Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Vấn đề trẻ em lao động sớm ở làng nghề truyền thống tại xã hoàng đôn, huyện duy tiên, tỉnh hà nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (623.01 KB, 63 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=====***=====

NGUYỄN THỊ KIỀU

VẤN ĐỀ TRẺ EM LAO ĐỘNG SỚM
Ở LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TẠI
XÃ HOÀNG ĐÔNG, HUYỆN DUY TIÊN,
TỈNH HÀ NAM HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

Người hướng dẫn khoa học
ThS. Hoàng Thanh Sơn

HÀ NỘI - 2013


LỜI CẢM ƠN

Em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Thạc sĩ Hoàng Thanh Sơn –
người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn em hoàn thành khóa luận này.
Em xin gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô trong Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội 2; đặc biệt là các thầy, cô Khoa Giáo Dục Chính Trị đã giảng dạy em
trong suốt thời gian qua.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, cũng như bạn bè đã tạo điều
kiện và giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Với sự hạn chế về thời gian cũng như kiến thức của bản thân, nên khóa
luận khó tránh khỏi những thiếu sót, kính mong sự chỉ bảo, góp ý của các
thầy, cô cũng như các bạn sinh viên.


Em xin chân thành cảm ơn!

TÁC GIẢ KHÓA LUẬN

Nguyễn Thị Kiều


LỜI CAM ĐOAN

Khóa luận này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của Thạc sĩ Hoàng
Thành Sơn. Tôi xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Sinh viên

Nguyễn Thị KIều


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRẺ EM VÀ LAO
ĐỘNG ........................................................................................................... 4
1.1.Lý luận cơ bản về trẻ em và lao động .................................................... 4
1.2.Những ảnh hưởng đối với trẻ lao động sớm ..................................... 14
Chương 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG TRẺ LAO ĐỘNG SỚM Ở LÀNG
NGHỀ TRUYỀN THÔNG TẠI XÃ HOÀNG ĐÔNG, HUYỆN DUY
TIÊN, TỈNH HÀ NAM .............................................................................. 18
2.1.Giới thiệu sơ lược về nghề truyền thống mây trẻ đan ở xã Hoàng
Đông, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam ..................................................... 18

2.2. Thực trạng trẻ em lao động sớm ở nghề truyền thống mây tre đan tại
xã Hoàng Đông, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam .................................... 19
Chương 3: MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
TÌNH TRẠNG LAO ĐỘNG SỚM CỦA TRẺ EM Ở XÃ HOÀNG ĐÔNG
HUYỆN DUY TIÊN TỈNH HÀ NAM HIỆN NAY.................................. 47
3.1.Những phương hướng để khắc phục tình trạng lao động sớm của trẻ
em ở xã Hoàng Đông, huyên Duy Tiên, tỉnh Hà Nam ........................... 47
3.2. Một số giải pháp để khắc phục tình trạng lao động sớm trẻ em lao
động sớm ở xã Hoàng Đông huyện Duy Tiên tỉnh Hà Nam. ................. 50
KẾT LUẬN ................................................................................................. 56
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 58


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trẻ em mầm mon của đất nước - là mối quan tâm chung của cả thế
giới. Trong công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 khẳng định :“Trẻ
em phải được bảo vệ và chăn sóc đặc biệt”. Phát huy tinh thần đó Đảng
và Nhà nước ta rất quan tâm tới vấn đề trẻ em, đặc biệt là quyền lợi để
phát triển trẻ em một cách toàn diện. Hồ Chí Minh đã dạy “Tuổi nhỏ làm
việc nhỏ tùy theo sức của mình”. Lao động phù hợp với sức khỏe của trẻ
em và trong phạm vi pháp luật cho phép thì đó là lao động tích cực giúp
trẻ em phát triển toàn diện.
Bên cạnh những trẻ em được chăm sóc đầy đủ, còn một bộ phận trẻ
em rơi vào hoàn cảnh khó khăn, không được hưởng những quyền lợi cơ
bản của trẻ em, trong đó có trẻ em pải lao động sớm. Vấn đề trẻ em lao
động sớm hiện nay đang diễn ra nhiều nơi ở nước ta, đặc biệt là những
tỉnh kinh tế kém phát triển.
Hà Nam là một tỉnh mới được thành lập, kinh tế còn chưa phát triển
mạnh, đời sống của người dân còn nhiều khó khăn, gần 80% dân số làm

nông nghiệp nên người dân nhiều nơi trong tỉnh làm nghề truyền thống
trong những ngày nông nhàn để tạo thêm thu nhập. Xã Hoàng Đông,
huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam là một trong những xã nổi tiếng với nghề
truyền thống mây tre đan xuất khẩu. Hiện nay trong xã đang diễn ra tình
trạng sử dụng trẻ em lao động sớm vào sản xuất mây tre đan. Lứa tuổi từ
11 đến 18 tuổi là lứa tuổi được sử dụng lao động nhiều nhất. Bằng sự
nhanh nhẹn, khéo léo của đôi bàn tay, các em đã tạo ra các sản phẩm đẹp
và đúng yêu cầu. Nhưng cũng chính điều đó là một trong những nguyên
nhân khiến nhiều gia đình kéo dài thời gian sử dụng trẻ em trong lao
động, ảnh hưởng đến học tập và sự phát triển toàn diện của trẻ.

