Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

ứng dụng gis đánh giá tình hình nuôi tôm sú (penaeus monodon) mô hình quảng canh cải tiến ở huyện phú tân, tỉnh cà mau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 11 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

KHOA THỦY SẢN

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

ỨNG DỤNG GIS ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH NUÔI TÔM SÚ
(Penaeus monodon) MÔ HÌNH QUẢNG CANH CẢI TIẾN
Ở HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU
Chuyên ngành: Quản lí nguồn lợi thủy sản
Mã lớp: TS11W5A1

Giảng viên hướng dẫn

Sinh viên thực hiện

TS. TRẦN VĂN VIỆT

NGUYỄN VĂN QUY
MSSV:4115143

CẦN THƠ, NĂM 2014


ỨNG DỤNG GIS ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH NUÔI TÔM SÚ
(Penaeus monodon) MÔ HÌNH QUẢNG CANH CẢI TIẾN
Ở HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU
Nguyễn Văn Quy
Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ
Email:


ABSTRACT
GIS was applied to assess improved extensive shrimp farming system in Phu Tan,
Tan Hung Tay and Tan Hai communes of Phu Tan district, Ca Mau province. The
study was carried out from August to December 2014. The study surveyed on 100
shimp farmers, who were applying shrimp culture in this system throught
questionaries, GPS was also used to identify these farms. The secodary data was
used to combine with primary data in the study. Besides, available map of Phu Tan
district (scale 1: 35,000) in 2008 was used to digitize the themes in the study region
by Arcview GIS sofware. Results found that there was lage exchanges about shrimp
culture area of 3 communes during 2010-2013. However, area and yield of each
household in each commune were not much exchanges, the shrimp culture area of
households 0.5-6.0 ha, this is a low invest and risk system, but the profits was
estimated equal 5-6 times of the cost, it also found that 92% of househods used local
postlavarve, shrimp farmers is not also harvest stocking shrimp, but also wild
shrimp, mud crab and fish in this system.
Keywords: improved extensive shrimp farming system, GIS, Phu Tan, Ca Mau
Title: Application of GIS evaluated shrimp culture status of improved extensive
shrimp farming system in Phu Tan district, Ca Mau province

TÓM TẮT
GIS đã được ứng dụng đánh giá mô hình nuôi tôm quảng canh cải tiến (QCCT) ở 3
xã Phú Tân, Tân Hưng Tây, Tân Hải của huyện Phú Tân tỉnh Cà Mau từ tháng 8-12
năm 2014 thông qua khảo sát 100 hộ nuôi, kết hợp khảo sát thực tế và định vị GPS
các hộ nuôi, sử dụng bản đồ nền của huyện năm 2008 (tỷ lệ 1: 35.000) và số hóa
bằng chương trình Arcview GIS. Kết quả cho thấy mô hình QCCT có sự thay đổi lớn
về diện tích nuôi của 3 xã giai đoạn 2010-2013, tuy nhiên diện tích và năng suất của
từng hộ nuôi trong các xã thì không có sự thay đổi đáng kể, diện tích các hộ từ 0,5-6
ha. Là mô hình đầu tư thấp, ít rủi ro và lợi nhuận 5-6 lần chi phí đầu tư, 92% hộ
nuôi sử dụng nguồn giống ở Cà Mau, người nuôi còn thu hoạch cua biển và tôm cá
tự nhiên.

