Tải bản đầy đủ (.doc) (164 trang)

Sở hữu và tác động của nó đối với lực lượng sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (654.63 KB, 164 trang )

i

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HOÀI

SỞ HỮU VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ
ĐỐI VỚI LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG
LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY

Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử.
Mã số: 62 22 03 02


ii

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Nguyễn Thị Hoài (2015): “ Sở hữu đất nông nghiệp trong
thời kỳ đổi mới và một số vấn đề đặt ra hiện nay”, Tạp chí Triết
học, số 4 năm 2015, tr. 71-78
2. Nguyễn Thị Hoài (2015): “Giải quyết mối quan hệ giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp
ở nước ta từ 1975 đến nay”, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội,
số 1 năm 2015, tr. 49-57 .



iii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình khoa học của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Văn Thức và TS. Lê Thanh Thập. Các
trích dẫn và số liệu sử dụng trong luận án là đáng tin cậy và có xuất xứ rõ
ràng. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.

Hà Nội, năm 2015
Tác giả luận án

Nguyễn Thị Hoài


iv
MỤC LỤC
Lời cam đoan ……………………………………………………………...…i
Mục lục …………………………………………………………………...….ii


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sở hữu là mặt cơ bản nhất trong quan hệ sản xuất và cũng là quan hệ cơ
bản nhất trong hệ thống các quan hệ xã hội. Sở hữu chịu sự quy định, chi phối
của lực lượng sản xuất, nhưng đồng thời nó cũng tác động mạnh mẽ trở lại
đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sở hữu có vai trò rất lớn đối với
sự phát triển của sản xuất, điều đó đã được C.Mác chỉ rõ: “Nơi nào không có
một hình thái sở hữu nào cả thì ở đó cũng không có một nền sản xuất nào cả,
do đó, cũng không có một xã hội nào cả”[109, tr. 43].

Riêng đối với lĩnh vực nông nghiệp, tác động của sở hữu đối với lực
lượng sản xuất trong lĩnh vực này vừa tuân theo quy luật chung, vừa có những
nét đặc thù do đặc trưng ngành nghề quy định – một ngành nghề mà đối
tượng lao động chủ yếu là đất đai, người lao động thường có trình độ thấp hơn
đối với các ngành sản xuất khác, quá trình sản xuất chịu sự chi phối trực tiếp
của các quy luật tự nhiên, thổ nhưỡng và điều kiện thời tiết khí hậu, quy luật
sinh trưởng phát triển của cây trồng, vật nuôi.
Trong những năm trước đổi mới, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, đặc
biệt là những sai lầm chủ quan duy ý chí và rập khuôn máy móc, chúng ta đã
thiết lập nên một chế độ sở hữu không thực sự phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất, đặc biệt là lực lượng sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp –
một nền nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ, sản xuất thủ công là phổ biến, trình
độ của người lao động thấp kém, hầu như chỉ sản xuất theo kinh nghiệm mà
không có kiến thức về khoa học kỹ thuật nông nghiệp – chính vì vậy, quan hệ
sở hữu đó đã kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất trong lĩnh vực
nông nghiệp, năng suất lao động thấp, không đảm bảo nhu cầu lương thực,


2
thực phẩm của nhân dân. Hạn chế đó của sở hữu đã được khắc phục về cơ bản
trong thời kỳ đổi mới.
Sở hữu ở nước ta hiện nay là kết quả của quá trình đổi mới mạnh
mẽ, quyết liệt do Đảng ta đề ra và lãnh đạo thực hiện từ năm 1986 đến
nay. Trong thời kỳ này, quá trình đổi mới sở hữu đã thực sự xuất phát từ
thực trạng của lực lượng sản xuất. Nhờ quá trình đổi mới đó mà sở hữu ở
nước ta đã từng bước được hoàn thiện và ngày càng phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, do vậy nó đã tác động rất tích cực đến
lực lượng sản xuất, góp phần tạo ra những thành tựu quan trọng của nền
kinh tế trong những năm qua. Cũng giống như nhiều lĩnh vực sản xuất vật
chất khác, lực lượng sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp có những thay

đổi lớn, tiến bộ hơn nhiều so với những năm đầu đổi mới. Tuy nhiên, sở
hữu ở nước ta hiện nay vẫn còn những hạn chế nhất định. Chẳng hạn như
tình trạng phân biệt đối xử giữa các hình thức sở hữu, giữa các thành phần
kinh tế chưa được khắc phục triệt để; sở hữu nhỏ lẻ, phân tán còn phổ
biến; cách thức giao quyền sử dụng đất nông nghiệp cho các hộ nông dân
bắt đầu bộc lộ sự bất cập; quá trình thu hồi ruộng đất của nông dân để
phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở một số nơi còn có nhiều
hạn chế, tiêu cực; chưa thu hút được các nguồn lực thuộc sở hữu nước
ngoài tham gia vào quá trình sản xuất nông nghiệp;... Những hạn chế đó
của sở hữu đã tác động tiêu cực đến sự phát triển của lực lượng sản xuất
trong lĩnh vực nông nghiệp.
Tình hình đó cho thấy, cần phải tiếp tục có những nghiên cứu
khoa học để góp phần khắc phục những bất hợp lý, xóa bỏ những rào cản liên
quan đến sở hữu nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của
lực lượng sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp. Vì vậy, tôi quyết định lựa


