Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Tieu luan dac diem AN cua Schubert

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.28 KB, 12 trang )

I - MỞ ĐẦU:
1 – Lí do chọn đề tài:
Tên tuổi của FRANZ SCHUBERT đã đi vào tâm tưởng của
người Việt mến mộ âm nhạc chừng một thế kỷ nay. Những nhạc sĩ đầu tiên
của nền tân nhạc non trẻ Việt Nam đã biết F. SCHUBERT qua huyền thoại
về khúc “Nhạc chiều” (Serénade) và bản thánh ca “Ave Maria”. Và cứ thế F.
SCHUBERT cùng nhiều thiên tài âm nhạc khác là phần nhân loại siêu phàm
mà người Việt ngưỡng mộ và tiếp nhận. Bản giao hưởng số 8 cung si thứ bản “Giao hưởng bỏ dở” cũng đã từ lâu vang vọng trong tâm trí nhiều người.
Nền âm nhạc thế giới đã chuyển biến từ chủ nghĩa cổ điển sang chủ nghĩa
lãng mạn. Nên đã làm thay đổi nhiều về nội dung tư tưởng, quan điểm thẩm
mỹ và phương pháp sáng tác trong chủ nghĩa lãng mạn, mà F. SCHUBERT
được xem là người Đại diện đầu tiên của chủ nghĩa lãng mạn trong âm nhạc.
Để tìm hiểu thêm về điều đó, tôi đã chọn đề tài: “Tìm hiểu đặc điểm
trong các sáng tác ca khúc của FRANZ SCHUBERT”.
2. Phạm vi và thời gian thực hiện:
Trong quá trình học ở lớp và nghiên cứu qua sách “Lịch sử âm
nhạc phương tây”.
II - NỘI DUNG:
Chương I: Khái quát hoàn cảnh ra đời và đặc điểm âm nhạc thời kỳ
lãng mạn:
1. Hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa lãng mạn:
Sau cách mạng tư sản Pháp (CMTS) 1789 Napoleon nắm
quyền, màu sắc dân chủ, bình quyền, tự do, bác ái do giai cấp tư sản lãnh
đạo. Napoleon xưng vương chống lại nền dân chủ sau cách mạng, bảo vệ
quyền lợi cho giai cấp tư sản. Niềm tin sau cách mạng bị sụp đổ, bước và
thời kỳ đen tối giữa chính quyền với nhân dân. Tuy nhiên, những tư tưởng
cao cả của CMTS không bị dập tắt. Trái lại nó có tiếng vang mạnh mẽ, thức
tỉnh các dân tộc châu Âu đứng lên chống chế độ phong kiến giải phóng dân
tộc, tìm đến con đường chủ nghĩa tư bản. Trong hoàn cảnh đó, chủ nghĩa
lãng mạn ra đời và đồng thời cũng thay đổi về nội dung tư tưởng cũng như
quan điểm thẩm mỹ.


2. Đặc điểm âm nhạc thời kỳ lãng mạn:
Ở thời kỳ phục hưng, con người đề cao uy lực của thần
thánh. Ở thời kỳ cổ điển, con người đề cao sức mạnh của trí tuệ và âm nhạc
có tính chất hướng ngoại, là tiếng nói rộng lớn hướng ra quảng đại quần
chúng. Còn ở thời kỳ lãng mạn, trước thực trạng đen tối của cuộc sống,
người nghệ sĩ lãng mạn cảm thấy chán nản, hoài nghi, nhiều khi bế tắc và
đơn độc. Họ chỉ còn tin vào những tình cảm cao đẹp của cuộc sống, vào


