Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Công tác quản lý, khai thác và phát huy tác dụng di tích đền Đào Động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.33 KB, 27 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
lời mở đầu
Chúng ta đang sống trong một thời kỳ khá sôi động của sự phát triển xã
hội, dới tác động của một nền kinh tế theo cơ chế thị trờng. Nhịp sống khẩn
trơng và sức hấp dẫn của các hoạt động nhằm mang lại lợi ích kinh tế, nhiều
khi đã làm mất đi những giá trị truyền thống tốt đẹp mà bao thế hệ tiền thân
đã chắt chiu, hun đúc lên, đồng thời nó phá vỡ sự cân bằng vốn có của cơ cấu
vật chất - tinh thần. Di tích lịch sử văn hoá của mỗi dân tộc là nơi lu giữ các
giá trị truyền thống và những sinh hoạt văn hoá tại các di tích là sự ôn lại
truyền thống đo, hớng ngời ta tìm về với cội nguồn dân tộc và đa con ngời ta
trở về với Chân - Thiện - Mỹ. Việc nghiên cứu để bảo vệ, tôn tạo, phát huy
tác dụng của các di tích lịch sử văn hoá là nhằm vào việc làm sáng tỏ cái giá
trị văn hoá tinh thần của nhân dân ta góp phần vào việc xây dựng nếp sống
văn hoá mới.
Từ thời xa xa ngời Việt ta đã rất tin vào thần thánh. Ngời vùng cao thì
thờ thần núi, thần hổ, ngời đồng bằng thì thờ thần đất, thần sông, dân vạn
chài thì thờ thần sông biển. Lại có tập tục thờ những anh hùng dân tộc
"Những ngời sinh vì tớng tử vi thần". Sự tin cậy đến mức dân đi lập nghiệp
trên vùng đất mới đều thỉnh thần quê nhà đi theo làm điểm tạ tinh thần. Mỗi
khi có việc hệ trọng đều đến cúi xin thần chỉ bảo, phù trợ. Thần và ngời vừa
cao xa, vừa gần gũi. Đôi khi dân chủ dễ tính nh ngời cùng cảnh ngộ, không
đòi hỏi, chỉ cần hai chữ "lòng thành". Chính vì thế đền, miếu nhiều nh nấm,
làng nào cũng có.
Đền Đào Động thuộc làng Đào Động (dân gian quen gọi là Đồng bình
đọc chệch là Đồng Bằng thuộc xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình).
Trong đền có nhiều cổ vật quí hiếm đợc trng bày phong phú, đặc biệt nơi đây
chứa đựng giá trị đặc sắc về lịch sử văn hoá và nghệ thuật.
Ngày 22/12/1986, Bộ Văn hoá thông tin ra Quyết định số 225VH/QĐ,
công nhận đền Đào Động là di tích lịch sử văn hoá kiến trúc quốc gia.
Tìm hiểu về di tích lịch sử văn hoá đền Đào Động, với lòng nhiệt thành
em muốn đợc nâng cao kiến thức, sự hiểu biết về đền nói riêng và các di tích


lịch sử Việt Nam nói chung.
Tiểu luận gồm 3 chơng:
Ch ơng I: Tên gọi, vị trí địa lý và lịch sử di tích đền Đào Động.
Ch ơng II: Giá trị văn hoá, nghệ thuật đền Đào Động
Ch ơng III: Công tác quản lý, khai thác và phát huy tác dụng di tích đền
Đào Động.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chơng I- Tên gọi, vị trí địa lý và lịch sử di tích
đền đào động.
I- Tên gọi di tích.
Đề có tên là đền Đào Động thuộc xã Đào Động, tổng vọng lỗ, các sách
Thái bình phong vật chí, Đại nam nhất thống chí đều chép nh vậy.
Vào thời Trần, Đào Động nằm trong trung tâm căn cứ lu vực sông hoá
của Quốc công tiết chế Hng Đạo Vơng. Vơng sai tớng Phạm Ngũ Lão và phò
mã Nguyễn Chế Nghĩa về đắp thành luỹ lập căn cứ ở thôn Đào, thôn Lãng
(Đào Động), đền thờ hai ông vẫn còn, dấu vết chiến luỹ vẫn còn, đây là hậu
cứ vững nh "thánh đồng" nên làng Đào Động còn có tên gọi "Đồng Bình" -
bức chắn bằng kim loại trên phòng tuyến chống quân xâm lợc Nguyên. Vì
không căn cứ vào tự dạng và nội dung chữ, các quan chức thời hiện đại (năm
1975) cho chữ Bình (bức chắn) đồng nghĩa với chữ bình (Đồng Bằng) nên tên
làng ghi trên bản đồ địa chính từ năm (1975) có tên là Đồng Bằng.