Từ khóa: GIS, tôm sú, mô hình quảng canh cải tiến, Phú Tân, Cà Mau

1


1 GIỚI THIỆU
GIS (Geographic Information System) là hệ thống thông tin địa lý, là công cụ được
xem là công cụ hữu ích trong quản lý và trong sử dụng đất, quản lý môi trường, quy
hoạch sử dụng đất nông nghiệp và thủy sản, là chương trình máy tính ứng dụng
nhằm giúp cập nhật thông tin, quản lý, xử lý và truy xuất dữ liệu nhanh nhằm giúp
người quản lý đưa ra nhận định chính xác, là một kỹ thuật quản lý thông tin nhằm
mục đích lưu trữ, quản lý, và xử lý các số liệu thuộc về địa lý hoặc không gian nhằm
phục vụ cho các mục đích khác nhau. GIS đã được ứng dụng trong quản lý rừng ở Cà
Mau (Pham Minh Thu, 2006), ứng dụng trong thiết lập mạng lưới quan trắc chất
lượng nước nuôi cá tra, basa ở An Giang (Trần Thị Hồng Hạnh và ctv, 2009), ứng
dụng trong điều tra phân tích hiện trạng nuôi trồng thủy sản ở đầm Sam Chuồn,
huyện Phú Vang, Tỉnh Thừa Thiên Huế (Lê Công Tuấn và Lê Thị Hạnh, 2009).
Ngoài ra, GIS đã được ứng dụng nhiều trong các lĩnh vực đời sống xã hội, trong đánh
giá tình hình nuôi trồng thủy sản vùng một cách có hiệu quả đặc biệt là vùng ven
biển nơi có sự biến động lớn về mô hình, đối tượng nuôi và diện tích hàng năm.
Cà Mau là tỉnh cực nam của Việt Nam với bờ biển dài 254 km chạy từ phía biển
đông sang Vịnh Thái Lan, diện tích tự nhiên là 5.211 km2 là tỉnh đóng góp lớn nhất
cho cả nước về sản lượng nuôi trồng thủy sản nước lợ. Diện tích nuôi trồng thủy sản
của tỉnh 296.000 ha năm 2013, trong đó diện tích nuôi tôm trên 266.000 ha và sản
lượng nuôi trồng thủy đạt trên 280.000 tấn, trong đó con tôm chiếm 130.000 tấn, kim
ngạch xuất khẩu năm 2013 đạt 1,5 tỷ USD (Bảo Anh, 2014). Do điều kiện sinh thái
của từng vùng, Cà Mau có nhiều mô hình nuôi tôm khác nhau như thâm canh, bán
thâm canh, quảng canh cải tiến (QCCT), trong đó mô hình QCCT chiếm diện tích lớn
nhất với hơn 60.000 ha năm 2014, ở các huyện Năm Căn, Ngoc Hiển, Thới Bình,
Cái Nước, Phú Tân. Mô hình QCCT là mô hình nuôi tôm dựa trên mô hình quảng

canh nhưng có bổ sung hoặc là giống ở mật độ thấp (0,5-2 con/m2) hoặc là thức ăn
theo tuần đôi khi bổ sung cả giống và thức ăn, tức là khi thu hoạch ngoài thu tôm thả
nuôi còn thu tôm cá tự nhiên có trong vuông nuôi, do con giống tự nhiên vào thông
qua quá trình trao đổi nước
Phú Tân là huyện ven biển với diện tích nuôi trồng thủy sản năm 2013 là 29.313,14
ha chiếm 63,13% diện tích tự nhiên, trong đó diện tích mô hình nuôi tôm QCCT
chiếm 10.500 ha tập trung ở 3 xã: Phú Tân, Tân Hải, Tân Hưng Tây. Vùng này trước
đây làm nông nghiệp và chuyển sang nuôi tôm nước lợ từ sau năm 2000 nên tình
hình nuôi tôm có nhiều biến động như diện tích, mô hình, năng suất, sản lượng, kinh
nghiệm và kỹ thuật nuôi cũng chưa được biết. Ngoài ra, năng suất và hiệu quả của
nuôi cũng có nhiều khác biệt ở mức độ nông hộ, vì vậy gặp nhiều khó khăn trong
quản lý vùng nuôi, cần có một công cụ quản lý cập nhật và truy xuất dữ liệu nhanh là
rất quan trọng trong quản lý hiện nay.
Chính vì vậy việc ứng dụng GIS để đánh giá tình hình nuôi tôm theo mô hình QCCT
ở huyện Phú Tân tỉnh Cà Mau là cần thiết. Nhằm đánh giá hiện trạng và tình hình sử
dụng đất trong nuôi tôm QCCT ở khu vực nhằm cung cấp cơ sở dữ liệu, cập nhật và
2


truy xuất nhanh và chính xác ở địa phương, giúp nhà quản lý định hướng và phát
triển nuôi trồng thủy sản theo hướng bền vững.
2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Thời gian và địa điểm
Thời gian: 8-12 năm 2014 tại 3 xã: Tân Hải, Phú Tân, Tân Hưng Tây của huyện Phú
Tân, tỉnh Cà Mau.