1


Lao động trong các làng nghề truyền thống xưa nay vẫn được coi là
lao động nhẹ, không thuộc nhóm nghề lao động nặng nhọc, nguy hiểm. Do
đó, vấn đề này chưa được quan tâm một cách đúng mức.Vì những lý do
khách quan đó, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Vấn đề trẻ em lao động sớm ở
làng nghề truyền thống tại xã Hoàng Đông, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà
Nam hiện nay” làm khóa luận tốt nghiệp của mình
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đây là đề tài được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm từ trước đến
nay. Đã có một số công trình nghiên cứu như công trình của tác giả Đặng
Nhật Hùng với nhan đề: “Vấn đề trẻ em lao động sớm”, và một số công
trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Tuấn Long với nhan đề “Chăm sóc,
bảo về, phòng ngừa lao động trẻ em ở nước ta hiện nay”, và “Công tác xã
hội với trẻ em lao động sớm tại Thanh Xuân, Hà Nội” … Hay đề tài khoa học
của Bộ lao động Thương binh xã hội với đề tài: “Những cơ sở khoa học và
thực tiễn các chính sách bảo vệ lao động trẻ em”.
Từ trước đến nay vấn đề trẻ em lao động sớm được nhiều sách, luận

văn nghiên cứu. Với “Chuyên đề lao động trẻ em” của Viện nghiên cứu khoa
học pháp lý của bộ Tư pháp.
Tuy nhiên, đa số các bài viết mới chỉ đề cập tới trẻ em lang thang, trẻ
em giúp việc tham gia lao sớm. Hiện nay chưa có những nghiên cứu sâu về
trẻ em lao động sớm trong các làng nghề truyển thống.
3. Mục đích nghiên cứu
* Mục đích của khóa luận là hệ thống một số quan điểm của C.Mác Ph.Ăngghen về lao động và phân tích việc sử dụng trẻ em trong lao động
sản xuất mây tre đan tại xã Hoàng Đông, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.
* Nhiệm vụ của khoá luận
Thứ nhất: hệ thống một số quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen về lao
động.
2


Thứ hai: phân tích việc sử dụng trẻ em trong lao động sản xuất mây
tre đan tại xã Hoàng Đông, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề lao động,
quan điểm của Đảng và Hồ Chí Minh về trẻ em làm cơ sở lý luận.
* Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp triết học Mác- Lênin, chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời còn sử dụng một số phương pháp: So
sánh, phân tích các số liệu thu thập và tổng hợp đưa ra kết luận chung.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen về lao động và phân tích việc sử dụng
trẻ em trong lao động sản xuất mây tre đan tại xã Hoàng Đông, huyện
Duy Tiên, tỉnh Hà Nam hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Ở xã Hoàng Đông, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam trong giai đoạn hiện nay.

6. Ý nghĩa của khóa luận
Khóa luận đã bước đầu làm sáng tỏ và hệ thống một số quan điểm của
C.Mác, Ph.Ăngghen về vấn đề lao động và phân tích việc sử dụng trẻ em
trong lao động sản xuất mây tre đan tại xã Hoàng Đông, huyện Duy Tiên,
tỉnh Hà Nam hiện nay. Qua đó góp phần vào việc thống nhất nhận thức lí
luận chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề lao động. Khóa luận có ý nghĩa trong
việc nhận thức và nâng cao giáo dục chủ nghĩa Mác trong thời đại ngày nay,
nhất là trong sự nghiệp đổi mới của nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo đề tài được
chia làm 3 chương và 6 tiết:

3


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRẺ EM
VÀ LAO ĐỘNG
1.1.Lý luận cơ bản về trẻ em và lao động
1.1.1.Khái niệm trẻ em
- Theo Công ước quốc tế về quyền trẻ em: “Trẻ em là người dưới
18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật áp dụng với trẻ em có quy định tuổi
thành niên sớm hơn”
- Khái niệm trẻ em đã dược đề cập trong Tuyên ngôn thế giới về
Quyền con người (1968): Trẻ em là những người chưa trưởng thành, còn
non nớt về mặt trí tuệ, dễ bị tổn thương, cần được bảo vệ và chăm sóc đặc
biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra
đời. Về vị thế xã hội, trẻ em là một nhóm thành viên xã hội, ngày càng có
khả năng hội nhập xã hội với tư cách là chủ thể tích cực, có ý thức, nhưng
cũng là đối tượng cần được gia đình và xã hội đặc biệt quan tâm .

- Hồ Chí Minh cho rằng: Trẻ em là nguồn hạnh phúc của gia đình,
là tương lai của dân tộc, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
tổ quốc. Trẻ em là lớp công dân đặc biệt, là nguồn nhân lực tương lai, là
nhân tố quyết định đến phát triển kinh tế, văn hóa của đất nước. Lúc sinh
thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành tình cảm và sự quan tâm đặc biệt tới
trẻ em. Sự quan tâm này xuất phát từ tầm nhìn xa, trông rộng "vì lợi ích
trăm năm phải trồng người", từ tình thương yêu vô hạn đối với con trẻ.
Bác nói: "cái mầm có xanh thì cây mới vững, cái búp có xanh thì lá mới
tươi, quả mới tốt. Con trẻ có được nuôi dưỡng giáo dục hẳn hoi, thì dân
tộc mới có thể tự cường tự lập". "Ngày nay, các cháu là nhi đồng. Ngày
sau các cháu là người chủ của nước nhà, của thế giới" . Bác đánh giá rất
cao vai trò của trẻ em: "Các cháu đoàn kết thì thế giới hòa bình và dân