những ước mơ về tự do, lòng nhân đạo. Tuy nhiên, các nghệ sĩ lãng mạn
không chỉ có ước mơ, thực tế xã hội đã thức tỉnh trong họ tình cảm yêu
nước, sự phản kháng với những bất công. Cho nên, có những chủ đề về các
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, về quá khứ anh hùng như trong sáng tác
của nhạc sĩ Sopanh, Litx, Berlioz, Suman ...
Ở thế kỷ XIX với sự ra đời của chủ nghĩa lãng mạn đã nảy sinh nhiều
thể loại âm nhạc như preluyt, nocturne, êtuyt, uvectuya, balat, thơ giao
hưởng ... để có thể diển tả được tất cả những sự đổi thay trong cuộc sống
cũng như sự khác biệt vô tận của thiên nhiên. Đặc biệt các nhạc sĩ ở thế kỷ
này đã gắn liền âm nhạc với văn học, hội hoạ và sân khấu. Chính vì vậy mà
các chủ đề âm nhạc được nảy sinh từ những hình tượng, hình ảnh trong văn
học, hội hoạ và từ đó hình thành thể loại tổng hợp mới đó là âm nhạc có
“tiêu đề”, mà người đặt nền móng là nhạc sĩ Beethoven với bản giao hưởng
số 3 “Anh hùng ca” là tác phẩm đề tặng cho Napoleon, hay bản giao hưởng
số 5 “Định mệnh”, đặt biệt có giao hưởng sô6 “Đồng quê” mỗi chương đều
có tiêu đề, hay xonat số 8”Bi hùng”, Xonat số 14 “Ánh trăng” là những tác
phẩm được người đời đặt tên.
Các nhạc sĩ ở thời kỳ lãng mạn đã tạo ra nhiều hình thức, thể loại âm
nhạc mới và phát triển chúng nhằm thể hiện phong cách cá nhân. Kết cấu tác
phẩm âm nhạc trở nên linh động, không còn ràng buộc về độ dài tác phẩm,
số chương, số nhạc cụ hoặc số người hát. Những vở Opera của Richard

Wagner thường kéo dai đến 6 giờ đồng hồ. Bản giao hưởng số 9 của Ludwig
van Beethoven cần đến một dàn nhạc đông đảo, dàn hợp xướng và các ca sĩ
đơn ca.
Cơ cấu dàn nhạc trong thời kỳ lãng mạn được hoàn thiện và được áp
dụng đến tận ngày nay. Các loại kèn đồng được bổ sung van điều chỉnh cao
độ, các loại kèn gỗ được bổ sung các khoá nhạc, tiện lợi cho việc kí âm.
Điều đó khuyến khích các nhạc sĩ viết nhiều tác phẩm cho bộ đồng và bộ gỗ.
Nhiều nhạc sĩ thời kỳ lãng mạn gây được ảnh hưởng rộng rãi, baogomf
Hector Berlioz, Johannes Brams, Richard Wagner và Piotr llyich
Tchaikovsky.
Hình thức và thể loại trong thời kỳ lãng mạn phổ biến nhất là các tiểu
phẩm, concerto, vũ khúc, etude (khúc luyện tập) và variation (biến tâu).
Hoà âm: Sử dụng rộng rãi hoà âm bán cung, dấu hoá bất thường, hợp
âm giảm, hợp âm bảy át và chuyển điệu.
Đàn phím: Đàn piano chiếm ưu thế trong thời kỳ này.
Tiết tấu: Loại tiết tấu phức tạp, nhịp 2 tương phản với nhịp 3 được sử
dụng rộng rãi. Đảo phách cũng rất phổ biến.


Phong cách: Thể hiện rõ phong cách cá nhân, âm nhạc mang sắc thái
của ca khúc, phần đệm có nhiều sáng tạo, các loại dấu lặng, các trường độ và
tốc độ rất đa dạng.
Giao hưởng thời kỳ lãng mạn: Giao hưởng thời kỳ lãng mạn là bước
phát triển mới của giao hưởng cổ điển. Các bản giao hưởng có quy mô lớn
hơn và kéo dài hơn, có bổ sung nhiều loại nhạc cụ. Đôi khi, một bản giao
hưởng có nhiều hơn 4 chương. Thể loại giao hưởng có nội dung bắt đầu xuất
hiện và phát triển mạnh. Bản “Giao hưởng hoang tưởng” (Symphonie
Fantastique) của Berlioz là một điển hình của giao hưởng thời kỳ lãng mạn.
Xuyên suốt bản giao hưởng là một câu chuyện tình. Berlioz sử dụng một
giai điệu chủ đề tượng trưng cho nhân vật nữ chính. Qua từng chương giai