3
chọn đề tài luận án tiến sĩ của mình là “Sở hữu và tác động của nó đối với
lực lượng sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp ở nước ta hiện nay”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
Làm rõ sở hữu và sự tác động của nó đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất từ đó đưa ra những nguyên tắc và giải pháp tiếp tục đổi mới sở
hữu nhằm thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của lực lượng sản xuất trong lĩnh
vực nông nghiệp.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Một là, tổng quan những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
luận án;
Hai là, làm rõ một số vấn đề lý luận về sở hữu, lực lượng sản xuất và

tác động của sở hữu đối với lực lượng sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp;
Ba là, làm rõ thực trạng tác động của sở hữu đối với lực lượng sản xuất
trong lĩnh vực nông nghiệp ở nước ta từ 1986 đến nay;
Bốn là, đưa ra những nguyên tắc và giải pháp về việc tiếp tục đổi mới
sở hữu nhằm thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất trong lĩnh vực
nông nghiệp ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi không nghiên cứu toàn bộ sự tác động của quan hệ sản xuất
đối với lực lượng sản xuất, mà chỉ nghiên cứu mặt cơ bản nhất của nó là sở
hữu và tác động của nó đối với lực lượng sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp
ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay. Trong quá trình nghiên cứu đề tài này,
chúng tôi đặc biệt chú trọng đến vấn đề sở hữu đất nông nghiệp.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác – Lênin và quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về sở hữu và tác động của nó đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp.


4
Phương pháp nghiên cứu là các nguyên tắc, quan điểm của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp quy nạp
– diễn dịch, phương pháp kết hợp lịch sử - lôgic, phương pháp so sánh và các
phương pháp chung của khoa học xã hội.
5. Cái mới của luận án
Luận án bổ sung thêm một số ý kiến về sở hữu và những tác động của
nó đối với lực lượng sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp.
Luận án góp phần làm rõ hơn những tác động của sở hữu đối với sự
phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta trong những năm thực hiện đường
lối đổi mới. Đặc biệt là dựa trên nguồn tư liệu phong phú và có giá trị, luận án
đã làm nổi bật những biến đổi tích cực của lực lượng sản xuất trong nông

nghiệp ở nước ta sau gần 30 năm đổi mới.
Luận án đưa ra một số nguyên tắc và giải pháp về việc tiếp tục đổi mới
sở hữu nhằm thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất trong lĩnh nông
nghiệp ở nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án góp phần hệ thống hóa quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin và những nhà nghiên cứu mácxít về sở hữu, lực lượng sản xuất, tác
động của sở hữu đối với lực lượng sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp.
Trên cơ sở làm rõ những tác động của sở hữu đối với lực lượng sản
xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, luận án đã đưa ra những nguyên tắc và giải
pháp có tính khả thi, góp phần giải quyết một số vấn đề bức thiết liên quan
đến sở hữu và sự tác động của nó đối với lực lượng sản xuất trong nông
nghiệp ở nước ta hiện nay.


5
Có thể sử dụng luận án này làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu
những vấn đề có liên quan.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và danh mục
các công trình nghiên cứu khoa học của tác giả, nội dung luận án gồm 4
chương, 9 tiết.


6
Chương 1:
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Những công trình nghiên cứu về sở hữu và lực lượng sản xuất
trong lĩnh vực nông nghiệp
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về sở hữu và sở hữu trong lĩnh

vực nông nghiệp
1.1.1.1. Những công trình nghiên cứu về sở hữu:
Sở hữu là mặt cơ bản nhất trong quan hệ sản xuất, đồng thời cũng là
quan hệ xã hội cơ bản nhất chi phối các quan hệ xã hội còn lại. Do vậy, sở
hữu đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều tác giả, tiêu biểu là các tác
giả với các công trình dưới đây.
- Tác giả Nguyễn Đình Kháng: Sở hữu về tư liệu sản xuất trong nền
kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay (Luận án phó Tiến sĩ Kinh tế,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1993). Từ góc độ kinh tế
học, tác giả Nguyễn Đình Kháng đã tập trung làm rõ việc sở hữu tư liệu sản
xuất với tính cách là một trong những điều kiện cơ bản nhất của quá trình sản
xuất. Tuy đã đề cập đến nhiều quan điểm mới của Đảng ta về việc sở hữu tư
liệu sản xuất, nhưng do luận án này được hoàn thành đã lâu (từ năm 1993),
nên nhiều nội dung quan trọng thể hiện tư duy mới của Đảng, Nhà nước ta về
sở hữu nói chung, sở hữu đất đai nói riêng (thể hiện rõ nét qua luật Đất đai
năm 1993 và sự bổ sung, sửa đổi của luật này trong những năm sau đó) chưa
được tác giả đề cập đến.
- Tác giả Lương Minh Cừ: Những quan niệm của C.Mác - Ph.Ăngghen
và V.I.Lênin về sở hữu trong chủ nghĩa xã hội (Luận án phó Tiến sĩ Triết học,
Viện Triết học, Hà Nội, 1995). Nhìn chung, luận án đã có những phân tích
sâu sắc và hệ thống hóa được các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về sở


7
hữu trong chủ nghĩa xã hội. Tác giả cũng đã lập luận một cách khoa học về
việc xóa bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữu là một quá trình lâu dài
và phải gắn với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Luận án này cũng đã chỉ
ra những sai lầm chủ quan dễ mắc phải, đồng thời làm rõ được những vấn đề
có tính nguyên tắc liên quan đến việc thiết lập chế độ sở hữu trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội.