4


chủ, sẽ không có chiến tranh" , "Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời
khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt niềm tin và xác định rõ vai trò, trách
nhiệm của trẻ em là những chiến sỹ cách mạng, kế tục sự nghiệp cách
mạng của Đảng và dân tộc. Nhân ngày khai trường đầu tiên dưới chế độ
Dân chủ Cộng hòa, Bác đã gửi bức thư tâm huyết cho các cháu học sinh
trong cả nước. Mở đầu bức thư Bác viết: “Ngày hôm nay là ngày khai
trường đầu tiên ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bác đã tưởng tượng
thấy trước mắt Bác tất cả cảnh nhộn nhịp, tưng bừng của ngày mở trường
khắp nơi... Các cháu được hưởng sự may mắn đó là nhờ sự hy sinh của
biết bao đồng bào. Vậy các cháu nghĩ sao? Các cháu phải làm thế nào để
đền bù lại công lao to lớn của những người đã không tiếc thân và tiếc của
để giành lại nền độc lập cho nước nhà”... “Các em hãy nghe lời tôi, lời
của một người anh lớn lúc nào cũng ân cần mong mỏi cho các em được

giỏi giang", "Ngày nay chúng ta cần phải xây dựng lại cơ đồ mà tổ tiên
đã để lại cho chúng ta, làm sao cho chúng ta theo kịp các nước khác trên
hoàn cầu. Trong công cuộc kiến thiết đó, nước nhà trông mong chờ đợi ở
các em rất nhiều. Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân
tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc
năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của
các em”
Ưu tiên cho trẻ em chính là thể hiện quan điểm coi con người là
trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi chủ trương chính sách
phát triển trước hết phải hướng vào mục tiêu phát triển con người. Bác Hồ
đã giải thích rất ngắn gọn và dễ hiểu chủ nghĩa xã hội là làm cho dân giầu,
nước mạnh , chủ nghĩa xã hội nghĩa là tất cả mọi người các dân tộc ngày
càng ấm no, con cháu chúng ta ngày càng sung sướng mà trước hết là trẻ

5


em. Đây cũng là tư tưởng nhất quán của Bác Hồ và của Đảng ta: con
người là vốn quý nhất, mà thiếu niên, nhi đồng lại là cái vốn quý nhất
trong cái vốn quý nhất đó"
Trong Thư gửi các học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên ở nước
Việt Nam mới, Bác viết: "... từ giờ phút này giở đi các em bắt đầu được
nhận một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam..., một nền giáo dục nó sẽ đào
tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một
nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các
em" . Đó là một nền giáo dục giúp cho các em phát triển toàn diện về đức,
trí, thể, mỹ, giúp cho các em phát huy hết khả năng vốn có của mình. Nền
giáo dục giúp cho nhi đồng phát triển sức khỏe và trí óc, thành những trẻ
em có "4 tính tốt": hoạt bát, mạnh dạn, chất phác, thật thà... mở mang tính
hăng hái và tính sáng tạo của nhi đồng. Làm cho nhi đồng dần dần có cái

tư cách của con người mới: không sợ khó, không sợ khổ, bạo dạn, bền
gan. Mục đích giáo dục của Bác Hồ là xây dựng cho con cháu chúng ta
một đời sống sung sướng, vui tươi, thái bình, hạnh phúc... để mai sau nhi
đồng ta thành những công dân có tài, đức, xứng đáng là người chủ của
nước Việt Nam. Quan điểm này chính là sự thể hiện niềm tin của Bác Hồ
vào trẻ em, coi trẻ em là người có sứ mệnh quyết định vận mệnh của quốc
gia trong tương lai. Những gì các thế hệ cha anh chưa làm được thì cần
bồi dưỡng, giáo dục, tạo cơ hội nhất định cho thế hệ con em làm được.
Bác rất hiểu trẻ em, tôn trọng trẻ em và tạo điều kiện để các em được phát
triển một cách đầy đủ nhất về mọi phương diện.
Vào tháng 2/1948, Bác Hồ đề xướng sáng kiến tổ chức phong trào
hành động cách mạng của thiếu nhi Việt Nam lấy tên là “Phong trào Trần
Quốc Toản”, Bác viết thư gửi các cháu: Qua năm mới, Bác đề nghị các
cháu làm một việc là các cháu tổ chức những Đội Trần Quốc Toản... Bác

6


không mong các cháu tổ chức những đội Trần Quốc Toản để đi đánh giặc
và lập được nhiều chiến công nhưng mà cốt để tham gia kháng chiến bằng
cách giúp đỡ đồng bào. Từ 5 đến 10 cháu tổ chức thành một Đội giúp
nhau học hành, khi học rảnh, mỗi tuần mấy lần cả đội đem nhau đi giúp
đồng bào. Trước giúp các nhà chiến sỹ, thương binh, lần lượt giúp những
nhà ít người. Sức các cháu làm được việc gì thì giúp việc ấy. Thí dụ: quét
nhà, gánh nước, lấy củi, xay lúa, giữ em, dạy chữ quốc ngữ v.v... Đội này
thi đua với đội khác. Mỗi tháng một lần, các đội báo cáo cho Bác biết. Đội
nào giỏi hơn, Bác sẽ gửi giấy khen. Đó là ý kiến của Bác. Nếu cháu nào
có nhiều sáng kiến tìm ra nhiều cách giúp đỡ càng tốt. Các cháu nên hiểu
rằng giúp đỡ đồng bào tức là tham gia kháng chiến. Và do đó các cháu sẽ
luyện tập cái tinh thần siêng năng và bác ái để sau này thành người công

dân tốt của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phú.
1.1.2.Khái niệm lao động
* Quan điểm ngoài Mác xít
Lao động là hoạt động có mục đích của con người nhằm biến đổi các
vật chất tự nhiên thành của cải vật chất cần thiết cho đời sống của mình .
Trong quá trình sản xuất, con người sử dụng công cụ lao động tác động
lên đối tượng lao động nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ cho lợi ích của con
người. Lao động là điều kiện chủ yếu cho sự tồn tại của xã hội loài người, là
cơ sở của sự tiến bộ về kinh tế, văn hóa, xã hội. Nó cũng là nhân tố của bất
cứ quá trình sản xuất nào.
Khi con người tham gia vào quá trình sản xuất thì con người đó là con
người lao động. Như vậy, lao động là hoạt động có mục đích của con nguời,
thông qua hoạt động đó con người tác động vào giới tự nhiên, cải biến chúng
thành những vật có ích nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con người.
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về lao động