Tại trớc cổng đền và dốc cầu Vật (trên quốc lộ 10) có hai tấm biển bê
tông đề "đề Đức vua" cách 300m và trên bảng văn cổng chính đền đề 4 chữ
"Bát Hải động đình". Hai danh từ trên tuy khác nhau nhng chung một gốc
lịch sử. Từ đời Lê Trung Hng, đạo tứ phủ phát triển mạnh, thần chủ đền Đào
Động đợc tôn vinh là Vua cha Bát Hải trị vì thuỷ phủ là phụ thận của Mẫu
Thoái, vì thế có từ đến đức Vua cha hoặc Bát Hải động đình.
II- Vị trí địa lý đền đào động.
1. Một vài nét về lịch sử chiến lợc của trang Đào Động thời cổ đại và

cận đại.
Theo sách Đại Nam nhất thống chí: Làng Đào Động xa chung rẻo đất
tỉnh Nam Định, thời Hùng Vơng thuộc về Bộ Thang Truyền, thời tiền Lê
(giữa thế kỷ X) thuộc phủ Thái Bình, thời Lý thuộc phủ Long Hng, cuối đời
Trần thuộc huyền Cà Côi, phủ An Tiêm, thời Lê thuộc tổng Vọng Lỗ, huyện
Phụ Thợng, phủ Thái Bình. Năm 1969 UBND tỉnh Thái bình sát nhập Đào
Động vào xã An Lễ, thuộc huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Theo tài liệu điền dã lu tại bảo tàng Thái Bình và tập tài liệu "hớng dẫn
tham quan đền Động Bằng" của tác giả Vũ Đức Thơm cho rằng: Đào Động là
một làng cổ nằm trong khu vực đất cổ phía Bắc tỉnh Thái Bình, có niên đại
khoảng cuối sơ kỳ đồ sắt, cách ngày nay khoảng trên dới 2.000 năm.
Trong tài liệu của UBND xã An Lễ trang 1 "phần mảnh đất và con ngời
Đào Động" viết "Trên đôi bờ dòng sông Đồng Bằng xuất hiện nhiều đống, đ-
ờng đã bị phá huỷ, còn lại phế tích gạch Hán, Tuỳ, Đờng". Đúng vậy, tại
các địa điểm trên hiện đang bảo lu hàng trăm tiêu bản gạch mộ hình lỡi búa,
mặt trong khắc nổi hoa văn trám lồng, rất nhiều mảnh gốm xốp với hoa văn
kẻ vạch thuộc nhóm gốm Đờng Cồ. Vơn khỏi Đào Động về phía Bắc từ 2 đến
5 km ta gặp nhiều mộ Hán ở các xã An Quí, An Thái tại làng Ô Cách, xã
Quỳnh Xá, Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Bảo tàng Thái Bình tìm đợc hàng trăm
mũi tên đồng, 2 mũi giáo đồng, 2 lục lạp đồng, nhiều rìu đồng đợc các
chuyên gia khảo cổ xếp vào nhóm đồng Đông Sơn muộn lùi xuống phía biển
xa thêm 7km, ngời ta tìm thấy nhiều mẫu gạch xây mộ cổ tơng tự nh trên. Có
thể nói làng Đào Động đợc hình thành cách chúng ta ngày nay khoảng 2.000
năm, hoặc trên dới 2.000 năm một chút.
Ngời công dân đợc ghi vào sự tích thần điển làng là ông già cất vó trên
bến sông Vĩnh (có công nuôi dỡng Thành Hoàng), tên là Nguyễn Minh. Lớp
c dân ban đầu dựa vào các cồn cao nh đống Phan, đống Hng, đống He để
dựng lều trại. Nghe nói thời ấy cá he vào tận bến sỗng vì thể còn địa danh

Đống He truyền đến ngày nay. Sông Vĩnh bây giờ đã hình thành song sông
sâu nớc cả hơn bây giờ bội phần. Hai địa bàn c trú đầu tiên là xóm Đào (nớc
dậy sóng), xóm Lãng (sóng lớn). Đến giữa thiên niên kỷ thứ nhất thì dân xóm
đã động, bớc đầu hình thành hơng Đào Động (làng đầy sóng gió).
Từ đầu triều Lý (1010), với chính sách khuyến nông của Vơng triều,
dân trong Đào Động có bớc vơn mình, chuyển hẳn ng nghiệp sang nông
nghiệp. Sự kiện chính biến: Quách Bốc đánh chiếm kinh thành Thăng Long,
gia đình Trần Lý, Trần Th Độ, Trần Tự Khánh, Trần Liễu mộ hơng dũng
Long Hng (Thái Bình) Thiên trờng (Nam Định) cất quân đát dẹp, rớc Lý Cao
tôn về kinh, tiếp đến năm 1211 phù Lý Huệ Tôn lên ngôi, thanh thế họ Trần
càng mạnh. Để chuẩn bị cho việc lớn, Trần Thị Dung mở ấp ở vùng Khuông
Phù, Phù Ngự (xã Liên Hiệp). Trần Thừa đặt phủ đệ ở Tinh Cơng (vùng xã
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tiến Đức, bắc Hng Hà) Trần Liễu về tị nhậm vùng Hà Côi - Phụ Phợng
(sách ngàn năm đất và ngời Thái Bình).
