Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HỆ THỐNG ĐÀI TRUYỀN THANH CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG TRỊ ĐẾN NĂM 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (497.28 KB, 120 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG TRỊ
SỞ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG

ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TỈNH

“THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
HỆ THỐNG ĐÀI TRUYỀN THANH CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG
TRỊ ĐẾN NĂM 2020”

Xác nhận của cơ quan chủ trì đề tài

Trần Phương Nam

Quảng Trị, tháng

Chủ nhiệm đề tài

Nguyễn Hoàn

năm 2013

1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ lâu, hệ thống đài truyền thanh cơ sở là phương tiện tuyên truyền hữu hiệu
của địa phương, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; là công cụ trực tiếp
của Đảng, chính quyền địa phương trong công tác chỉ đạo, quản lý, điều hành để
phát triển kinh tế, xã hội. Đây là cơ quan thông tin, tuyên truyền để giúp nhân dân
nắm bắt các chủ trương, chính sách của cấp trên và chính quyền địa phương. Tuy


nhiên, địa hình của tỉnh tương đối dốc và bị chia cắt bởi đồi núi, khí hậu nhiệt đới
ẩm gió mùa cộng với tác động của thời tiết mưa nắng thất thường, nhất là các xã
ven biển, ảnh hưởng của sự xâm nhập mặn làm cho các thiết bị của các đài truyền
thanh thường xuyên bị sét, gỉ, hỏng hóc. Đặc biệt, các xã ở vùng sâu, vùng xa thuộc
khu vực miền núi, trung du có địa hình núi cao thường xuyên bị chắn sóng, khuất
sóng, lõm sóng. Đồng thời, một số cụm dân cư sống phân tán rải rác cũng gặp
những khó khăn trong việc thu sóng phát thanh và truyền hình của tỉnh, huyện.
Công tác đầu tư, xây dựng, nâng cấp trang thiết bị của hệ thống đài truyền
thanh cơ sở có nhiều hạn chế. Hoạt động của hệ thống này thời gian gần đây phát
sinh nhiều bất cập, có địa phương sử dụng đài truyền thanh phát sóng vô tuyến, có
địa phương sử dụng phát sóng hữu tuyến, không có sự thống nhất chung. Hầu hết,
trang thiết bị của các đài truyền thanh đã lạc hậu, máy phát có công suất nhỏ đã qua
sử dụng lâu năm nên bị xuống cấp trầm trọng. Đội ngũ cán bộ, nhân viên làm việc
tại các đài truyền thanh cơ sở chưa được quan tâm đúng mức, chưa được hưởng các
chế độ cần thiết.
Theo Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Trị đến năm
2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 321/QĐ-TTg ngày
2/3/2011, tỉnh Quảng Trị được xác định xây dựng sớm trở thành một trong những
trung tâm giao lưu, hợp tác phát triển với các địa phương trong nước và với các
nước trong tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng, là một trong những cửa ngõ hướng

2


ra biển Đông của các nước và vùng lãnh thổ trên tuyến Hành lang Kinh tế Đông Tây.
Bên cạnh đó, Chương trình mục tiêu quốc gia đưa thông tin về cơ sở miền núi,
vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo và Chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới đang đặt ra nhiều yêu cầu bức thiết về phát triển hệ thống Đài
Truyền thanh cơ sở. Quy hoạch phát triển Báo chí tỉnh Quảng Trị đến năm 2020
được UBND tỉnh Quảng Trị phê duyệt tại Quyết định số 1172/QĐ-UBND ngày

22/6/2011 đã đề ra mục tiêu: “Các trạm truyền thanh đều có thể tự sản xuất chương
trình cho mình, phù hợp với đặc điểm địa phương, truyền thanh xã trở thành một
công cụ tuyên truyền hiệu quả, cung cấp thông tin thiết yếu liên quan đến đời sống
sinh hoạt và hoạt động nông nghiệp, lâm nghiệp. Phát triển mạnh hệ thống truyền
thanh cấp xã đến với đông đảo nhân dân, trong đó có vùng dân tộc thiểu số, nâng
cao chất lượng nội dung của chương trình truyền thanh xã, đặc biệt là khu vực
không có sóng truyền hình tỉnh”.
Trước những yêu cầu đó, việc thực hiện đề tài nghiên cứu: “Thực trạng và
giải pháp nâng cao chất lượng hệ thống đài truyền thanh cơ sở trên địa bàn tỉnh
Quảng Trị đến năm 2020” là rất cần thiết, vừa mang tính thời sự trước mắt, vừa có
tính chiến lược lâu dài.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thời gian qua, với chức năng, nhiệm vụ được giao, hệ thống đài truyền thanh
cơ sở đã trở thành phương tiện thông tin có sức lan tỏa mạnh mẽ và hiệu quả. Đặc
biệt, ở các huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa đã chứng minh vai trò to lớn của hệ
thống này. Việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống đài truyền
thanh cơ sở sẽ góp phần đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước đến với đông đảo quần chúng nhân dân, tạo nhịp cầu nối giữa Đảng,
Nhà nước và nhân dân, góp phần xây dựng hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn
vững mạnh.

3


Tuy nhiên, hiện nay có 2 luồng quan điểm. Một quan điểm cho rằng cần xóa
bỏ hệ thống đài truyền thanh cơ sở, chỉ cần duy trì Đài Phát thanh-Truyền hình
(PT-TH) tỉnh, bởi ở một số địa phương, hệ thống này chưa thực sự phát huy vai trò,
hiệu quả. Các đài huyện thực hiện việc cộng tác thông tin cho Đài PT-TH tỉnh đã
cung cấp thông tin về tình hình hoạt động của địa phương. Một quan điểm khác cho
rằng cần có sự nghiên cứu sâu sắc để từ đó đánh giá đúng thực trạng hoạt động của

hệ thống đài truyền thanh cơ sở. Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn phát triển của loại
hình báo nói trên cả nước và xu hướng phát triển của phát thanh hiện đại trên thế
giới, cần có tầm nhìn chiến lược, đề ra các giải pháp phát triển hệ thống đài truyền
thanh cơ sở theo đúng yêu cầu, chức năng của nó.
Từ khi ra đời cho đến nay, hệ thống đài truyền thanh cơ sở trên địa bàn tỉnh
Quảng Trị chưa được nghiên cứu đầy đủ về thực trạng phát triển. Quy hoạch phát
triển Báo chí tỉnh Quảng Trị đến năm 2020 chưa khái quát và đánh giá thực trạng
của hệ thống đài truyền thanh cơ sở. Quy hoạch chỉ mới nêu hướng phát triển
chung cho Đài PT-TH tỉnh, hướng phát triển kênh phát thanh, kênh truyền hình mà
chưa đề cập đến hướng phát triển hệ thống đài truyền thanh cơ sở. Tương lai hệ
thống này như thế nào khi phát thanh - truyền hình ngày càng phát triển theo hướng
hiện đại: Xóa sổ, thu hẹp số lượng hay cần đầu tư nhiều hơn về cơ sở vật chất và
các điều kiện khác để phát triển?
Đến nay, các nhà nghiên cứu lý luận báo chí trên thế giới vẫn khẳng định quan
điểm: “Khi có một sự kiện xảy ra, phát thanh đưa tin, truyền hình diễn tả, còn báo
in bình luận”. Tính nhanh chóng, thuận tiện của loại hình báo nói này đã được thực
tiễn chứng minh. Chính vì thế, cần có một đề tài nghiên cứu khoa học nghiên cứu
sâu rộng vấn đề này, xuất phát chính từ những yêu cầu bức xúc của thực tiễn, từ đó
đề ra các giải pháp phát triển toàn diện hệ thống đài truyền thanh cơ sở theo hướng
hiện đại, phục vụ tốt yêu cầu nhiệm vụ chính trị, góp phần phát triển kinh tế - xã
hội ở địa phương đến năm 2020.