Hình 1: Bản đồ huyện Phú Tân tỉnh Cà Mau
2.2 Thu thập số liệu
Sử dụng bản đồ nền tỷ lệ 1: 35.000 về tình hình sử dụng đất của huyện năm 2008
Các số liệu thứ cấp: được thu thập từ các nghiên cứu, báo cáo của các cơ quan địa

phương, sách báo, tạp chí và các website có liên quan...
Số liệu sơ cấp: thông qua quan sát trực tiếp tại địa bàn nghiên cứu thông qua khảo
sát 100 hộ nuôi tôm theo mô hình này của 3 xã về diện tích, năng suất hộ nuôi và
năng suất/ha.
Định vị bằng GPS các hộ khảo sát để cập nhật lên bản đồ về tình hình nuôi
2.3 Xử lý số liệu
Arcview GIS 3.2 được sử dụng để số hóa, phân tích, cập nhật dữ liệu và thành lập
bản đồ, GIS đã được sử dụng để định vị các ao nuôi cho việc cập nhật lên bản đồ
vùng nuôi theo mô hình.

3


Dữ liệu đầu vào

Bản đồ nền

Khảo sát thực tế

Số hóa, tạo các lớp thuộc tính khác nhau

Kết hợp số liệu sẵn có, cập nhật số liệu từ thực tế

Xử lý, phân tích và truy xuất dữ liệu cho các kết quả khác
nhau cho từng thuộc tính

Kết quả

Truy xuất bản đồ cho từng thuộc tính: vùng nuôi, diện tích,
và năng suất

Sơ đồ tóm tắt quy trình thu thập và xử lý thông tin để truy xuất ảnh và bản đồ
3 KẾT QUẢ
3.1 Tình hình nuôi tôm quảng canh cải tiến của 3 xã Tân Hải, Phú Tân, Tân
Hưng Tây huyện Phú Tân Tỉnh Cà Mau
Nghề nuôi tôm ở đây đã có từ năm 2000, trước đây vùng này trồng lúa, tuy nhiên vào
thời điểm này việc nuôi tôm nước lợ và trồng lúa vẫn xuất hiện trong vùng, do canh
tác nông nghiệp ngày càng kém hiệu quả, do đất bị nhiễm mặn ngày càng nhiều, chi
phí sản xuất cao, giá bán thấp, người trồng lúa có xu hướng chuyển dần sang nuôi
tôm. Qua thực tế tình hình phát triển thủy sản trong những năm gần đây có xu hướng
phát triển mạnh cả về diện tích và sản lượng nuôi. Đầu tiên là mô hình QCCT, do dễ
canh tác chi phí và rủi ro thấp và mô hình này chiếm ưu thế về diện tích ở các xã ở
trong huyện ở giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi, mô hình này thì có diện tích
nuôi từ 0,5 đến 5 ha/hộ. Mô hình QCCT nuôi quanh năm và tôm giống được thả nuôi
4


nhiều đợt trong năm tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của từng hộ, và nguồn giống
cũng khác nhau, cách lựa chọn tùy thuộc vào kinh nghiệm cá nhân của từng hộ. Vì
hiệu quả kinh tế và dễ làm việc mở rộng diện tích nuôi đang được phát triển và
khuyến khích từ chính sách nhà nước hiện nay trong huyện có thành lập nhiều hợp
tác xã như: Hợp tác xã Gạch Gốc, hợp tác xã Đồng Đại Lợi…Đã tạo nhiều điều kiện
thuận lợi cung cấp giống và thúc đẩy phát triển mô hình quảng canh cải tiến cả về
diện tích và năng suất nuôi cho huyện Phú Tân cụ thể là từ năm 2010 tổng diện tích
nuôi của huyện là 1.100 ha đến năm 2013 tăng lên 10.500 ha trong đó thì xã Phú Tân
có diện tích nuôi cao.
Qua khảo sát nông hộ thì đối với mô hình này thì người dân nuôi bổ sung giống với
mật độ khác nhau tùy vào kích thước mô hình mà có số lượng giống phù hợp và nuôi
với mùa vụ liên tục quanh năm.

Hình 2: Diện tích nuôi tôm QCCT của các xã năm 2010 (a) và năm 2013 (b)

Kết quả cho thấy có sự tăng diện tích giữa năm 2010 và năm 2013 (Hình 2). Trong
đó xã Phú Tân có diện tích nuôi tôm mô hình QCCT lớn nhất
3.2 Năng suất nuôi và hiệu quả kinh tế giữa các xã trên huyện

Hình 3: Năng suất (kg/ha/năm) (a); và chi phí và lợi nhuận của các xã (b) năm
2013