- Tác giả Nguyễn Văn Thức: Sự tồn tại đồng thời nhiều loại hình sở
hữu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay (Luận án Tiến
sĩ Triết học,Viện Triết học, Hà Nội, 2001). Luận án này được hoàn thành
trong thời điểm Đảng và Nhà nước ta có những đổi mới mạnh mẽ về sở hữu,
nhất là chủ trương cổ phần hóa các nguồn lực thuộc sở hữu nhà nước để khai
thác, quản lý, sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực của nền sản xuất. Chính vì
vậy, xuyên suốt luận án này là tinh thần đổi mới mạnh mẽ quan hệ sở hữu
nhằm khai thác tối ưu nguồn lực hiện có. Bên cạnh đó, tác giả cũng có những
đánh giá xác đáng về vai trò của các hình thức sở hữu trong nền sản xuất của
nước ta hiện nay. Mặc dù luận án không đi sâu nghiên cứu sở hữu trong lĩnh
vực nông nghiệp, nhưng đây vẫn là nguồn tư liệu quý giá đối với chúng tôi.
- Tác giả Nguyễn Văn Thạo, Nguyễn Hữu Đạt (Đồng chủ biên): Một số
vấn đề về sở hữu ở nước ta hiện nay, (NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2004). Trong công trình này, các tác giả đã khái quát một số quan điểm về sở
hữu trên thế giới; hệ thống hóa các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về sở
hữu thời kỳ trước đổi mới và trong đổi mới (tính đến năm 2004). Theo các tác
giả này thì sở hữu là một phạm trù xã hội phản ánh quan hệ giữa người với
người trong việc chiếm hữu của cải vật chất, là hình thái xã hội có tính lịch sử
của việc chiếm hữu của cải vật chất và thông qua quan hệ xã hội ấy thỏa mãn
nhu cầu của mình; sở hữu không phải quan hệ giữa người với vật mà là quan
hệ xã hội giữa người với người đối với sự vật [134, tr. 45]. Trong công trình
này, các tác giả còn có sự khái quát nhiều quan điểm khác nhau về chủ thể sở


8
hữu, quyền sở hữu, chế độ sở hữu, các loại hình sở hữu trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội,... trên cơ sở đó các tác giả đưa ra những nhận định, khái
quát về nhiều nội dung quan trọng liên quan đến sở hữu [134, tr. 36-60].
- Tác giả Nguyễn Văn Thức: Sở hữu: lý luận và vận dụng ở Việt Nam
(NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004). Trên cơ sở những luận điểm của chủ

nghĩa Mác - Lênin về sở hữu, tác giả đã khái quát: “sở hữu là quan hệ giữa
con người với con người đối với việc chiếm hữu của cải và thông qua quan hệ
ấy, con người thực hiện mục đích thỏa mãn các nhu cầu của mình”. Bên cạnh
đó, nhiều vấn đề liên quan đến sở hữu như: sự chiếm hữu, chủ thể sở hữu và
đối tượng sở hữu, sở hữu cá nhân và sở hữu tư nhân, quyền sở hữu và chế độ
sở hữu, loại hình sở hữu và hình thức sở hữu,… cũng được tác giả phân tích
và đưa ra những nhận xét có giá trị [139, tr. 53-58].
- Tác giả Chử Văn Lâm (chủ biên): Sở hữu tập thể và kinh tế tập thể
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (NXB.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006). Các tác giả của công trình này đã nghiên
cứu, làm rõ sở hữu tập thể và kinh tế tập thể theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin và theo quan điểm của nhiều học giả khác; cả trên phương diện
lý luận và thực tiễn, cả thực tiễn trong nước và thực tiễn một số nước trên thế
giới; cả thực tiễn ở các nước xã hội chủ nghĩa, hoặc các nước trước đây là xã
hội chủ nghĩa và thực tiễn ở các nước tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy, công
trình của tác giả và các cộng sự đã cung cấp những cách nhìn đa chiều với
nguồn tư liệu rất phong phú, đa dạng về sở hữu nói chung, sở hữu tập thể và
kinh tế tập thể nói riêng. Theo tác giả và các cộng sự, quan hệ sở hữu có tính
hai mặt: (1) Sở hữu được hiểu theo nghĩa sở hữu xã hội là để chỉ rõ mối quan
hệ lao động xã hội trừu tượng, chung trong quá trình khai thác toàn bộ các
điều kiện khách quan của người sản xuất; (2) Sở hữu hiểu theo nghĩa quan hệ
lao động cá biệt là sự tư hữu các quá trình lao động cá biệt với các điều kiện


9
sản xuất cụ thể [65, tr. 17]. Xuyên suốt công trình này, các tác giả đã tập trung
làm rõ bản chất và các hình thức sở hữu tập thể; sự khác nhau giữa sở hữu tập
thể và sở hữu hỗn hợp; sự cần thiết của sở hữu tập thể và kinh tế tập thể cũng
như vai trò, vị trí của nó trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Có thể khẳng định rằng, công trình này tuy không đề cập trực

tiếp đến đề tài mà chúng tôi nghiên cứu, nhưng nó cũng đã góp phần giải
quyết được một số khía cạnh khác nhau thuộc phạm vi đề tài của chúng tôi,
đó là: góp phần làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về sở hữu tập
thể và kinh tế tập thể; một số quan điểm đột phá về đường lối phát triển sở
hữu tập thể và kinh tế tập thể trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam; thực trạng phát triển sở hữu tập thể và kinh tế tập
thể ở nước ta sau khi Luật Hợp tác xã (năm 1996) ra đời;…Tuy nhiên, do sự
chi phối của mục đích nghiên cứu, nên công trình này không đi sâu vào vấn
đề tác động của sở hữu tập thể, đặc biệt là tác động của những chủ trương,
chính sách mới về sở hữu tập thể, kinh tế tập thể đối với sự giải phóng và phát
triển lực lượng sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp. Chính vì vậy, chúng tôi
nhận thấy sự cần thiết phải làm rõ tác động của sở hữu nói chung, sở hữu tập
thể nói riêng đối với lực lượng sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp để kịp
thời đưa ra những giải pháp tiếp tục điều chỉnh sở hữu để thúc đẩy sự phát
triển lực lượng sản xuất trong lĩnh vực này.
- Tác giả Lương Việt Hải (chủ biên): Vấn đề sở hữu và phát triển bền
vững ở Việt Nam và Trung Quốc trong những năm đầu thế kỷ XXI (NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008). Thực ra, công trình này là một tập hợp các
bài viết của nhiều tác giả khác nhau, chẳng hạn như các tác giả: Nguyễn
Trọng Chuẩn với “Đổi mới quan niệm về chế độ sở hữu và ý nghĩa chiến lược
của nó đối với sự phát triển của Việt Nam hiện nay”; Phạm Văn Đức với “Đổi
mới về sở hữu ở Việt Nam: một số cơ sở lý luận”; Vũ Văn Viên với “Cổ phần


