Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Quan hệ quốc tế Việt Nam thời kì đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.44 KB, 32 trang )

Quan hệ quôc tế Việt Nam thời kì đổi mới
Những năm cuối thế kỷ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng
hoảng toàn diện và nghiêm trọng dẫn đến sự sụp đổ của bộ phận lớn làm
hay đổi cơ bản cục diện chính trị của thế giới. Bên cạnh đó, chủ nghĩa tư
bản tận dụng được những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ hiện đại nên đã thích nghi và vẫn tiếp tục phát triển. Trật tự thế giới
hai cực tan dã, quan hệ quốc tế chuyển dần từ đối đầu sang đối thoại, từ
đó làm nảy sinh xu hướng đa dạng hoá, đa phương hoá trong tiến trình
hội nhập toàn cầu. Hoà bình, ổn định hợp tác để phát triển ngày càng
trở thành đòi hỏi bức xúc của các quốc gia. Toàn cầu hoá về kinh tế
chiếm vị trí quan trọng trong quan hệ giữa các quốc gia,kinh tê được ưu
tiên phát triển và trở thành chủ đề chính trong quan hệ quốc tế hiện nay.
Trước bối cảnh quốc tế và xu thế chung của thế giới đang diễn ra như
vậy, các quốc gia đều phải điều chỉnh lại chính sách đối ngoại của mình
đểthích ứng với tình hình mới. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế
đó. Chính sách đối ngoại là một bộ phận hợp thành đường lối đổi mới
của Việt Nam trên nền tảng của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ
Chí Minh. Được khởi xướng từ năm 1986 và sau hơn 10 năm thực hiện,
chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đã góp phần
không nhỏđến sự phát triển của đất nước, tạo điều kiện khai thác có hiệu
quả các nhân tốquốc tế, kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại đưa Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng và đi lên.
Chính sách đối ngoại đổi mới là một trong những mốc đánh dấu thành
tựu to lớn của Việt Nam trong thế kỷ XX, tạo tiền đề cho Việt Nam
vững bước đi vào thế kỷ XXI. Với lý do đó cùng với ham muốn được
tìm hiểu chính sách đối ngoại đổi mới và quan hệ quốc tế của Việt Nam
giai đoạn này


CHƯƠNG 1 NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI ĐƯỜNG LỐI ĐỔI
MỚI CỦA VIỆT NAM


1.1. TÌNH HÌNH THẾ GIỚI NHỮNG NĂM 80 VÀ ĐẦU THẬP KỶ 90
Từ nửa năm sau những năm 80, quan hệ Xô - Mỹ đã thực sự chuyển từ
đối đầu sang đối thoại. Để giải quyết các vấn đề tranh chấp, Xô - Mỹ đã
tiến hành nhiều cuộc gặp thượng đỉnh giữa Ri-Gan và Goóc-Ba-Chốp,
giữa Busơvà GoócBachốp. Qua đó có nhìêu văn kiện được ký kết trên các
lĩnh vực kinh tế thương mại, văn hoá, khoa học kỹ thuật, nhưng quan
trọng nhất là việc ký kết hiệp ước thủ tiêu tên lửa tầm trung ở Châu Âu
năm 1987 (gọi tắt là INF). Cũng từ năm 1987, hai nước Mỹ và Liên Xô
đã thoả thuận giảm một bước quan trọng cuộc chạy đua vũ trang, từng
bước chấm dứt cuộc diện “Chiến tranh lạnh”, cùng hợp tác với nhau giải
quyết các cụ tranh chấp và xung đột quốc tế.
Cuối năm 1989, tại cuộc gặp không chính thức giữa Busơ và GoocBaChốp tại đảo Manta, hai nước Xô - Mỹ đã chính thức tuyên bố chấm
dứt cuộc “chiến tranh lanh” kéo dài trên 40 năm giữa hai nước này.
Mối quan hệ giữa 5 nước lớn: Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc, là
5 thành viên thường trực Hội đồng bảo an LHQ có vai trò quan tọng
trong việc duy trì hoà bình, an ninh và trật tự thế giới đã được thiết lập
lên. Trong “chiến tranh lạnh” mặc dù là 5 nước lớn nhưng vẫn chỉ là thế
“hai cực” Xô - Mỹ đối đầu nhau. Mối quan hệ giữa 5 nước lớn sau năm
1989 đã chuyển từ“hai cực” đối đầu sang đối thoại, hợp tác với nhau
trong việc giải quyết những tranh chấp và xung đột quốc tế, tiêu biểu như
cuộc chiến trung vùng vịch Pecxic (1991), và việc giải quyết các cuộc
xung đột vũ trang ở nhiều khu vực trên thế giới.
Sau sự kiện xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, dẫn đến
khối quân sự Vac-Sa-Va tự giải thể (1/7/1991) và Hội đồng tương trợ
kinh tế(SEV) ngừng hàng hoạt động (28/6/1991). Xã hội chủ nghĩa tạm
lâm vào thoái trào, việc Liên Xô sụp đổ bắt đầu từ khủng hoảng về


đường lối chiến 4lược do nhận thức sai lầm về đường lối đối ngoại như
việc Liên Xô thoảthuận với Mỹ về việc giải quyết vấn đề Apganictan,

Campuchia, những thoảthuận nhượng bộ đó không có lợi cho các cách
mạng thế giới. Liên Xô còn thực hiện chính sách “không can thiệp” vào
vấn đề thống nhất nước Đức và các nước Đông Âu, chính sách không
thực hiện những cam kết với các đồng minh cũ của Liên Xô (ngừng viện
trợ cho Cuba, Việt Nam, Mông Cổ)
1 .Những ngượng bộ đó được các phương Tây, nhất là Mỹ ngày các khai
thác triệt để, để làm giảm thế cân bằng về sức mạnh vũ khí hạt nhân với
Mỹ và làm suy giảm sức mạnh và vị trí của Liên Xô có ở khắp các khu
vực trên thếgiới. Còn ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương kinh tế phát
triển rất năng động, đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều nhân tố có thể gây mất
ổn định như xung đột ở Triều Tiên, tranh chấp quần đảo Cu-Rin giữa
Nhật Bản và Liên Xô, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải ở biển
Đông và căng thẳng ở eo biển Đài Loan...
Trong khu vực Đông Nam Á cũng chứa đựng nhiều nguy cơ xung đột
bất ổn, trong đó vấn đề Campuchia. Những phản ứng từ của các
ASEAN, Trung Quốc và các nước phương Tây khác cho rằng Việt Nam
xâm lược Campuchia, họ tiến hành các hoạt động làm cho tình hình khu
vực thêm căng thẳng. Trung Quốc cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt
Nam và đưa quân vào Việt Nam gây nên cuộc chiến tranh ở biên giới
phía Bắc nước ta. Một số nước ASEAN cô lập nước ta ở các diễn đàn, tổ
chức quốc tế... Về phía Việt Nam, chúng ta trước sau vẫn khẳng định việc
đưa quân vào Campuchia là giúp đỡnhân dân Campuchia đánh đuổi bọn
diệt chủng PonPốt đem lại hoà bình cho nhân Campuchia.
Cùng với những biến đổi trong tình hình an ninh, chính trị, cộng đồng
thế giới cũng đang đứng trước nhiều vấn đề có tính toàn cầu cấp bách
mà không có một quốc gia riêng lẻ nào có thể giải quyết được cho nên
cần phải có sự hợp tác đa phương trong các công việc quốc tế như: bảo vệ