5


Kết quả cho thấy năng suất nuôi tôm của 3 xã ổn định trong năm 2010 và 2013(Hình
3a), điều này khẳng định mô hình nuôi tôm QCCT chỉ tăng diện tích (Hình 2) chứ
không tăng năng suất (kg/ha) trong thời gian qua, Mặc dù năng suất nuôi so với các
mô hình khác như thâm canh, bán thâm canh hiệu quả kinh tế thấp hơn, nhưng người
nuôi còn thu được cua và tôm cá tự nhiên.
Mô hình QCCT là mô hình được người dân ưa chuộng ứng dụng nuôi nhiều bởi do
chi phí đầu tư thấp mà lợi nhuận thu hoạch mang lại nhiều hiệu quả cao thường
thường lời đến 5-6 lần chi phí bỏ ra (Hình 3b), doanh thu và lợi nhuận cao nhất từ
40-45 triệu/ha/năm, năng suất lợi nhuận thấp nhất là xã Tân Hưng Tây từ 30-35
triệu/ha/năm năm 2010 và 2013. Tuy nhiên, năng suất và lợi nhuận còn phụ thuộc
vào kích cỡ lúc khi thu hoạch và giá cả thị trường (Bảng 1).
Bảng 1: Trung bình kích cỡ - giá bán khi thu hoạch của hộ nuôi
STT
1
2

Nội dung
Kích cỡ thu hoạch (con/kg)
Giá bán (1,000 đồng/kg)


Tân Hưng Tây
30,0±3,9
186,1±28,5

Tân Hải
27,0±4,8
206±37,6

Phú Tân
26,0±6,5
214,6±38,2

3.3 Nguồn giống và tiêu thụ trên địa bàn khảo sát
Huyện Phú Tân là huyện có nhiều cơ sở sản xuất giống nhiều nhất trong tỉnh Cà
Mau, do vị trí gần biển nên có nhiều lợi thế hiện nay huyện Phú Tân đã thành lập 2
hợp tác xã (HTX) sản xuất giống chính là HTX Gạch Gốc và HTX Đồng Đại Lợi.
Bên cạnh đó còn có nhiều nguồn giống được nhập về từ các tỉnh khác như các tỉnh ở
ĐBSCL hay miền trung, nhu cầu con giống NTTS trong mô hình QCCT (2010 –
2015) từ 132-360 triệu con (Phòng NN&PTNT huyện Phú Tân, 2013).
Tỷ lệ các hộ nuôi tôm mô hình QCCT sử dụng tôm có nguồn gốc trong tỉnh cao nhất
ở (Hình 4a), các địa phương sản xuất tôm giống ở Cà Mau như: Năm Căn, Gạch Gốc,
tôm hầm đất, Đồng Đại Lợi. Theo người nuôi thì giống ở Cà Mau rẻ, có nguồn gốc
cùng nơi nuôi nên môi trường thích hợp hơn so với tôm ở các đia phương khác như
các tỉnh miền trung hay Bạc Liêu. Ngoài ra, giá tôm ở các địa phương khác cũng cao
hơn do chi phí vận chuyển.

Hình 4: Nguồn tôm giống (a) sử dụng và số lượng tiêu thụ của các xã (b) năm
2013
Số lượng tôm giống tiêu thụ ở xã Tân Hưng Tây là cao nhất (Hình 4b) mặc dù diện
tích nuôi tôm lớn nhất là xã Phú Tân, do vị trí xã Phú Tân gần biển nên lượng tôm

6


giống tự nhiên nhiều hơn mặc dù lượng tôm giống ít nhưng thu nhập cao hơn các xã
khác, điều này khẳng định là mật độ tôm trong mô hình QCCT không quyết định đến
năng suất (Hình 3a) và thu nhập (Hình 3b).
4.0
Diện tích (ha/hộ)...

3.5

Năm 2010

Năm 2013

3.0
2.5
2.0
1.5
1.0
0.5
Tân Hưng Tây

Tân Hải

Phú Tân

Hình 5: Diện tích trung bình hộ nuôi qua các năm
Tùy vào diện tích nuôi và diện tích kênh mương trong vuông nuôi, độ sâu và rộng
của kênh mà có sự đầu tư giống hợp lý, diện tích trung bình của các hộ nuôi từ 1,7 –

2.0 ha (Hình 5), độ sâu và rộng của các vuông nuôi ở (Bảng 3). Diện tích, độ sâu và
độ rộng của kênh mương trong vuông có vai trò quan trọng nó phản ánh không gian
sống của thủy vực, vì vậy trong cùng diện tích vuông nhưng diện tích kênh mương
trong vuông khác nhau thì diện tích thật cho nuôi tôm cũng khác nhau, ảnh hưởng
đến mật độ, năng suất và hiệu quả của nuôi tôm
Bảng 3: Độ Sâu và rộng của vuông nuôi mô hình quảng canh cải tiến
STT
1