điệu chủ đề này thay đổi nhiều sắc thái khác nhau.
Thơ giao hưởng: Thơ giao hưởng (Symphonie poem) rất gần gũi với
giao hưởng có nội dung, bởi nó cũng kể lại một câu chuyện. Tuy nhiên, thơ
giao hưởng chỉ gồm một chương dài, trong khi giao hưởng gồm nhiều
chương. Mặt dù người sáng tạo ra thơ giao hưởng là nhạc sĩ Litx, nhưng
nhạc sĩ sáng tác thơ giao hưởng nổi tiếng nhất là Richard Strauss. Thơ giao
hưởng Don Juan và Der Rosenkavalier là 2 tác phẩm tiêu biểu nhất của ông.
Overture (khúc mở màn): Overture đã xuất hiện từ thời kỳ Baroque và
cổ điển. Đây là đoạn nhạc mở đầu, giới thiệu và tạo không khí trước khi
trình diễn một vở opera. Trong thời kỳ lãng mạn, các khúc mở màn tồn tại
độc lập, klhông đi kèm với vở opera nào cả và được gọi là concert overture.
Các bản concert overture cũng thuộc loại âm nhạc có nội dung. Chúng cũng
trình bày một nội dung hoàn chỉnh. Figanls cave overture của nhạc sĩ
Mendelssohn là một ví dụ tiêu biểu.
Opera thời kỳ lãng mạn: Khác với tác phẩm của nhiều nhạc sĩ tiền bối,
các vở opera của Verdi đi sâu vào khai thác thân phận con người, không còn
ca ngợi thiên nhiên tươi đẹp và các nhân vật thần thoại. Nhạc sĩ viết opera
nổi tiếng nhất trong thời kỳ này là Richard Wagner.
Ca khúc (lieder): Thuật ngữ lieder là số nhiều của từ gốc Đức, lied có
nghĩa là “bài hát”. Mục tiêu của bản lieder là tạo ra một hình tượng âm nhạc
mang đầy chất thơ. Những bài lieder thường có đàn piano đệm theo, nhung
piano đã trở thành một phần của lời hát, vì thế tạo nên hiệu quả nghệ thwtj
đặc biệt theo ý muốn của nhạc sĩ.
Có 2 loại lieder trong thời kỳ này. Loại thứ nhất là thơ hát (through –
composed song) với mỗi khổ thơ có giai điệu khác nhau. Tiêu biểu cho loại
nhạc hát này là bài Erlkonig của nhạc sĩ Frank Schubert.
Trường phái dân tộc (Nationalism): Trước thời kỳ lãng mạn, hầu hết
các nhạc sĩ đều chưa quan tâmđến tính dân tộc trong âm nhạc. Dâ số các tác
phẩm đều viết theo phong cách Đức, Pháp và Ý. Trong thời kỳ lãng mạn, xu