7


Lao động là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên nhằm
tạo ra những sản phẩm phục vụ cho các nhu cầu của mình là một quá trình
trong đó bản thân con người đóng góp vai trò môi giới, điều tiết và giám
sát trong sự trao đổi vật chất giữa người và tự nhiên
Lao động là điều kiện đầu tiên và chủ yếu để con người tồn tại. Lao
động cung cấp cho con người những phương tiện cần thiết để sống, đồng
thời lao động sáng tạo ra cả bản thân con người. Nhờ có lao động con
người tách ra khỏi giới động vật. Một trong những sự khác nhau căn bản
giữa con người và động vật là ở chỗ động vật sử dụng các sản phẩm có
sẵn trong giới tự nhiên, còn con người thì lao động mà giới mà bắt giới tự
nhiên phục vụ mục đích của mình, thay đổi nó. Bắt nó phục tùng cho

những nhu cầu của mình. Chính thông qua hoạt động lao động nhằm cải
tạo khách quan mà con người mới có thể phản ánh được thế giới khách
quan, mới có ý thức về thế giới khách quan, bắt thế giới khách quan bộc
lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của mình
thành những hiện tượng nhất định.
Vì thế có thể nói rằng lao động tạo ra ý thức tư tưởng hoặc nguồn
gốc cơ bản của ý thức tư tưởng là sự phản ánh thế giới khách quan vào
đầu óc con người trong quá trình lao động.
Sự hình thành ý thức không phải là quá trình thu nhận thụ động mà
là kết quả hoạt động chủ động của con người. Nhờ có lao động, con người
tác động vào thế giới khách quan, bắt thế giới khách quan phục vụ cho
mình.
Ăng-ghen đã viết trong tác tác phẩm: “Vai trò của lao động trong
lịch sử tiến hóa từ vượn thành người”, ông nhấn mạnh “Lao động là điều
kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ sinh hoạt loài người, và như thế đến một
mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo

8


ra chính bản thân con người”. Như vậy, có thể phân biệt con người với
súc vật bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng
được.“Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật
ngay khi con nguời bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay
khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình.
Đó là một bước tiến do cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra
những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp
sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”[7, tr.44]
Đồng thời các ông cũng khẳng định: “Người là giống vật duy
nhất có thể lao động mà thoát khỏi trạng thái thuần túy loài vật”

[7,tr.19]
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất con người đã làm thay đổi
cải biến tự nhiên. Thông qua hoạt động lao động sản xuất con người sản
xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ đời sống của mình giúp
hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy, xác lập quan hệ xản xuất.
Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của
con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã
hội. Với tư cách là thực thể xã hội con người hoạt động thực tiễn, tác
động vào tự nhiên, cải biến tự nhiên theo mục đích của mình đồng thời
thúc đẩy sự vận động của lịch sử xã hội. Trong quá trình cải biến tự
nhiên con người cũng làm ra lịch sử chính bản thân con người. Hoạt
động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người,
vừa là phương thức để biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội.
Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” C. Mác và Ph. Ăghen viết
“nhưng muốn sống được thì trước hết phải có thức ăn, thức uống,
nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa”. Vì vậy con người phải
tham gia vào sản xuất vào những thứ đó. Quá trình sản xuất hay quá

9


trình lao động ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu tối thiểu đầu tiên của
con người đã giúp con người trở thành “Người” theo đúng nghĩa của nó.
Nhờ lao động, con người đã sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình
và đó là điểm khác biệt giữa con người và con vật. Khi nhận định bước
nhảy từ loài vượn sang loài người thì nhờ có ngôn ngữ và lao động. Lao động
lúc mới phát sinh và phát triển từ tổ tiên loài vượn thì dĩ nhiên là tiến hành
theo bản năng nhưng ý thức và ngôn ngữ đã xuất hiện và phát triển thì lao
động trở thành lao động có tính chất xã hội. Ở mỗi bước tiến lên của lao động
xã hội của tiếng nói và ý thức lại hình thành ra nhữn con đường mới của hoạt

động liên hệ thần kinh trong vỏ não. Và trên cơ sở đó lựa chọn tự nhiên cố
định – trên một cơ cấu di truyền trên vỏ não làm cho con đường liên hệ thần
kinh mới xuất hiện trong thực tiễn lao động. Tầng trên của võ não người
chính là cơ sở di truyền của bản năng lao động xã hội của con người nguyên
thủy mà C.Mác và Ph.Ănggen đã nhận định là bản năng có ý thức. Do đó bản
năng lao động xã hội với tư cách là bản năng có ý thức. Lao động xã hội
quyết định đời sồng con người nên bản năng sinh vật được thu hút và hội
nhập vào bản năng lao động xã hội, cái bản năng xã hội đặc thù của con
người.
Theo Ph.Ănggen cùng với giới tự nhiên cung cấp những vật liệu cho
hoạt động sản xuất , lao động là nguồn gốc của mọi của cải. Hoạt động sản
xuất vật chất tạo ra tư liệu sinh hoạt nhằm duy trì mọi sự tồn tại và phát triển
của con người nói chung cũng như từng cá thể con người nói riêng. Tuy nhiên
ngoài chức năng đầu tiên và trực tiếp đó “lao động còn là cái gì vô cùng lớn
lao hơn thế nữa” [ 8,tr.641]
Bằng việc “sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình , con người
đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình” [9,tr.640]