Tên
Sâu (m)

Tân Hưng Tây
1.11 ± 0.15

Tân Hải
1.08 ± 0.1

Phú Tân
1.2 ± 0

2
3

Rộng (m)
Độ sâu của chảng
(m)

3.8 ± 0.29
0.4 ± 0


3.9 ± 0.19
0.4 ± 0

4±0
0.4 ± 0

3.4 Tình hình nuôi QCCT của các hộ khảo sát ở 3 xã
Diện tích hộ nuôi của nông dân ở 3 xã và diện tích nuôi của xã năm 2010 ở (Hình 6a)
và năm 2013 ở (Hình 6b), xã Phú Tân, Tân Hưng Tây có sự phân bố nuôi tập trung
với mật độ nuôi cao, còn xã Tân Hải thì nuôi có sự xen kẽ với các mô hình khác.
Diện tích của các hộ nuôi không có sự biến động nhiều trong giai đoạn 2010 – 2013
diện tích nuôi của hộ 0.3 ha - 5 ha, nhưng biến động về diện tích nuôi của toàn các xã
thì lại cao, do chuyển đổi dần từ lúa sang tôm của các xã (Hình 6).
Tuy vậy, các hộ có diện tích nuôi lớn 3,5-5,0 ha thì tập trung nhiều ở xã Tân Hải còn
ở xã Tân Hưng Tây và Phú Tân thì diện tích nuôi của xã lớn, nhưng diện tích hộ
nuôi 2.2 - 3.5 ha.

7


Hình 6: Diện tích hộ nuôi tôm của xã năm 2010 (a) và năm 2013(b)
Do xã Tân Hải, thì mô hình QCCT thu nhập từ tôm chiếm 100%, trong 3 xã nuôi thì
xã Phú Tân nuôi tôm gặp nhiều rủi ro nhất và người nuôi có xu hướng chuyển sang
kinh tế khác, do những ứng dụng kĩ thuật nuôi thì người dân tiếp thu còn hạn chế,
chủ yếu nuôi dựa trên kinh nghiệm có sẵn là chính.
3.5 Năng suất hộ nuôi và năng suất /ha
Năng suất hộ nuôi có sự khác biệt giữa các xã, xã có hộ nuôi năng suất cao tập trung
ở xã Tân Hải vì đa số xã này những hộ dân sở hữu diện tích nuôi cao, diện tích cao
dẫn đến năng suất và lợi nhuận cao (Hình 7). Ngược lại xã Phú Tân và Tân Hưng Tây

tuy người nuôi rất nhiều nhưng năng suất thấp hơn do diện tích của mỗi hộ thấp hơn
ở xã Tân Hải.

Hình 7: Năng suất hộ nuôi tôm của các xã năm 2010 (a) và năm 2013(b)
8


Giai đoạn 2010 – 2013 ở (Hình 7) năng suất trên hộ không có sự biến động là do rủi
ro nghề nuôi có chuyển biến mạnh tôm bệnh, tôm chết,…Bên cạnh đó qua điều tra
người dân do trong những năm nay có sự chuyển biến khí hậu với lại nguồn nước xu
hướng bị nhiễm do các chất thải từ nuôi tôm công nghiệp thải ra ngoài nguồn nước
cho nên nghề nuôi tôm QCCT gặp rất nhiều khó khăn, nguồn lợi thủy sản tự nhiên
suy giảm nghiêm trọng vì vậy ảnh hưởng rất lớn đến các hộ nuôi. Tuy nhiên, năng
suất cao tập trung nhiều nhất ở xã Tân Hải từ 901 - 1500 kg/hộ/năm trong khi 2 xã
còn lại các hộ nuôi có năng suất từ 121 - 900 kg/hộ/năm tập trung nhiều hơn