hướng dân tộc xuất hiện, các nhạc sĩ tìm cách vận dụng dân ca của dân tộc
mình vào âm nhạc. Nước Nga đi tiên phong trong phong trào dân tộc chủ
nghĩa, với những nhà soạn nhạc xuất sắc như piotr llyich Tchaikovsky,
Aleaxander Borodin Modeste Mussorgsky và Nicolai Rimsky – korsakov.
Một nhạc sĩ tiệp khắc là Antonin Dvorak cũng khai thác thành công
các làn điệu dân ca, dân vũ Tiệp như furiant, dumka và vận dụng vào các
bản giao hưởng, các tác phẩm thính phòng.
Các tác phẩm viết cho đàn piano: Âm nhạc cho đàn piano phát triển
mạnh mẽ trong suốt thời kỳ lãng mạn. Nhiều thể loại âm nhạc cho piano ra
đời, trong đó có các tiểu phẩm. Các tiểu phẩm thời kỳ lãng mạn gồm có
Nocturne (dạ khúc), impromptu, etude (khúc luyện tập), ballade. Hầu hết các
bản nhạc này đều ngắn, dễ nghe và chỉ tập trung vào một ý tưởng đơn giản.
Frederic Chipin là nhac sĩ viết piano tiêu biểu nhất trong thời kỳ này.
Chương II - Tiểu sử và đặc điểm trong các sáng tác ca khúc của
FRANZ SCHUBERT:
1. Tiểu sử:

Trong lịch sử âm nhạc thế giới, nhà soạn nhạc người Áo (Austrian)
Frank Peter Schubert được coi là người đại diện đầu tiên, người mở đầu của
trường phái âm nhạc lãng mạn. Các sáng tác của ông rất phong phú về
phương diện loại hình âm nhạc, từ các tiểu phẩm cho piano, các ca khúc trử
tình đến các tác phẩm âm nhạc thính phòng, giao hưởng.
Frank Peter Schubert là người nhạc sĩ thời trẻ tuổi sống cùng thời với
L.V. Beethoven. Hai người đã có một quãng thời gian dài 15 năm sống cùng
nhau tại thủ đô Vienna xinh đẹpcủa nước Áo. F. Schubert sinh ngày 31


tháng 1 năm 1797 tại Lichtenthal, ngoại ô Vienna trong một gia đình nhà
giáo. Môi trường cộng hoà trong những năm tháng tuổi thơ nơi ông sống có

ảnh hưởng sâu sắc đến sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật của nhà soạn nhạc
thiên tài tương lai. Năng khiếu âm nhạc của F. Schubert đã bộc lộ rất sớm
qua những bài học âm nhạc. Sinh trưởng trong một gia đình rất yêu nghệ
thwtj âm nhạc, cậu bé Schubert đã rất thích và đi sâu vào tìm hiểu nền âm
nhạc dân gian đa sắc tộc ở Vienna. Thủ đô Vienna xinh đẹp của nước Áo khi
đó được coi là nơi gặp nhau của phương đông và phương tây, của phương
nam và phương bắc. Chính vì vậy, ở đây có một nền văn hoá trong đó có âm
nhạc của nhiều dân tộc rất phong phú và đa dạng. Nơi đây thường vang lên
những âm điệu dân gian của nhiều dân tộc: Áo, Đức, Italia, Xlavia, Ucraina,
Sec, Nga ... Đó cũng là lý do trong tác phẩm âm nhạc của F. Schubert
thường vang lên những âm điệu có cội nguồn từ âm nhạc dân gian sinh hoạt
của thành vienna, mà nhiều nhất là âm nhạc dân gian Áo - Đức.
Các thể loại âm nhạc dân gian thường xuất hiện trong gia đình ông đã
mang đến cho ông những tình cảm đặc biệt với âm nhạc dân gian. Đặc biệt
trong đó là thể loại ca khúc nghệ thuật, các tiểu phẩm piano cho bốn tay, cải
biên các điệu dân vũ.
Năm năm học tập tại Convinkt (từ 1808 - 1813) có ý nghĩa quan trọng
trong việc mở rộng trình độ học vấn của người nhạc sĩ trẻ tuổi và góp phần
tạo dựng quan điểm, tư tưởng nghệ thuật của Schubert sau này. Khi tham gia
dàn nhạc học sinh và trực tiếp chỉ huy dàn nhạc này trong trường phổ thông,
Schubert đã có cơ hội tiếp xúc, làm quen với nhiều tác phẩm âm nhạc xuất
sắc của Haydn, Mozart, Beethoven. Và có thể nói, chính nghệ thuật âm nhạc
của các bậc thầy nổi tiếng thế giới này đã có ảnh hưởng sâu sắc đến việc
hình thành khuynh hướng, thẩm mỹ nghệ thuật của cậu.
Năm 1813, Schubert tốt nghiệp trường học ở Convinkt và dưới áp lực
mạnh mẽ của truyền thống gia đình cũng như mong muốn của người cha,
cậu trở thành thầy giáo dạy các môn cơ sở trong trường học của người cha.
Song dạy học không phải là niềm hứng thú với cuộc đời cậu. Lòng đam mê
âm nhạc vẫn luôn cháy bỏng trong tâm trí người nhạc sĩ tương lai. Và
Shubert đã quyết định thôi dạy học để dồn toàn bộ sức lực cho lao động sáng

