhau. Trên
thực tế, người dân vẫn có cách phân chia trạng thái rừng nhưng khác với quy định
của nhà nước, như:: đất trống (tương ứng với loại IA,IB,IC); rừng non, rừng thưa

(IIA1-IIIA1); rừng già, rừng có nhiều cây gõ lớn (loại rừng IIIA2 trở lên).
- ở địa điểm khảo sát, đã khoán rừng cho nhóm hộ, cộng đồng thôn bản mặc
dù trong Nghị định 01/CP không quy định cộng đồng là một đối tượng nhận khoán
rừng. Theo ý kiến của người dân, những khu rừng có trạng thái khác nhau, giá trị
cây trên rừng khác nhau, nếu giao cho từng hộ gia đình sẽ rất khó khăn, gây thắc
mắc giữa các hộ gia đình, tốt nhất là khoán cho cộng đồng làng bản. Thực tế ở một
số nơi, khoán rừng cho cộng đồng tỏ ra có hiệu quả, lợi ích từ rừng được quy định
bởi hương ước thôn bản, người dân tham gia và chấp hành tốt. Tuy nhiên, khoán
cho cộng đồng chỉ áp dụng ở một số nơi có tổ chức chính quyền mạnh, có năng
lực quản lý, tính cộng đồng còn cao. Một số khu rừng do cộng đồng nhận khoán
đã giải quyết nhu cầu gỗ của cộng đồng hay gỗ làm nhà cuả một số hộ gia đình.
- Hộ gia đình chỉ muốn nhận khoán những khu rừng có thể thu hái LSNG
hàng ngày hoặc có trữ lượng gỗ tương đối lớn có thể khai thác tận dụng và khai
thác chính trong vài năm tới.
- Tỷ lệ phân chia sản phẩm chưa được mọi người chú ý vì trên thực tế hầu
như người nhận khoán chưa được khai thác lâm sản chính do rừng được giao là
loại rừng nghèo.
- Việc phân chia rừng cho hộ gia đình gắn với quyền hưởng lợi còn gặp nhiều
khó khăn vì hiện trạng canh tác nương rẫy, canh tác cây nông nghiệp trên diện tích
rừng giao khoán, như diện tích giao khoán cho 1 hộ nhưng có 2 hộ đang canh tác
nương rẫy, canh tác cây nông nghiệp ở khoảng trồng trong rừng từ lâu - khuyến
khích người dân chuyển đổi cho nhau, tuy nhiên, không phải nơi nào cũng dễ
dàng. Lợi ích mà người dân nhận thấy không phải là rừng (vì rừng rất nghèo) mà
là đất sản xuất nông nghiệp ở khoảng trống trong rừng nhận khoán.
- Một số nơi giao khoán rừng cho hộ gia đình căn cứ vào hiện trạng đất canh
tác nương rẫy cho hộ gia đình trên đất rừng để tiện cho hộ gia đình vừa canh tác
nương rẫy vừa bảo vệ rừng.
- Đối với rừng giao khoán cho hộ gia đình thuộc loại rừng nghèo, bên giao
khoán đã hỗ trợ cây giống hoặc vốn đầu tư ban đầu cho hộ nhận khoán trồng cây
nông nghiệp trên đất không có rừng và tỏ ra có hiệu quả. Người dân cho rằng, lợi

ích nhận khoán rừng chính là quyền được canh tác trên đất rừng nhận khoán và
được hỗ trợ vốn đầu tư ban đầu. Quyết định 106 quy định toàn bộ vốn hỗ trợ đầu
tư ban đầu cho hộ nhận khoán sẽ khấu trừ khi được khai thác chính, tuy nhiên,
khảo sát thực tế cho thấy, quy định này chỉ có tính nguyên tắc, vì trên thực tế có
khu rừng phải trải qua 30 năm sau mới được khai thác chính, lúc đó liệu có thu hồi
được tiền ứng trước hay không? Để đảm bảo tính hợp lý, bên giao khoán chỉ ứng
trước tiền cho người nhận khoán tương ứng 50.000đ/ha/năm với tư cách là tiền
công bảo vệ rừng, còn trên thực tế số tiền này giúp nguời dân canh tác cây nông
nghiệp hoặc chăn nuôi trên đất rừng nhận khoán.
- Diện tích khoán tại điểm nghiên cứu bình quân 30 ha/1 hộ.
- Khái quát quyền hưởng lợi đối với người nhận khoán rừng được thể hiện ở
bảng sau:



Danh mục Quyết định 178 Quyết định 106 Khảo sát thực tế
1. Đối tượng
hưởng lợi

Hộ gia đình nhận
khoán rừng.
Hộ gia đình, cộng
đồng làng bản
nhận khoán rừng.
Hộ gia đình, nhóm
hộ, làng bản nhận
khoán rừng.
2. Quyền hưởng lợi sản phẩm khai thác chính
2.1. Nhận khoán
bảo vệ, khoanh

nuôi tái sịnh rừng
phòng hộ
- Được nhận tiền
công khoán (5
năm),
- Thu hái LSNG
- Tận dụng cây gỗ
chết khô, đổ gãy
- Sản phẩm khai
thác chính: được
khai thác gỗ với
cưởng độ 20%
+ Nếu nhận khoán
rừng loại IC: thì
được hưởng 95%.
giá trị sản phẩm
khai thác
+ Rừng loại IIA,
IIB, IIIA1:được
hưởng 75-85% sản
phẩm.
+ Rừng IIA2,
IIIA3, IIIB, IVA,
IVB:được hưởng
2% cho mỗi năm
nhận khoán. Phần
- Ký hợp đồng
khoán hàng năm
nên tiền công
khoán trả theo

từng năm.
- 50.000đ/ha/năm.
- Khoán khoanh
nuôi có tròng bỏ
sung:
1.000.000đ/ha với
thời gian 6 năm.
2.2. Hộ gia đình
nhận khoán
trồng, chăm sóc,
bảo vệ rừng
phòng hộ
- Được Nhà nước
cấp kinh phí theo
quy định.
- Được hưởng
100% sản phẩm
cây phù trợ, cây
trồng xen, sản
phẩm tỉa thưa, hoa
quả dầu nhựa
- Được sử dụng
20% đất trống
chưa có rừng để
sản xuất nông
nghiệp.
- Sản phẩm khai
thác chính: được
khai thác chính với
cưởng độ không

quá 20% và được
hưởng 80-90% giá
trị sản phẩm, phần
còn lại nộp bên
giao khoán. Bên
nhận khoán chịu
- Trồng mới rừng:
4 triệuđ/ha.
- Trồng xen cây
nông nghiệp.
- Sản phẩm tỉa
thưa, khai thác
chính chưa có.
- Ký hợp đồng
khoán 3 năm sau
đó làm thủ tục trả
lại rừng cho bên
giao khoán để
khoán cho người
khác. Cũng có
trường hợp bên
giao khoán lại ký
tiếp khoán cho hộ
gia đình đã nhận
khoán trồng trước
đây.
-
chi phí khai thác,
vận xuất liên quan
đến phần sản

phẩm được hưởng.
2.3.Nhận khoán
bảo vệ rừng sản
xuất là rừng tự
nhiên
- Được tận dụng
lâm sản trong khi
thực hiện các biện
pháp kỹ thuật lâm
sinh.
- Được trồng xen
các loại cây đặc
sản rừng, cây nông
nghiệp và chăn thả
dưới tán rừng.
- Được khai thác
chính với cường
độ tối đa 30% và
được hưởng từ
1,5-2% giá trị sản
phẩm cho mỗi
năm nhận khoán
bảo vệ rừng. Phần
còn lại nộp bên
giao khoán. Bên
1 . Nhận khoán
bảo vệ rừng tự
nhiên có trữ lượng
đạt tiêu chuẩn khai
thác ngay tại thời