môi trường, bùng nổ dân số, phòng chống bệnh tật hiểm nghèo và nạn

khủng bố. Mặt khác, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, công nghệ phát
triển nhưvũ bão và được gọi là nền văn minh hậu công nghiệp hay nền
văn minh trí tuệ. ảnh hưởng của nó ngày càng tác động sâu hơn vào đời
sống kinh tế xã hội, nhất là trong sản xuất. Các phát minh khoa học mà
nội dung cơ bản là cách mạng về công nghệ thông tin, sinh học, năng
lượng, vật liệu mới... tiếp tục phát triển nhanh với trình độ cao, làm tăng
nhanh lực lượng sản xuất, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
thế giới, quốc tế hoá nền sản xuất và đời sống xã hội, làm cho tính chất
tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng gia tăng mạnh mẽ. Cuộc
cách mạng trên đã tác động sâu sắc đến quan hệquốc tế, thúc đẩy quá
trình liên kết kinh tế và toàn cầu hoá. Nó vừa là thời cơnhưng cũng là
thách thức rất lớn đối với các nước, là điểm mà bất cứ nước nào cũng
không thể bỏ qua khi xây dựng đường lối, xác định phương hướng và
mục tiêu phát triển. các nước đều đứng trước những cơ hội để phát triển,
nhưng do ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường... thuộc về các nước tư bản
chủnghĩa và các công ty xuyên quốc gia nên các nước chậm phát triển
đang đứng trước những thử thách to lớn. Trong tình hình đó nếu các nước
khôngnắm bắt được cơ hội, tranh thủ những khả năng mới để phát triển
thì sẽ bị tụt hậu.
Ngược lại nếu nước nào biết đón trước, khai thác được thời cơ, nỗ lực
phấn đấu thì sẽ có thể vượt lên một cách nhanh chóng. Cuộc cạnh tranh
kinh
tế thương mại, khoa học công nghệ diễn ra gay gắt trên phạm vi toàn thế
giới.
Tóm lại, hoà bình ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành
đòi hỏi búc xúc của các dân tốc và quốc gia trên thế giới. Các nước giành
ưu


tiên cho phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối

với
việc tăng cường sức mạnh tổng hợp mỗi nước.
Tình hình đó tác động mạnh mẽ đối với việc hoạch định chính sách đối
ngoại của các nước cũnh như ở Việt Nam. Kiến định mục tiêu độc lập
dân tộc
và chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện lịch sử mới, Đảng và Nhà nước ta
khởi 6
xưởng công cuộc đổi mới toàn diện, trong đó đổi mới chính sách đối
ngoại trở
thành một nội dung quan trọng đối với sự ngiệp phát triển của Việt Nam.
1.2. SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM SAU 1975
ĐẾN 1986.
Chiến thắng của Việt Nam sau 30/4/1975 là niềm vui thống nhất cả
giang sơn về một mối. Nhưng hậu quả của cuộc chiến tranh kéo dài để
lại
những khó khăn không nhỏ cho nhân dân Việt Nam: 1,1 triệu liệt sĩ, 60
vạn
thương binh, 30 vạn người mất tích, gần 2 triệu người dân bị thiệt mạng,
hơn
2 triệu người dân bị tàn tật và nhiễm chất độc hoá học...
Hai cuộc chiến tranh biến giới phía Bắc (1979) và biên giới phía Tây
Nam (1978) lấy đi thêm nhiều tài lực, vật lực của đất nước khiến cho nền
kinh
tế của Việt Nam đã khó khăn lại càng thêm khó khăn. Mà hậu quả của
nó là nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng toàn diện, lạm phát tăng
phi mã 774,7%) năm 1986, nền công nghiệp lạc hậu, nông nghiệp đình
đốn. Bên cạnh đó, do những khuyết điểm chủ quan trên các lĩnh vực nhất
là việc chỉ đạo và thực hiện xây dựng kinh tế xã hội. Mô hình kinh tế tập



trung quan liêu bao cấp bộc lộ nhiềukhuyết điểm yếu kém. Nền kinh tế
đất nước rơi vào tình trạng trì trệ, lạc hậu, khủng hoảng: Công nghiệp yếu
kém, manh mún thiếu rất nhiều ngành công nghiệp tiêu dùng... Nền nông
nghiệp không đủ chi dùng trong nước, phải nhập khẩu lương thực, thực
phẩm và hàng tiêu dùng thường xuyên khiến cho cán cân xuất nhập khẩu
luôn thâm hụt mất cân đối, thu không đủ chi, dẫn đến phải đi vay từ nước
ngoài. Tính chung trong năm 5 năm 1981 - 1985, nguồn vay từ nước
ngoài chiếm 22,4% thu ngân sách quốc gia. Số nợ nhiều như vậy nhưng
bội chi ngân sách vẫn lớn và tăng dần: Năm 1980 là 1,8%, năm 1985 là
36,6%. Do bội chi nhiều như vậy nên Chính phủbuộc phải phát hành
thêm tiền mặt để bù đắp. Cùng với việc không cân đối được từ thu và chi,
do nguồn thu không có vì không có sản phẩm công nghiệp xuất khẩu.
Cộng vào đó là sai lầm về chính sách cải cách giá, lương, tiền đã làm cho
nền kinh tế rơi tự do không kiểm soát được dẫn đến xuất hiệnsiêu 7lạm
phát ở mức 774,7% (1986), kéo theo giá cả leo thang vô phương kiểm
soát.
Đời sống nhân dân nhất là công nhân viên chức và lực lượng vũ trang gặp
nhiều khó khăn. Tiêu cực xã hội phát triển, công bằng bị vi phạm, pháp
luật kỳ cương xã hội không nghiêm minh, cán bộ tham nhũng lộng
quyền, bọn làm ăn phi pháp không bị trừng trị kịp thời và nghiêm khăc.
Quần chúng giảm lòng tin với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của
Nhà nước.Cuối những năm 80, tình hình kinh tế - xã hội ở Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu anh em cũng hết sức khó khăn và diễn
ra ngày càng phức tạp. Tình hình thế giới có nhiều thay đổi, cuộc chạy
đua phát triển kinh tế đã lôi kéo các nước vào cuộc. Trong bối cảnh đó,
Đảng và Nhà nước
ta nhận biết được xu thế của thế giới và nhìn thấy nguy cơ tụt hậu ngày
càng xa về kinh tế so với thế giới nếu không phát triển đất nước.