10
hóa - một phương tiện quan trọng để thực hiện đa dạng hóa các hình thức sở
hữu”; Đặng Hữu Toàn với “Sự tồn tại đan xen các hình thức sở hữu - một tất
yếu lịch sử, một yêu cầu bức thiết trong phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”; Nguyễn Văn Thức với “Sở hữu nhà nước về tài
nguyên đất đai ở Việt Nam”; Cát Lương Chí với “Khích lệ, cổ vũ và dẫn

đường cho sự phát triển các thành phần kinh tế phi công hữu - chính sách kiên
định, không đổi của Trung Quốc”…Các bài viết này đều tập trung vào việc
khái quát những quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng
Cộng sản Trung Quốc về sở hữu, nhất là chủ trương đa dạng hóa các hình
thức sở hữu trong những năm thực hiện đường lối đổi mới, cải cách ở 2 nước.
Các tác giả cũng đưa ra những cơ sở lý luận và thực tiễn để khẳng định tính
đúng đắn của những chủ trương đó. Đây là những tham luận trong các cuộc
Hội thảo khoa học, do vậy các vấn đề được trình bày phần nhiều còn dừng lại
ở mức độ khái quát, chưa thực sự phân tích một cách chi tiết về sở hữu ở Việt
Nam và Trung Quốc hiện nay.
- Tác giả Nguyễn Kế Tuấn (chủ biên): Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2010). Trong công trình này các tác giả đã hệ thống hóa, khái quát
hóa quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và quan điểm của nhiều nhà
nghiên cứu khác về sở hữu, qua đó đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận về sở
hữu, chẳng hạn như về các chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu trong nền
kinh tế thị trường; sự phát triển các chế độ sở hữu trong các phương thức sản
xuất xã hội; mối quan hệ giữa sở hữu với các hình thức tổ chức kinh tế trong
nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, trong quá trình tìm hiểu công trình này,
chúng tôi nhận thấy có một số vấn đề cần phải trao đổi thêm, chẳng hạn như
khi bàn về chế độ sở hữu, các tác giả cho rằng “chế độ sở hữu là khái niệm
mang tính tổng quát chỉ sở hữu ở khía cạnh bản chất nhất” [151, tr.144], cách


11
hiểu chế độ sở hữu như vậy rất khác so với các giáo trình Kinh tế chính trị
Mác – Lênin hiện nay.
- Tác giả Lương Minh Cừ - Vũ Văn Thư: Sở hữu tư nhân và kinh tế tư
nhân ở Việt Nam hiện nay - một số vấn đề nhận thức về lý luận và thực tiễn
(NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011). Trong công trình này, các tác giả đã

làm rõ được một số vấn đề lý luận về sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; quá trình đổi mới tư duy
của Đảng ta về sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân; đặc điểm của sở hữu tư nhân,
kinh tế tư nhân và vai trò của nó đối với sự phát triển của nền kinh tế nước ta
trong thời kỳ đổi mới; các tác giả cũng đưa ra những cơ sở và lập luận lôgic
khi nhận định xu hướng xã hội hóa sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy công trình này đã phần nào chỉ ra
được những tác động to lớn, tích cực của sở hữu tư nhân đối với nền kinh tế
đất nước trong thời kỳ đổi mới, nhưng do phạm vi nghiên cứu chỉ giới hạn ở
sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân, cho nên công trình này không thể đem đến
cái nhìn toàn diện, đầy đủ về tác động của quá trình đổi mới sở hữu đối với
lực lượng sản xuất nói chung, lực lượng sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp
nói riêng.
- Tác giả Nguyễn Đức Luận: Phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác
– Lênin về sở hữu trong giai đoạn hiện nay (Tạp chí Lý luận chính trị và
truyền thông, số tháng 12-2011, trang 19-24). Trong bài báo này, tác giả cho
rằng, các nhà kinh điển của nhủ nghĩa Mác - Lênin đã không đưa ra một định
nghĩa nào về sở hữu. Tuy nhiên, dựa vào cách trình bày của các ông, có thể
hiểu sở hữu là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc chiếm hữu các tư
liệu sản xuất [78, tr. 19]. Bên cạnh việc khái quát quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin về sở hữu, tác giả cũng khẳng định sự cần thiết phải có những bổ
sung, phát triển hợp lý các quan điểm này trong điều kiện của thời đại ngày


