Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hợp đồng mua bán hàng hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.57 KB, 35 trang )

1
I. Khái quát về hợp đồng mua bán hàng hóa
Trong một vài năm trở lại đây, Nhà nước đã thực hiện đường lối đổi mới
cơ chế kinh tế với sự thừa nhận đã hình thức sở hữu, đa hình thức kinh doanh.
Quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay đã đạt được những thành tựu nổi
bật. Nhưng quá trình đó càng đi vào chiều sâu và bề rộng thì càng bộc lộ rõ
những vấn đề mới cần giải quyết. Tự do, năng động, sáng tạo, nhạy bén là thuộc
tính khách quan và là yêu cầu của nền kinh tế thị trường, nhưng gắn liền với nó
là nguy cơ tự do về Chính phủ, gian lận kinh doanh, thương mại… Hơn nữa,
trong giai đoạn này nước ta đã thực sự hội nhập vào nền kinh tế quốc tế( gia
nhập WTO) thì càng cần thiết đòi hỏi Nhà nước phải có một khung pháp lý
Thương mại hoàn chỉnh để điều chỉnh các hoạt động đó đúng chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước.
Đứng trước yêu cầu đó, ngày 14- 11- 2005 Quốc hội đã ban hành Luật
Thương mại số 36/ 2005- QH 11 quy định về hoạt động thương mại( chính thức
có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2006, thay thế luật thương mại- 1997)
nhằm tạo thành một hành lang pháp lý hoàn chỉnh cho các thương nhân trong
hoạt động thương mại.
Cũng giống như Luật thương mại 1997, Luật thương mại 2005 cũng quy
định khá đầy đủ và chi tiết về mua bán hàng hoá, hợp đồng mua bán hàng hoá.
Tuy nhiên để hoạt động thương mại nói chung và hoạt động mua bán hàng hoá
nói riêng đi vào chiều sâu, đòi hỏi mỗi thành phần kinh tế, mỗi cá nhân cần phải
tìm hiểu, tiếp cận và nhận thức đúng đắn các hoạt động thương mại theo đúng
luật, nhằm hạn chế những tổn hại kinh tế không đáng có, để các quy định của
luật thương mại thực sự có ích trong cuộc sống, tạo thuận lợi cho mọi chủ thể
của hoạt động thương mại.
1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại hợp đồng mua bán hàng hoá
1.1. Khái niệm, đặc điểm
2
Hợp đồng quyền và nghĩa vụ giữa các bên nhằm làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ pháp lý. Căn cứ vào đối tượng có thể coi hợp đồng mua bán hàng hoá


là một thương mại. Hợp đồng mua bán hàng hoá là hợp đồng được giao kết
giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa thương nhân với bên khác không phải
là thương nhân trong việc mua bán tất cả các động sản, kể cả động sản được
hình thành tương lai và những vật gắn liền với đất đai.
Để tạo điều kiện thuận tiện cho hoạt động kinh doanh của thương nhân
Việt Nam khi tham gia các quan hệ mua bán hàng hoá quốc tế, khi ký kết hợp
đồng thì pháp luật cho phép các bên có quyền thảo thuận với nhau về việc áp
dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế đó không trái với với
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Khi đó, pháp luật nước ngoài,
tập quán thương mại quốc tế sẽ có giá trị bắt buộc đối với các bên tham gia hợp
đồng.
Hợp đồng mua bán qua sở giao dịch hàng hoá lần đầu tiên được quy định
trong luật thương mại năm 2005( Điều 64), bao gần hợp đồng kỳ hạn và hợp kỳ
hạn và hợp đồng quyền chọn. Hợp đồng kỳ hạn là thoả thuận, theo đó bên bán
cam kết giao và bên mua cam kết nhận hàng hoá tại một thời điểm trong tương
lai theo hợp đồng. Hợp đồng về quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán là thoả
thuận, theo đó bên mua quyền có quyền được mua hoặc được bán một hàng hoá
xác định với mức giá định trước( gọi là giá giao kết) và phải trả một khoản tiền
nhất định để được mua quyền này( gọi là giá giao kết) và phải trả một khoản tiền
trước( gọi là giao kết) và phải trả một khoản tiền nhất định để được mua quyền
này( gọi là tiền mua quyền). Bên mua quyền có quyền chọn thực hiện hoặc
không thực hiện việc mua bán hoặc bán hàng đó.
1.2. Phân loại hợp đồng mua bán hàng hoá
 Căn cứ vào phạm vi của hợp đồng có thể chia ra hai loại đó là:
3
 Hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước.
 Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Đối với hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước thì đương nhiên sẽ chịu
sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam, cụ thể là luật Thương mại 2005 và các
luật chuyên ngành khác. Còn đối với hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thì các