Thực tiễn tình hình trong nước và quốc tế đặt ra một yêu cầu khách quan,
bức xúc có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp các mạng nước ta, là
đểlàm xoay chuyển được tình thế, tạo ra một sự chuyển biến có ý nghĩa
quyết định trên bước đường đi lên. Đảng phải đổi mới sự lãnh đạo và chỉ
đạo một cách mạnh mẽ. Đại hội VI của Đảng (tháng 12 - 1986) được
chuẩn bị và đáp ứng những yêu cầu đó. Tư tưởng cốt lõi của Đại hội VI
là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi tiềm năng của
đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển lực
lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cốquan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa.
Với ý nghĩa đó, chính sách đối ngoại đổi mới phải phá thế bao vây cấm
vận, cô lập của các thế lực thù địch từ đó lấy lại vị thế của ta trên trường
quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho đất nước phát triển, góp sức mình
vào sựnghiệp chung của đất nước.
CHƯƠNG 2 QUAN HỆ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN
NAY
2.1. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI ĐỔI MỚI.
Mốc quan trọng nhất quyết định cho chính sách đối ngoại đổi mới là
“Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng” họp tại Hà Nội. Với
quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật. Đại hội VI đã
thẳng thắn và khách quan chỉ ra những sai lầm thiếu sót trong chính sách
kinh tế, sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật đang
hoạt động trong thời kỳ quá độ. Sau khi nghiêm khắc kiểm điểm Đại hội
cho rằng để khắc phục những sai lầm, khuyết điểm và những bất cập dẫn
đến khủng hoảng Kinh tế - Xã hội đòi hỏi phải đổi mới tư duy, trước hết
là tư duy kinh tế. Trên tinh thần đó Đại hội VI đã xác định nhiệm vụ trên
lĩnh vực đối ngoại trong thời gian tới là:


Trong những năm tới nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta trên lĩnh vực

đối ngoại là: “Ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của
thời đại, phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông Dương, góp phần tích cực
giữ vững hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới, tăng cường quan hệ hữu
nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng xã
hội chủ nghĩa”.
Hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta phải phục vụ cho cuộc đấu
tranh bảo vệ tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, làm thất bại cuộc chiến
tranh phá hoại nhiều mặt của địch, tiếp tục làm tròn nghĩa vụ quốc tế với
Campuchia và Lào. Chúng ta cần tranh thủ những điều kiện thuận lợi mới
vềhợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật, tham gia ngày càng rộng rãi việc
phân công và hợp tác trong Hội đồng tương trợ kinh tế, đồng thời tranh
thủ mởrộng quan hệ với các nước khác. Tăng cường hợp tác toàn diện
với Liên Xô luôn luôn là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời tăng sự phối hợp với Liên Xô và các xã
hội chủ nghĩa khác trong cuộc đấu tranh hoà bình và các mạng trên thế
giới, trước hết là ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Đảng ta nhận
thức sâu sắc rằng: “Phát triển và củng cố mối quan hệ đặc biệt giữa ba
nước Đông Dương, đoàn kết và tôn trọng độc lập chủ quyền của
mỗi nước, hợp tác toàn diện, giúp đỡ lẫn nhau xây dựng và bảo vệ tổ
quốc là quy luật sống còn và phát triển của ba dân tộc anh em”. Chúng ta
tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước thành viên
Hội đồng tương trợ kinh tế. Chúng ta cũng mở rộng quan hệ với các
nước xã hội chủ nghĩa anh em khác như Anbani, Triều Tiên... Là một
thành viên của phong trào không liên kết, chúng ta phấn khởi trước sự
trưởng thành và vai trò của ngày càng to lớn của phong trào trong đời
sống chính trị quốc tế. Đảng ta chủ trương tích cực góp phần vào việc
tăng cường đoàn kết của phong trào trên cơ sở chủ nghĩa Mac - Lênin và
chủ nghĩa quốc tế vô sản. Chúng ta ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh anh



dũng của giai cấp công nhân và nhân dân ở các nước tư bản chủ nghĩa
phát triển. Ủng hộ mạnh mẽ đối với nhân dân Châu Phi đang kiên cường
đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủnghĩa thực dân, chủ nghĩa phân
biệt chủng tộc, chủ nghĩa Apacthai. Đoàn kết chặt chẽ với nhân dân các
nước anh em như: An-giê-ri và Cộng hoà dân chủnhân dân Y-ê-men đang
xây dựng cuộc sống mới. Đảng và Nhà nước ta kiên trì thực hiện chính
sách đối ngoại hoà bình và hữu nghị. Chúng ta chủ trương và ủng hộ
chính sách cùng tồn tại hoà bình giữ các nước có chế độ chính trị xã hội
khác nhau, loại trừ chiến tranh xâm lược và mọi hình thức của chủ nghĩa
khủng bố.
Với Trung Quốc, Việt Nam sẵn sàng đàm phán với Trung quốc bất kỳ
lúc nào, bất cứ cấp nào và bất cứ ở đâu nhằm bình thường hoá quan hệ
giữa hai nước, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hoà bình ở Đông Nam
Á và trên thế giới.
Nhà nước ta chủ trương tăng cường và mở rộng quan hệ hữu nghị với
Thuỵ Điển, Phần Lan, Pháp, Oxtraylia, Nhật Bản và với các nước phương
Tây khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi. Chính phủ ta tiếp tục bàn bạc
với Mỹ giải quyết các vấn đề nhân đạo do chiến tranh để lại và sẵn sàng
cải thiện quan hệ với Mỹ vì lợi ích của hoà bình ổn định ở Đông Nam Á .
Đường lối đối ngoại đổi mới tiếp tục được khẳng định ở Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII. Nhiệm vụ đối ngoại bao trùm trong thời gian
tới là giữ vững hoà bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo
điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và
bảo vệ tổ quốc. Đồng thời góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tọc, dân chủ và tiến
bộ xã hội.
Cần nhạy bén nhận thức và dự báo được những diễn biến phức tạp và
thay đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của lực
lượng sản xuất và xu hướng quốc tế hoá của nền kinh tế thế giới để có



những chủtrương đối ngoại phù hợp. Trong điều kiện mới phải coi vận
dụng bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh
trong nước với sức mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại
để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các
nước, không phân biệt chế độ chính trị xã hội khác nhau trên cơ sở các
nguyên tắc cùng tồn tại hoàn bình. Trước sau như một tăng cường đoàn
kết và hợp tác với Liên Xô, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả
hợp tác Việt - Xô nhằm đáp ứng lợi ích của mỗi nước. Không ngừng
củng cố, phát triển quan hệ đoàn kết và hữu nghị đặc biệt giữa Đảng và
nhân dân ta với Đảng và nhân dân Lào, Đảng và nhân dân Campuchia
anh em. Đổi mới phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả theo nguyên
tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và lợi ích chính đáng của
nhau. Phấn đấu góp phần sớm đạt được một giải pháp chính trị toàn bộ về
vấn đề Campuchia trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của Campuchia và
Hiến chương LHQ. Thúc đẩy quá trình bình thường hoá quan hệ với
Trung Quốc, từng bước mở rộng sự hợp tác Việt - Trung, giải quyết
những vấn đề tồn tại giữa hai nước thông qua thương lượng. Củng cố
và phát triển quan hệ hữu nghị, đoàn kết, hợp tác với Cu - Ba và các nước
xã hội chủ nghĩa khác. Đảng cộng sản Việt Nam chủ trưng tăng cường
quan hệ với các Đảng cộng sản và công nhân, góp phần tích cực vào sự
đoàn kết và hợp tác giữa các Đảng anh em trên cơ sở chủ nghĩa Mac Lênin, đấu tranh vì những mục tiêu cao cả của thời đại. Đoàn kết với lực
lượng đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội,
sẵn sàng thiết lập và mở rộng quan hệ với các đảng xã triển quan hệ đoàn
kết, tin cậy và nâng cao hiệu quả hợp tác nhiều mặt với Ấn Độ. Tiếp tục
mở rộng hợp tác với các nước đang phát triển khác. Tiếp tục củng cố và
tăng cường phong trào không liên kết. Phát triển quan hệhữu nghị với