4


Ngoài nước: Chúng tôi chưa có điều kiện nghiên cứu chuyên sâu, chỉ tìm hiểu
qua một số tác phẩm được dịch sang tiếng Việt như: “Hướng dẫn sản xuất chương
trình phát thanh” của tác giả Lois Baird, Trường Phát thanh, Truyền hình và Điện
ảnh Ôxtrâylia (Tài liệu tham khảo nội bộ Đài Tiếng nói Việt Nam); “Phát thanh
truyền thống và phát thanh trực tiếp” của tác giả Carl Defoy đăng trên Nội san

Nghiệp vụ phát thanh, Đài Tiếng nói Việt Nam, số 2; “Nhà báo hiện đại” của The
Missouri Group, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, năm 2007…
Qua tìm hiểu, nghiên cứu một số tài liệu, chúng tôi nhận thấy, do có nhiều đặc
điểm khác biệt về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… nên hệ thống đài truyền
thanh cơ sở ở nước ta nói chung, tỉnh Quảng Trị nói riêng không có đặc điểm giống
như nhiều nước trên thế giới. Những nghiên cứu về phát thanh nước ngoài góp
phần hỗ trợ thêm về mặt kỹ thuật sản xuất chương trình, cơ sở vật chất... Một số
quan điểm và kinh nghiệm phát triển khác của phát thanh thế giới khó vận dụng
vào điều kiện nước ta nói chung, tỉnh Quảng Trị nói riêng.
Trong nước: Ở thời điểm này, bức tranh chung về hệ thống phát thanh ở Việt
Nam vẫn có cả hai gam màu sáng - tối. Ở một số địa phương trong cả nước, không
chỉ hệ thống các đài phát thanh cấp huyện và cấp xã, mà kể cả phát thanh cấp tỉnh
cũng bị báo in, báo hình, báo mạng lấn át. Tuy nhiên, ở nhiều nơi, đặc biệt là tại
các tỉnh miền núi vốn còn nghèo và các địa phương vùng sâu, vùng xa… phát
thanh vẫn tiếp tục phát huy hiệu quả và có được lượng công chúng thính giả thường
xuyên và đông đảo.
Trong những năm qua, đã có một số công trình nghiên cứu trong nước có liên
quan đến phát thanh ở nhiều góc độ khác nhau như: phương thức sản xuất phát
thanh hiện đại hoặc tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ cho người làm báo phát thanh.
Một tài liệu có tiêu đề “Hướng dẫn nghiệp vụ phát thanh - truyền thanh địa
phương nông thôn” của Đài Tiếng nói Việt Nam (tái bản năm 2005) có phần trình
bày, hướng dẫn những kỹ năng làm chương trình phát thanh ở các địa phương nông
thôn như: lựa chọn đề tài cho chương trình, kỹ năng phỏng vấn người dân, phỏng
5


vấn cán bộ làng, xã, kỹ năng dẫn chương trình, sử dụng micro và ghi âm… Hầu hết
tài liệu này để phục vụ những người làm phát thanh địa phương tham khảo về mặt
nghiệp vụ.
Qua tìm hiểu của chúng tôi, trong khoảng 5 năm vừa qua, ở hai cơ sở đào tạo

là Học viện Báo chí và Tuyên truyền và Khoa Báo chí - Truyền thông, Trường Đại
học KHXH&NV Hà Nội đến nay cũng chưa thấy có công trình nghiên cứu nào ở
cấp độ luận văn Thạc sỹ và luận án Tiến sỹ Truyền thông đại chúng riêng về vấn đề
thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng hệ thống đài truyền thanh cơ sở đến
năm 2020.
Rải rác ở một số địa phương có một số tác giả nghiên cứu về hệ thống truyền
thanh cơ sở. Tuy nhiên, các nghiên cứu này mới chỉ nghiên cứu ở một vài góc độ
về hệ thống truyền thanh cơ sở hoặc mới chỉ dừng lại ở việc đề xuất một số giải
pháp mang tính chất chung chung, chưa có đề tài nghiên cứu chuyên sâu trên cơ sở
nghiên cứu thực trạng và đề ra các giải pháp chiến lược phát triển phát thanh hiện
đại trong vòng 5-10 năm tới cho hệ thống đài truyền thanh cơ sở, nhất là đối với
các địa phương có điều kiện kinh tế, xã hội còn chậm phát triển.
Vì thế, đề tài “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng hệ thống đài
truyền thanh cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Trị đến năm 2020” là tài liệu lý luận
quý giá cho các nhà nghiên cứu và đồng thời là cơ sở để các cơ quan chức năng áp
dụng trong thực tiễn, đưa hệ thống đài truyền thanh cơ sở phát triển tương xứng với
vai trò, vị trí và chức năng của nó, đáp ứng được các yêu cầu trong giai đoạn mới.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu:
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn, đề xuất những giải
pháp có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống
Đài Truyền thanh cơ sở đến năm 2020.
3.2. Nhiệm vụ

6


- Khảo sát và đánh giá thực trạng phát triển của hệ thống đài truyền thanh cơ sở
trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.
- Đề ra các giải pháp phát triển toàn diện hệ thống đài truyền thanh cơ sở: giải