điểm giao khoán:
- Được tận dụng
lâm sản.
- Trồng xen, chăn
nuôi dưới tán
rừng, khoảng trống
trong rừng.
- Được khai thác
chính. Giá trị lâm
sản sau khi nộp
thuế, các khoản
ứng trước, chi phí
sản xuất theo quy
định, hộ nhận
- Người dân không
phân biệt được các
trạng thái rừng khi
nhận khoán theo
quy định tại Quyết
định 178. Tuy
nhiên, để phân biệt
trạng thái rừng họ
vẫn dùng một số
thuật ngữ để chỉ
các loại trạng thái
rừng.
- Trạng thái rừng
loại IA ,IB, IC dân
quan niệm giống
nhau và chung một

mức hưởng lợi.
- Rừng loại IIA1-
IIIA1: quan niệm
là rừng non, rừng
nhận khoán chịu
chi phí khai thác,
vận xuất liên quan
đến phần sản
phẩm được hưởng.




khoán được hưởng
từ 1,5-2% cho mỗi
năm nhận khoán.
Phần cón lại nộp
bên giao khoán.
2. Nhận khoán
rừng tự nhiên có
trữ lượng trung
bình, dưới trung
bình nhưng chưa
đủ cường độ khai
thác chính, rừng
nghèo, rừng phục
hồi sau nương rẫy.
- Được khai thác
lâm sản ngoài gỗ.
- Tận thu, tận dụng

lâm sản trong quá
trình thực hiện các
biện pháp kỹ thuật
lâm sinh.
- Giá trị lấy ra từ
rừng ít nhất bằng
thưa.
- Rừng loại IIIA2
trở lên: quan niệm
là rừng già.
- Người dân không
phân biệt rõ rừng
phòng hộ và rừng
sản xuất.
- Quyền hưởng lợi
khi nhận khoán:
+ Người dân chỉ
quan tâm đến tiền
công bảo vệ rừng(
50.000đ/ha/năm).
Tiền hỗ trợ để mua
cây con, phân bón.
Đất để sản xuất
nông nghiệp. Gỗ
làm nhà, chuồng
trại. Thu hái lâm
mức khoán bảo vệ
rừng
(50.000đ/ha/năm).
Trường hợp rừng

quá nghèo không
thể khai thác lâm
sản có thể hỗ trợ
kinh phí bảo vệ
rừng thời hạn
không quá 5 năm
với mức
50.000đ/ha/năm và
hoàn trả khi có sản
phẩm khai thác
chính.
- Được khai thác
chinh. Giá trị sản
phẩm khai thác
sau khi trừ thuế,
các khoản ứng
trước, chi phí sản
xuất theo quy
đinh, hộ nhận
khoán được hưởng
từ 1,5-2%/năm
nhận khoán. Phần
sản ngoài gỗ.
+ Người dân ít
quan tâm đến sản
phẩm khai thác
chính vì thời gian
quá dài hoặc có
nơi chưa có đường
vận xuất, vận

chuyển, chưa có
thị trường tiêu thụ
gỗ.
+ Hiện nay nhu
cầu gỗ làm nhà ít
(chủ yếu là tách
hộ), tuy nhiên, do
không có rừng của
xã, nên phần lớn
gỗ làm nhà khai
thác trên rừng của
lâm trường hoặc
ban quản lý rừng
phòng hộ.
- Khoán cho hộ gia
đình, cho thôn.
còn lại nộp bên
giao khoán.
4.1.1.2.Tình hình triển khai chính sách hưởng lợi đối với hộ gia đình, cá nhân
được giao rừng tự nhiên.
- Quyết định 178 quy định quyền hưởng lợi từ rừng đối với hộ gia đình trong
các trưòng hợp sau:
- Được giao rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất.
- Được giao đất lâm nghiệp chưa có rừng để xây dựng rừng phòng hộ, rừng
sản xuất
Tuy nhiên, cho đến nay, tỉnh Gia Lai chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể
giao rừng tự nhiên và quyền hưởng lợi cho hộ gia đình, cá nhân. Tuy nhiên, để
làm cơ sở triển khai chính sách giao rừng tự nhiên và hưởng lợi sau này, tỉnh đã
chỉ đạo xây dựng thí điểm mô hình giao rừng cho nhóm hộ, cộng đồng tại một số
địa phương trong tỉnh. Thí điểm này nằm trong danh mục đề tài, dự án nghiên cứu