A Sào cách Đào Động 6 km xa là bản doanh của Phụng Kiền vơng Trần
Liễu, ông đã xây dựng 4 trang: Đào Động, Lộng Khê, Tô Đê, ASào ven lu
vực sông Hoá, sông Vĩnh Thành 4 trung tâm kinh tế phồn thịnh đợc coi là:
"Tứ cố cảnh triều Lý".
Từ giữa thế kỷ XIII Đào Động là địa điểm đợc Trần Hng Đạo rất quan
tâm. Sách ngàn năm đất và ngời Thái Bình chép: "Theo lệnh quốc công tiết
chế Trần Hng Đạo, yết kiêu đã da cả đội quân thuỷ lừng danh dới tớng về
đóng ở ngã ba sông Nông (Hng Hà) xuôi dòng Luộc, Hoá xa hơn nữa về
phía Đông lại có cả một khu căn cứ lớn của nhà Trần: Đào Động, lộng Khê,
Tô đê, ASào.. phụ phợng tứ cố cảnh triều Lý,4 nơi có cảnh sắc phong quang,
dân c trú một đều đợc xây dựng thành nơi tập trung quân lơng quan trọng.
ASào với một bên là sông Luộc, một bên là sông Hoá - nơi điền trang xa của
Phụng Kiền Vơng đã đợc lấy làm đại bản doanh chính của vịquốc công tiết
chế đố. Mặt phía Bắc có tiền đồn là Lộng Khê, chệch về phía Nam cách ASào

6km là căn cứ thuỷ bộ Đào Động đợc giao cho Phạm Ngũ Lão - vị tớng nổi
tiếng quê làng Phù Đổng (Hải Dơng) cai quản và dùng làm nơi tập luyện cả
hai đạo bình thuỷ và bộ"
Trên địa bàn thuộc Đào Động và xã An Lễ tìm thấy miếu ông thời điện
tiền tớng quân Phạm Ngũ Lão và quân phu nhân Anh Nguyên (tởng truyền
bà quê làng này, đợc Trần Hng Đạo nhận làm con nuôi, sau gả cho Phạm T-
ớng quân. Lại tìm đợc bài vị "Trần Triều phò mã đô uý Nguyễn Thế Nghĩa"
Tơng truyền: Phạm Ngũ Lão coi luyện quân thuỷ, Nguyễn Chế Nghĩa coi bộ,
các điểm tập trung ngày xa nh: đình Rất, đình Sinh, đình Bến, đình Bơi, đình
Đào đều là bến đón quân về, tiễn quân đi. Khi trừ xong giặp Bắc dân lập đình
để thờ các vị quan tớng thời Trần và các vị Thành Hoàng cũ thuộc trong ấp.
Cách đền Đồng Bằng 600m hiện còn đoạn luỹ thời Trần dài 200m, có
địa danh cổng Tây. Trớc đây còn cổng Đông, cổng Nam, cổng Bắc.. Đào
Động từng đợc mệnh danh là bức thành đồng, tên làng Đồng Bình có từ sự
kiện này. Xuôi cần Vật 100m là cánh dầm Bà, thực ấp của Hoa đào Anh
Nguyên - quận chúa, xa là bãi đỗ thuyền của đại quân nhà Trần Cầu Vật vốn
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
là sới vật và bãi tập của quân thánh Dực do Trần Hng Đạo quản lĩnh, Phạm
Ngũ Lão, Nguyễn Chế Nghĩa phụ trách. Từ niên hiệu Trung Hng (1285 -
Trần Nhân Tông) đến các triều Anh Tôn (1293 - 1314), Minh Tôn (1314 -
1329) Để tri ân dân bình Đào Động đã nhờng cơm sẻ áo nuôi quân, nhà nhà
là trại lính, xóm xóm là quân doanh Trần triều phò mã Đô Uy và Phạm Điện
Soái đã u tiên hỗ trỡ việc khẩn điền. Nhiều binh sỹ trong các quân doanh trở
lại làm dâu rẻ đa ngời thân về xây dựng quê mới từ đó đất đai đợc khẩn
hoang từ các thôn: Đào Lãng, Cúi Dất. phát triển thêm các khu: Trung,
Cầu, Đông, Đào, từ đây làng Đào Đông trở thành "Đào Động bát trang" một
làng giàu có nổi tiếng của lộ An Tiêm.