pháp phát triển cơ sở vật chất, kỹ thuật; nâng cao chất lượng chương trình; nâng cao
chất lượng đội ngũ... theo hướng hiện đại. Trong đó chú trọng thực hiện các giải
pháp phát triển phát thanh hiện đại: phát triển phát thanh qua Internet ở thành phố
Đông Hà; phát triển truyền thanh và truyền hình ở 2 huyện miền núi (Hướng Hóa và
Đakrông)...
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng:
- 10 Đài truyền thanh, truyền thanh - truyền hình cấp huyện:
+ Đài Truyền thanh thành phố Đông Hà;
+ Đài Truyền thanh huyện Vĩnh Linh;
+ Đài Truyền thanh huyện Gio Linh;
+ Đài Truyền thanh huyện Triệu Phong;
+ Đài Truyền thanh huyện Hải Lăng;
+ Đài Truyền thanh huyện Cam Lộ;
+ Đài Truyền thanh thị xã Quảng Trị;
+ Đài Phát thanh - Truyền hình huyện Hướng Hóa;
+ Đài Phát thanh - Truyền hình huyện Đakrông;
+ Đài Phát thanh - Truyền hình huyện đảo Cồn Cỏ.
- 58 đài truyền thanh trên địa bàn tỉnh Quảng Trị bao gồm: Xã Vĩnh Ô, xã
Vĩnh Hà (huyện Vĩnh Linh); xã Cam Nghĩa, xã Cam Thủy (huyện Cam Lộ); xã Hải
Xuân, xã Hải Vĩnh, xã Hải Ba, xã Hải Quế, xã Hải Dương, xã Hải An, xã Hải Khê,
xã Hải Thành, xã Hải Thiện, xã Hải Thọ, xã Hải Trường, xã Hải Sơn, xã Hải Tân,
xã Hải Hòa, xã Hải Chánh, thị trấn Hải Lăng (huyện Hải Lăng); xã Tân Thành, xã
Tân Lập, xã Hướng Lập, xã Hướng Sơn, xã Hướng Linh, xã Húc, xã Ba Tầng, xã
Thuận, xã Thanh, xã Hướng Lộc, xã A Xing, xã A Túc, xã A Dơi, xã Xy, thị trấn
7


Lao Bảo (huyện Hướng Hóa); xã Ba Nang, xã A Vao, xã A Bung, xã A Ngo, xã Tà
Rụt, xã Húc Nghì, xã Tà Long, xã Đakrông, xã Mò Ó, xã Hướng Hiệp, xã Triệu

Nguyên, xã Ba Lòng, xã Hải Phúc, thị trấn Krông Klang (huyện Đakrông); xã Triệu
Phước, xã Triệu Thuận, xã Triệu Thành, xã Triệu Trung, xã Triệu Tài, xã Triệu
Thượng (huyện Triệu Phong); phường 2, phường Đông Giang (thành phố Đông
Hà); xã Gio An (huyện Gio Linh).
4.2. Phạm vi: Từ tháng 1/2005- tháng 7/2012.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài chủ yếu sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu; phương
pháp điều tra xã hội học; phương pháp hội thảo, tọa đàm, trao đổi; phương pháp
phỏng vấn sâu; phương pháp quan sát... để thu thập thông tin đa dạng, phong phú
và mang tính khách quan về đối tượng nghiên cứu. Sau khi thu thập thông tin,
chúng tôi tiến hành xử lý, phân tích thông tin để làm sáng rõ mục đích và nhiệm vụ
của đề tài.
- Phương pháp phân tích: Phân tích tài liệu, văn bản, báo cáo, sách, tạp chí và
các cuộc điều tra xã hội học về hệ thống đài truyền thanh cơ sở.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Phát 20 phiếu, chủ yếu nhằm vào 2 đối
tượng thính giả ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, chậm phát triển và vùng đồng bằng,
có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển hơn. Ngoài ra, chúng tôi còn phát 10 phiếu
đối với đối tượng là cán bộ, phóng viên, các nhà quản lý, lãnh đạo Đài PT-TH tỉnh,
các đài phát thanh - truyền hình huyện, đài truyền thanh huyện, trạm truyền thanh
xã, phường, thị trấn trong diện khảo sát để thu thập ý kiến, quan điểm về thực trạng
và hướng phát triển hệ thống đài truyền thanh cơ sở. Phát 58 phiếu đối với 58 đài
xã và 20 phiếu đối với đài huyện để khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động và nhu
cầu phát triển trong thời gian tới.
- Phương pháp hội thảo, tọa đàm, trao đổi được sử dụng để thu thập những ý
kiến, nhận xét, đánh giá chuyên sâu, có tầm khái quát của các chuyên gia, các nhà
khoa học, nhà quản lý về những vấn đề liên quan đến đề tài.
8


- Phương pháp phỏng vấn sâu được thực hiện với cán bộ quản lý, lãnh đạo báo

chí, cơ quan quản lý nhà nước về báo chí, Ban Tuyên giáo, lãnh đạo chính quyền
các cấp nhằm đánh giá ưu điểm, nhược điểm, xác định giải pháp, nâng cao chất
lượng hoạt động của hệ thống đài truyền thanh cơ sở.
- Phương pháp tổng hợp: Trên cơ sở kết quả phân tích, đánh giá, rút ra những
kết luận khoa học cần thiết cho đề tài.
6. Ý nghĩa thực tiễn và tính mới về khoa học
6.1. Ý nghĩa thực tiễn
- Đối với việc xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật
Kết quả khảo sát, đánh giá từ thực tế hoạt động của hệ thống đài truyền thanh
cơ sở sẽ giúp chính quyền địa phương, cơ quan quản lý nhà nước về báo chí đề ra
các cơ chế, chính sách, đề xuất hoàn thiện khung pháp lý cho hệ thống đài truyền
thanh cơ sở hoạt động tốt hơn, phát huy hơn nữa hiệu quả tuyên truyền và vận động
nhân dân thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
- Đối với phát triển kinh tế - xã hội
Hệ thống các đài truyền thanh, truyền hình cơ sở là công cụ tuyên truyền, là
cầu nối đưa tiếng nói của Đảng và Nhà nước đến với mọi tầng lớp nhân dân, góp
phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa,
biên giới, vùng núi, hải đảo.
- Đối với nơi ứng dụng kết quả nghiên cứu
Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh và hệ thống đài truyền thanh cơ sở trên địa
bàn tỉnh sẽ được đầu tư, phát triển, nâng cao chất lượng các chương trình; đặc biệt
đối với thành phố Đông Hà và 02 huyện miền núi Hướng Hóa và Đakrông sẽ được
quan tâm hỗ trợ để hoạt động theo hướng phát thanh hiện đại.
6.2. Tính mới về khoa học
- Đối với phát triển lĩnh vực khoa học có liên quan
Tài liệu nghiên cứu phục vụ cho công tác nghiên cứu về loại hình phát thanh ở
Việt Nam nói chung, hệ thống đài truyền thanh cơ sở ở các địa phương nói riêng.
9



- Đối với công tác đào tạo cán bộ khoa học
Nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học của chủ nhiệm và cán bộ tham gia
thực hiện đề tài; góp phần nâng cao khả năng nghiên cứu các vấn đề khoa học và
gợi mở cho hướng nghiên cứu các đề tài khoa học liên quan khác trong tương lai.
7. Bố cục của đề tài gồm:
- Mở đầu.
- Nội dung, gồm:
+ Chương 1: Tổng quan về hệ thống đài truyền thanh cơ sở
1.1. Vài nét về phát thanh và hệ thống đài truyền thanh cơ sở
1.1.1. Định nghĩa về phát thanh
1.1.2. Một số đặc điểm của phát thanh
1.1.3. Khái quát sự phát triển của hệ thống đài truyền thanh cơ sở Việt Nam
1.2. Quan điểm chỉ đạo phát triển thông tin của Đảng và Nhà nước
1.2.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước
1.2.2. Quan điểm chỉ đạo phát triển thông tin của tỉnh Quảng Trị
1.3. Vai trò của hệ thống đài truyền thanh cơ sở trong bối cảnh truyền
thông đa phương tiện
1.3.1. Chức năng đài truyền thanh cơ sở
1.3.2. Vai trò của hệ thống đài truyền thanh cơ sở
1.3.3. Những vấn đề đặt ra từ bối cảnh mới
1.3.4. Phát thanh hiện đại