12
nay. Bởi lẽ, sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang làm
cho sở hữu xuất hiện thêm những hình thái mới; sự điều chỉnh của chủ nghĩa
tư bản đang làm cho sở hữu ngày càng dân chủ hóa, xã hội hóa; quá trình toàn
cầu hóa đang tác động mạnh đến quan hệ sở hữu; sự sụp đổ của mô hình kinh
tế kế hoạch hóa tập trung ở Liên Xô và Đông Âu đòi hỏi chúng ta phải nhìn

nhận lại vai trò của các hình thức sở hữu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội; sự phát triển của khoa học xã hội, đặc biệt là triết học, kinh tế và sự
hoàn thiện của luật pháp cũng đưa lại những nhận thức đầy đủ hơn về sở hữu,
hình thức sở hữu, quyền sở hữu [78, tr. 21 – 24]. Nội dung của bài báo này đã
gợi mở cho chúng tôi một số ý tưởng quan trọng trong quá trình thực hiện đề
tài của mình.
- Tác giả Nguyễn Đức Luận: Tiến trình đổi mới quan hệ sở hữu ở nước
ta từ năm 1986 đến nay (Tạp chí Thông tin KHXH, số 308, 2011). Trong bài
báo này, tác giả đã hệ thống, khái quát các chủ trương, chính sách cơ bản của
Đảng, Nhà nước ta về sở hữu và đưa ra những tư liệu, số liệu có giá trị chứng
minh cho tính đúng đắn của việc đổi mới quan hệ sở hữu ở nước ta trong thời
kỳ đổi mới. Theo tác giả thì sau 25 năm đổi mới, quan hệ sở hữu ở nước ta đã
có những thay đổi mang tính bước ngoặt: không còn là chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất chiếm ưu thế tuyệt đối như trước đổi mới, quan hệ sở hữu ở
nước ta hiện nay, ngoài sở hữu toàn dân, tập thể còn sở hữu tư nhân, hỗn hợp;
ngoài chủ thể sở hữu trong nước còn có chủ thể sở hữu nước ngoài, ngoài
những tư liệu sản xuất thuộc về đơn sở hữu còn có những tư liệu sản xuất
thuộc về đa sở hữu,... Chính quá trình đa dạng hóa, xã hội hóa sở hữu đã tạo
ra khả năng huy động nguồn lực toàn xã hội tham gia vào quá trình sản xuất
kinh doanh [79, tr 30].
Bên cạnh các công trình nghiên cứu chuyên sâu về quan hệ sở hữu nói
trên còn có những công trình nghiên cứu có đề cập đến sở hữu trong quá trình


13
bàn về quan hệ sản xuất, chẳng hạn như các công trình: Xây dựng và hoàn
thiện quan hệ sản xuất mới ở Việt Nam do tác giả Phạm Thị Quý chủ biên
(NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000); Xây dựng quan hệ sản xuất định
hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội ở Việt Nam do
tác giả Lương Xuân Quỳ chủ biên (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002).

Các công trình này đều nhấn mạnh đến tính đúng đắn của việc đổi mới quan
hệ sản xuất ở nước ta, trong đó căn bản nhất là sự đổi mới về sở hữu. Chính
sự đổi mới theo hướng đa dạng hóa quan hệ sở hữu, thừa nhận sự tồn tại của
sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp, sở hữu nước ngoài, đã dẫn đến sự hình thành
nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những nội dung đổi mới này
đã tạo ra môi trường thuận lợi cho quá trình giải phóng và phát triển của lực
lượng sản xuất. Tuy nhiên, việc đổi mới quan hệ sản xuất nói chung, đổi mới
sở hữu nói riêng cũng làm nảy sinh khả năng chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Do vậy, các tác giả, đặc biệt là tác giả Lương Xuân Quỳ và các cộng sự luôn
chú trọng đến việc nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo đổi mới
quan hệ sản xuất phải đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhìn chung, vấn đề sở hữu với tính chất đặc biệt quan trọng vốn có của
nó, luôn được các nhà khoa học đặc biệt quan tâm nghiên cứu nhằm tìm ra
các giải pháp để tiếp tục đổi mới, làm cho quan hệ sở hữu vừa tạo ra được
những điều kiện thuận lợi hơn nữa cho sự phát triển của lực lượng sản xuất,
vừa đảm bảo được định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.1.1.2. Những công trình nghiên cứu về sở hữu trong lĩnh vực
nông nghiệp:
Tư liệu sản xuất trong nông nghiệp bao gồm nhiều yếu tố khác nhau,
nhưng quan trọng và đặc trưng nhất là đất đai. Đối với một nước nông nghiệp
như Việt Nam thì vai trò của đất đai càng trở nên quan trọng. Đã có rất nhiều


14
tác giả nghiên cứu về vấn đề này. Dưới đây là những tác giả cùng với các
công trình nghiên cứu mà chúng tôi đã có dịp tiếp cận, tìm hiểu.
- Tác giả Nguyễn Đình Kháng: Cơ sở lý luận và thực tiễn tiếp tục hoàn
thiện chính sách đất đai ở Việt Nam hiện nay (NXB Lao động, Hà Nội, 2008).
Trong công trình này, tác giả đã đề cập đến những vấn đề sau: lý luận Mác –