Trong 20 năm chống giặc Minh xâm lợc, Đào Động là căn cứ lớn của t-
ớng Phạm Bội (quê xã An Bài cách Đào Động 2km). Trai làng nổi tiếng bởi

tinh thần dũng cảm trung thành. Năm 1417 gần 100 trai làng đã theo thủ lĩnh
Phạm Bội vào Lam Sơn tụ nghĩa dự lễ thề Lũng Nhai, theo Bình Định Vơng
10 năm đánh đuổi giặc Minh.
Dới triều Mạc Mậu Hợp, Đào Động và Tô Xuyên là hai tiền đồn quan
trọng của phòng tuyến Đông Quynh - chạy từ Quỳnh Phụ sang Hng Hà của
binh bộ thợng th Vũ ảm.
Trong phong trào Cần Vơng chống Pháp, gần 100 dân binh Đào Động
đã giúp Đôi chuẩn xây đồn cổ tiết, giữ phía Tây Cầu Vật thuộc làng, cùng đội
Duẫn xây đồng Vũ Hạ (xã An Vũ) giữ ngã t môi tại phía đông làng, nhiều
lần đánh trả quân tuần tiễn nguỵ quyền các đồn Quỳnh Côi, Thuỵ Anh góp
phần bắt sống và giết bang biện Nam triều Mai Đức Văn.
Ngay từ những năm 30 thế kỷ 20 dới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt
Nam Đào Động đã có sở sở cách mạng.
Năm 1950, quân Viễn Chinh Pháp sử dụng khu đình Chợ làng Đào
Động làm phủ lỵ huyện Phụ Dực, đóng bốt tại cầu Nghìn (An Bài), ngã t Môi
(An Vũ), chợ Đình, Cầu Vật (Đào Động) với số trên 1.000 lính quân dân Đào
Động bám đất chiếm đến cùng. Ngày 23/6/1954 du kích xã đã cùng bộ đội
tiểu đoàn 64 đại đoàn Đồng Bằng hạ bốt Cầu Vật, bao vây bức bốt quận (chợ
Đồng Bằng) phải bỏ tháo chạy về Setơ Kiến An.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong kháng chiến chống Mỹ, trên 200 thanh niên Đào Động lớp lớp
tòng quân. Tại địa phơng trung đội trực chiến của thôn đã kết hợp với bộ độ
huyện chiến đấu bảo vệ Cầu Vật trên quốc lộ 10 và ngày 20/8/1979 đã bắn
rơi máy bay phản lực Mỹ đợc Quốc hội tặng huân chơng chiến thắng hạng II.
2. Vị trí địa lý đền Đào Động.
Đào Động nằm giữa lu vực sông Hoá và sông Đại Lẫm, ngợc lên phía
Bắc gặp sông Luộc ở khu vực Tuần Tranh (Ninh Giang), ngợc về phía Tây
18km là cửa Hải Thị, tiếp vào sông Hồng, xuôi về phía Đông 7km gặp sông
Thái Bình tại Cầu Xe. Theo dòng sông Hoá có đờng ra cửa sông Thái Bình,

theo dòng Đại Lẫm hợp với sông Diêm đổ ra cửa Trần (tức cảng Diêm Điền).
Khách từ kinh thành có thể theo sông Hồng vào cửa Hải thị về sông Đại
Lẫm, khách từ đông Bắc theo sông Thái Bình xuống ngã ba Cầu Xe xuống
Tuần Tranh voà sông Hoá để đến Đào Động đều thuận lợi.
Khách từ mạn biển hoặc theo cửa Thái Bình qua sông Hoá hoặc cửa
Diêm Điền qua sông Diêm đếu có thể đến tận sân đền Đồng Bằng. Năm
1910, ngời Pháp mở quốc lộ 10 từ Ninh Bình qua Nam Định sang thị xã Thái
Bình, đi thị xã Kiến An và thành phố Hải Phòng, đờng quốc lộ kề sát cạnh
đền Đồng Bằng, việc giao thông đi lại về đền càng thuận tiện. Đền sát cạnh
Cầu Vật cách thị xã Thái Bình 20km, cách thành phố Hải Phòng 70km, cách
thị xã Kiến An 59 km.
III- Lịch sử di tích đền đào động.
1. Niên đại xây dựng đền.
Theo truyền thuyết đền là phủ đệ của thuỷ thần Vĩnh Công đại vơng
trấn Tam Kỳ giang linh ứng đại vơng, có công phù vừa Hùng Duệ Vơng dẹp
loạn. Ngày 26/8 năm Mậu Thìn đời Duệ Vơng ông tạ thế, vua cho tiền sửa
sang phủ đệ thành đền miếu cho dân phụng thờ.