bên có thể thoả thuận áp dụng, có thể là luật của Việt Nam hay luật của phía đối
tác hay cũng có thể là luật của một nước thứ ba..
 Căn cứ vào cách thức thực hiện hợp đồng có thể chia ra hai loại:
 Hợp đồng mua bán hàng hoá qua sở giao dịch hàng hoá.
 Hợp đồng mua bán hàng hoá không qua sở giao dịch hàng
hoá.
Cần lưu ý đối với loại hợp đồng mua bán qua cơ sở giao dịch hàng hoá
rằng: thứ nhất hàng hoá giao dịch tại cơ sở giao dịch phải thuộc danh mục hàng
hoá giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá do bộ trưởng bộ thương mại quyết định.
Thứ hai, theo điều 69 của luật thương mại năm 2005, thương nhân môi giới qua
sở giao dịch về hàng hoá chỉ được phép hoạt động tại sở giao dịch hàng hoá khi
đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật; thương nhân mua bán qua
sở giao dịch hàng hoá chỉ được phép thực hiện các hoạt động mua giới mua bán
qua sở giao dịch hàng hoá và không được phép là một bên của hợp đồng mua
bán hàng hoá qua sở giao dịch hàng hoá. Thứ ba, điều 70 của luật thương mại,
năm 2005, các hành vi bị cấm đối với thương nhân môi giới hàng hoá qua sở
giao dịch hàng hoá:
 Lôi kéo khách hàng ký kết hợp đồng bằng cách hứa bồi
thường toàn bộ hoặc một phần thiệt hại phát sinh hoặc đảm bảo lợi nhuận cho
khách hàng.
4
 Chào hàng hoặc mua giới mà khôn có hợp đồng với khác
hàng .
 Sử dụng giá giả tạo hoặc các biện pháp gian lận khác khi môi
giới cho khách hàng.
 Từ chối hoặc tiến hành chậm trễ một cách bất hợp lý việc
môi giới các hợp đồng theo các nội dung đã thoả thuận với khách hàng.
2. Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hoá
Nội dung của hợp đồng là tất cả những gì mà các bên thoả thuận và pháp
luật quy định đối với một hợp đồng. Một hợp đồng mua bán hàng hoá sẽ có giá