Tiểu kết chương 1

+ Chương 2: Thực trạng hoạt động của hệ thống đài truyền thanh cơ sở
trên địa bàn tỉnh Quảng Trị và những vấn đề đặt ra
2.1 Khái quát về sự ra đời, phát triển của hệ thống đài truyền thanh cơ sở
trên địa bàn tỉnh Quảng Trị
2.1.1. Sự ra đời các đài truyền thanh cơ sở trong kháng chiến chống Mỹ

2.1.2. Những đài truyền thanh ra đời sau năm 1975
10


2.1.3. Sự ra đời hệ thống đài xã
2.2. Thực trạng hoạt động của hệ thống đài truyền thanh cơ sở
2.2.1. Về số lượng
2.2.2.Về chất lượng và thời lượng
2.2.3.Về cơ sở vật chất
2.2.4. Về nguồn nhân lực
2.2.5. Về chế độ, chính sách
2.3. Một số hạn chế, tồn tại
2.3.1. Về chất lượng nội dung và kỹ thuật
2.3.2.Về nguồn nhân lực
2.3.3. Về cơ chế chính sách
2.4. Một số vấn đề đặt ra đối với hoạt động của hệ thống đài truyền thanh
cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Trị đến năm 2020
2.4.1. Bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Trị đến năm 2020
2.4.2. Yêu cầu phát triển hệ thống phát thanh Việt Nam đến năm 2020
2.4.3. Yêu cầu phát triển hệ thống đài truyền thanh cơ sở trên địa bàn tỉnh
Quảng Trị đến năm 2020
• Tiểu kết chương 2
+ Chương 3: Các giải pháp nâng cao chất lượng hệ thống đài truyền
thanh cơ sở trên địa bàn tỉnh đến năm 2020
3.1. Nhóm giải pháp thông tin, tuyên truyền nâng cao nhận thức về tầm
quan trọng của đài truyền thanh
3.1.1. Nâng cao nhận thức cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp
3.1.2. Tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng
3.2. Nhóm giải pháp đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị
3.2.1.Đối với đài huyện

3.2.2. Đối với đài xã
3.3. Nhóm giải pháp tăng cường công tác quản lý nhà nước
11


3.3.1. Hoàn thiện khung pháp lý
3.3.2. Hướng dẫn, tập huấn về chuyên môn, kỹ thuật
3.3.3. Giải pháp về cơ chế, chính sách
3.4. Nhóm giải pháp về nguồn nhân lực
3.4.1. Bổ sung nguồn nhân lực
3.4.2. Nâng cao năng lực chuyên môn
3.5. Nhóm giải pháp xây dựng các mô hình hoạt động
3.5.1. Xây dựng mô hình phát thanh Internet ở thành phố Đông Hà
3.5.2. Mô hình phát thanh kiêm truyền hình ở huyện miền núi Đakrông và
Hướng Hóa
3.6. Một số kiến nghị
3.6.1. Kiến nghị với Bộ Thông tin - Truyền thông
3.6.2. Kiến nghị với cấp ủy và chính quyền địa phương
3.6.3. Kiến nghị với các đài phát thanh
3.6.4. Kiến nghị với các cơ sở đào tạo chuyên ngành phát thanh
• Tiểu kết chương 3
KẾT LUẬN

12


NỘI DUNG
Chương 1: Tổng quan về hệ thống đài truyền thanh cơ sở
1.1. Vài nét về phát thanh và hệ thống đài truyền thanh cơ sở
1.1.1. Định nghĩa về phát thanh

a. Phát thanh là gì?
Phát thanh là một loại hình báo chí mà đặc trưng cơ bản của nó là dùng âm
thanh phong phú, sinh động (lời nói, tiếng động, âm nhạc) để truyền tải thông điệp
nhờ sử dụng sóng điện từ và hệ thống truyền thanh tác động vào thính giác công
chúng.
Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010 ban hành kèm theo Quyết định
số 219/2005/QĐ-TTg ngày 09/09/2005 của Thủ tướng Chính phủ đã định nghĩa về
phát thanh như sau: “Phát thanh là loại hình thông tin đại chúng mà nội dung
thông tin được chuyển tải bằng âm thanh, tiếng nói qua làn sóng vô tuyến điện và
truyền thanh qua hệ thống dây dẫn”.
+ Thông thường người ta chia phát thanh thành 2 loại:
AM (Amplitude Modulation) là kỹ thuật điều biên được áp dụng trong phát
thanh sóng dài, sóng trung và sóng ngắn.
FM (Frequency Modulation) là kỹ thuật điều tần được áp dụng trong phát
thanh sóng cực ngắn.
Phần lớn các đài phát thanh AM có công suất máy phát lớn và tầm hoạt động
xa, song chất lượng loại phát thanh này thường bị ảnh hưởng bởi nhiễu tĩnh. Đài
FM phát sóng thẳng, hầu như không bị ảnh hưởng bởi nhiễu nên chất lượng tín hiệu
rất tốt. Tuy nhiên, đài FM có phạm vi phủ sóng nhỏ, nó chỉ thích hợp với các trung
tâm đô thị lớn, các khu vực đông dân.
b. Thế nào là truyền thanh?
Theo tài liệu Bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ thông tin và truyền thông cơ sở
(Bộ Thông tin và Truyền thông, năm 2012): “Truyền thanh là phương thức truyền
tải thông tin tiếng động, âm thanh qua dây dẫn tín hiệu từ máy phát tổng đài đến
13


các loa. Hệ thống truyền thanh được vận hành bởi tập hợp các thiết bị đầu cuối từ
thu âm, thu tín hiệu đầu vào sóng radio, thiết bị khuếch đại tín hiệu âm thanh, hệ
thống dây dẫn và các loa”.