Đền thời Lý đền đợc củng cố, sách "Ngàn năm đất và ngời Thái Bình"
xếp đền là "Một trong 4 tứ cổ cảnh triều Lý". Đến thời Trần đền miếu lộng
lẫy, uy nghi. Điện tiền Phạm Ngũ Lão ngợi khen "Đây là cõi thần tiên nhất n-
ớc nhà".
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Sang thời Lê, đền đã có đủ năm cung để đủ chỗ thờ Vĩnh Công đại v-
ơng và bốn ban công đồng tứ phủ (đợc đa vào thờ).
Năm Thành Thái kỷ sửu (1889) đợc sự đỡ đầu của Thái Tử thiếu bảo
Hoàng Trọng Phu, dân Đào Động mở rộng quy mô đền rộng 6000m
2
. Năm
Khải Định thứ 9 (1925) có sự bảo lãnh của uỷ viên hội đồng tỉnh Thái Bình,

Nghị viện dân biểu Bắc kỳ (chức vụ này đến 1937 mới bẩu), một điền chủ
lớn ở phủ Kiến Xơng là Phạm Luận đã sửa toà cấm điện từ kiến trúc hồi văn
thành phơng đình chồng diêm.
Trận bão tháng 9/1983 làm đỏ toà Phơng Đình trên. Tháng 8/1984 bảo
tàng Thái Bình kết hợp với UBND xã An Lễ đã phục hồi toà cấm này theo
phong cách hồi văn mái chảy nh trớc năm 1926.
Kiến trúc ngày nay của đền Đào Động gần nh giữ trọn vẹn lần đại tu
cuối cùng năm 1889.
2. Đền Đào Động thờ thuỷ thần Vĩnh Công Đại Vơng.
Sách Đại Nam Nhất Thống Chí (tập III, NXB Khoa học xã hội). Phần
tỉnh Nam Định, mục linh tích, chép: Đền Đào Động thuộc tổng Vọng Lỗ,
huyện Phụ Dực thờ thuỷ thần Vĩnh Công Đại Vơng, tơng truyền là thái tử
long cung giáng sinh ở Đào Động phù vua Hùng Duệ Vơng dẹp loạn, sau
hiển thánh đợc dân làng thờ. Phàm trong vùng có hạn hán, hoàng trùng, dịch
bệnh dân đến kêu cầu, đảo vũ đều rất linh nghiệm.
Sách Thái Bình phong vật phú cũng chép tơng tự.
Cuốn "Vĩnh Công Đại Vơng - Hùng Triều Công Thần" do ngời quản
giáo bách thần, Đông Các Đại học sỹ Nguyễn Bính viết:
". triệu tổ nớc Việt ta khởi tử Lạc Long Quân, con trai vua Kinh Dơng
Vơng, cháu ngoại vua Thần Nông, trị vì nớc Sích Quỉ. Lạc Long Quân đi
tuần thú phơng Nam, tới hồ Động Đình, gặp tiên nữ Âu Cơ, sinh ra một bọc
trăm trứng, nở ra 100 ngời con trai. Một hôm Lạc Long Quân nói với Âu Cơ
rằng: ta là vốn Rồng, nang là giống Tiên, thuỷ hoả tơng khắc, khó cùng ở lâu
bền. Nay ta chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo ta xuống biển là việc lớn
lâu dài, đoạn chia tay dắt 50 con xuống biển. Ngời con trởng làm vua nớc ta,
đó là vua Hùng Vơng đặt tên nớc ta là Văn Lang, dựng đô ở Phong Châu, xây
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
điện trên núi Ngũ Lĩnh, chọn ngời tài giỏi chia thành hai ban văn võ trị vì,
phù truyền tử kế 18 đời, đều xng hiệu Hùng Vơng

Vào đời Hùng Duệ Vơng, tại trang An Cố, tổng Bình Lãng, huyện
Thuỵ Vân (sau đổi là Thuỵ Anh nay là huyện Thái Thuỵ) có một ngời tên là
Phạm Công, tinh tờng nho, y, lý, số, làm nghề dạy học, sắc thuốc lấy vợ ngời
làm Mai Diêm (nay là xã Thuỵ Hà, huyện Thái Thuỵ) họ Trần tên Lu. Nhà
này vợ chồng sống hạnh phúc, thích làm việc thiện nh: góp tiền đúc chuông,
tô tợng, sửa chùa không bao giờ thích cúng tiền, luôn giúp ngời nghèo, cho
cơm kẻ đói. chỉ hiềm một nỗi ngoài 40 tuổi mà cha có con nên tâm trạng
nhiều lúc rất buồn. Ông bà thờng rủ nhau đi lễ các đền phủ lớn hoặc chu du
các danh lam cổ tích và càng hết lòng chăm lo việc phúc.