10


Trải qua lịch sử dài lâu chinh phục giới tự nhiên con người càng hiểu rõ
hơn sức mạnh của mình. Cùng với việc cải tiến bản thân mình và các quan hệ
giữa con người với nhau làm cho việc chinh phục giới tự nhiên đạt hiệu quả
cao hơn. Con người và xã hội loài người được hình thành và phát triển trong
quá trình hoạt động sản xuất vật chất “lao động đã sáng tạo ra bản thân con
người” [10,tr.641] và xã hội đã ra đời cùng với sự xuất hiện của con người
hoàn chỉnh.
* Quan điểm của Hồ Chí Minh về lao động
Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của

chúng ta. Trong xã hội ta, không có nghề nào thấp kém, chỉ có những kẻ lười
biếng, ỷ nại mới đáng xấu hổ. Người nấu bếp, người quét rác cũng như thầy
giáo, kỹ sư nếu làm tròn trách nhiệm thì đều vẻ vang cả.
* Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về lao động
Theo Hiến pháp của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992 tại Điều 5 lao động được định nghĩa như sau: “lao động là quyền và
nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ra ngày càng
nhiều việc làm cho người lao động”. [4, tr.10]
Nhà nước sẽ ban hành chính sách, chế độ bảo hộ lao động. Nhà nước
cũng quy định thời gian lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế
độ bảo hiểm xã hội đối với viên chức, những người làm công ăn lương,
khuyến khích các hình thức bảo hiểm đối với người lao động. Mọi hoạt động
tạo ra việc làm, tự tạo việc làm, dạy nghề và học nghề để có việc làm, mọi
hoạt động sản xuất kinh doanh thu hút những người lao động đều được Nhà
nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi hoặc giúp đỡ. Và Nhà nước có
chính sách khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức và cá nhân
trong và ngoài nước bao gồm cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu
tư, phát triển sản xuất kinh doanh để giải quyết việc làm cho người lao động.

11


Nhà nước sẽ có những trách nhiệm sau:
Thứ nhất, khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức cá nhân
trong và ngoài nước đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh để giải quyết việc
làm cho người lao động. Và các hoạt động tạo ra việc làm, dạy nghề và học
nghề để có việc làm.
Thứ hai, tuyên truyền phổ biến rộng rãi để mọi công dân nắm được các
văn bản pháp lý.
Thứ ba, kiểm tra việc thực hiện.

Thứ tư, giải quyết khiếu nại, tố cáo về lao động.
Thứ năm, xử lý các vụ việc vi phạm về quyền và nghĩa vụ lao động của
công dân
Khi con người tham gia vào quá trình sản xuất thì con người đó là con
người lao động. Như vậy, lao động là hoạt động có mục đích của con nguời,
thông qua hoạt động đó con người tác động vào giới tự nhiên, cải biến chúng
thành những vật có ích nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con người. Hoạt
động lao động có 3 đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất: xét về tính chất, hoạt động lao động phải có mục đích (có ý
thức) của con người. Đặc trưng này chỉ ra sự khác biệt giữa hoạt động lao
động của con người và hoạt động mang tính bản năng của con vật. Con vật
duy trì sự tồn tại của mình dựa vào những sản vật có sẵn trong tự nhiên, còn
con người dùng sức lao động của mình để tạo ra những sản phẩm cần thiết
cho sự tồn tại và phát triển của mình cũng như của cộng đồng.
Thứ hai: xét về mục đích, hoạt động đó phải tạo ra sản phẩm nhằm thỏa
mãn nhu cầu nào đó của con người. Đề cập đến điều này là nhằm phân biệt
với những hoạt động có mục đích không nhằm thỏa mãn nhu cầu chính đáng
của con người, không phục vụ cho sự tiến bộ của xã hội. Những hoạt động đó
không thể gọi là hoạt động lao động.

12


Thứ ba, xét về mặt nội dung, hoạt động của con người phải là sự tác
động vào tự nhiên làm biến đổi tự nhiên và xã hội nhằm tạo ra của cải vật chất
và tinh thần phục vụ lợi ích của con người. Đề cập đến điều này là để phân
biệt với các hoạt động không tạo ra sản phẩm (vật chất và tinh thần), các hoạt
động mang tính chất phá hoại tự nhiên. Những hoạt động đó không thể gọi là
hoạt động lao động. Ngày nay, hoạt động lao động không chỉ là khai thác tự
nhiên mà còn song song với nó là sự bồi đắp bảo vệ tự nhiên.

Đến đây có thể thấy sự khác nhau cơ bản giữa khái niệm sức lao động
và lao động; sự khác nhau thể hiện ở chỗ nói đến sức lao động là nói đến khả
năng lao động, còn nói đến lao động là nói đến hành động đang diễn ra. Như
vậy, để biến khả năng lao động (sức lao động) thành hiện thực (lao động) cần
phải có những điều kiện nhất định (điều kiện vật chất, điều kiện con người,
môi trường xã hội v.v...) mà thiếu những điều kiện này, quá trình lao động
không diễn ra được.
* Trẻ em lao động sớm
- Theo tổ chức RWG-CL: Lao động trẻ em bao gồm tất cả các loại
công việc do trẻ em đến 18 tuổi thực hiện mà có hại cho sức khỏe hoặc cơ
thể, tinh thần, trí tuệ hay sự phát triển về mặt xã hội và ảnh hưởng tới việc
học tập của trẻ em
- Hiện nay ở Việt nam chưa có nghiên cứu nào nhằm đưa ra một
khái niệm đầy đủ về lao động trẻ em mà chỉ có những nghiên cứu với một
số dạng hình cụ thể của lao động trẻ em như: Trẻ em làm thuê, trẻ em bị
buôn bán, .... Như vậy, để phù hợp với những quan điểm quốc tế thì lao
động trẻ em có thể hiểu như sau:
Lao động trẻ em là những người dưới 18 tuổi có tham gia hoạt
động kinh tế và bị rơi vào một trong những trường hợp sau:
+ Bị cưỡng bức lao động