trị pháp lực khi thoả mãn tối thiểu những điều kiện về nội dung mà pháp luật
quy định. Khi thiếu một trong những nội dung đó thì hợp đồng không thể phát
sinh hiệu lực. Trong thực tế, hậu quả xấu đã xảy ra xuất phát từ điểm các bên
trong hợp đồng không quy định rõ ràng hoặc đầy đủ những nội dung của hợp
đồng dẫn tới có tranh chấp xảy ra các bên sẽ không có chứng cứ hoặc chứng cứ
không rõ ràng và những thiệt hại không cần thiết có thể xảy ra đối với tất cả các
bên và không thể lường trước được.
Luật thương mại năm 2005 đã không quy định về nội dung hợp đồng mua
bán hàng hoá. Trên cơ sở việc xác lập mối quan hệ với bộ luật Dân sự, khi xem
xét vấn đề nội dung của hợp đồng mua bán hàng hoá chúng ta có thể dựa trên
các quy định của bộ luật Dân sự. Theo đó trong hợp đồng mua bán hàng hoá,
các bên có thể thoả thuận về những nội dung sau đây:
 Đối tượng của hợp đồng
Trong mua bán hàng hoá, đối tượng của hợp đồng là một hàng hoá nhất
định đây là điều khoán cơ bản của một hợp đồng mua bán hàng hoá, mà khi
thiếu nó hợp đồng mua bán hàng hoá không thể hình thành được do người ta
không thể hình dung được các bên tham gia hợp đồng nhằm mục đích gì, trao
5
đổi cái gì. đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá được xác định thông qua
tên gọi của hàng hoá. Trong hợp đồng mua bán hàng hoá các bên có thể gi rõ
tên hàng bằng tên thông thường tên thương mại… để tránh có sự hiểu sai lệch về
đối tượng hợp đồng.
 Số lượng hàng hoá
Điều khoản về số lượng hàng hoá xác định về mặt lượng đối với đối
tượng của hợp đồng. Các bên có thể thoả thuận và gi trong hợp đồng về một số
lượng hàng hoá cụ thể hoặc số lượng được xác định bằng đơn vị đo lường theo
tập quán thương mại như chiếc, bộ, tá, mét, mét vuông, mét khối hay bằng một
đơn vị nào khác tuỳ theo tính chất của hàng hoá.
 Chất lượng hàng hoá
Chất lượng hàng hoá giúp xác định chính xác đối tượng của hợp đồng, cái

mà người mua biết tường tận với những yêu cầu được tính năng, tác dụng, quy
cách, kích thức, công suất, hiệu quả… xác định cụ thể chất lượng của sản phẩm
thường cũng là cơ sở để xác định giá cả một cách tốt nhất. Trách nhiệm của các
bên thường khác nhau tương ứng với mỗi phươn pháp xác định chất lượng được
thoả thuận. Thông thường có các biện pháp xác định chất lượng như dựa vào
mẫu hàng, dựa vào các tiêu chuẩn, dựa vào mô tả tỉ mỷ, dựa vào nhãn hiệu hàng
hoá hoặc điều kiện kỹ thuật…
 Giá cả hàng hoá
Các bên có quyền thoả thuận giá cả và phải được ghi cụ thể trong hợp
đồng hoặc nếu không ghi cụ thể thì phải xác định rõ phương hướng xác định giá,
vì đây là điều khoản quan trọng trong các cuộc thương lượng để đi đến ký đến
hợp đồng. Để mang lại lợi ích cho cả hai bên, các bên cũng có thể thoả thuận với
nhau lựa chọn hình thức giảm giá phù hợp gi trong hợp đồng như giảm giá như
giao hàng sớm, do mua số lượng nhiều và quy định rõ mức giá giảm.
6
 Phương thức thanh toán
Phương thức thanh toán là các cách thức mà bên mua và bên bán thoả
thuận, theo đó bên mua phải thanh toán cho bên bên bán tiền hàng đã mua theo
một phương thức nhất định. Có nhiều phương thức thanh toán nhưng việc lựa
chọn phương thức nào cũng xuất phát từ nhu cầu của người bán là thu tiền
nhanh đầy đủ và yêu cầu của người mua là nhận được hàng đúng số lượng, chất
lượng, thời hạn như đã thoả thuận và không có rủi ro trong thanh toán. Việc
chọn phương thức thanh toán trong hợp đồng hoàn toàn phụ thuộc vào sự thoả
thuận giữa các bên khi tham gia qua lệ hợp đồng mua bán hàng hoá. Sự lựa chọn
phương thức thanh toán cũng căn cứ vào mức độ an toàn của phương thức thanh
toán và phí tổn cho việc thanh toán.
 Thời gian và địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng
Thời gian thực hiện hợp đồng là khoảng thời gian mà bên bán phải hoàn
thành nghĩa vụ giao hàng cho bên mua theo đúng đối tượng của hợp đồng đúng
địa điểm đã thoả thuận trong hợp đồng. Bên mua có nghĩa vụ và nhận hàng đúng