Lênin về quan hệ đất đai; sự vận động của quan hệ đất đai và quá trình hình
thành chính sách đất đai ở Việt Nam; xu hướng vận động của quan hệ đất đai,
những quan điểm và giải pháp để hoàn thiện chính sách đất đai ở Việt Nam.
Về thực chất, công trình này chủ yếu bàn về đất đai gắn liền với quan hệ sản
xuất, từ vấn đề sở hữu đất đai đến việc quản lý đất đai và phân phối các lợi
ích gắn với đất đai. Trong công trình này, bên cạnh việc làm rõ những thành
tựu đã đạt được từ việc thực hiện các chính sách đất đai, tác giả đặc biệt nhấn
mạnh đến những hạn chế, yếu kém, phức tạp liên quan đến chính sách đất đai
và nguyên nhân của tình trạng đó, đó là “chính sách giải quyết quan hệ đất đai
đã không theo kịp thực tế. Cụ thể đó là sự không nhất quán về quan điểm sở
hữu đất đai và giới hạn của quyền sử dụng đất đai của dân cư; là chính sách
không phản ánh đúng sự biến động giá cả thị trường về quyền sử dụng đất;
…”[61, tr. 309]. Những hạn chế trên và nguyên nhân của những hạn chế mà
tác giả đã chỉ ra trong công trình này càng cho thấy cần phải tiếp tục có những
nghiên cứu về vấn đề sở hữu trong lĩnh vực nông nghiệp nói chung, sở hữu
đất đai nói riêng để góp phần giải quyết những vướng mắc, rào cản trong lĩnh
vực này, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc khai thác, sử dụng các
nguồn lực trong lĩnh vực nông nghiệp.
- Tác giả Vũ Tuấn Anh: Vấn đề đất đai trong quá trình thực hiện Hiến
pháp 1992 (Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 405, tháng 2-2012). Trong bài
báo này, tác giả đã điểm lại lịch sử và tình hình đất đai, tác giả nhấn mạnh đến
Luật Đất đai năm 2003 với tính cách là văn bản tích hợp đổi mới chính sách
đất đai (nhất là những vấn đề liên quan đến sở hữu) trong thời gian 10 năm kể


15
từ Hiến pháp năm 1992. Tác giả đặc biệt quan tâm đến những tác động của
việc thực hiện luật Đất đai 1992: số diện tích đất nông nghiệp chuyển sang
mục đích phi nông nghiệp tăng mạnh; chỉ trong vòng 10 năm mà số đất thu
hồi của nông dân lên đến 1 triệu héc ta, hệ quả là khoảng 10 triệu người bị

ảnh hưởng, lượng lao động di chuyển từ nông thôn ra thành thị tăng mạnh,…
[2, tr. 21]. Chúng tôi nhận thấy cách tiếp cận của tác giả rất gần với hướng
tiếp cận của chúng tôi, đó là xem xét sự biến đổi của sở hữu trong mối quan
hệ chặt chẽ với sự biến đổi của lực lượng sản xuất. Tất nhiên, đây là một vấn
đề lớn, cho nên, nếu chỉ dừng lại quy mô là một bài báo khoa học như vậy thì
rất khó có thể giải quyết tốt vấn đề này.
- Tác giả Vũ Văn Phúc: Sở hữu toàn dân về đất đai: tất yếu nhưng cần
đổi mới về nội dung trong cơ chế hiện thực hóa (Tạp chí lý luận chính trị, số
4, năm 2012, tr. 24 – 29). Trong bài báo này, tác giả phê phán quan điểm đa
dạng hóa, tư hữu hóa đất đai. Đồng thời, tác giả khẳng định đất đai thuộc sở
hữu toàn dân, và tác giả đã đưa ra được một số cơ sở lý luận và thực tiễn để
chứng minh cho tính đúng đắn của quan điểm đó. Những vấn đề mà bài báo
đã đề cập đến đang được tranh luận rất sôi nổi trong giới nghiên cứu. Chúng
tôi cũng nhận thấy sự cần thiết phải dựa trên các kết quả nghiên cứu để thể
hiện quan điểm của mình về những vấn đề này (vấn đề sở hữu toàn dân về đất
đai và vấn đề tư hữu đất đai).
- Tác giả Đinh Trọng Thắng: (7/2012), Sở hữu tư nhân về đất đai hay
về quyền sử dụng đất đai: kinh nghiệm quốc tế và một vài liên hệ với Việt
Nam (Tạp chí Tài chính quốc tế và hội nhập, số 7 năm 2012, tr. 47 – 50).
Trong bài báo này, tác giả đã cung cấp những tư liệu rất phong phú về vấn đề
sở hữu đất đai ở nhiều nước trên thế giới. Trong đó, ở các nước xã hội chủ
nghĩa, về cơ bản là không thừa nhận tư hữu đất đai, trong khi đó ở các nước
tư bản chủ nghĩa thì việc tư hữu đất đai thường được khẳng định rõ ràng trong
Hiến pháp và các bộ luật. Khi nói đến sở hữu toàn dân về đất đai, tác giả nhận


16
định đây không phải là một rào cản đối với sự phát triển. Chúng tôi đặc biệt
chú ý nhận định này và thấy rằng, nếu nhận định như vậy thì cần phải có
những lý giải, lập luận xác đáng và có tính thuyết phục hơn.

- Tác giả Nguyễn Ngọc Vinh, Đa dạng hóa quyền sở hữu đất đai những vấn đề cần bàn luận (Tạp chí Phát triển và hội nhập, số 9 năm 2013, tr.
73 – 76). Trong khi rất nhiều tác giả khác khẳng định tính đúng đắn và sự
cần thiết phải thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, thì tác giả
Nguyễn Ngọc Vinh lại chỉ ra rằng, “khái niệm về quyền sở hữu toàn dân
rất chung chung, trong khi Nhà nước định đoạt trao quyền sử dụng đất, có
quyền thu hồi đất,…”[158, tr. 75]. Tác giả cũng chỉ ra những vấn đề phức
tạp, tiêu cực liên quan đến đất đai trong giai đoạn hiện nay, như tình trạng
tham nhũng, lãng phí, khiếu kiện kéo dài,…Từ đó tác giả đưa ra hướng
tiếp cận của mình về vấn đề sở hữu đất đai là cần công nhận quyền sở hữu
đất đai cho người dân, hay nói khác đi là đa dạng hóa các quyền sở hữu.
Chúng tôi tôn trọng quan điểm của tác giả Nguyễn Ngọc Vinh, bởi lẽ, tình
hình đất đai ở nước ta hiện nay có nhiều phức tạp, gắn với nhiều hiện
tượng tiêu cực, vì vậy quan điểm của tác giả công trình này cũng cần
được đem ra thảo luận để góp phần giải quyết những bất cập liên quan đến
chính sách đất đai ở nước ta hiện nay, nhằm tạo ra những điều kiện thuận
lợi hơn nữa cho việc khai thác, phát triển lực lượng sản xuất trong lĩnh
vực nông nghiệp.
Bên cạnh các công trình trên, còn có rất nhiều các công trình, bài báo
khác đề cập đến vấn đề sở hữu đất đai, đặc biệt là các bài tham luận tại “Hội
thảo hoàn thiện các báo cáo rà soát luật Đất đai, luật Xây dựng, luật Đấu thầu,
luật Kinh doanh bất động sản” do phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam phối hợp với Văn phòng Chính phủ tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh
ngày 25-8-2011. Các công trình bàn về vấn đề này thể hiện tính đa chiều và