Một hôm ông bà vãng cảnh trang Đào Động, bỗng gặp một cô gái đến
vái lạy, tha rằng: "Con là kẻ tha hơng, cha mẹ mất sớm, không nơi nơng tựa.
Nay gặp ông bà hiền đức xin động lòng thờng, cho con đợc về hầu hạ" Phạm
Công, Trần Thị ngoảnh nhìn thấy thiếu nữ hình dung yểu điệu, t chất thông
minh, nói năng phải đạo liền nhận đa về nhà nuôi, đặt tên là Quí Nơng.
Quí Nơng càng lớn càng xinh đẹp, mặt hoa da phấn, mắt phợng mày
ngài, t chất thông minh, công dung ngôn hạnh đều đẹp. Một nhà hoà hiếu vui
vầy.
Một hôm Quí Nơng ra bãi biển tắm gội, trời đang xanh trong, bỗng
nhiên trở gió, mua bão ầm ầm, chớp giật sấm rền và có một thần Giảo Long
thần dài 8 thớc (3,2m) hiện hình cuộn lấy Quí Nơng 3 vòng. Lát sau, trời
quang mây tạnh, Quí Nơng tỉnh dậy vội trở lại nhà, từ đó trong ngời chuyển
động và tự mang thai, ở nghén 13 tháng. Đến kỳ mãn nguyệt khai hoa, thẹn
nỗi không chồng có con, Quí Nơng ra biển trở dạ sinh đẻ một mình, sinh ra
một bọc máu đỏ, nang hoảng hốt đẩy bọc kia xuống biển. Hôm ấy là ngày 10
tháng giêng năm Đinh Tỵ (rắn có tài). Điềm trời xui khiến gặp lúc triều dâng
đa bọc thiêng vào sâu trong nội đồng.
Thời bấy giờ ở trang Đào Động có một ông già nghèo khó, đức hạnh tên
là Nguyễn Minh làm nghề đánh cá bên sông. Đêm ấy buông vó đã sang giờ
Tý (nửa đêm) mà không bắt đợc con cá nào. Mãi quá nửa đêm kéo vó thấy
nặng, cố kéo lên thì thấy một bọc đỏ nh máu, ông già sợ quá dùng sào đẩy ra,

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lát sau cất lên lại gặp bào thiêng, ông già càng sợ, lại dùng sào đẩy bào ra xa.
Đến lần thứ ba vẫn gặp bào thiêng, già Nguyễn Minh vái lạy rằng: Nếu là
điềm trời báo ứng, thánh chỉ thần đa. xin linh bào tự phanh xuất cho con
dân đợc tỏ. Tức thì một tiếng sấm động trời, hơng thơm toả ngát, ánh sáng
chói loà, bọc thiêng tự nứt đôi sinh 3 thần xà. Đệ Nhất Xà ở lại Đào Động,
Đệ Nhị Xà xuôi sông Đào Động về Ngự tại trang Thanh Do (nay là xã Thuỵ
Thanh, huyện Thái Thuỵ), Đệ Tam Xà về với mẫu thần ở Hoa Diêm.
Biết điều kỳ là đêm qua, hơng lão Đào Động sáng hôm sau đều đến thảo
xá Nguyễn Minh, thấy long xà hùng dũng, tất cả bái lạy, tôn là linh xà, xin
phép đợc nhận làm thần tử.
Từ khi Đệ Nhất linh xà ngự cử Đào Động, dân chúng đánh lới nhiều cá,
cất vó nhiều tôm, công việc làm ăn thuận lợi.
Ngày tháng thoi đa kể đến vài năm, một hôm thần xà vái lạy dỡng phụ
(Nguyễn Minh) tha rằng: "Ta vốn là hoàng tử Đức Long Vơng ở biển Nam
Hải vâng lệnh Ngọc Hoàng đại đế giáng vào cửa ngơi để thởng công cho ngời
hiền đức. Nay mai nớc nhà có loạn lớn, vâng lệnh vua cha nay phải về thuỷ
cung để luyện thuỷ quân dùng vào việc lớn về sau".
Triều hùng trị vì nối tiếp 17 đời. Đến đời vua Hùng Duệ Vơng, vua sinh
hạ toàn con gái. Trởng công chúa đã gả cho thần núi Tản viên, thứ công chúa
Tiên Dung chỉ thích du sơn, du thuỷ, sau theo chồng là Chử Đồng Tử về trời,
vua hội đình thần truyền ngôi cho Tản Viên sơn thánh.
Bấy giờ có ngời cháu ngoại vua Hùng, họ Thục, tên Phán nghe tin vua
định truyền ngôi cho phò mã, quên mình là cháu thì giận lắm liền chiêu mộ
binh tớng, lại mợn quân nớc láng giềng. quân Thanh lững lẫy, chia thành 5
đạo từ các chấn hùng dũng tiến đánh Hùng Vơng. Các tớng biên thuỳ chống
cự không nổi đều dâng biểu xin cứu viện. Vua cho thêm tớng giỏi, quân đông
đi cứu nguy, vẫn bị thua trận, nguy càng nguy gấp.