13


+ Bị bóc lột hoặc bị lạm dụng
+ Điều kiện lao động, môi trường lao động nguy hiểm, có hại đối
với sự phát triển bình thường của trẻ về thể chất, tinh thần
Đến nay trẻ em lao động sớm cũng chưa có khái niệm cụ thể, từ
trên ta có thể khái quát lại trẻ em lao động sớm như sau: trẻ em lao động
sớm là một thuật ngữ để chỉ những trẻ em dưới độ tuổi lao động theo pháp

luật quy định, đang phải dành hầu hết thời gian làm những công việc quá
sức của mình hoặc thời gian làm việc quá dài, nhằm tạo ra thu nhập nuôi
sống bản thân và mưu sinh của cả gia đình.
1.2.Những ảnh hưởng đối với trẻ lao động sớm
1.2.1.Các yếu tố ảnh hưởng đến trẻ em lao động sớm
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng trẻ lao động sớm
nhưng nhìn chung có ba yếu tố cơ bản ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của
các em và gia đình của trẻ làm cho trẻ em phải lao động sớm đó là: yếu tố
kinh tế, yếu tố nhận thức, và yếu tố dịch vụ vui chơi giải trí.
* Về yếu tố kinh tế
Kinh tế là yếu tố quyết định cuộc sống và mức độ sinh hoạt của mỗi
gia đình. Khi kinh tế ổn định thì những nhu cầu cơ bản của con người
như: ăn, mặc, ở, đi lại được thỏa mãn thì con người sẽ có điều kiện để
phát triển cao hơn. Khi đó các gia đình sẽ có điều kiện chăm sóc con cái,
trẻ em được đến trường và được quan tâm đầy đủ hơn.
Ngược lại, nếu kinh tế khó khăn hoặc nghèo đói, thì việc đáp ứng
những nhu cấu cơ bản thấp, con người sẽ có ít điều kiện để phát triển ở
mức cao hơn. Những lo lắng về bát cơm manh áo đã chiếm hết thời gian
của cha mẹ và các em. Do đó trẻ em ít được quan tâm hơn. Và nhiều trẻ
em vì gia đình khó khăn đã không được đến trường mà phải ở nhà phụ

14


giúp cha mẹ làm thêm. Chính điều này đã dẫn đến tình trạng trẻ em lao
động sớm.
* Về yếu tố nhận thức
Yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ với yếu tố kinh tế. Xuất phát từ
kinh tế kém phát triển, người dân không có điều kiện để học hành, nâng
cao nhận thức. Nhiều bậc cha mẹ của trẻ có trình độ thấp, chưa hiểu hết

những hậu quả của việc sử dụng trẻ em lao động sớm đã ảnh hưởng đến
sự phát triển của trẻ. Vì thế, để giải quyết những khó khăn trước mắt họ đã
sử dụng con em mình vào lao động làm thêm trước tuổi và kéo dài thời
gian lao động. Bên cạnh đó do trình độ dân trí thấp, nhiều người nông dân
chưa tiếp cận với quy định của nhà nước nên chưa hiểu được trách nhiệm
và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái.
* Về yếu tố dịch vụ - vui chơi giải trí
Vấn đề vui chơi giải trí là một vấn đề rất quan trọng đối với trẻ em.
Ngoài thời gian học hành, ăn, ngủ, các em còn có nhu cầu vui chơi giải trí
lành mạnh để phát triển cả thể chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên do ở nông
thôn ít các dịch vụ vui chơi giải trí công cộng cho trẻ em, nên thời gian
rảnh rỗi ngoài giờ học của các em nhiều nên gia đình đã tận dụng để các
em làm những công việc nhà hoặc lao động kiếm tiền giúp đỡ gia đình.
1.2.2.Ảnh hưởng của lao động sớm đến trẻ vị thành niên
Trong quá trình phát triển của loài người, lao động đóng một vai trò
quan trọng. Chính nhờ quá trình lao động mà loài vượn đã tiến hóa thành
con người hoàn chỉnh như ngày nay. Ăng-gen đã viết trong tác phẩm:
“Vai trò của lao động trong lịch sử tiến hóa từ vượn thành người”, ông
nhấn mạnh “ ...trong một chừng mực nhất định có thể nói lao động sáng
tạo nên chính con người”. Do đó, lao động có vai trò hết sức tích cực đối

15


với con người. Tuy nhiên đối với trẻ em thì lao động có hai chiều hướng
tích cực và tiêu cực:
* Ảnh hưởng tích cực của lao động đối với trẻ
Đối với trẻ em, nếu công việc lao động phù hợp với sức khỏe,
không ảnh hưởng đến việc học hành, vui chơi giải trí của các em thì đó là
điều kiện tốt để các em phát triển cả thể chất lẫn nhân cách. Thông qua lao