thời gian và địa điểm và trả tiền cho bên bán. Các bên có thể thoả thuận với
nhau sao cho hợp lýy căn cứ vào tình hình thực tiễn, khả năng thực hiện của mỗi
bên. Địa điểm giao hàng có thể do hai bên thoả thuận, phù hợp với điều kiện
thực tế, thuận tiện và có lợi cho cả hai bên. Khi thoả thuận cần thoả thuận cụ thể
địa chỉ giao hàng, đảm bảo nguyên tắc phù hợp với khả năng đi lại của phương
tiện vận chuyển, đảm bảo an toàn cho phương tiện.
Trong mua bán hàng hoá, việc giao nhận hàng hoá có thể được thực hiện
trực tiếp đối với người mua hoặc thông qua người thứ ba. Vì vậy các bên phải
thoả thuận rõ thời hạn và địa điểm, từ đó xác định quyền và nghĩa vụ mỗi bên
cũng như xác định rủi ro mà mỗi bên phải gánh chịu.
II. Chế độ giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
7
1. Chủ thể giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá
Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá là thương nhân của và các tổ
chức, cá nhân không phải là tư nhân.
1.1. Chủ thể là thương nhân
Để xác định một thoả thuận có phải là hợp đồng mua bán hàng hoá hay
không thì việc trước tiên là phải xác định một bên trong quan hệ hợp đồng đó có
phải là tư nhân hay không, sau đó mới xét đến đối tượng của hợp đồng. Thường
nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động
thương mại một cách thường xuyên, độc lập và có đăng ký kinh doanh.
Luật thương mại 2005 cũng thừa nhận thương nhận thực tế bằng việc
không đặt điều kiện đăng ký kinh doanh là một trong những điều kiện bắt buộc
để được công nhận nhưng đối với trường hợp chưa đăng ký kinh doanh, thương
nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình. Quy định này đã
được giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tế là người không đăng ký kinh
doanh nhưng có hành vi kinh doanh thì có được coi là thương nhân không.
Nhưng quy định này lại có phần không rõ ràng vì nó không giới hạn trách nhiệm
của thương nhân trong phạm vi hoạt động thương mại. Vì vậy một tổ chức, cá
nhân trước khi đăng ký kinh doanh tiến hành các hành vi không nhằm mục đích

sinh lợi vẫn có thể phải chịu trách nhiệm như với thương nhân.
Thương nhân sẽ không bao gồm hộ gia đình, tổ hợp tác vì tuy được thừa
nhận là chủ thể của luật dân sự, có quyền hoạt động kinh doanh dưới hình thức
hộ kinh doanh, cá thể song hộ gia đình, tổ hợp tác không phải tổ chức kinh tế,
cũng chẳng phải là cá nhân. Thương nhân gồm có thương nhân Việt Nam và
thương nhân nước ngoài có thể là cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác việc xác
định tư cách thương nhân nước ngoài phải căn cứ nước ngoài phải căn cứ theo
pháp luật của nước mà thương nhân đó mang quốc tịch. Việc xác định điều kiện
để cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ chức trở thành tư nhân phải dựa trên quy
8
đinh của pháp luật Việt Nam. Vì vậy, thương nhân nước ngoài là thương nhân
được thành lập hoặc đăng kýy kinh doanh theo quy định của pháp luật nước
ngoài hoặc được pháp luật nước ngoài công nhận( khoản 1, điều 16 luật thương
mại).
 Thương nhân là cá nhân.
Để được công nhận là thương nhân thì một cá nhân phải có năng lực hành
vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật và hoạt động thương mại một cách
độc lập, thường xuyên như một nghề nghiệp. Cá nhân cũng có thể trở thành tư
nhân ngay cả khi hoạt động thương mại một cách độc lập thường xuyên như một
nghề nghiệp mà chưa đăng ký kinh doanh.
Thương nhân là cá nhân sẽ bao gồm:
 Cá nhân kinh doanh.
 Doanh nghiệp tư nhân.
 Công ty hợp doanh.
Trong lĩnh vực hoạt động thương mại do thương nhân phải chịu trách
nhiệm đầy đủ về hành vi thương mại của mình, vì vậy những người sau dây sẽ
không được công nhân là tư nhân:
 Người không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, người mất
năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
 Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người đang phải