Hùng Vơng cho lập đàn cao tế cáo trời đất, bách linh bách thần, đến giờ

Tý ngày thứ 3 mơ thấy sứ giả nhà trời cỡi mây hạ đàn bảo rằng: "Vận hội nhà
Hùng cha hết, nếu triệu đợc thần núi Tản Viên, thuỷ thần làng Đào Động hợp
sức mà đánh thì quá 1 tuần là yên".
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đức vua tỉnh dậy, một mặt sai sứ đi triệu Tản Viếnơn thành, một mặt cử
sứ xuống vùng biển về Đào Động trang để vời đức thuỷ thần. Sứ giả vừa tới
đầu trang ấp (chỗ Tam Kỳ gặp sông Đào Đông - bến cửa Vĩnh) thì thấy gió
ma thét gào, đầy trời sấm chớp, nớc cửa Vĩnh gầm lên, nớc sông Tam Kỳ
cuộn sóng và một thuỷ thần cỡi sóng giữ nói lớn: "Ta là thuỷ thần sông Vĩnh,
tự là Vĩnh Công chờ sứ giả ở đây" sứ giả vui mừng khôn xiết rớc thần về kinh
đô. Vĩnh Công triệu vơng lão, trai tráng Đào Động chọn lấy 9 chàng trai
khoẻ nhất sung làm gia thần thủ túc, lại cùng sứ giả xuống xuống Thanh Do,
Mai Diêm đón đệ nhị linh xà, đệ tam linh xà về kinh bái yết vua. Vua Duệ
thấy 3 ông, thân ngời đầu cá, dáng vóc nh rồng, tiếng nói nh sấm, lực địch
vạn ngời, bàn mu tính kế nh thần thì cả mừng; phong thần Tản Viên là tớng
tiên phong lo đánh các đạo sơn lâm. Vĩnh Công và nhị vị linh xã làm trung
quân lo việc lấy quân vùng biển Sơn Nam và ái Châu để đánh vùng ven biển
và hải đảo, lại cử thêm 1.000 tớng lĩnh, 12 vạn hùng binh theo 2 ông đánh
giặc. Thần Vĩnh Công làng Đào Động và nhị vị long xà đi đến đâu, các loài
ba ba, thuồng luồng và muôn trùng thuỷ tộc đều theo sóng cồn cùng kéo ra
đảo, chỉ đánh vài trận quân Thục phải qui hàng. Phía vùng rừng núi, thần Tản
Viên đa cả hùm, beo, gấu ra trận, giặc khiếp đảm mà chết. Hai ông làm biểu
tiếp báo về kinh, vua cho quân hai đạo đợc ca khúc khải hoàn.
Trong lễ mừng công, Vua Duệ Vơng phong đức Vĩnh Công là thợng
đẳng công thần, Vĩnh Công và các em vái tạ ơn vua không nhận chức tớc, chỉ
xin xá hết tô, binh, tạp dịch cho dân trang Đào Động để trả nghĩa tình mảnh
đất và con ngời đã gắn bó với ông. Vua Hùng chuẩn tấu. Thần Vĩnh Công về
Đào Động, tổ chức yến tiệc linh đình khen thởng nam phụ, lão ấu. Thởng
công cho 9 gia thần thủ túc làng Đào theo mình xông pha trận mạc. Từ đó

ông và dân Đào Động tình nh cha con. Thần dạy dân cấy lúa trồng dâu, chăn
tằm dệt lới, dân làng Đào Động ngày càng no d, xóm dới làng trên luôn tiếng
hát hò.
Lu tại Đào trong vài tháng Vĩnh Công trở về phụng dỡng song thân. ít
lâu sau song thân qua đời, Vĩnh Công lo việc tang lễ chu đáo, phúng lễ 3
năm. Sau ngày đoạn tang, thần lại về Đào Động trang ở với dỡng phụ, thọ
trên 100 tuổi.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Một hôm, Vĩnh Công vời hơng lão đến nhà dặn rằng: "Ta cùng các vị là
dân lân dân ấp, ăn ở với nhau tình nh ruột thịt, nghĩa nh cha con. Nay ta vâng
mệnh phải về hầu vua cha Long Vơng, may ngày có nhớ đến ta thì lấy nhà ta
đây là miếu sở, ngày ta ra đi làm ngày giỗ". Hơng lão tất cả nức nở, bùi ngùi
không nỡ chia tay, bỗng trời đất tối sầm, sấm chớp dữ dội, lát sau trời quang
mây tạnh, chỉ còn lại áo xiêm của thần. Hôm ấy là ngày 25/8/Mậu Thìn. Dân
lòng dâng biểu về kinh Vua Hùng Duệ Vơng thơng sót ban phong mỹ tự;
chấn Tam Kỳ giang linh ứng, Vĩnh Công đại vơng, Bát Hải Động Đình, lại
cấp cho dân Đào Động 400 quan tiền, lo việc tang lễ, tu sửa lều tranh của
thần Vĩnh Công thành miếu điện; hạ sắc miễn thuế cho dân, lấy lộc ấy thờ
thần. Điểm lệ ấy truyền qua các đời, vì thế mà điện thần ngàn năm hơng lửa
không bao giờ tắt.