17
tính chất phức tạp của vấn đề sở hữu đất đai, điều đó càng chứng tỏ phải tiếp
tục có những nghiên cứu công phu với nhiều góc độ tiếp cận khác nhau về
vấn đề này.
Như vậy, đã có nhiều công trình bàn đến sở hữu trong lĩnh vực nông

nghiệp, tập trung chủ yếu đến việc sở hữu một loại tư liệu sản xuất quan trọng
nhất trong nông nghiệp là sở hữu đất đai, nhất là sở hữu đất đai trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Các công trình trên đã thể
hiện những quan điểm tương đối khác nhau về vấn đề sở hữu trong lĩnh vực
nông nghiệp nhưng đều có chung một mục đích là hướng đến xây dựng những
quan hệ sở hữu phù hợp, có tác dụng tích cực đối với việc giải phóng, khai
thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực của nền sản xuất nông nghiệp.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về lực lượng sản xuất và lực
lượng sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp
1.1.2.1. Những công trình nghiên cứu về lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất là một mặt của phương thức sản xuất, là yếu tố cơ
bản nhất của mỗi nền sản xuất, suy cho cùng thì sự phát triển của lực lượng
sản xuất là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi diễn ra trong xã hội. Mối
liên hệ tác động lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất hình
thành nên quy luật quan trọng nhất chi phối sự vận động phát triển của xã hội:
quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Tuy nhiên, do sự chi phối của mục đích nghiên cứu, cho nên
trong nhiều trường hợp người ta nghiên cứu lực lượng sản xuất một cách
tương đối độc lập so với các yếu tố khác trong xã hội, thậm chí nhiều tác giả
chỉ tập trung nghiên cứu một yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất. Dưới đây là
các tác giả cùng với những công trình nghiên cứu như vậy.


18
- Tác giả Phan Thanh Tâm: Các giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực phục vụ nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
(Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2000). Dưới góc
độ kinh tế học, tác giả luận án này đã tiếp cận nguồn nhân lực với tính cách là
nguồn lực quan trọng nhất của quá trình phát triển sản xuất, kinh tế - xã hội.
Trong luận án này, trên cơ sở phân tích thực trạng chất lượng nguồn nhân lực

Việt Nam trong giai đoạn 1989 - 1999, tác giả nhấn mạnh những hạn chế yếu
kém của nguồn nhân lực ở nước ta và cho rằng việc nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực là nhiệm vụ trước tiên trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
- Tác giả Trần Thanh Đức: Nhân tố con người trong lực lượng sản xuất
với vấn đề đào tạo người lao động trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Việt Nam hiện nay (từ thực tiễn đồng bằng sông Cửu long) (Luận án
tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002).
Trong luận án này, tác giả tập trung vào những vấn đề sau: vấn đề con người
và nhân tố con người trong lực lượng sản xuất; phát huy nhân tố con người
trong lực lượng sản xuất thông qua quá trình đào tạo người lao động đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam;... Nhìn chung, luận án này
đã làm rõ được nguồn lực con người với tính cách là bộ phận quan trọng nhất
cấu thành lực lượng sản xuất cả trên phương diện lý luận và thực tiễn.
- Tác giả Hồ Anh Dũng: Phát huy yếu tố con người trong lực lượng
sản xuất ở Việt Nam (NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002). Trong công trình
này, tác giả đã làm rõ được các yếu tố của lực lượng sản xuất theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác – Lênin. Theo tác giả thì không nên tách ra quá nhiều yếu
tố trong lực lượng sản xuất, mà thực ra lực lượng sản xuất chỉ có 2 yếu tố là
người sản xuất và các sự vật vật chất của sản xuất. Trong đó, con người đóng
vai trò quyết định. Đồng thời, tác giả đã phần nào chỉ ra được ưu điểm, hạn


19
chế và đưa ra được một số phương hướng phát huy yếu tố con người trong lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay. Việc nghiên cứu công trình này đã giúp
chúng tôi dễ dàng hơn trong việc chỉ ra đặc điểm của người lao động trong
lĩnh vực nông nghiệp ở nước ta hiện nay.
- Tác giả Phạm Công Nhất: Phát huy nhân tố con người trong phát
triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay (NXB Chính trị Quốc gia, Hà