chấp nhận hình phạt tù.
 Người đang trong thời gian bị toà án tước quyền nghề vì các
tội buôn lạu, đầu cơ, buôn bán hàng cấm, làm hàng giả, buôn bán hàng hoá, kinh
doanh trái phép, trốn thuế, lừa dối khách hàng. và các tội khác theo quy định của
pháp luật.
 Thương nhân là tổ chức.
9
Trong thực tiễn hoạt động thương mại, thương nhân là tổ chức, là chủ yếu
của hợp đồng mua bán hàng hoá. Tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp
nhằm mục đích hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có
đăng ký kinh doanh sẽ được coi là thương nhân. có thể hiểu tổ chức kinh tế
trước hết phải là một tổ chức có tư cách pháp nhân trong quá trình hoạt động
thương mại và hoạt động một cách độc lập. Một tổ chức được công nhân là pháp
nhân khi có đủ các điều kiện sau đây (Điều 84 Bộ luật Dân sự):
 Được thành lập hợp pháp.
 Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ.
 Có tài sản độc lập với cá nhân.
 Tổ chức và tự chịu trách nhiệm về tài sản đó.
 Nhân danh mình tham gia vào quan hệ pháp luật một cách
độc lập.
Song không phải tất cả những tổ chức được coi là pháp nhân đều có thể
trở thành thương nhân mà chỉ cõn pháp nhân nào là tổ chức kinh doanh được
thành lập để hoạt động thương mại mới trở thành thương nhân. Pháp nhân là tổ
chức kinh tế gần:
 Doanh nghiệp Nhà nước.
 Hợp tác xã.
 Công ty trách nhiệm hữu hạn.
 Công ty cổ phần.
 Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
 Các tổ chức kinh tế khác có đủ điều kiện theo quy định là

thương nhân.
10
Theo quy định của Luật Thương mại 2005 hộ gia đình và tổ hợp tác
không được xếp là tổ chức hay cá nhân.

1.2. Chủ thể không phải là thương nhân
Nếu căn cứ vào mục đích sinh lợi, thì trong rất nhiều trường hợp tổ chức,
cá nhân không phải là thương nhân cũng được coi là chủ thể của hợp đồng với
thương nhân. Nghĩa là một bên của hợp đồng là cá nhân, tổ chức hoạt động
thương mại độc lập và thường xuyên, còn bên kia là chủ thể không cần điều
kiện nói trên khác với bên là thương nhân, bên không phải là thương nhân có
thể là mọi chủ thể có đủ năng lực vì hành vi để tham gia giao kết và thực hiện
hợp đồng mua bán hàng hoá theo quy định của pháp luật. Đó có thể là cá nhân,
cơ quan, tổ chức có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân, cũng
có thể là hộ gia đình, tổ hợp và không hoạt động thương mại độc lập và thường
xuyên như một nghề.
2. Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá
Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá là hàng hoá. Hàng hoá la
những sản phẩm lao động của con người, được tạo ra nhằm mục đích trao đổi
để thoả mãn nhu cầu của con người. Hàng hoá có thể là vật, là sức lao động của
con người, là các quyền tài sản. Khoản 2 điều 3 luật thương mại 2005 đã mở
rộng hàng hoá hơn. Theo đó hàng hoá bao gồm tất cả các động sản, kể cả động
sản hình thành trong tương lai, và các vật gắn liền với đất đai. Tuy nhiên, khái
niệm về hàng hoá vẫn còn sự hạn chế, chúng ta dễ dàng nhận thấy trong quy
định này hàng hoá chỉ bao gồm các loại tài sản hữu hình. Như vậy các loại tài
sản vô hình khác như quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ… chưa được thừa
nhận là hàng hoá.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu hàng hoá trong hợp đồng mua bán hàng
hoá bao gồm tất cả các động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai. Và
11