Đài truyền thanh được hiểu như đài chuyển tiếp tín hiệu truyền thanh, bao gồm
tập hợp các thiết bị thu sóng radio, tách sóng và khuếch đại tín hiệu âm thanh, sau
đó tiếp tục truyền tín hiệu âm thanh theo đường dây truyền thanh để thực hiện việc
chuyển tiếp chương trình phát thanh, chương trình truyền thanh địa phương. Cùng
với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, hiện nay hệ thống truyền
thanh đang được thay thế chuyển từ hình thức truyền dẫn tín hiệu bằng dây dẫn kim
loại (hữu tuyến) sang sử dụng phát sóng ngắn hệ FM có chất lượng tín hiệu tốt, ít bị
nhiễu tĩnh. Tuy nhiên, thuật ngữ truyền thanh vẫn được dùng để chỉ chung cho hoạt
động thu, tiếp, phát tín hiệu radio ở cấp huyện, thị, xã, phường, thị trấn.
1.1.2. Một số đặc điểm của phát thanh
- So với truyền hình thì phát thanh thông tin nhanh hơn.
Khi có một sự kiện mới xảy ra, phát thanh chính là phương tiện để truyền tải
thông tin một cách nhanh nhất đến công chúng. Báo in bị giới hạn về diện tích
trang báo, số câu chữ trong mỗi số báo, thời gian in ấn. Báo hình (truyền hình) phải
qua công đoạn quay, dựng, chỉnh sửa thì mới ra được sản phẩm. Báo điện tử tuy
nhanh hơn nhưng để cung cấp thông tin và bạn đọc tiếp cận được thông tin đó cần
có mạng Internet và thiết bị điện tử. Trong khi đó, với các địa phương, kể cả nơi có
điều kiện kinh tế, xã hội còn khó khăn, phát thanh có thể tổng hợp và đưa tin ngay
sau khi xảy ra sự kiện hoặc có thể đưa tin trực tiếp khi mà chương trình, sự kiện đó
vẫn đang xảy ra.
- Độ phủ sóng rộng.
So với truyền hình, phát thanh có độ phủ sóng rộng, dễ tiếp nhận và có khả
năng kích thích trí tưởng tượng. Cho đến nay, chưa có nước nào trên thế giới, kể cả
các nước phát triển nhanh như Mỹ, Anh, Pháp… từ bỏ phát thanh cả.
- Có đối tượng thính giả nghe rộng rãi
14


Không chỉ ở thành thị, nơi có các nguồn thông tin phong phú và đa dạng mà
ngay ở nông thôn, những nơi có trình độ dân trí chưa cao, người dân vẫn hàng ngày

gắn bó với các chương trình phát thanh và xem đó như một người bạn thân thiết
của họ. Những người không biết chữ, bị khuyết tật (trừ thính giác) đều có thể nghe
thông tin do phát thanh cung cấp. Những thông tin họ nghe trên đài, loa phóng
thanh không chỉ đơn giản là những mẩu tin về thời tiết, thông tin có nội dung gần
gũi gắn bó với đời sống sinh hoạt hàng ngày của họ mà còn có nhiều thông tin quan
trọng nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết của họ.
1.1.3. Khái quát sự phát triển của hệ thống đài truyền thanh cơ sở Việt Nam
Đài Tiếng nói Việt Nam được ra đời từ ngày 7/9/1945. Tuy nhiên, phải đến
năm 1956, với sự giúp đỡ của Liên Xô thời kỳ đó, chúng ta mới bắt đầu xây dựng
đựơc các đài phát thanh tỉnh. Đến những năm 60 của thế kỷ XX, hệ thống đài
truyền thanh ở nước ta đã từng bước được tăng cường số lượng và nâng cao dần
chất lượng. Nhiệm vụ chính của các đài huyện trong giai đoạn này là tiếp phát sóng
đài Trung ương, đài tỉnh và tự xây dựng các bản tin, các chương trình phát thanh để
phản ánh về công việc của các hợp tác xã; cổ vũ những phong trào thi đua lao động
sản xuất, các điển hình; phê phán thói xa hoa, lãng phí, quan liêu trong quản lý tài
sản tập thể… Do số lượng đầu báo ở ta khi đó còn rất ít nên vị trí, vai trò của các
đài huyện là rất lớn.
Từ năm 1976, Nhà nước ta đã quyết định đưa các đài truyền thanh xã, phường
vào bộ máy tổ chức của hệ thống truyền thanh 4 cấp gồm: cấp Trung ương; cấp
tỉnh, thành phố trực thuộc; cấp huyện, thị xã; cấp xã, phường, thị trấn. Riêng hai
cấp sau được gọi chung bằng một thuật ngữ là “đài cơ sở”.
Chính vì thế, khái niệm “Hệ thống đài truyền thanh cơ sở” trong đề tài
khoa học này được hiểu bao gồm: Đài truyền thanh huyện, thị xã, thành phố
(gọi tắt là đài huyện) và đài truyền thanh xã, phường, thị trấn (gọi tắt là là đài
xã).

15


Sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin trong những năm

cuối của thế kỷ XX đã tạo cơ sở cho các đài huyện được trang bị những máy phát
sóng cực ngắn và kéo theo đó là sự ra đời của hàng loạt trạm truyền thanh cấp xã,
phường, thị trấn.
Có thể khẳng định, kể từ khi ra đời cho đến nay, hệ thống đài truyền thanh
cơ sở luôn là một bộ phận hữu cơ trong hệ thống báo chí chính trị của cả
nước. Riêng đối với khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo nơi mà số lượng khán giả chiếm đến 80% dân số cả nước - hệ thống này có
tầm quan trọng đặc biệt.
Đài truyền thanh cơ sở là phương tiện tuyên truyền hữu hiệu của địa phương,
là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; là công cụ trực tiếp của Đảng, chính
quyền địa phương trong công tác chỉ đạo, quản lý, điều hành để phát triển kinh tế,
xã hội. Đây là cơ quan thông tin, tuyên truyền để giúp nhân dân nắm bắt các chủ
trương, chính sách của cấp trên và chính quyền địa phương. Trong sự phát triển
mạnh mẽ của các loại hình báo chí hiện đại, hệ thống đài truyền thanh cơ sở vẫn
luôn có chỗ đứng nhờ tính hiệu quả của nó.
1.2. Quan điểm chỉ đạo phát triển thông tin của Đảng và Nhà nước
1.2.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và khu vực hóa, Nghị quyết các Đại hội Đảng đã
khẳng định vai trò, vị trí của thông tin trong đời sống xã hội, coi đó là nhân tố thúc
đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân
tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Điều đó thể hiện qua các văn kiện, các nghị quyết, văn bản quy phạm pháp
luật quan trọng như: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm
1992); Luật Báo chí (1989); Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Báo chí
(1999); Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ năm (Khóa
VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc; Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001); Chiến lược phát triển
16


kinh tế - xã hội 2001-2010; Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng

lần thứ V (Khóa IX) về công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới, Chỉ thị số
22/CT-TW ngày 17/10/1997 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới và tăng cường sự
lãnh đạo, quản lý công tác báo chí xuất bản; Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ X (2006), Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (2011), Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020...
Quan điểm chỉ đạo về phát triển thông tin của Đảng và Nhà nước ta thể hiện
qua những điểm quan trọng sau đây:
- Hoạt động thông tin và các loại hình thông tin ở nước ta đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng, quản lý của Nhà nước và tuân thủ các quy định của pháp luật.
Thông tin phải làm tốt nhiệm vụ phổ biến, giáo dục và bảo vệ chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, góp phần mở rộng và phát huy dân chủ xã hội, với chủ đề
trọng tâm là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Phát triển nhanh, mạnh, vững chắc hệ thống thông tin ở nước ta, đảm bảo
thông tin không chỉ phục vụ tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà còn là
lĩnh vực có khả năng tạo nguồn thu quan trọng, đóng góp vào ngân sách Nhà nước.
- Thông tin phải đảm bảo tính chân thật, tính giáo dục, tính nhân dân, tính
chiến đấu, phù hợp với lợi ích của đất nước và của nhân dân; phải góp phần quan
trọng trong việc cung cấp tri thức, nâng cao dân trí, hình thành và định hướng dư
luận xã hội lành mạnh; tăng cường sự đoàn kết, nhất trí về tư tưởng chính trị và tinh
thần trong nhân dân; biểu dương các nhân tố mới, điển hình tiên tiến; tích cực đấu
tranh, phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, đấu tranh chống tiêu cực, tham
nhũng và các tệ nạn xã hội; giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Những người làm công tác thông tin phải tuân thủ
định hướng của Đảng, pháp luật của Nhà nước, có bản lĩnh chính trị vững vàng,
phẩm chất đạo đức trong sáng và có năng lực chuyên môn nghiệp vụ cao.