và triển khai thực hiện từ năm 2002 theo Quyết định số 467/QĐ-UB ngày
22/7/2002 của UBND tỉnh Gia Lai.
Quyền hưởng lợi sản phẩm khai thác chính theo Quyết định 178, đó là, nếu
được
. giao rừng sản xuất với trạng thái rừng phục hồi sau nương rẫy (loại IIA, IIB),
rừng nghèo (IIIA1), được hưởng 70-80% sản phẩm khai thác chính, trong khi tại
điểm khảo sát quy định được hưởng từ 6-10%/năm, tức hưởng 100% sản phẩm
(chu kỳ nuôi dưỡng khoảng 15năm). Cũng theo Quyết định 178, nếu được giao
rừng loại IIIA2, được hưởng 2% giá trị sản phẩm khai thác chính, trong khi đó tại
điểm nghiên cứu quy định được hưởng 12% sản phẩm khai thác chính cho một
năm nuôi dưỡng rừng, tức hưởng khoảng 40% giá trị sản phẩm khai thác (nuôi
dưỡng 4 năm có thể khai thác chính).
Tuy nhiên, theo tinh thần Thông tư 80, đối với loại rừng Khộp, UBND cấp
tỉnh quy định mức tỷ lệ sản phẩm không nhất thiết phải theo khung tỷ lệ quy định
tại Quyết định 178 vì vậy tỷ lệ phân chia sản phẩm trong các mô hình thí điểm cần
được nghiên cứu để phù hợp với nguyên tắc người được giao rừng tự nhiên chỉ
được hưởng phần tăng trưởng của rừng tính từ năm giao rừng Khộp cho nhóm hộ
(cộng đồng) vì bản thân rừng tự nhiên tại thời điểm giao đã có trữ lượng, trữ lượng
đó không phải do người được giao rừng tạo ra nên phải nộp vào ngân sách nhà
nước (ngân sách xã).
Khảo sát thực tế cho thấy, do thời gian được phép khai thác chính từ 15- 26
năm nên quyền hưởng lợi trên đất lâm nghiệp giao cho nhóm hộ (hay cộng đồng)
hiện tại không phải là sản phẩm khai thác chính mà là sản phẩm nông- lâm kết
hợp, LSNG, sản phẩm trồng xen, diện tích đất nông nghiệp xen kẽ trong rừng để
canh tác lúa,, khai thác gỗ làm nhà, cây đổ gãy
Khái quát quyền hưởng lợi đối với người đựoc giao rừng được mô tả ở bảng
sau:
Danh mục Quyết định
178
Quyết

định
Tại điểm khảo sát thực tế
106
1.Đối tượng
hưởng lợi
Hộ gia đình,
cá nhân
Nhóm hộ, cộng đồng
2. Quyền hưởng lợi sản phẩm khai thác chính.
2.1.
Hộ
gia
đình
được
giao
rừng
tự
nhiê
n là
rừng
sản
xuất.
- Được trồng xen các cây
nông nghiệp, cây dược
liệu, chăn thả gia súc.
- Tận dụng lâm sản trong
quá trình thực hiện các
biện pháp kỹ thuật lâm
sinh.
- Khai thác gỗ làm nhà

không quá 10m
3
gỗ tròn
cho 1 hộ.
- Đựoc khai thác chính với
cường độ tối đa không quá
30%.
+ Nếu được giao đất trống
(IA,IB,IC): đựoc hưởng
a. Được giao loại rừng:IIA (Khộp
non):
- Trồng xoài xen đậu xanh ở khoảng
trống trong rừng.
- Trồng Điều ghép xen đậu xanh.
- Trồng Bạch đàn.
- Đựợc hưởng 100% sản phẩm khai
thác chính
b. Được giao loại rừng IIB (Khộp
non:
- Nuôi cá trong hồ tự nhiên.

×