Một số vấn đề về thuế Giá trị gia tăng theo
quy định mới
Nguyễn Bá Phú (Cục thuế Thanh Hóa) 20/11/2008 02:30:17 PM
Ngày 16/4/2008, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 30/2008/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Thông
tư số 32/2007/TT- BTC ngày 9/4/2007 hướng dẫn thi hành Nghị định số 158/2003/NĐ- CP
ngày 10/12/2003, Nghị định số 148/2004/NĐ- CP ngày 23/7/2004 và Nghị định số
156/2005/NĐ- CP ngày 15/12/2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế GTGT
và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT. Đây là văn bản quy phạm pháp
luật hướng dẫn một trong những sắc thuế rất quan trọng là thuế GTGT, xuất phát từ yêu cầu
của thực tiễn cuộc sống.
Thông tư đã giải quyết một số vướng mắc về thuế GTGT
Thông tư số 30/2008/TT-BTC đã giải quyết được vướng mắc của các doanh nghiệp về thuế
GTGT đối với hàng khuyến mại, quảng cáo. Theo Thông tư 32/2007/TT-BTC, đơn vị có xuất
hàng khuyến mại, quảng cáo phải ghi hoá đơn và tính thuế GTGT như hàng xuất bán thông
thường. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện quy định này, phát sinh một số vấn đề rất phức
tạp, đó là:
Thứ nhất, việc tính thuế hàng khuyến mại, quảng cáo dẫn đến việc hạch toán kế toán rất khó
khăn và thực sự điều này không được hướng dẫn trong chế độ kế toán. Nhiều đơn vị lúng túng
khi kế toán nhận hàng khuyến mại cũng như khi xuất khuyến mại tiếp theo. Đó là chưa kể nếu
giá tính thuế hàng khuyến mại (theo quy định là giá theo giá bán tại thời điểm tương ứng) có
thay đổi so với giá hàng nhận về.
Thứ hai, việc tính thuế GTGT hàng khuyến mại, quảng cáo cũng gây khó khăn trong thực thi
chính sách thuế. Chi phí khuyến mại, quảng cáo là khoản chi phí theo quy định được tính là chi
phí hợp lệ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp (tất nhiên có bị khống chế 10% trên tổng chi
phí). Thông tư 32/2008/TT-BTC đã hướng dẫn: Trường hợp hàng khuyến mại, quảng cáo chỉ
phải lập hoá đơn, trên hoá đơn ghi tên và số lượng hàng hoá, ghi rõ là hàng khuyến mại,
quảng cáo, hàng vu không thu tiền không phải tính thuế GTGT, dòng thuế GTGT không ghi,
gạch chéo.
Bên cạnh đó, Thông tư số 30/2008/TT-BTC ngày 16/4/2008 đã sửa đổi quy định tại Thông tư
số 32/2007/TT-BTC về dịch vụ cung cấp cho doanh nghiệp chế xuất như dịch vụ vận chuyển
đưa đón công nhân cung cấp suất ăn... từ chỗ không được áp dụng thuế suất GTGT 0% sang
được áp dụng thuế suất thuế GTGT 0%.
Đối với cơ sở tính doanh nhận tiền tài trợ của các cơ sở kinh doanh khác theo Thông tư số
32/2007/TT- BTC ngày 09/4/2007, khi nhận tiền tài trợ, nếu khoản tài trợ này để thực hiện các
dịch vụ phục vụ cho bán sản phẩm của bên tài trợ thì lập hoá đơn GTGT tính thuế GTGT theo
quy định. Trường hợp khoản tài trợ này không liên quan đến việc bán sản phẩm của bên tài trợ
thì không tính thuế GTGT, chỉ lập chứng từ thu tiền.
Thông tư số 30/2008/TT-BTC ngày 16/4/2008 hướng dẫn: Khi nhận tiền, cơ sở kinh doanh lập
chứng từ thu (không phân biệt nhận tiền tài trợ có liên quan đến việc bán sản phẩm) và xác
định là khoản thu nhập khác để kê khai và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định.
Ngoài ra, để thực hiện thống nhất, Thông tư số 30/2008/TT-BTC ngày 16/4/2008 quy định: đối
với hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng nội bộ không phân biệt có phục vụ sản xuất kinh doanh hàng
hoá dịch vụ chịu thuế GTGT hay không chịu thuế GTGT đấu phải lập hoá đơn GTGT (hoặc
hoá đơn bán hàng), trên hoá đơn ghi đầy đủ các chỉ tiêu và tính thuế GTGT như hoá đơn xuất
bán hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng.
Cần hướng dẫn thấu đáo hơn
Nhiều vấn đề về thuế GTGT tại các Thông tư của Bộ Tài chính đã được hướng dẫn rõ ràng.