động các em có thể học hỏi được kinh nghiệm sống và làm việc. Đó là
những kinh nghiệm cần thiết cho sau này. Quá trình lao động đem lại
nhận thức về quy luật tự nhiên, xã hội mà trẻ em đã được học kiến thức ở
nhà trường, trẻ có thể thực hành và rút ra bài học từ thực tế. Đó là những
nền tảng tạo cho các em sự tự tin, phát triển toàn diện về cả thể chất và
nhân cách để bước vào đời.
* Ảnh hưởng tiêu cực của lao động đối với trẻ
Bên cạnh những tác động tích cực thì vấn đề trẻ em tham gia lao
động có những tồn tại ảnh hưởng không tốt cho quá trình phát triển cuả trẻ
em. Nếu như trẻ em bị lạm dụng lao động quá sức hoặc trẻ em tham gia
lao động sớm với thời gian kéo dài sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng
cho chính bản thân các em, cho gia đình và cho xã hội.
Về mặt thể chất, sức khỏe:
Theo nghiên cứu thì trẻ em đang trong độ tuổi dậy thì, cơ thể các
em bắt đầu phát triển mạnh và có sức khỏe hơn giai đoạn trước. Tuy nhiên
nguồn sức của các em lại nhanh cạn kiệt vì hệ cơ, hệ tuần hoàn và hệ hô
hấp của các em chưa hoạt động hoàn chỉnh như người lớn. Do đó các em
không có khả năng làm việc lâu dài và quá sức. Nếu sử dụng trẻ em lao
động qua sức hay kéo dài thời gian, sẽ làm cho cơ thể các em phát triển
bình thường, hoặc dễ gây tai nạn hay chấn thương về sau.
Về mặt tâm lý, tinh thần:

16


Trẻ em tham gia lao động sớm không chỉ có ảnh hưởng không tốt
về mặt thể chất, mà còn ảnh hưởng lớn đến vấn đề tâm lý của các em. Đó
là ảnh hưởng đến sự phát triển về nhận thức và sự phát triển về tình cảm.
Khi các em tham gia lao động nặng nhọc, hoặc với thời gian kéo dài cơ
thể các em thường mệt mỏi nên thường có cảm giác không muốn vui chơi

hay học tập. Khi nhìn những trẻ khác bằng tuổi được hưởng những điều
kiện đầy đủ và tốt hơn, các em dễ bị mặc cảm, tủi thân, xấu hổ với mọi
người. Từ đó các em dễ có tư tưởng bi quan, chán nản; hoặc ít nói, sống
thu mình, không muốn giao tiếp với mọi người. Khi lớn lên tình cảm của
các em có thể không phát triển bình thường, ảnh hưởng đễn cuộc sống sau
này của các em.

17


Chương 2
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG TRẺ LAO ĐỘNG SỚM Ở LÀNG NGHỀ
TRUYỀN THÔNG TẠI XÃ HOÀNG ĐÔNG, HUYỆN DUY TIÊN,
TỈNH HÀ NAM
2.1.Giới thiệu sơ lược về nghề truyền thống mây trẻ đan ở xã Hoàng
Đông, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam
Xã Hoàng Đông là một xã nằm ở phía Bắc huyện Duy Tiên, tỉnh Hà
Nam. Xã gồm có 3 làng: Hoàng Thượng, Ngọc Đông và An Nhân. Dân số
của xã là 2430 người với 733 hộ gia đình trong đố có 14 hộ gia điình có từ
3 con trở lên
Nghề nghiệp chủ yếu của người dân là làm nông nghiệp và phát
triển nghề truyền thống mây tre đan chiếm gần 90% dân số. Nghề truyền
thống mây tre đan trong xã phát triển chủ yếu ở quy mô hộ gia đình. Nghề
mây tre đan có nguồn gốc từ xa xưa. Nhưng hiện nay, nghề này mang tính
hàng hóa cao. Đặc điểm của nghề mây tre đan là có thể sử dụng lao động
dưới độ tuổi lao đông, và nghề này cũng không đòi hỏi cao về sức khỏe
mà đòi hỏi độ nhanh nhẹn, mềm dẻo và chính xác về kích thước, phù hợp
với khả năng lao động của trẻ em. Tuy nhiên, để tạo ra một sản phẩm bao
gồm nhiều khâu và mất nhiều thời gian vào việc đan hàng. Vì vậy trẻ
tham gia sản xuât cùng gia đình dễ bị kéo dài thời gian lao động. Dụng cụ

để làm việc trong quá trình mây tre đan là dao, dùi. Muốn đan được nhiều
hàng đòi hỏi dụng cụ đan phải sắc, nhọn . Tuy nhiên cũng vì lý do đó mà
rấy dễ xảy ra tai nạn khi lao động.
Hiện nay trong toàn xã có 342 trẻ em, trong đó có 230 em nằm
trong độ tuổi từ 11 đến dưới 15, 112 em nằm trong độ tuổi từ đủ 15 đến
dưới 18 tuổi. Đây là môt nguồn nhân lực để phát triển nghề mây tre đan.
Tuy nhiên trên thực tế có nhiều gia đình sử dụng trẻ lao động sớm. Điều

18


này được thể hiện qua thực trạng sủ dụng trẻ lao động sớm trong phát
triển nghề truyền thống mây tre đan.Trong khuôn khổ bài khóa luận này,
vì thời gian và có điều kiện có hạn, không thể nghiên cứu trên toàn bộ trẻ
em trong xã xin được nghiên cứ trên 96 hộ gia đình có trẻ em lao động
sớm tại xã Hoàng Đông
2.2. Thực trạng trẻ em lao động sớm ở nghề truyền thống mây tre đan
tại xã Hoàng Đông, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam
2.2.1.Thực trạng về độ tuổi và giới tính
Nghiên cứu về cơ cấu lứa tuổi và giới tính của trẻ tham gia lao động
sớm trong sản xuất mây tre đan, nhằm giúp cho việc làm sáng tỏ đặc
điểm, tính chất lao động và quan niệm về giới của gia đình, bản thân các
em.
Qua bảng số liệu của Ủy ban nhân dân xã Hoàng Đông có 96 gia
đình trên địa bàn 3 làng của xã Hoàng Đông có trẻ em tham gia lao động.
Chúng ta có thể phân chia giới tính theo nhóm độ tuổi sau:
Bảng 1: Độ tuổi và giới tính của trẻ lao động sớm tại xã Hoàng Đông
Độ tuổi

Nam

Số

Tỷ lệ Số

Tỷ lệ Số

Tỷ lệ

lượng

%

lượng

%

11.5

23

24.0

34

35.0

26

37


38.5

62

65.0

37.5

60

62.5

96

100.0

lượng %
11 đến dưới 15 11
tuổi
15 đến dưới 18 25
tuổi
Tổng

36

Nguồn: Báo cáo kết quả điều tra dân số xã Hoàng Đông năm 2012 của
Ủy ban nhân dân xã Hoàng Đông.