3. Đền Đào Động thờ công đồng tứ phủ.
Trên bảng văn trớc đền Đào Động đề 4 chữ lớn: "Bát Hải Động Đình" -
đình làng thờ Bát Hải, cũng có thể hiểu là nơi ngự của vua cha Bát Hải. Theo
quan niệm của một số tín đồ ảnh hởng đạo giáo cho rằng: Cõi trời là nơi ngự
trị của vua cha Ngọc Hoàng. Cõi âm phủ do vua cha Diêm Vơng trị vì, cõi
sông biển do vua cha Bát Hải.
Mẫu Thoải là công chúa, con vua cha Bát Hải, các hơng lão làng Đào
Động còn nhớ một câu chuyện truyền kỳ : mẫu là ngời chuẩn mực của sự
hoàn mỹ : mặt hoa da phấn, mắt phợng mày ngài, đức đủ công dung ngôn

hạnh, có tài cầm kỳ thi hoạ đợc phụ vơng cho thị nữ Tiểu Mai theo hầu. Thấy
cảnh trần gian tơi đẹp, bà nhiều lần hoá thành nữ khách đi du lang các nơi
danh lam Đại Việt. Một lần gặp đợc trang nam tử khôi ngô tuấn tú, đó là tiến
sỹ Trơng Kính Xuyên. Hai ngời đọc thơ, ngâm vịnh, tâm đầu ý hợp liền kết
nghĩa tào khang; vợ chồng từng một thuở hạnh phúc. Thế rồi Tiểu Mai điêu
ngoa đơm đặt nói xấu long cung công chúa, kính xuyên tin lời đầy đoạ nàng
nơi sơn cùng thuỷ tận, sống với vờn trúc, rừng mai và chim muông cầm thú,
phải ăn quả rừng, uống nớc suối May gặp tú tài Liễu Nghị tận tình đa th về
thủ phủ. Vua cha sai Thái tử đem kiệu đón công chúa về, sai Xích Lân bắt
Kính Xuyên, Thảo Mai trị tội, lại gả công chúa cho Liễu Nghị và phong cho
công chúa chức Mẫu Nghi Thoải phủ, lu cạnh bên điện vua cha.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Sự tích ấy mấy ngàn năm không ai biết tới, mãi đến khi bà Lê Thị Liễu
Hạnh là cung nga hầu cận Ngọc Hoàng vì đánh vỡ chén quỳnh bị vua cha
Ngọc Hoàng giáng vào cửa họ Lê làng Vân Cát, huyện Vụ Bản, phủ Thiên
Trờng kể lại, dân Đào Động mới hay chuyện cũ, tích xa, liền tả bị thần vị, lập
cung thờ. Rớc thánh mẫu Thoải thờ bên cạnh đức vua cha.
Khi mà Mẫu Thoải đợc hội nhập vào đền Đào Động thì tam toà thánh
mẫu: Thiên Phủ, mẫu thợng ngàn cũng có mặt trong thần điện vua cha Bát
Hải.
Khoảng từ niên hiệu Vĩnh Tộ, Đức Long, Dơng Hoà Thịnh Đức, triều
Lê Thần tôn (1619 - 1662) chùa chiền mọc thiêm nh nấm.
Tại trang Đào Động ngoài chùa Đào, dân bản xã lập thêm chùa Đồng
Ông , chùa Đoài, có đủ tam bảo, chùa ông Hộ, ban phủ Mẫu Liễu. Đây cũng
là thời kỳ Đào Động hồi sức sau nội chiến Nam Bắc triều, có điều kiện tu bổ
mở rộng đền, lập thêm cung thờ từ vị Chầu Bà, Ngũ vị tôn ông, Tứ phủ quan
hoàng, lập ban cô, ban cậu. Thế là đền làng Đào Động chính thức đợc tôn
vinh là vua cha Bát Hải (phụ vơng Mẫu Thoải). Từ đây Đào Động có danh
nghĩa: Một trong những nôi sinh của đạo Mẫu. Đền Đào Động là chính từ

của Mẫu Thoải.
Website: Email : Tel : 0918.775.368

×