các nước ở Đông Nam Á và Châu Á - Thái Bình Dương, phấn đấu cho
một Đông Nam Á hoà bình, hữu nghị và hợp tác.
Mở rộng sự hợp tác bình đẳng cùng có lợi với các nước Bắc Âu, Tây
Âu, Nhật Bản và các nước phát triển khác. Thúc đẩy quá trình bình
thường quan hệ với Hoa Kỳ. Góp phần làm cho Liên Hợp Quốc phục vụ
đắc lực hơn những mục tiêu của nhân loại là hoà bình, hữu nghị, hợp tác
và phát triển. Hợp tác với các tổchức chuyên môn của LHQ và các tổ
chức phi chính phủ.
Với chính sách đối ngoại rộng mở, chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam
muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì
hoà bình, độc lập, phát triển.
Việc Liên Xô sụp đổ vào 22-12-1991 đã làm chấn động thế giới vì tốc độ
nhanh chóng của các sự kiện và ảnh hưởng mạnh mẽ tới các Đảng cộng
sản trên thế giới. Đứng trước tình hình đó, Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương lần thứ III khoá VII đã họp và đưa ra 4 phương châm xử lý
trong hoạt động đối ngoại của ta là:
“Một là: Biết kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa
quốc tế của giai cấp công nhân đảm bảo lợi ích chân chính của dân tộc.
Hai là: Giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng
hoá, đa phương hoá nhưng hai vế đó không hề mâu thuẫn nhau mà thực
ra là thống nhất, phục vụ hỗ trợ cho nhau. Ba là: Nắm vững hai mặt đối
lập của hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế. Bốn là: Nhìn rõ vai
trò của các tổ chức khu vực, hợp tác tốt với tất cảcác nước trên thế giới,
nhất là các nước lớn có vai trò kinh tế, chính trị cường quốc trên thế
giới”.
Bốn phương châm chỉ đạo trên đưa ra vào đúng thời điểm hợp lý, kịp
thời phát huy và đạt được những thành tựu tốt đẹp. Trước những thành
tựu của đường lối đối ngoại đổi mới Đại hội VI và VII, Đại hội VIII tiếp
tục đường lối đối ngoại đổi mới chỉ ra đường lối chính sách đối ngoại tới



mọi chủ thể trên thế giới. Đại hội VIII chỉ rõ: “ Nhiệm vụ đối ngoại trong
thời gian tới là củng cốmôi trường hoà bình và tạo điều kiện quốc tế
thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nước, phục vụsự nghiệp xây dựng và bảo vệc tổ
quốc, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới
vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộxã hội.
Tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa
phương hoá, đa dạng hoá với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả
các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát
triển. Mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phương và đa
phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn
trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, thông qua thương
lượng đểtìm những giải pháp phù hợp giải quyết những vấn đề tồn tại và
các tranh chấp, đảm bảo hoà bình, ổn định, an ninh, hợp tác và phát triển.
Tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức
ASEAN, không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền
thống, coi trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm kinh tế
- chính trị trên thế giới. Đồng thời luôn nêu cao tinh thần đoàn kết anh em
với các nước đang phát triển ở Châu á, Châu Phi, Mỹ Latinh và phong
trào không liên kết. Tăng cường quan hệ với các tổ chức của Liên Hợp
Quốc và các tổ chức quốc tế khác. Tích cực hoạt động ở các diễn đàn
quốc tế, tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu. Ủng hộ cuộc đấu
tranhloại trừ vũ khí hạt nhân và các phương tiện giết người hàng loạt
khác. Phát triển quan hệ với các Đảng sản và công nhân, các lực lượng
cách mạng, độc lập dân tộc và tiến bộ, thiết lập và mở rộng quan hệ với
các đảng cầm quyền và các đảng khác Mở rộng quan hệ đối ngoại nhân
dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ, tranh thủ sự đồng tình và
ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước, góp phần thúc đẩy xu thế hoà



bình, hợp tác, phát triển. Trên đây là những nội dung cơ bản của chính
sách đối ngoại qua từng thời kỳ tổ chức đại hội, chính sách đổi mới này
được áp dụng trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến động và tác động trực
tiếp đến Việt Nam. Nhưng tựu chung lại đây là đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá theo tinh thầm Việt Nam muốn
làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập
dân tộc và phát triển.
2.2. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI ĐỔI MỚI.
Chính sách đối ngoại đổi mới mà đại hội VI đề ra là kiên trì thực hiện
nhiệm vụ chiến lược giữ vững hoà bình, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận
lợi, tập trung cao nhất, nhằm từng bước ổn định và tạo cơ sở cho phát
triển kinh tếtrong vòng 25 năm đến 30 năm (tức đến năm 2020), xây
dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ độc lập của tổ quốc góp phần tích cực vào
cuộc đấu tranh chung cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội. Đây là mục tiêu chiến lược và ích lợi cao nhất của toàn
Đảng và toàn dân ta. Chính sách đối ngoại đổi mới phải góp sức mình
vào sự nghiệp chung đó. 15 Ngay sau khi đưa chính sách đối ngoại vào
thực hiện, Đảng và nhà nước đã “đưa vấn đề Campuchia ra để giải quyết
bằng con đường hoà bình”. Những giải pháp đưa ra trong chính sách để
giải quyết vấn đề Campuchia, đã có tác động thúc đẩy tác động đến
một giải pháp chung trong vấn đềCampuchia đi đến một giải pháp hoà
bình toàn diện, đến năm 1989 thì cơ bản hoàn thành bằng tuyên bố về
một giải pháp chính trị toàn diện cho xung đột ởCampuchia. Việt Nam và
ASEAN cùng tìm ra một giải pháp đồng bộ cho vấn đề này, từ đây 2
nhóm nước hiểu nhau hơn, tin tưởng nhau hơn. Điều đó có ý nghĩa rất to
lớn trong việc mang lại ổn định an ninh cho khu vực và làm giảm nguy cơ
xung đột tại khu vực Đông Nam Á vốn đang tiềm tàng nhiều mâu thuẫn
giữa các nước. Đây chính là thành công đầu tiên của chính sách đối

ngoại đổi mới. Bắt đầu từ thành công này tình hình ở Đông Nam Á được


cải thiện từ đối đầu sang đối thoại, tạo xu thế hoà bình, hữu nghị, hợp tác.
Với các nước Đông Nam Á, nước ta chủ trương mở rộng quan hệ về mọi
mặt trên
nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc
nội bộ của nhau, hai bên cùng có lợi. Những năm qua cũng đã ghi nhận
những cốgắng to lớn của nhà nước ta trong việc cải thiện quan hệ với các
nước khu vực Đông Nam Á - ASEAN. Tháng giêng năm 1989, Tổng bí
thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố “Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
sẵn sàng quan hệ hữu nghị với các nước ASEAN và các nước khác trong
khu vực.Từ đây các cuộc đi thăm lẫn nhau .của các nhà lãnh đạo cấp cao
Việt Nam và của các nước ASEAN đã đạt được những thoả thuận quan
trọng và đặt nền móng cho một thời kỳ mới trong quan hệ giữa nước ta
với các nước ASEAN. Ngày 22 tháng 7 năm 1992, Việt Nam tham ký
hiệp ước thân thiện Bali và trở thành quan sát viên của ASEAN. Có thể
nói đây là một tiền đề quan trọng cho sự hội nhập của Việt Nam sau này.
Ngày 28/7/1995 Việt Nam