19



Nhìn vào bảng 1: chúng ta thấy số trẻ trong nhóm tuổi từ 15 đến dưới
18 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất: 65.0% với 62 em gấp 1.8 lần so với trẻ ở độ
tuổi từ 11 đến dưới 15 tuổi. Số trẻ từ 11 đến dưới 15 tuổi chỉ chiếm 35%
với 34 em. Có 8/10 trẻ trong độ tuổi từ đủ 15 đến dưới 18 cho rằng trẻ
tham gia lao động sản xuất mây tre đan thuộc nhóm tuổi từ đủ 15 đên
dưới 18 tuổi có sự khéo léo hơn, do độ tuổi và kinh nghiệm nhiều hơn nên
trẻ trong độ tuổi này phải tham gia lao động nhiều hơn.
Về giới tính, có sự chênh lệch về giới tính phân theo nhóm tuổi.
Nhìn chung nữ giới chiếm tỷ lệ cao hơn nam giới. Nhóm tuổi từ 11 đến
dưới 15 tuổi nam là 11 người chiếm 11.5%, nữ là 23 người chiếm 24.0%;
nữ cao hơn nam 12 người với 12.5%. Trong nhóm tuổi này nữ giới cao
hơn gấp đôi so với nam giới. Nhóm trẻ từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi, nam là
25 người với 26.0%, nữ là 37% người với 38.5%; nữ hơn nam 12 người
với 12.5%. Trong nhóm tuổi này nữ giới cũng cao hơn gấp đôi so với nam
giới. Như vậy, có sự bất bình đẳng giới trong lao động, trẻ là nữ phải tham
gia sản xuất mây tre đan nhiều hơn trẻ là nam. Ngoài nguyên nhân do sự
chênh lệch giới tính ngay những năm cuối thập niên chín mươi, đầu thập
niên hai nghìn, tỷ lệ trẻ em nữ được sinh ra nhiều hơn trẻ em nam , thì còn
có nhưng nguyên nhân khác. Theo điều tra của Ủy ban nhân dân xã
Hoàng Đông có 15 hộ gia đình có trẻ em lao động sớm, 12/15 hộ gia đình
cho rằng trẻ em nữ phải lao động nhiều hơn trẻ em nam là đúng, tục lệ
xưa nay vẫn thế. Quan niệm “trọng nam khinh nữ” vẫn còn khá phổ biến
trong suy nghĩ của người dân xã Hoàng Đông. Ngoài ra, do tính chất công
việc của mây tre đan là cần cù, khéo léo nên phù hợp với trẻ em đặc biệt
là trẻ em nữ. Trong khi đó thể lực ở trẻ nữ lại yếu hơn nam nhưng lại phải
lao đông nhiều hơn nên các em sẽ có ít thời gian học tập và vui chơi giải
trí. Một thực tế là nếu không sớm khắc phục tư tưởng này, nó sẽ ảnh

20



hưởng đến chính suy nghĩ của trẻ nữ dẫn đến tư tưởng cam chịu làm giảm
đi tinh thần đấu tranh vì sự công bằng, tiến bộ xã hội.
Như vậy, việc quan tâm đến sự phát triển của trẻ tại xã Hoàng
Đông, trong đó có bình đẳng giới là một trong những vấn đề cần sự quan
tâm của cả gia đình và xã hội để có thể làm giảm bớt và từ đó xóa đi
những tư tưởng phong kiến “trọng nam khinh nữ” đang tồn tại ở xã Hoàng
Đông.
2.2.2.Thực trạng thời gian làm việc và nghỉ ngơi
* Thực trạng thời gian làm việc những ngày học tập trong tuần
Thời gian lao động trong một ngày là một trong những tiêu chí đánh
giá mức độ sử dụng lao động. Thời gian làm việc của trẻ ở xã Hoàng
Đông qua điều tra phụ thuộc vào việc học tập của các em, được chia làm
hai nhóm: nhóm trẻ còn đi học và nhóm trẻ đã nghỉ học ở nhà phụ giúp
gia đình. Thời gian lao động của nhóm trẻ em đã nghỉ học ở nhà kéo dài
hơn nhóm trẻ đang đi học. Điều này được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 2: Thời gian lao động của trẻ em ở xã Hoàng Đông
Độ tuổi

Nhóm trẻ còn đi học

Nhóm trẻ đã nghỉ học

Thời gian

Số

Tỷ lệ


Thời gian

Số

Tỷ lệ

làm việc

ngườ

(%)

làm việc

ngườ

(%)

(h/ngày)

i

(h/ngày)

i

11 đến dưới

4


10

10.4

10

1

1.0

15 tuổi

5

21

21.9

11

2

2.1

15 đến dưới

4

21


21.9

12

5

5.2

18 tuổi

5

24

25.0

-

-

-

6

12

12.5

-


-

-

-

88

91.7

-

8

8.3

Tổng

21


×