17


- Phát triển đi đôi với quản lý thông tin tốt. Phát triển phải gắn với sự quản lý,

đồng thời phải nâng cao vai trò, vị trí, năng lực và hiệu quả của công tác quản lý.
Cần phải chống khuynh hướng phát triển tràn lan, đồng thời phải ra sức nâng cao
năng lực quản lý để không cản trở sự phát triển. Phát triển thông tin phải dựa trên
cơ sở kết hợp hài hòa giữa ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông và các
phương tiện thích hợp khác. Coi trọng chất lượng chính trị, chất lượng văn hóa,
chất lượng khoa học và chất lượng nghiệp vụ của thông tin; đảm bảo thông tin đến
mọi đối tượng, mọi vùng, phù hợp với từng tầng lớp, lứa tuổi với những sản phẩm
đúng, hấp dẫn, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao của các tầng lớp
nhân dân. Chú trọng công tác thông tin đối ngoại, giúp cho cộng đồng quốc tế và
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có thông tin kịp thời, đúng đắn về tình
hình Việt Nam và tranh thủ sự đồng tình của nhân dân thế giới.
- Thông tin phải thực sự đi trước một bước, vừa làm tốt việc dự báo, định
hướng phát triển xã hội, đồng thời phải là nguồn lực thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Thông tin phục vụ sự nghiệp phát triển lý luận, mở rộng và phát huy dân chủ trong
mọi lĩnh vực đời sống xã hội; nâng cao ý thức làm chủ đất nước của nhân dân.
- Phát triển thông tin phải đảm bảo an ninh thông tin. Bảo đảm an ninh thông
tin trước hết là giữ vững độc lập chủ quyền và định hướng xã hội chủ nghĩa của đất
nước, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi mưu đồ chống phá sự nghiệp cách
mạng và công cuộc đổi mới của nước ta.
Phát thanh, truyền thanh cơ sở là một lĩnh vực trong hoạt động thông tin báo
chí, có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác tư tưởng, thông tin tuyên truyền.
Nghị quyết Trung ương 5 Khóa X đã nêu rõ công tác tư tưởng, lý luận và báo chí là
một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng.
Chính vì vậy, tăng cường công tác quản lý, phát triển báo chí, phát thanh, truyền
hình trong bối cảnh đất nước ta bước vào giai đoạn phát triển mới, với những
nhiệm vụ cách mạng mới, là yêu cầu hết sức cấp thiết.

18



Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Phát triển
đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng. Báo chí, xuất bản... làm tốt
chức năng tuyên truyền thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước; phát hiện những nhân tố mới, cái hay, cái đẹp trong xã hội, giới thiệu
gương người tốt việc tốt, những điển hình tiên tiến, phê phán các hiện tượng tiêu
cực, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, đấu tranh với những quan điểm sai trái; coi
trọng nâng cao tính chân thật, tính giáo dục và tính chiến đấu của thông tin. Sử
dụng Internet đẩy mạnh thông tin đối ngoại, đồng thời hạn chế, ngăn chặn những
hoạt động tiêu cực qua mạng. Khắc phục khuynh hướng "thương mại hoá" trong
hoạt động báo chí, xuất bản. Nâng cao bản lĩnh chính trị, tư tưởng, ý thức trách
nhiệm, trình độ văn hoá và nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức của đội ngũ báo chí,
xuất bản”.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 cũng yêu cầu:
“Nâng cao chất lượng hệ thống thông tin, báo chí, Internet, xuất bản. Bảo đảm
quyền được thông tin và cơ hội tiếp cận thông tin của nhân dân, đặc biệt ở các vùng
sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Tiếp tục đổi mới cơ chế và nâng cao hiệu quả
quản lý, đẩy mạnh xã hội hóa các lĩnh vực văn hóa, thông tin, hình thành thị trường
văn hóa lành mạnh”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát
triển năm 2011) một lần nữa khẳng định vai trò của hệ thống thông tin đại chúng,
đồng thời đặt ra yêu cầu: “Phát triển các phương tiện thông tin đại chúng đồng bộ,
hiện đại, thông tin chân thực, đa dạng, kịp thời, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
1.2.2. Quan điểm chỉ đạo phát triển thông tin của tỉnh Quảng Trị
Triển khai thực hiện các quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển thông
tin, truyền thông, Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Trị lần thứ XV đề ra yêu
cầu, nhiệm vụ: “Nâng cao chất lượng tư tưởng, chính trị và hiệu quả xã hội trong
hoạt động thông tin, truyền thông, báo chí, văn học nghệ thuật theo định hướng của
19



Đảng và Nhà nước, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương… Tăng cường hơn nữa công tác quản lý nhà nước về văn hóa, thông tin
để hướng các hoạt động văn hóa, thông tin, truyền thông đúng pháp luật và định
hướng của Đảng”.
Đây chính là những quan điểm chỉ đạo, định hướng quan trọng để tiếp thu, vận
dụng, đề ra các phương hướng phát triển cho hệ thống đài truyền thanh cơ sở trong
những năm tiếp theo.
1.3. Vai trò của hệ thống đài truyền thanh cơ sở trong bối cảnh truyền
thông đa phương tiện
1.3.1 Chức năng đài truyền thanh cơ sở
Theo Tài liệu Bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ Thông tin và Truyền thông (Bộ
Thông tin và Truyền thông cung cấp năm 2012), chức năng của đài truyền thanh
huyện, xã thể hiện trên 4 mặt như sau:
Chức năng thứ nhất thuộc về nhiệm vụ chính trị trung tâm là tuyên truyền,
định hướng chính trị theo quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật
của Nhà nước. Mọi vấn đề đều có liên quan đến chính trị và tuyên truyền có định
hướng là công cụ đắc lực để mọi người dân hiểu rõ, hiểu đúng nhằm tạo sự đồng
thuận, làm nền tảng cho ổn định chính trị.
Chức năng thứ hai là thông tin, giải trí: Được thông tin (được biết) là nhu cầu
tự nhiên của con người. Thông tin để biết, thông tin để hiểu và nâng cao nhận thức,
trình độ. Hiện nay, cần phải làm rõ chức năng thông tin không chỉ giới hạn trong
“tin tức thời sự”, mà phải mở rộng ra mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, giáo
dục, văn hóa, đời sống, sản xuất, pháp luật…
Giải trí là một nhu cầu đặc biệt trong cuộc sống hiện đại với rất ít thời gian
nhàn rỗi và nghỉ ngơi. Nếu không quan tâm đầy đủ đến chức năng giải trí thì hiệu
quả tuyên truyền cũng sẽ rất hạn chế. Nội dung của giải trí trong lĩnh vực truyền
thanh không chỉ giới hạn ở “vùng ca nhạc”.