đã trở thành thành viên chính thức của

ASEAN, đây là một thành công to lớn của ngoại giao Việt Nam, có ý
nghiã quyết định cho tiến trình hội nhập khu vực và thế giới của VN
Sau khi hội nhập ASEAN, Việt Nam đã trở thành nhân tố rất năng động
của tổ chức này, sau sự tổ chức thành công của hội nghị cấp cao
ASEAN tháng 12/1998 ở Hà Nội, Việt Nam càng chứng tỏ là một hạt
nhân tích cực của tổ chức này. Quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại giữa
Việt Nam và các nước ASEAN ngày càng được đẩy mạnh.
Năm 1994 thương mại 2 chiều đạt 2,4 tỷ USD, chiếm 28% tổng kim

ngạch ngoại thương của Việt Nam. Đến năm 1996 tăng lên 6 tỷ USD
chiếm 33% kim ngạch xuất khẩu và 27% kim ngạch nhập khẩu của Việt
Nam. Cho đến năm 1998 khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đang ở
đỉnh cao thì các nước ASEAN vẫn chiếm 25% kim ngạch xuất khẩu và
18% đầu tư nước ngoài vào Việt Nam Sau khi hội nhập ASEAN, chúng


ta tham gia vào khu vực mậu dịch tựdo ASEAN (AFTA). Tuy nhiên, do
sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa Việt Nam và một số nước trong
khuôn khổ AETA nên Việt Nam cần có thời gian để điều chỉnh. Các nước
ASEAN đã đồng ý kéo dài thời hạn giảm thuếquan của Việt Nam đến
năm 2006 thay vì 2003 như các thành viên khác. Mặc dù được đánh giá
là khu vực phát triển năng động của Châu Á - Thái Bình Dương và của
thế giới, nhưng cuộc khủng hoảng tiền tệ năm 1997 đã ảnh hưởng tiêu
cực đến sự phát triển chung của khu vực, đối phó với vấn đề này là rất
khó, đòi hỏi các nước ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng cần phải
nghiên cứu, rút kinh nghiệm và đề ra những giải pháp mang tính phòng
ngừa hữu hiệu, xây dựng mô hình phát triển bền vững hơn, ổn định
hơn cho từng thành viên của toàn khu vực.
Tóm lại, việc gia nhập ASEAN của Việt Nam là hướng đúng. Về kinh
tế, ta có thể tranh thủ được vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ các
nước ASEAN tiên tiến. Tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước phát
triển, mở rộng thị trường trong khu vực.
Về an ninh, chính trị, Việt Nam tham gia vào diễn đàn khu vực ASEAN
chuyên bàn về những vấn đề an ninh khu vực ASEAN (ARF), khi tham
gia vào ASEAN chúng ta có thể góp phần củng cố môi trường xung
quanh mình, tạo dựng một vành đai an toàn mang tính chiến lược, bên
cạnh đó khi tham gia vào ASEAN tiếng nói của Việt Nam sẽ có thế và
lực hơn trên thị trường quốc tế. Hơn nữa, nếu các nước ASEAN gạt bỏ
được những bất đồng tranh chấp không đáng kể để đi tới một đồng

thuận trong việc giải quyết vấn đềtranh chấp ở Biển Đông đối với
Trung Quốc thì tình hình sẽ bớt đi căng thẳng, nhanh
*Đối với Trung Quốc
Việt Nam - Trung Quốc là hai nước láng giềng gần, có quan hệ hữu nghị
văn hoá và lịch sử lâu dài. Chúng ta luôn quý trọng tình hữu nghị với


nhân dân Trung Quốc, với mong muốn khôi phục lại mối quan hệ hữu
nghịgiữa hai dân tộc. Trong yêu cầu để hai bên Việt - Trung có thể đi đến
bình thường hoá quan hệ đó là thế giới đang tích cực chuyển từ đối đầu
sang đối thoại, mọi vấn đề tranh chấp quốc tế, các quốc gia trên thế giới
ngày càng đi theo xu thế giải quyết bằng thương lượng hoà bình. Nhu cầu
hoà bình là vấn đề “tự thân” các nước phải phấn đấu, bởi chỉ có hoà bình
mới có thể “dồn” sức cho phát triển kinh tế và quan hệ Việt - Trung cũng
không nằm ngoài quy luật đó. Trong vấn đề đặt lại quan hệ ngoại giao
giữa hai nước, cả hai nước đềnhằm tới một mục tiêu là gạt bỏ đối đầu,
mọi tranh chấp về biên giới lãnh hải và các vấn đề xung đột giữa hai nước
đều giải quyết bằng thương lượng hoà bình. Ngoài ra hai nước còn muốn
khôi phục lại quan hệ ngoại giao truyền
thống có từ lâu do hai lãnh tụ Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh vun đắp
cho tình hữu nghị của hai dân tộc
Cùng với việc nối lại mối quan hệ ngoại giao hai nước còn tìm thấy ở
nhau những tiềm năng có thể hợp tác được trong vấn đề kinh tế, như nhu
cầu thị trường của hai bên đều lớn do hai nước cùng thi hành chính sách
phát triển kinh tế dựa vào xuất khẩu là chính. Việt Nam mong muốn
Trung quốc giúp tasửa chữa nâng cấp một số nhà máy, xí nghiệp mà
Trung Quốc giúp ta xây dựng trước kia như nhà máy gang thép Thái
Nguyên và các nhà máy xi măng lò đứng của Trung Quốc. Còn phía
Trung Quốc có nhu cầu về nguồn nguyên liệu lớn nhất là nguồn nguyên
liệu than đá, trong khi Việt Nam có thế mạnh ởđiểm này, ngoài ra Trung

Quốc cần một thị trường tiêu thụ hàng hoá tiêu dùng do các địa phương
giáp Việt Nam sản xuất... Tính đến khi hai bên cùng mở cửa biên giới cho
hai bên giao lưu buôn bán hàng hoá thì hàng hoáTrung Quốc tràn vào
Việt Nam rất nhiều, nhất là hàng tiêu dùng với giá cả mẫu mã phong phú.
Có thể đánh giá nhu cầu hai bên về việc bình thường hoá quan hệ là rất


cần thiết. Nhất là đối với Việt Nam, việc bình thường hoá quan hệ với
Trung
Quốc giúp nước ta có thêm bạn bè, tạo môi trường thuận lợi để phá vỡ
thế bao vây cô lập... Khôi phục và phát triển quan hệ với Trung Quốc là
nhiệm vụtrọng tâm của nước ta trong chính sách đối ngoại đối nội.
Các cuộc gặp cấp cao Việt Trung từ tháng 9/1990 diễn ra tại Thành Đô
(Trung Quốc)đã mở ra một trang sử mới trong việc khai thông quan hệ
giữa hai nước, đến trung tuần tháng 11 năm 1991 tại Bắc Kinh hai bên đã
ra thông cáo chung: việc bình thường hoá quan hệ Việt - Trung phù hợp
với lợi căn bản, lâu dài của nhân dân hai nước, có lợi cho hoà bình ổn
định ở khu vực, đây là sự kiện “khép lại quá khứ, mở ra tương lai” hai
nước là đồng chí, không phải là đồng minh. Tranh chấp giữa hai nước
cần được được giải quyết theo hiến chương LHQ và luật pháp quốc tế,
thông qua thương lượng hoà bình, không được sử dụng vũ lực hoặc đe
doạ sử dụng vũ lực. Tuy nhiên các vấn đề cần giải quyết giữa hai nước
là: vấn đề biên giới trên bộ, tranh chấp ở biển Đông, phân định vịnh Bắc
Bộ. Tháng 10 năm 1993 Tổng bí thư Đỗ Mười đã tuyên bố “Việt Nam
chủ trương giải quyết tranh chấp giữa các nước, kể cả tranh chấp về các
quần đảo ở Biển Đông, thông qua thương lượng hoà bình trên tinh thần
bình đẳng, hiểu biết và tôn trọnglẫn nhau, tôn trọng luật pháp quốc tế và
Công ước về luật biển năm 1982 vàchủquyền các nước ven biển đối với
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của họ”
Đến ngày 30-12-1999, hai nước đã hoàn thành phân định 164 điểm còn