tạo nghệ thuật. Đây là một quyết định đầy khó khăn đối với ông, bởi nó trái
với truyền thống và niềm hy vọng của các thành viển trong gia đình. Nhưng,
có lẽ một trong những phẩm chất vốn có của các thiên tài là sự linh cảm, sự
cảm nhận được vị trí của mình trong thế giới xã hội – đó là nơi họ có thể
cống hiến hết mình cùng với những thành công rực rỡ cho sự nghiệp lao
động sáng tạo nghệ thuật. Người nghệ sĩ thiên tài bao giờ cũng sinh ra trong
một thời đại nhất định, nhưng không phải bao giờ thời đại đó cũng hiểu họ,
không ít khi họ đơn độc như một nhà tiên tri đi trước thời gian, đi trước


không gian cùng số phận nghiệt ngã của mình. Và khi đó với người đời và
với cả một góc nào đó ở chính họ là sự thiệt thòi, là những khó khăn, vất vả.
Và có lẽ không chỉ đối với người nghệ sĩ mà đối với tất cả mọi người thì
được dâng hiến sức lực, trí tuệ, tình yêu của cả cuộc đời cho đam mê sáng
tạo luôn là cả một niềm hạnh phúc lớn lao.
2. Đặc điểm trong các sáng tác ca khúc của FRANZ SCHUBERT:

Sau khi từ bỏ nghề dạy học, một giai đoạn sáng tác đầy thành
công đã tạo dựng một phong cách sáng tạo mang dấu ấn F. Schubert. Tuy
sáng tác nhiều thể loại khác nhau nhưng mãnh đất riêng của ông chính là
sáng tác ca khúc. Ở đó nhạc sĩ sáng tạo một cách đày hứng khởi và đạt được
nhiều thành công rực rỡ, tạo được một dấu ấn riêng độc đáo trong lịch sử âm
nhạc thế giới. Nói một cách khác, khi nói đến Schubert là phải nói đến lĩnh
vực sáng tác ca khúc. Ông đã sáng tác hơn 600 ca khúc trong cuộc đời ngắn
ngủi 31 năm của mình (1797 - 1828). Trong đó cần phải kể đến là:
- Tập liên ca khúc “Cô thợ xay xinh đẹp” gồm 20 ca khúc op.25
(1823).
- “Con đường mùa đông” gồm 24 ca khúc op.89, trên lời của Wilhelm
Muler (1827)
- “Bài ca chim thiên nga” gồm 14 bài phổ thơ Hainơ (Heinrich Heine),