20



Chức năng thứ ba, thực hiện nhiệm vụ kết nối trực tiếp giữa Đảng - chính
quyền với người dân: Xã hội càng phát triển, dân trí càng cao, ý thức và sự quan
tâm của người dân đối với xã hội, đối với những vấn đề nhạy cảm liên quan đến họ
và liên quan đến trách nhiệm của các cấp chính quyền cũng ngày càng nâng cao.
Thực hiện tốt chức năng kết nối sẽ đáp ứng được những yêu cầu của dân chủ hóa,
công khai hóa.
Chức năng thứ tư, đài truyền thanh như là một công cụ điều hành trong hệ
thống điều hành xã hội. Điều này thể hiện rõ nét ở đài truyền thanh cơ sở, đặc biệt
vào những lúc cần xử lý các tình huống cấp bách như: dịch bệnh, thiên tai, xuất
hiện các dư luận bất thường… Cần xác định quan niệm như vậy để phát huy hết
khả năng của đài truyền thanh vì trên thực tế ngày càng có nhiều hệ thống điện tử
được sử dụng như một công cụ điều hành, ví dụ như mạng Internet, cầu truyền hình
trực tiếp…
Như vậy, trong bối cảnh mới, bên cạnh những chức năng truyền thống, đài
truyền thanh còn có thêm những chức năng và khả năng tương tác mới. Thông qua
việc thực hiện tốt các chức năng của mình, đài truyền thanh thể hiện vai trò của
mình đối với đời sống cộng đồng trong bối cảnh mới.
1.3.2. Vai trò của hệ thống đài truyền thanh cơ sở
So với đài Trung ương và đài tỉnh, các đài cơ sở có những ưu thế nổi bật là
thông tin sát thực, trực tiếp, cụ thể đến từng người dân trong địa bàn. Trong thực tế,
có những loại nội dung thông tin mà chỉ có đài truyền thanh cơ sở mới có thể đề
cập đến được một cách sâu sát, mang lại hiệu ứng trực tiếp, tức thời. Đó là những
chuyện gần gũi với đời sống thường nhật như chuyện cấy cày, thời vụ, làng trên
xóm dưới, rồi các hoạt động như bầu cử, đại hội, hội họp, ma chay, hiếu hỷ, tiêm
chủng, thông báo tình hình lũ, lụt, di tản dân cư đột xuất do thiên tai…
Có thể nói, chương trình của các đài cơ sở từ lâu đã thực sự đáp ứng được nhu
cầu của các thính giả tại những khu vực này, trở thành người bạn chân tình chia sẻ
những buồn vui, trăn trở về mọi khía cạnh của cuộc sống; là nơi gợi mở, hướng dẫn

21


những mô hình, những cách thức làm ăn cho quần chúng nhân dân trong chủ
trương “xóa đói giảm nghèo”; là người thầy, người bạn trong việc nâng cao dân trí
và giao lưu văn hóa….
Trong những năm gần đây, ở nước ta xuất hiện sự hoài nghi về tính hiệu quả
của các đài cơ sở, nhất là đối với các đài xã, phường, thị trấn. Đây đó đã từng có ý
kiến đòi xóa bỏ sự tồn tại của hệ thống các đài phường. Trong bối cảnh bùng nổ
thông tin và bùng nổ các phương tiện truyền thông đại chúng như hiện nay, liệu hệ
thống đài cơ sở còn có thể phát huy tác dụng nữa hay không? Câu hỏi này đã được
đặt ra và đã được trả lời bằng thực tế sinh động.
Theo số liệu Báo cáo tại Hội nghị ngành Phát thanh - Truyền hình toàn quốc
năm 2005, tại thời điểm tháng 3/2005, hệ thống phát thanh địa phương ở nước ta đã
có 612 đài phát thanh, truyền thanh cấp huyện, thị xã và một hệ thống gồm 7.619
trạm truyền thanh xã, phường, thị trấn, hợp tác xã, xí nghiệp, công, nông, lâm
trường đang hoạt động. Hiện nay chưa có số lượng thống kê trên toàn quốc về đài
cơ sở nhưng con số tạm tính cũng không thấp hơn thời điểm năm 2005 do đơn vị
hành chính được chia, tách mới nhiều hơn trước. Chỉ tính riêng tỉnh Quảng Trị,
hiện có 10 đài truyền thanh, truyền hình cấp huyện, thị xã, thành phố; trong đó có
03 đơn vị tổ chức thực hiện theo mô hình vừa phát thanh, vừa truyền hình gồm: Đài
Phát thanh - Truyền hình huyện Hướng Hóa, Đài Phát thanh - Truyền hình huyện
Đakrông (2 huyện miền núi) và Đài Phát thanh - Truyền hình huyện đảo Cồn Cỏ và
58 đài xã, chưa tính đến các trạm truyền thanh thôn, bản. Như vậy, các đài cấp
huyện, thị và các đài truyền thanh cấp xã, phường, thị trấn, hợp tác xã, thôn bản...
vẫn đang tiếp tục đồng hành với cuộc sống của nhân dân ở khắp mọi nơi trên đất
nước.
Hàng ngày, hệ thống đa dạng, phong phú và cần mẫn ấy vẫn đem đến cho
nhân dân địa phương những thông tin bổ ích, tham gia một cách tích cực và hiệu
quả vào các hoạt động trên tất cả các mặt kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng. Nó

đã trở thành một kênh thông tin quan trọng, cùng với Đài Tiếng nói Việt Nam, các
22