tranh chấp biên giới trên bộ và ký kết Hiệp định biên giới trên bộ. Còn
những vấn đề còn lại như: phân định vịch Bắc Bộ và những vấn đề khác
do lịch sửđể lại. Qua các cuộc gặp gỡ hàng năm, hai bên đã thống nhất
về nguyên tắc: Khai thác những điểm chung, gác lại những bất đồng,
cùng nhau thương lượng, giải quyết từng bước trên cơ sở hiểu biết, tôn
trọng lẫn nhau và cùng có lợi. Bước sang giai đoạn mới, hai bên thống


nhất cần phải đẩy mạnh hơn nữa quan hệ hữu nghị, hợp tác lên một bước
mới về chất cho phù hợp với nhu cầu lợi ích của hai bên.
Trong chuyến thăm hữu nghị Trung Quốc của Tổng bí thư Đảng cộng
sản Lê Khả Phiêu đầu năm 1999, hai bên đã thảo luận thống nhất về
nguyên tắc quan hệ Việt - Trung từ nay sẽ phát triển theo tinh thần 16
chữ: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện Ổn định lâu dài, hướng
tới tương lai”
Ngày 26 - 12 - 2000 nhân chuyến thăm của Chủ tịch nước Trần Đức
Lương đã ra một thông cáo chung về Hợp tác toàn diện và ký Hiệp ước
phân định vị trí Bắc Bộ
* Đối với Mỹ.
Một thành công của công tác đối ngoại trong giai đoạn đổi mới là việc
Việt Nam bình thường hoá quan hệ với Mỹ vào ngày 11-7-1995, khép lại
một quá khứ đau thương và mở ra tương lai trong quan hệ hai nước.
Trước sự thay đổi của thế giới, trước chính sách đối ngoại đổi mới rộng
mở cùng tồn tại hoà bình của Việt Nam (1986) và những thiện chí của
Việt Nam trong vấn đề POW và MIA (người Mỹ mất tích trong cuộc
chiến tranh ởViệt Nam), chính quyền Mỹ đã phải thay đổi chính sách của
mình, đã tuyên bố xoá bỏ cấm vận đối với Việt Nam (3-2-1994). Thủ
tướng Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa VN cũng ra tuyên bố
hoan nghênh tuyên bốcủa Chính phủ Mỹ và bày tỏ sẵn sàng “khép lại quá
khứ, hướng tới tương lai”. Ngày 11-7-1995, Tổng thống Mỹ Clinton

tuyên bố về việc bình thường hoá quan hệ với Việt Nam “Hôm nay tôi
loan báo việc bình thường hoá các quan hệ ngoại giao với Việt Nam ”
Đầu tháng 8/1995, Hoa Kỳ và Việt Nam đã chính thức lập quan hệngoại
giao và mở đại sứ quán ở thủ đô hai nước. Có thể thấy rằng chiến lược
của Mỹ đối với Việt Nam hiện nay là một bộ phận nằm trong chiếm lược
toàn cầu của Mỹ. Mỹ rất chú trọng đến vị trí chiến lược của Việt Nam ở
khu vực Châu Á Thái Bình Dương trong đó bao gồm cả Đông Nam Á.


Nội dung chiến lược của Mỹ đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
bao gồm những trọng điểm sau:
- Bình thường hoá quan hệ với Việt Nam giúp cho Mỹ có cơ hội xoá bỏ
được những mâu thuẫn trong nội bộ nước Mỹ. Giải quyết hết những di
sản của chiến tranh trước đây, đồng thời mở đường cho các nhà kinh
doanh Mỹthâm nhập thị trường Việt Nam buôn bán và đầu tư, đem lại
thêm lợi nhuận, việc làm và lợi thế mới cho Mỹ trong cuộc cạnh tranh
kinh tế và thương mại toàn cầu hiện nay.
Tuyên bố của Tổng thống Mỹ Bill- Clinton về việc bình thường hoá
quan hệ với Việt Nam đã nêu rõ những vấn đề mà Mỹ rất quan tâm. Đó
là, việc tìm kiếm hết những người Mỹ mất tích trong chiến tranh, tạo
điều kiện cho Mỹ thoát khỏi “hội chứng Việt Nam” và làm cho xã hội Mỹ
khỏi bị chia rẽ. Mỹ cũng hy vọng Việt Nam sẽ phồn vinh hơn với sự hỗ
trợ của Mỹ trong tương lai để thực hiện nền kinh tế thị trường và mở
cửa. Chỉ sau ba năm bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, Mỹ đã trở
thành một trong những nước đầu tư lớn vào Việt Nam (trên 1 tỷ USD đứng hàng thứ 8), kim ngạch buôn bán giữa hai nước tăng lên nhanh
chóng hàng năm. Tương lai Mỹ có thể là nước dẫn trong việc đầu tư và
buôn bán với Việt Nam. Tất cả các công ty lớn của Mỹ đã mở văn phòng
ở Việt Nam.
- Bên cạnh đó Mỹ theo chiến lược lâu dài, thực hiện “diễn biến hoà
bình” để chuyển hoá Việt Nam đi vào quỹ đạo của Mỹ, triệt tiêu mục tiêu

và bản chất xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.

Dưới sự lãnh đạo của

Đảng cộng sản của Việt Nam, toàn quân, toàn dân ta đoàn kết với tinh
thần “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế
giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Thực
hiện đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ đối ngoại, tranh thủ sức
mạnh của thời đại kết hợp với việc phát huy nội lực đất nước và con
người Việt Nam, nhất định chúng ta sẽ thực hiện thành công sự nghiệp


dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Mọi âm mưu nham
hiểm của các thế lực thù địch nhất định sẽ bị thất bại.
Trong quan hệ với Mỹ, Chính phủ Việt Nam luôn luôn xuất phát từ lập
trường nguyên tắc là đảm bảo “ cho quan hệ giữa hai nước trên cơ sở
bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc
nội bộ của nhau, cùng có lợi và phù hợp với các nguyên tắc phổ biến của
luật pháp quốc tế.
Đến ngày 19-7-2000 hai nước Việt Nam - Mỹđã hoàn thành việc ký kết
Hiệp định thương mại giữa hai nước, đánh dấu sự phát triển hơn nữa quan
hệthương mại giữa hai nước. Và gần đây nhất, chuyến đi thăm lịch sử lần
đầu tiên của Tổng thống Mỹ W.J.Clinton từ ngày 16 đến ngày 19-112000 đã đánh dấu mong muốn hơn nữa phát triển trong quan hệ giữa hai
nước trên tinh thần “Khép lại quá khứ, hướng tới tương lai” phấn đấu vì
lợi ích của nhân dân hai nước. Tóm lại, bình thường hoá quan hệ với Mỹ
là một thành công quan trọng của ngoại giao Việt Nam. Việt Nam đã
đánh bại âm mưu cô lập, cấm vận vềkinh tế của các thế lực thù địch đối
với Việt Nam và các nước, các tổ chức quốc tế khác. Bình thường hoá
quan hệ Việt - Mỹ mở ra cho Việt Nam những cơ hội mới, đồng thời
cũng tạo ra những thách thức mới. Việt Nam cần khai thác những mặt

thuận lợi để thúc đẩy phát triển kinh tế đồng thời luôn phải cảnh giác với
âm mưu “Diễn biến hoà bình” của Mỹ.
* Đối với EU.
Trong chính sách đối ngoại đổi mới của Việt Nam, việc tăng cường hợp
tác và mở rộng quan hệ với các nước EU là rất quan trọng. Bởi đây là
một trong ba trung tâm kinh tế chính trị của thế giới có thế mạnh đặc biệt
về vốn và công nghệ. Tranh thủ được các nước Tây, Bắc Âu này sẽ tạo
điều kiện rất thuận lợi cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất
nước ta. Việc thi hành chính sách đổi mới của Việt Nam đã tạo cơ sở,
hành lang vững chắc cho quan hệ của Việt Nam với các quốc gia trên


khu vực này. Ngay từ khi Mỹchưa gỡ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt
Nam, các quốc gia EU đã khởi động quan hệ kinh tế thương mại với nước
ta, nối lại ODA (viện trợ không hoàn lại) cho Việt Nam.
Ngay từ 22 - 10 -1990 nước ta và EU ký hiệp định về lập quan hệ ngoại
giao và trao đổi Đại sứ. Đây là bước phát triển quan trọng thể hiện thiện
chí quan hệ hợp tác giữa hai bên. Từ đó quan hệ hợp tác ta và EU không
ngừng được tăng cường và mở rộng. Ta chủ trương thúc đẩy quan hệ hợp
tác với các nước EU và cả cộng đồng Châu Âu dưới cả hai hình thức:
song phương và đa phương. Do vậy “Pháp đã vận động các nước EC và
EU cho Việt Nam vay 1 tỷ 800 triệu USD năm 1994 và 2 tỷ USD năm
1995”và từ khi Mỹ bỏ cấm vận, các tổ chức IMF, WB đã cho Việt Nam
vay 1 tỷ 500 triệu USD”Ngày .17-7-1995, tại trụ sở EU ở Bruxcells (Bỉ)
Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm và Chủ tịch Hội
đồng bộ trưởng liên minh Châu Âu Javier Salana đã ký chính thức hiệp
định hợp tác giữa Cộng hoà xã hội chủnghĩa Việt Nam và Cộng đồng
Châu Âu trước sự chứng kiến của 15 bộtrưởng ngoại giao của 15 nước
thành viên EU. Hiệp định này quy định những điều khoản về đầu tư,
thương mại, buôn bán trao đỏi, cho vay... giữa EU và Việt Nam, tạo dựng

một môi trường thuận lợi để mở rộng quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh
vực giữa hai bên. Tháng 9-1996, Uỷ ban hỗn hợp Việt Nam - EU họp tại
Hà Nội đã ký hai văn kiện quan trọng, đó là: Chiến lược hợp tác Việt
Nam - EU 1996-2000 và chương trình hành động có định hướng 3 năm
1996-1998, lập ra 3 tổ công tác hỗ hợp phụ trách các lĩnh vực hợp tác
phát triển, kinh tế, đầu tư. Tháng 3-1997, Việt Nam chính thức tham gia
hiệp định hợp tác ASEAN - Eu. Hai bên đã thực hiện nhiều chuyến thăm
cấp cao, tăng cường hợp tác chính trị. Là một nước thành viên của
ASEAN, Việt Nam đã tham dự cuộc gặp cấp cao Á - Âu lần thứ nhất
(1996) và lần thứ hai (1998) gọi tắt là ASEM-1 và ASEM-2, lần thứ ba


tại Xơun (Hàn Quốc) - ASEM 3. Đây là một cơ chế hợp tác liên châu lục,
giữa một châu Âu hiện đại đang phát triển, giầu tiềm năng.
Tóm lại, việc mở rộng quan hệ, thúc đẩy hợp tác giữa Việt Nam và Eu
là chủ trương đúng đắn phù hợp với quan điểm đa dạng hoá, đa phương
hoá mà Đảng ta đã đề ra cho công tác đối ngoại trong thời kỳ đổi mới.
Tăng cường quan hệ với EU sẽ có lợi rất lớn đối với sự nghiệp phát triển
kinh tếcủa nước ta. Song chúng ta cũng không quên rằng đa số thành
viên EU là đồng minh chiến lược của Mỹ, cùng chung những giá trị về
dân chủ tự do kiểu phương Tây.
Vì vậy, việc thúc đẩy, mở rộng quan hệ dựa trên cơ sở thận trọng, cân
nhắc kỹ lưỡng, nắm vững nguyên tắc độc lập tự chủ vừa hợp tác vừa
đấu tranh trong cùng tồn tại hoà bình.
* Đối với Liên bang Nga.
Sau khi Liên Xô tan rã (1991), so với 14 nước cộng hoà còn lại, Liên
bang Nga là nước lớn nhất kế thừa Liên Xô về mọi mặt. Bước lên vũ đài
quốc tế với một thể chế chính trị mới, với những hành trang trong đó có
chính sách đối ngoại “ Định hướng Đại Tây Dương” được áp dụng
trong giai đoạn từ1991-1993. Nội dung cơ bản của chính sách đối ngoại

này là thân phương Tây, tìm kiếm sự công nhận về mặt ngoại giao và thu
hút vốn đầu tư từphương Tây để khôi phục nền kinh tế. Vì vậy, quan hệ
Việt - Nga thời kỳ này cơ bản là ngưng trệ, một phần do chính sách đối
ngoại của Liên bang Nga, phần khác Việt Nam cũng muốn có thời gian
để nhận diện lại đối tác của minh.
Từ 1994 đến nay, quan hệ Việt - Nga đã có những chuyển biển tích
cực, trước hết do sự điều chỉnh trong chính sách đối ngoại của Liên Bang
Ngan và các cuộc viếng thăm của lãnh đạo hai nước. Với việc phát triển
quan hệ với Liên Bang Nga, một bạn hàng truyền thống, Việt Nam có thể
đi trước các nước trong khu vực trong việc tranh thủthị trường gần 170
triệu dân, có thể tranh thủ các nước SNG khác. Ngược lại Nga cũng muốn