các vật gắn liền với đất đai tuy nhiên, khi các chủ thể giam gia vào quan hệ hợp
đồng mua bán hàng hoá cần phải xem hàng hoá mà mình định mua hoặc bán là
cái gì, nó có thuộc danh mục hàng cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh hoặc
hàng kinh doanh có điều kiện hay không.
 Những hàng hoá cấm lưu thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện gồm:
 Vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng và phương tiện kỹ
thuật chuyên dùng của các lực luợng vũ trang;
 Chất ma tuý;
 Một số hoá chất có tính độc hại mạnh;
 Các hiện vật thuộc di tích lịch sử, văn hoá, bảo tàng;
 Các sản phẩm văn hoá phản động, đồi truỵ, mê tín dị đoan
hoặc có hại tới giáo dục nhân cách;
 Thuốc lá điếu, sản xuất tại nước ngoài;
 Các loại pháo;
 Các loại thuốc phòng bệnh, chữa bệnh cho người và gia súc
thuốc bảo vệ thực vật và các trang thiết bị, dụng cụ y tế chưa được phép sử dụng
tại Việt Nam;
 Thực vật, động vật hoang dã thuộc danh mục công ước quốc
tế quy định mà Việt Nam tham gia ký kết và các loại động vật, quý hiếm khác
cần được bảo vệ;
 Một số đồ chơi trẻ em có hại tới giáo dục nhân cách, sức
khoẻ của trẻ em hoặc tới an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
 Một số loại hoá chất, phụ gia, chế phẩm sinh học, chất xử lý
môi trường, chất tẩy rửa khử trùng sử dụng cho sản xuất giống, nuôi trồng, bảo
12
quản, chế biến thuỷ sản và dịch vụ thuỷ sản không được phép sử dụng tại Việt
Nam.
 Những hàng hoá, dịch vụ thương mại hạn chế kinh doanh gồm:
 Hàng hoá có chứa chất phóng xạ, và thiết bị phát bức xạ inon
hoá;

 Vật liệu nổ công nghiệp, vật liệu nổ dùng cho quốc phòng, an
ninh;
 Thuốc bảo vệ thực vật thuộc danh mục hạn chế sử dụng tại
Việt Nam;
 Thuốc lá điếu sản xuất trong nước;
 Rượu các loại từ trên 30 độ cần trở lên.
 Những hàng hoá, dịch vụ thương mại kinh doanh có điều kiện gồm:
 Xăng dầu các loại;
 Khí đốt các loại;
 Hoá chất độc hại và sản phẩm có hoá chất độc hại;
 Thuốc phòng bệnh, chữa bệnh cho người khác, các loại vắc
xin, sinh phẩm, trang thiết bị, dụng cụ y tế;
 Thuốc thú y thuỷ sản;
 Thức ăn thuỷ sản;
 Dịch vụ giết mổ gia súc.
Để biết thêm chi tiết về hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh hạn chế kinh
doanh và kinh doanh có điều kiện chúng ta cần tìm hiểu Nghị định số
59/2006/NĐ - CP ngày 12/06/2006 quy định chi tiết Luật thương mại về hàng
hoá, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện.
13
3. Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá
Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá là cách thức thể hiện ý chí
thoả thuận giữa các bên tham gia quan hệ hợp đồng. Nó có thể thực hiện bằng
lời nòi, bằng văn bản hoặc được xác định bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại
hợp đồng mua bán hàng hoá mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản
thì phải tuân theo các quy định đó. Hình thức văn bản bao gồm cả điện báo,
telex, Fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác.
Những quy định của Lụât thương mại Việt Nam phù hợp với pháp luật
quốc tế về mua bán hàng hoá, đã bước đầu tạo ra những quy định tương thích
với không giao pháp lý quốc tế, tạo điều kiện cho sự hội nhập khi các chủ thể có