đài khu vực, đài tỉnh, thành phố... làm tốt nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến đường
lối, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đưa các Nghị quyết,
chính sách vào cuộc sống; góp phần nâng cao dân trí, bảo tồn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc; góp phần xây dựng hệ thống chính trị, tăng cường dân chủ hóa
trong đời sống cơ sở; thực hiện chức năng làm cầu nối giữa Đảng, Nhà nước, các
đoàn thể xã hội với nhân dân; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân vào sự
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước...
Những người làm phát thanh Việt Nam hiện nay đang cố gắng nâng cao hiệu
quả của thông tin phát thanh trong đời sống xã hội, đảm bảo vai trò định hướng và
hướng dẫn dư luận xã hội; hoàn thiện và tăng thêm các hệ chương trình phát thanh;
chú trọng nâng cao chất lượng nội dung các hệ chương trình, vừa toàn diện vừa
chuyên sâu, đáp ứng nhu cầu thông tin của mọi đối tượng thính giả; tăng thời
lượng, nâng cao chất lượng nội dung chương trình để đáp ứng nhu cầu thông tin và
mục tiêu giáo dục cộng đồng, nhất là đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số…
Trong xu hướng chung của truyền thông, báo chí hiện đại là hội tụ tất cả các
phương tiện biểu đạt (lời nói, âm nhạc, tiếng động, hình ảnh, màu sắc, bố cục, giao
diện trang báo… ), phát thanh hiện đại ở Việt Nam không đứng ngoài cuộc và bước
đầu đã tìm được cách thích ứng hợp lý.
1.3.3. Những vấn đề đặt ra từ bối cảnh mới
Cuộc cách mạng của công nghệ kỹ thuật số và sự bùng phát mạnh mẽ của
mạng thông tin toàn cầu Internet đã buộc người ta phải đặt ra những câu hỏi về sự
tồn tại của các loại hình báo chí truyền thống như báo in, phát thanh và kể cả truyền
hình. Riêng với phát thanh ở Việt Nam - một loại hình báo chí vốn đang chịu nhiều
sức ép trong mấy thập kỷ vừa qua thì vấn đề này lại càng trở nên bức xúc hơn bao
giờ hết.
Là loại hình truyền thông ra đời sớm nhất (chỉ sau báo in), gắn với sự ra đời

của nước Việt Nam độc lập từ năm 1945, phát thanh Việt Nam đã gắn với từng
bước thăng trầm của lịch sử dân tộc. Tuy nhiên, trong những thập niên cuối cùng
23


của thế kỷ trước và kể cả khi bước vào thập niên đầu tiên của thế kỷ này, phát
thanh dần mất vị thế số một của mình do sự lớn mạnh của truyền hình. Sự bùng nổ
với tốc độ chóng mặt của mạng Interrnet đã tiếp tục đẩy các loại hình báo chí
truyền thống (nhất là báo in và phát thanh) vào cái thế phải chống đỡ, phải gồng lên
để tồn tại… Trong những năm vừa qua, phát thanh luôn phải đứng trước sự lựa
chọn: hoặc sẽ bị tiêu diệt, hoặc phải tiếp tục vận động vươn lên để thích ứng và tồn
tại.
Tuy nhiên, bất chấp những dự đoán bi quan, một số nhà nghiên cứu về phát
thanh trên thế giới lại đưa ra những dự đoán sáng sủa về tương lai của phát thanh
trong bối cảnh bùng nổ các phương tiện truyền thông đầu thế kỷ XXI này. Cơ sở
của quan niệm này trước hết dựa trên những ưu thế của phát thanh như: tính tiện
lợi, kỹ thuật đơn giản, thiết bị gọn nhẹ và phương thức tiếp nhận thông tin rất linh
hoạt (đang trong ô tô, trên giường ngủ, đang làm việc hoặc đang chống lụt, bão…
đều có thể nghe phát thanh).
Sự đơn giản, gọn nhẹ của thiết bị thu nhận thông tin phát thanh là một ưu thế
nổi bật của phát thanh so với các báo khác trong cùng một điều kiện như nhau, vì
báo mạng và truyền hình cần thiết bị kỹ thuật cồng kềnh và phức tạp hơn nhiều.
Khi cuộc sống ngày càng phát triển, con người ngày càng chịu nhiều áp lực của
nhịp sống khẩn trương, hiện đại thì những ưu thế này lại càng phát huy tác dụng.
Khác với phương thức sản xuất các chương trình phát thanh truyền thống
(chương trình được thu băng trước rồi phát sóng sau), phương thức sản xuất các
chương trình phát thanh hiện đại đã tận dụng tối đa sức mạnh của công nghệ mới
(kỹ thuật số, mạng Interrnet, mạng điện thoại di động… ) để nâng cao khả năng tác
động của phát thanh nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu của công chúng.
1.3.4. Phát thanh hiện đại

Trên nền tảng của công nghệ kỹ thuật số (Digital), phát thanh đã có những
bước phát triển mới, nhảy vọt. Có thể nói, kỹ thuật số đã góp phần quan trọng để
thúc đẩy phát thanh truyền thống bước sang thời kỳ hiện đại. Phát thanh kỹ thuật số
24


có chất lượng âm thanh tốt như đĩa CD, tín hiệu không còn bị nhiễu hay bị cản trở
bởi các yếu tố tự nhiên.
Trong thực tế, không chỉ riêng phát thanh mà báo in và truyền hình cũng đang
tận dụng tối đa công nghệ và kỹ thuật mới (kỹ thuật số, mạng Interrnet… ) để hiện
đại hóa chính mình nhằm tiếp tục thích ứng và phát huy sức mạnh trong bối cảnh
mới. Riêng với loại hình phát thanh, các phương thức sản xuất chương trình hiện
đại, mới mẻ như phát thanh có hình, phát thanh trên mạng, phát thanh tương tác,
phát thanh thực tế… thực sự là một cuộc cách mạng giúp cho nó đổi mới toàn diện
trong nỗ lực thích ứng để tồn tại, phát triển. Phương thức sản xuất các chương trình
phát thanh hiện đại cũng hạn chế được những nhược điểm, hạn chế của phát thanh
truyền thống.
Phát thanh hiện đại không tự nảy sinh mà là sự kế thừa và phát triển của phát
thanh truyền thống. Đó là sự thay đổi phương thức trong sản xuất các chương trình
phát thanh cho phù hợp với tình hình mới và đáp ứng nhu cầu của công chúng. Sự
thay đổi phương thức trong sản xuất không chỉ dựa trên nền tảng của công nghệ, kỹ
thuật mới mà còn đòi hỏi kỹ năng mới để tạo ra được chất lượng nội dung và hình
thức mới và qua đó có thể hình thành công chúng mới… Trong phương thức sản
xuất các chương trình phát thanh hiện đại, những ưu điểm của phát thanh truyền
thống (như: có đối tượng thính giả rộng rãi; tính tức thời và tỏa khắp; ưu thế
chiếm lĩnh không gian toàn bộ thời gian trong ngày; tính giao tiếp cá nhân; thông
điệp len lỏi khắp nơi và có khả năng tác động nhanh; dễ tác động vào tình cảm;
sinh động trong cách thể hiện; sự thuyết phục, lôi kéo của lời nói tác động vào
thính giác; kích thích trí tưởng tượng, buộc thính giả phải tự hình dung, liên
tưởng; thiết bị rẻ tiền, đơn giản, dễ phổ biến… ) vẫn tiếp tục được phát huy mạnh

mẽ, cộng với sự hỗ trợ đắc lực của công nghệ mới nên càng trở nên hấp dẫn hơn,
hiệu quả hơn. Với thế mạnh riêng của mình, phát thanh sẽ không ngừng củng cố vị
trí của mình trong hệ thống báo chí, truyền thông. Từ những vấn đề nêu trên, có thể
dự đoán trong thế kỷ XXI, phát thanh nói chung và phát thanh ở Việt Nam sẽ từng
25


×