Renxtap,Giâyđơli.
- Khoảng 70 ca khúc phổ thơ Goethe.
- Khoảng 50 ca khúc phổ thơ Schiller.
Một trong những đặc điểm nổi bật ở lĩnh vực sáng tác thanh
nhạc của F. Schubert là sự không ngừng mở rộng giới hạn biểu hiện của ca
khúc. Các ca khúc trong sự kiến giải của ông bao giờ cũng là sự kết hợp hài
hoà giữa nghệ thuật thanh nhạc và nghệ thuật khí nhạc. Ở Schubert phần đệp
piano có một vai trò đặc biệt quan trọng, là yếu tố không thể thiếu được khi
thể hiện ca khúc, là nền âm thanh mang ý nghĩa to lớn trong việc tạo xúc


cảm – tâm lí cho sự tiến hành của giai điệu thanh nhạc. Cách làm này của
ông có mối liên hệ không chỉ với nghệ thuật diễn tấu piano, mà với cả nghệ
thuật sáng tạo giao hưởng và nhạc kịch của các nhạc sĩ thuộc trường phái âm
nhạc cổ điển Vienna. Nói một cách khác, phần đệm piano trong các ca khúc
của Schubert có ý nghĩa tương tự như phần đệm của dàn nhạc giao hưởng
trong âm nhạc ca kịch của Gluck, Mozart, Haydn và Beethoven.
Khả năng biểu hiện phong phú của phần đệm trong các ca khúc của
Schubert luôn chiếm được chú ý cũng như sự đánh giá cao của giới nhưng
người làm công tác âm nhạc chuyên nghiệp nói chung, giới những người
biểu diễn piano trên thế giới nói riêng. Chúng ta cũng cần nhớ rằng, trong
lịch sử âm nhạc thế giới, thế kỷ XVIII và XIX là giai đoạn nghệ thuật piano
(trên cả hai lĩnh vực sáng tác và biểu diễn) có những bước tiến dài, khẳng
định vị trí nổi bật về khả năng biểu hiện ngôn ngữ âm nhạc với nhiều nghệ sĩ
lớn trong lich sử âm nhạc thế giới như F. Chopin, R. Schumann, F. List, ...
Trước khi giai điêu của các ca khúc vang lên, phần dạo đầu của
Schubert bao giờ cũng tạo dựng, chuẩn bị một không gian cảm xúc cho
người nghe. Và tương tự như vậy, những âm điệu kết bài của piano cũng
mang ý nghĩa hoàn thiện ý tưởng âm nhạc của một ca khúc. Trong bài
“Margarita bên guồng sợi”, hai ô nhịp mở đầu tạo dựng một trạng thái nỗi

buồn mang mác và sự mô phỏng những âm thanh của guồng sợi:
Margarita bên guồng sợi

Còn trong bài “Chúa rừng” là một không khí căng thẳng chứa đựng sự đe
doạ:
Chúa rừng

Còn trong bài “Srénade” (còn gọi là khúc nhạc chiều) thì phần mở đầu lại
đưa đến với người nghe những âm thanh quen thuộc của cây đàn ghita:


Srénade

Một đặc điểm cần chú ý trong toàn bộ các sáng tạo âm nhạc của ông
là tính ca xướng, ca khúc ngay cả ở các tác phẩm khí nhạc. Trong khoảng 15
năm (từ 1813 đến 1828) Schubert đã sáng tác tất cả 9 bản giao hưỏng. Trong
số đó, bản giao hưởng số 1 giọng Rê trưởng (1813), bản giao hưởng số 4 “Bi
thương” giọng đô thứ (1816), bản giao hưởng số 7 (còn chưa viết xong),
(1821), bản giao hưởng số 8 giọng xi thứ “chưa hoàn thành” (1822).
Nếu như 7 bản giao hưởng đầu tiên của Frank Peter Schubert còn
chịu nhiều ảnh hưởng phong cách sáng tạo của các nhạc sĩ thuộc trường phái
âm nhạc cổ điển, thì bản giao hưởng số 8 “chưa hoàn thành” (Unfinished) lại
là dấu ấn về sự hình thành một chủ nghĩa mới trong sáng tạo nghệ thuật âm
nhạc của chủ nghĩa lãng mạn. Kế thừa những giá trị cơ bản của giao hưởng
Beethoven: Sự nghiêm khắc, tính kịch và sự sâu sắc của thế giới cảm xúc,
lần đầu tiên tính trữ tình – ca xướng đầy chất lãng mạn trở thành cương lĩnh
của một tác phẩm giao hưởng. Những hình tượng nghệ thuật trữ tình mới
được biểu hiện không phải bằng ngôn ngữ âm nhạc, hình thức âm nhạc
truyền thống. Ngay tên gọi bản giao hưởng “chưa hoàn thành” sinh ra bởi
cấu trúc tác phẩm chỉ gồm 2 chương, trong khi theo khuông mẫu truyền