quan hệ hợp đồng thương mại quốc tế có thẻ nói hình thức của hợp đồng mua
bán nói trên( trong luật thương mại 2005) là phù hợp với công ước viên 1980
bởi Điều 11 công ước viên 1980 quy định "không yêu cầu hợp đồng mua bán
phải được ký hoặc phải được xác nhận bằng văn bản hoặc phải tuân thủ mọi yêu
cầu nào đó về mặt hình thức. Có thể dùng bất kỳ phương tiện nào, kể cả lời khai
nhân chứng để chứng minh sự tồn tại của hợp đồng đó". Như vậy luật thương
mại 2005 đã vượt ra và khắc phục được hạn chế về hình thức hợp đồng do các
văn bản pháp luật trước đó quy định về vấn đề này, ví dụ như pháp luật Hợp
đồng kinh tế.
Hợp đồng mua bán hàng hoá là sự thoả thuận giữa các bên với nhau, cho
nên về mặt nguyên tắc nó không cần đến hình thức tồn tại nhất định. Nhưng
dưới góc độ pháp lý việc tuân thủ hình thức của hợp đồng sẽ là bắt buộc một khi
pháp luật có sự ghi nhận về vấn đề đó với mục đích hạn chế các rủi ro cho các
bên tham gia vào quan hệ hợp đồng.
4. Thủ tục giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá
4.1. Đề nghị giao kết hợp đồng
14
Trong hợp đồng mua bán hàng hoá, đề nghị giao kết hợp đồng chính là
chào hàng. Chào hàng là một quy định được thừa nhận trong các thông lệ quốc
tế mua bán hàng hoá theo Điều 14 Công ước Viên 1980, chào hàng là "Đề nghị
về việc ký kết hợp đồng được gửi đích danh cho một hoặc một vài người được
gọi là đơn chào hàng, nếu đề nghị đó đã rõ ràng và thể hiện ý định đặt quan hệ
trong trường hợp được sự chấp nhận của người chào hàng".
Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và
chiụ sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định
cụ thể ( khoản 1 - Điều 390 Bộ luật Dân sự). Như vậy đơn chào hàng về bản
chất là một đề nghị giao kết hợp đồng, là việc một bên bày tỏ ý chí của mình
muốn giao kết hợp đồng mau bán hàng hoá với một người cụ thể và chịu sự ràng
buộc về đề nghị này đối với bên đã được xác định cụ thể đó. Trong trường hợp
đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị giao kết

hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị mà không được
giao kết thì phải bồi thường nếu có thiệt hại phát sinh. Như vậy, chào hàng là
một đề nghị giao kết hợp đồng, có nội dung chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng
hoá, được chuyển cho một hoặc nhiều nguời nhất định, có giá trị trong một thời
gian nhất định. Tuy khoảng quy định cụ thể về nội dung chủ yếu của đơn chào
hàng, nhưng có thể hình dung được rằng bên đề nghị giao kết hợp đồng phải nêu
ra trong đề nghị của mình những nội dung chủ yếu như đối với nội dung của
hợp đồng dân sự: đối tượng, giá cả, phương thức thanh toán… Và như vậy có
thể coi các nội dung chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hoá cũng chính là nội
dung chủ yếu của đơn chào hàng. Những nội dung của đề nghị giao kết hợp
đồng phải rõ ràng để bên được đề nghị giao kết hợp đồng có thể hình dung được
ngay và hiểu được mong muốn giao kết hợp đồng của bên đề nghị giao kết hợp
đồng. Khi đó bên đề nghị giao kết hợp đồng phải chịu sự ràng buộc bởi những

×