thông qua bạn hàng truyền thống là Việt Nam để vũ khí Nga thâm nhập
và thị trường ASEAN. Hiện nay lĩnh vực hợp tác mà hai nước Việt Nam
và Liên Bang Nga quan tâm nhất là dầu khí, tiêu biểu là VietSopetro, nhà
máy lọc dầu Dung Quất...
Nói chung, trong xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá nền kinh tế thế giới
hiện nay, việc thúc đẩy quan hệ hợp tác với các nước lớn như Liên Bang
Nga sẽ rất có lợi cho việc phát triển kinh tế của các nước đang phát triển
như Việt Nam. Mặc dù quan hệ hợp tá giữa hai nước hiện nay chưa
tương xứng với tiềm năng của hai nước. Song với những ưu thế của
mình, Liên Bang Nga - Việt Nam sẽ trở thành đối tác quan trọng của
nhau vì lợi ích của nhân dân hai nước.
* Bên cạnh việc thúc đẩy quan hệ với các nước, các nước láng giềng
và truyền thống, chính sách đối ngoại đổi mới của Việt Nam cũng rất chú
trọng đến khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Được đánh giá là khu vực
năng động nhất của thế giới, thế kỷ XXI là thế kỷ của Châu ÁTháiBình Dương. Khu vực này đã, đang và sẽ là một điểm nóng của nền
kinh tế thế giới. Việt Nam chủ trương mở rộng các nước của khu vực
này, từ Đông Bắc Á đến Nam Thái Bình Dương. Nhiều nước ở đây có

nền kinh tế phát triển cao và giàu tiềm năng như Mỹ, Nhật Bản, Trung
Quốc, Nga... Bằng sự nỗ lực hoạt động ngoại giao từ sau khi áp dụng
chính sách đối ngoại đổi mới, Việt Nam đã có những bước phát triển
mạnh mẽ trong quan hệ với các nước ở khu vực này. Đối với Nhật Bản,
quan hệ giữa hai nước được đánh dấu bằng hành động mở lại viện trợ
phát triển (ODA) cho Việt Nam của Nhật Bản. Sau năm gián đoạn, đây là
bước khởi đầu thuận lợi, tạo ấn tượng tốt đẹp thúc đẩy quan hệ hợp tác
giữa hai nước. Những cuộc đi thăm chính thức của các quan chức cấp cao
giữa hai nước đã taok tiền đề cho quan hệ buôn bán, đầu tư trên quy mô
lớn của Nhật Bản vào Việt Nam.
Về cơ bản, cho đến năm 1997 đã có 9 nước thuộc khu vực Châu Á -


Thái Bình Dương trong tổng số 11 nước đầu tư vào Việt Nam hơn 1 tỷ
USD.Đó là Singapore 4918,8 triệu USD; Đài Loan 4255,3 USD; Hồng
Kông 3433,8 triệu USD; Nhật Bản 3275,1 triệu USD; Hàn Quốc3053,3
triệu USD; Thái Lan 1035 triệu USD và Malayxia 1048 triệu US Có thể
nói sự thật .đây là những đối tác quan trọng của Việt Nam. Ta không chỉ
khai thác được ởhọ vốn, công nghệ hay các kỹ năng quản lý mà còn có
thể học hỏi, rút kinh nghiệm từ quá trình phát triển kinh tế của các nước
này. Để mở rộng quan hệ hợp tác và phù hợp với chủ trương đã đề ta,
chúng ta không dừng lại ở mức độ hợp tác song phương mà còn đẩy
mạnh quan hệđa phương của khu cực. Tháng 6-1996 ta đã chính thức nộp
đơn xin ra nhập tổ chức Hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương
(APEC). Với những nỗlực trong việc tham gia ASEAN, APEC chúng ta
đã thực hiện thành công chính sách đối ngoại khu vực và thế giới.
Cùng với việc tăng cường và mở rộng quan hệ hợp tác với các nước,
các khu vực trên thế giới trong thời gian qua, ngoại giao Việt Nam còn
tham gia tích cực vào việc giải quyết những vấn đề toàn cầu như môi
trường, dân số, y tế, giáo dục... Năm 1997, Việt Nam được bầu làm phó

chủ tịch Đại hội đồng Liên Hợp Quốc khoá 52 (1997 - 1998). Việt Nam
còn được bầu làm uỷviên Hội đồng kinh tế - xã hội của LHQ (ECOSOC),
một cơ quan quan trọng vào bậc nhất của LHQ. Là thành viên mới của
Hội nghị giải trừ quân bị, Việt Nam đã tham gia soạn thảo và ký kết hiệp
ước cấm thử vũ khí hạt nhân toàn diện (CTBT). Bên cạnh đó ta cũng góp
phần tích cực vào mục tiêu chung là đòi cải tổ LHQ theo hướng dân chủ
hoá, đảm bảo quyền bình đẳng giữa các quốc gia. Ngoài ra chúng ta tham
gia tích cực và chủ động vào tổ chức không
liên kết, thúc đẩy hợp tác giữa các nước G77 kêu gọi tăng cường hợp tác
Nam - Nam, đấu tranh vì công bằng trong quan hệ Bắc - Nam. Không
những thếchúng ta cũng là một nhân tố năng động trong cộng đồng các
nước có sử dụng tiếng Pháp. Điều này đã được chứng tỏ bằng việc tổ


chức thành công Hội nghị thượng đỉnh các nước có sử dụng tiếng Pháp
vào cuối tháng 5-1998 đã gây ấn tượng tốt đẹp đối với các thành việc của
tổ chức này.
* Đối với các Đảng cộng sản và công nhân quốc tế. Trong điều kiện
phong trào đảng cộng sản và công nhân quốc tế đang bị thoái trào, quan
hệgiữa các Đảng cộng sản và Nhà nước với các Đảng cộng sản và công
nhân quốc tế được chúng ta coi là ưu tiên trong chính sách đối ngoại. Đại
hội VIII đã khẳng định: “Đảng ta tiếp tục phát triển quan hệ đoàn kết, hữu
nghị với các Đảng cộng sản và công nhân, các phong trào độc lập dân tộc,
các tổ chứcvà phong trào tiến bộ trên thế giới.Đối với các Đảng cộng sản
và công nhân đang cầm quyền, Đảng cộng sản Việt Nam tăng cường
đoàn kết, hữu nghị trên cơ sở tôn trọng độc lập, tựchủ với tinh thần khai
thác những điểm tương đồng, hạn chế bất đồng, phấn
đấu vì mục tiêu xã hội chủ nghíac. Các Đảng cộng sản và công nhân cầm
quyền hiện nay chỉ còn 5 nước, đó là Việt Nam; Trung Quốc; Lào; CuBa;
Bắc Triều Tiên. Với Là và CuBa quan hệ đó vừa là quan hệ với các Đảng

cộng sản và công nhân, vừa là quan hệ với các nước láng giềng. Bên
cạnh việc xây dựng quan hệ tốt với Trung Quốc, Lào. Đối với CuBa,
Việt Nam luôn khẳng định đây là mối quan hệ tốt đẹp truyền thống.
Việt Nam cũng luôn ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân
CuBa vì mục tiêu hoà bình, đọc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Việt Nam tích cực giúp đỡ CuBa trong khả năng cho phép của mình.
Với Cộng hoà nhân dân Triều Tiên, Việt Nam vẫn giữ vững hợp tác, quan
hệ hữu nghị bình đẳng, ủng hộ sự nghiệp thống nhất đất nước của nhân
dân Triều Tiên. Gần
đâu quan hệ giữa hai Đảng và hai Nhà nước có những bước tiến mới sau
một thời gian dài chững lại. Đối với các Đảng cộng sản và công nhân
chưa cầm quyền, Việt Nam tiếp tục ủng hộ về chính trị, trao đổi kinh


×