thống thì một bản giao hưởng thường gồn từ 3 đến 4 chương. Song dưới góc
nhìn logic về một hình tượng nghệ thuật thì bản giao hưởng “chưa hoàn
thành” lại thực sự là một tác phẩm hoàn chỉnh về phương diện tư duy nghệ
thuật âm nhạc.
Ngay từ những âm thanh đầu tiên của Chương I, người nghe đã đắm
chìm trong không gian của những cảm xúc lãng mạn. Đó là những âm thanh
do 2 bè violon và cello đi đồng âm ở âm khu thấp.

Rồi trên nền âm thanh rực rỡ như phần mở đầu của các ca khúc trữ
tình là sự xuất hiện chủ đề chính trong chương nhạc.


Sau chủ đề chính là sự xuất hiện của chủ đề phụ qua diễn tấu của bè
violoncelle. Chủ đề này có mối liên hệ với những bài hát sinh hoạt của thành
phố Vienna qua nhiều chi tiết đó là giai điệu được vang lên trên một âm hình
của phần đệm có sự đảo phách và sự đối xứng về cấu trúc theo sơ đồ ABBA.


Chương II Andante con moto thực sự là những suy tư đầy chất thơ.
Âm nhạc trong sáng, nhiều chổ mang sắc thái anh hùng ca. Chương II dường
như sinh ra để cân bằng với không khí lo âu và nỗi buồn của chương I.
Chương Andante con moto được viết ở hình thức Sonate không có phần
phát triển với 2 chủ đề (chủ đề chính và chủ đề phụ). Chủ đề chính ở đây
mang tính chất du dương được trình bày trong một cấu trúc 3 phần có phần
kết.


Chủ đề phụ gần gũi với chủ đề chính về phương diện âm điệu:

Bản giao hưởng “Chưa hoàn thành ” của F. Schubert là một trong

những tác phẩm king điển của kho tàng âm nhạc thế giới.
Các sáng tác cuối đời của Schubert thể hiện rất rõ mối quan hệ với
những khó khăn, những bóng tối luôn bao quanh cuộc đời người nghệ sĩ.
Trong nhiều tác phẩm được sáng tác trong giai đoạn này chúng ta thường
thấy vang lên những chủ đề âm nhạc đầy sức mạnh cháy bỏng và đậm chất
bi thương: Tứ tấu giọng Rê thứ (1824 - 1826), Liên khúc “con đường mùa
đông” (1827) và nhiều ca khúc phổ thơ của Hainơ.
III - KẾT LUẬN:
Nhạc sĩ FRANZ SCHUBERT là người có công hoàn thiện thể ca khúc
liên hoàn, người sáng lập và làm sống lại thể hát truyện ballade, ông cũng là
người đầu tiên thể hiện tính văn học trong ca khúc và người kết hợp nhuần
nhuyễn phần đệm với phần hát, phần đệm có hình tượng rõ ràng.
Trong di sản lớn nhất của Schubert khoảng chừng 1500 tác phẩm gòm
nhiều thể loại, thì thanh nhạc chiếm một khối lượng đáng kể mà phần lớn là
ca khúc. Ca khúc đối với Schubert đã tạo được một bước ngoặt mới làm cho
thể loại này sánh ngang với các thể loại quan trọng khác của nghệ thuật âm


nhạc. Ông đã năng cao những bài hát phong tục Áo, Đức thành đỉnh cao
trong nghệ thua



×