Nội, 2007). Công trình này có tên gọi rất giống với công trình của tác giả Hồ
Anh Dũng mà chúng tôi đã đề cập đến ở ngay phía trên. Tuy vậy, những đánh
giá về thành tựu, hạn chế cũng như những nguyên nhân của những thành tựu,
hạn chế trong việc phát huy nhân tố con người ở nước ta hiện nay được tác
giả thể hiện đầy đủ và có tính hệ thống hơn. Song, do việc nghiên cứu nhân tố
con người (yếu tố quyết định trong lực lượng sản xuất) trong sự tách rời với
quan hệ sản xuất, cho nên tác giả chưa chỉ ra được một số rào cản trong quan
hệ sản xuất nói chung, quan hệ sở hữu nói riêng đối với việc phát huy nguồn
nhân lực ở Việt Nam.
- Tác giả Võ Văn Đức (chủ biên): Huy động và sử dụng các nguồn lực
chủ yếu nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam (NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2009). Công trình này đề cập đến lực lượng sản xuất tương đối
toàn diện (gồm nguồn lực con người, nguồn lực vốn, nguồn lực đất đai, tài
nguyên thiên nhiên, nguồn lực khoa học và công nghệ) cả trên phương diện lý
luận và thực tiễn Việt Nam. Các tác giả của công trình này không chỉ làm rõ
thực trạng, mà còn đưa ra những giải pháp rất có giá trị về việc huy động và
sử dụng các nguồn lực chủ yếu (lực lượng sản xuất) nhằm đảm bảo nâng cao
tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Tuy nhiên, do mục đích nghiên cứu
nên tác giả và các cộng sự đã không bàn nhiều đến việc khắc phục những rào
cản (những bất hợp lý) trong quan hệ sở hữu để huy động, khai thác hiệu quả
hơn nữa các nguồn lực trên.


20
- Tác giả Trần Hồng Lưu: Vai trò của tri thức khoa học trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay (NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2011). Trong công trình này, tác giả không chỉ đề cập
đến khoa học với tư cách là kết quả của quá trình nhận thức, tồn tại dưới
dạng lý luận, học thuyết khoa học, mà tác giả còn bàn đến quá trình vật
chất hóa khoa học, tức kỹ thuật - công nghệ và nguồn nhân lực khoa học –

công nghệ. Công trình này đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của tri thức
khoa học đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn hiện
nay.
Như vậy, khi bàn về lý luận chung của lực lượng sản xuất và lực lượng
sản xuất ở Việt Nam, các tác giả đã hệ thống hóa, khái quát hóa nhiều nội
dung quan trọng và đưa ra được nhiều phân tích sâu sắc cả về yếu tố người
lao động và tư liệu sản xuất. Do vậy, những tài liệu này có giá trị tham khảo
rất lớn đối với chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài của mình.
1.1.2.2. Những công trình nghiên cứu về lực lượng sản xuất trong lĩnh
vực nông nghiệp:
Lực lượng sản xuất trong nông nghiệp nổi bật với 2 bộ phận là người
nông dân và đất đai. Trong quá trình sưu tầm, nghiên cứu tài liệu, chúng tôi
đã có dịp tiếp cận, tìm hiểu rất nhiều tài liệu bàn về những vấn đề này, tiêu
biểu là các công trình dưới đây.
- Thực trạng nông nghiệp, nông thôn và nông dân Việt Nam 1976 –
1990 của tác giả Nguyễn Sinh Cúc (Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 1991).
Trong công trình này, tác giả đã tập trung làm rõ thực trạng nông nghiệp,
nông thôn và nông dân Việt Nam 1976 – 1990 trên nhiều phương diện khác
nhau, đặc biệt là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong lĩnh vực nông
nghiệp. Tuy không phủ nhận những thành tựu đạt được cả trước và trong


21
những năm đầu đổi mới, nhưng tác giả cũng nhận thấy những khó khăn, hạn
chế, yếu kém của nông nghiệp, nông thôn, nông dân Việt Nam. Tác giả cũng
chỉ ra nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, yếu kém đó, trong đó có
những nguyên nhân liên quan đến quan hệ sản xuất, nhất là quan hệ sở hữu,
đòi hỏi phải có những điều chỉnh kịp thời.
- Vấn đề ruộng đất ở Việt Nam của tác giả Lâm Quang Huyên (NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007). Đây là một công trình nghiên cứu chuyên

sâu và có hệ thống về vấn đề ruộng đất. Theo tác giả, trong sản xuất nông
nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản xuất quan trọng nhất, là loại tư liệu sản xuất
đặc biệt, không có gì có thể thay thế được, còn nông dân lao động lại là nhân
tố quyết định của quá trình sản xuất [58, tr. 14]. Tác giả đã liệt kê hàng loạt
những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề ruộng đất và
đưa ra các số liệu thống kê ở nhiều địa phương (chủ yếu ở các tỉnh Đồng bằng
sông Cửu Long) để phục vụ cho các lập luận của mình. Tuy nhiên, những
phân tích, đánh giá của tác giả ở tầm triết học (tức xem xét vấn đề ruộng đất
trên bình diện mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất – quan hệ sản xuất) chưa
được rõ nét.
- Sử dụng nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa
ở Việt Nam của Trần Thị Minh Ngọc (Luận án tiến sĩ Kinh tế, Viện Kinh tế
học, Hà Nội, 2001). Công trình này tập trung đặc biệt đến kinh nghiệm nước
ngoài về sử dụng nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa.
Khi đề cập đến thực tiễn Việt Nam, tác giả đã làm sáng tỏ được một số đặc
điểm của nguồn nhân lực nông thôn; thực trạng, xu hướng vận động nguồn
nhân lực nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa ở nước ta. Tuy nhiên, có
một số hạn chế của nguồn nhân lực nông thôn nước ta vẫn chưa được tác giả
tập trung làm rõ để tìm cách khắc phục, chẳng hạn như đặc điểm trình độ của
người lao động nông thôn thấp, ý thức kỷ luật không cao.


×