Tuy nhiên, cần phải giải quyết thấu đáo hơn một số trường hợp về thuế GTGT, đó là:
Một là, về khấu trừ, hoàn thuế GTGT của tài sản cố định (TSCĐ) tham gia vào sản xuất
kinh doanh. Điểm 2, Mục II, Phần A, Thông tư 32/2007/TT-BTC, quy định: "Cơ sở kinh
doanh không được khấu trừ và hoàn thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ sử dụng cho
sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGTnêu tại mục II
này mà phải tính vào nguyên giá TSCĐ, giá trị nguyên vật liệu hoặc chi phí kinh doanh".
Điểm c 2, Khoản 1.2, Mục II, Phần B, Thông tư 32/2007/TT -BTC, nêu: "Riêng đối với TSCĐ
dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thì được khấu trừ toàn bộ số thuế GTGT đầu
vào. Đối với TSCĐ đầu tư mua sắm hoặc được tặng, cho để sử dụng vào các mục đích dưới
đây thì thuế GTGT tương ứng ghi trên hoá đơn, chứng từ mua hàng hoá, dịch vụ tạo thành
TSCĐ đó không tính vào thuế GTGT đầu vào được khấu trừ mà tính vào nguyên giá của
TSCĐ: TSCĐ chuyên dùng để sản xuất vũ khí, khí tài phục vụ quốc phòng, an ninh;…”
Điểm 2.1 , Mục II, Phần C, Thông tư 32/2007/TT-BTC, hướng dẫn: "Trường hợp cơ sở kinh
doanh vừa có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT vừa có hàng
hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT nhưng không hạch toán riêng thuế GTGT đầu vào được
khấu trừ thì thuế GTGT đầu vào được khấu trừ tính theo tỷ lệ (%) giữa doanh số bán ra của
hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT và tổng doanh số bán hàng hoá, dịch vụ trong kỳ". Như
vậy, nếu áp dụng các quy định trên đây, vấn đề đặt ra là việc khấu trừ thuế GTGT đối với
TSCĐ tham gia vào sản xuất kinh doanh thực hiện như thế nào cho thống nhất: có được khấu
trừ toàn bộ hay phân bổ; trong trường hợp TSCĐ này chỉ tham gia vào sản xuất kinh doanh
một loại hàng hoá không chịu thuế thì có được khấu trừ thuế GTGT hay không? Đây là vấn đề
mà nhiều đơn vị gặp phải trong thực tiễn và không phải bao giờ cũng xử lý thống nhất như
nhau.
Hai là, về kê khai thuê GTGT. Có thể nói, Thông tư 60/2007/TT-BTC ngày 14/6/2007 Của
Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Luật Quản lý thuế và Nghị định 85/2007/NĐ- CP của Chính
phủ là văn bản tập hợp và quy định thống nhất các thủ tục khai thuế, trong đó có khai thuế
GTGT. Tuy nhiên, với đặc thù là sắc thuế gián thu và độ biến động của nó rất lớn nên việc khai
thuế có nhiều vấn đề cần phải giải quyết cụ thể và đảm bảo thật sự hợp lý. Chẳng hạn, việc
khai bổ sung, điều chỉnh về thuế GTGT trong trường hợp giảm số thuế được khấu trừ nhưng
kỳ khai bổ sung đơn vị đang âm thuế (còn thuế GTGT khấu trừ được chuyển sang kỳ sau), còn
nhiều cách hiểu và xử lý trong trường hợp này.
Có ý kiến cho rằng đơn vị đã thực hiện tự khai, tự nộp nên trong trường hợp đó phải nộp riêng
khoản chênh lệch này và tiền phạt chậm nộp vào NSNN; hoặc lại cho rằng, trong trường hợp
như vậy, vì chưa phát sinh số thuế phải nộp Ngân sách nên càn được bù trừ vào số thuế âm kỳ
hiện tại. Trường hợp khác, đơn vị khai thuế GTGT cho dự án đầu tư (chưa có thuế GTGT đầu
ra) khi phải điều chỉnh thuế GTGT tương tự như trên thì xử lý như thế nào mới hợp lý. Đó là
những vấn đề tuy không lớn nhưng doanh nghiệp thường xuyên gặp phải và càn được hướng
dẫn thấu đáo hơn.
Ngoài ra, các bảng kê về thuế GTGT (đặc biệt là bảng kê hàng hoá, dịch vụ, mua vào không có
hoá đơn) với tư cách là các hồ sơ kèm theo tờ khai thuế định kỳ với quy định mới khi thực hiện
Luật Quản lý thuế cũng cần được quy định rõ ràng và thống nhất hơn để tiện trong khai thuế
cũng như theo dõi, quản lý thuế.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT đã được Quốc hội khoá XH, kỳ họp
thứ 3 thông qua. Nhiều vấn đề mới có liên quan đã được ban hành và điều chỉnh theo hướng
phù hợp với tình hình phát triển đa dạng và hội nhập của nền kinh tế đất nước. Việc điều chỉnh
khung pháp lý về thuế cho phù hợp hơn với thực tiễn là điều cần thiết khách quan. Tuy nhiên,
những vấn đề cụ thể sẽ còn nảy sinh, cần được các cơ quan ban hành văn bản dưới luật cân
nhắc và giải quyết, hướng dẫn để quá trình thực hiện Luật được hiệu quả, thiết thực.