Hình 8: Năng suất hộ nuôi tôm của các xã năm 2010 (a) và năm 2013(b)
Không có sự biến động lớn năng suất/ha của 3 xã (Hình 8a và 8b), tuy nhiên mô hình
nuôi tôm QCCT mang lại hiệu quả cho người nuôi ở 3 xã là do dễ làm, đầu tư thấp
mặc dù có rủi ro nhưng vẫn thấp hơn các mô hình khác, mô hình này mang lại cho
người nuôi cuộc sống ổn định do giá thị trường con tôm cao từ 180 - 300 ngàn
đồng/kg. Tuy nhiên mô hình này cũng còn gặp rất nhiều trở ngại như năng suất thấp
và giá không ổn định, ngoài ra người nuôi ở đây có xu hướng nuôi theo phong trào
bắt đầu chuyển hướng sang nuôi tôm công nghiệp để đạt năng suất cao, tuy nhiên đa
số là thiếu kinh nghiệm và đầu tư nên hiệu quả thấp rủi ro cao, gây ô nhiễm môi
trường do thuốc hóa chất sử dụng nhiều làm cạn kiệt nguồn lợi thủy sản tự nhiên và
làm ảnh hưởng đến các mô hình khác trong đó có mô hình QCCT.
4 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Có sự biến động lớn về diện tích nuôi của các xã, nhưng không có sự biến động về
diện tích của từng nông hộ, năng suất và sản lượng ổn định từ năm 2010-2013.

Việc ứng dụng GIS giúp xác định tình hình nuôi tôm QCCT nhanh chóng, giúp nhà
quản lý có cơ sở để định hướng phát triển thủy sản trong vùng
Tuy nhiên, nghiên cứu cần được thực hiện trên các mô hình khác để đánh giá tình
hình sử dụng đất của huyện
9


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bảo Anh, 2014. Phát triển bền vững ngành thủy sản. ,
11/03/2014.
2. Báo cáo dự thảo – Quy hoạch phát triển nông nghiệp huyện Phú Tân – tỉnh Cà Mau
đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 của Ủy Ban Nhân Dân huyện Phú Tân
phòng Nông Nghiệp và phát triển nông thôn, 8/2011.
3. Báo cáo kiểm điểm tình hình thực hiện nghị quyết của Đảng Ủy về phương hướng
nhiệm vụ năm 2013 của Đảng Ủy Xã Tân Hải, số 117 – BC/ĐU, 5/1/2014.
4. Báo cáo kiểm điểm tình hình thực hiện nghị quyết của Đảng ủy về phương hướng
nhiệm vụ năm 2012 của Đảng Ủy xã Tân Hải, số 72 – BC/BV, 31/12/2012.
5. Báo cáo QHSD đất đến năm 2020 kế hoạch sử dụng đất 05 năm kỳ đầu (2011 –
2015) xã Phú Tân.
6. Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển Kinh tế - xã hội năm 2013 và
phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2014 của Ủy Ban Nhân Dân
xã Tân Hưng Tây, số 102/BC – UBND, 31/12/2013.
7. Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển Kinh tế - xã hội năm 2012 và
phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2013 của Ủy Ban Nhân Dân
xã Tân Hưng Tây, số 101/BC – UBND, 31/12/2012.
8. Báo cáo tổng kết năm 2011 của Đảng Ủy Xã Tân Hải, số 39 – BC/ĐU, 30/12/2011.
9. Báo cáo tổng kết thành tựu kinh tế - xã hội từ khi tái lập huyện đến nay (2004 –
2011) của Ủy Ban Nhân Dân huyện Phú Tân, số 151/BC – UBND, 10/10/2011.
10. Báo cáo thuyết minh tổng hợp kế hoạch sử dụng đất 05 năm kỳ đầu (2011 – 2015)

của Ủy Ban Nhân Dân Xã Tân Hưng Tây.
11. Lê Công Tuấn, Lê Thị Hạnh, 2009. Ứng dụng hệ thống thông tin địa lý và viễn thám
trong điều tra phân tích hiện trạng nuôi trồng thủy sản ở đầm Sam Chuồn, huyện
PhúVang, Tỉnh Thừa Thiên Huế. Tạp chí khoa học, Đại học Huế, (5) 143-149.
12. Pham Minh Thu, 2006, Application of remote sensing and GIS tools for recognizing
changes of mangrove forests in Ca Mau province. International Symposium on
Geoinformatics for Spatial Infrastructure Development in Earth and Allied Sciences,
Ho Chi Minh City, Vietnam,17page.
13. Trần Thị Hồng Hạnh, Lê Thị Hồng Trân, Đặng Vũ Bích Hạnh, Dương Thị Thành,
2009. Ứng dụng GIS thiết lập mạng lưới quan trắc chất lượng nước nuôi cá tra, basa
ở An Giang, Tạp chí phát triển khoa học công nghệ, 12(2) 97-110.

10



×