Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Hội nhập kinh tế quốc tế và vai trò của nó đối với quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá ở việt nam hiện nay khoá luận tốt nghiệp đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (555.26 KB, 77 trang )

Khoa Giáo dục chính trị

Khóa luận tốt nghiệp

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
**************

LÊ THỊ HIÊN

HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ VAI TRÕ
CỦA NÓ ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị

Người hướng dẫn khoa học
Th.S: Trần Thị Hồng Loan

HÀ NỘI – 2012

Lê Thị Hiên

1


Khoa Giáo dục chính trị

Khóa luận tốt nghiệp


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế giới bước vào thế kỷ XXI với nhiều biến đổi vô cùng mạnh mẽ, diễn
ra ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế đang trở
thành một trong những xu hướng tất yếu của quan hệ quốc tế hiện đại. Các
nước tư bản phát triển với cương vị là lực lượng đi trước, họ nắm giữ phần
lớn sức mạnh về kinh tế, chính trị, quân sự,… Do đó, các nước kém phát triển
ít nhiều cũng bị ảnh hưởng bởi sự chi phối của họ, hay nói cách khác, sự phát
triển của mỗi quốc gia nằm trong sự phụ thuộc lẫn nhau. Đồng thời với cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại có tốc độ phát triển như vũ bão đã
dẫn tới công nghệ sản xuất, trình độ sản xuất, khả năng lao động, trình độ tổ
chức và quản lý sản xuất của con người có sự tăng lên đáng kể. Điều này cho
phép con người có thể rút ngắn các giai đoạn hay các hình thức công nghệ
trong sự phát triển của LLSX.
Việt Nam hiện nay đang trong thời kỳ đổi mới đất nước, xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong đó CNH, HĐH được xác định là
nhiệm vụ trọng tâm của cả thời kỳ quá độ lên CNXH. Tuy nhiên, khi mà kinh
tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển LLSX, cuộc
cách mạng KH - CN hiện đại tác động sâu rộng tới mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, xu thế hội nhập và toàn cầu hóa đã đặt ra những điều kiện vật chất và
phương tiện kĩ thuật mới tạo cho chúng ta nhiều cơ hội cũng như thách thức
lớn trong quá trình phát triển. Trước bối cảnh đó, chúng ta có thể đi tắt đón
đầu rút ngắn quá trình CNH, HĐH bằng cách tham gia HNKTQT. Khi tham
gia hội nhập chúng ta mới có thể thu hút được vốn, kĩ thuật, công nghệ, kinh
nghiệm và phương pháp quản lý tiên tiến,…của các nước để khai thác tiềm
năng, thế mạnh của nước ta nhằm hoàn thành quá trình CNH, HĐH đất nước.
Thực hiện phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển kinh

Lê Thị Hiên


2


Khoa Giáo dục chính trị

Khóa luận tốt nghiệp

tế, xã hội phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Chính vì vậy, việc tìm hiểu vai trò của
HNKTQT đối với quá trình CNH, HĐH ở nước ta là một việc làm cần thiết.
Là một sinh viên năm cuối của khoa Giáo dục chính trị, với những kiến
thức lý luận đã được trang bị trong nhà trường và được tiếp xúc với thực tiễn
tôi chọn đề tài: “Hội nhập kinh tế quốc tế và vai trò của nó đối với quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay” góp phần tìm
hiểu những vai trò của HNKTQT trong việc tạo ra những tiền đề cho CNH,
HĐH nước ta hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về vấn đề: “HNKTQT và vai trò của nó đối với quá trình
CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay” trong thời gian qua chưa có nhiều công
trình nghiên cứu, nhưng tôi đã tìm hiểu được một số bài viết nhìn nhận ở
những góc độ khác nhau như:
- GS.TS Đỗ Thế Tùng (2003), “Tác động của toàn cầu hóa và hội nhập
kinh tế đến nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam”, Nghiên
cứu kinh tế (Số 296), tr.32 – 37.
Bài viết này tác giả chủ yếu nghiên cứu những tác động tích cực của
HNKTQT , sau đó chỉ ra những hạn chế và những giải pháp khắc phục những
hạn chế ấy.
- GS.TS Nguyễn Mại, ( 2000), “Hội nhập kinh tế với thế giới: Vấn đề và
giải pháp”, Tạp chí Cộng sản (số 5), tr.17 – 23.
Tác giả chỉ ra hội nhập là vấn đề chung cho mỗi quốc gia, hội nhập có

quan hệ với các vấn đề như: Độc lập tự chủ, an ninh quốc gia, bản sắc văn hóa
của dân tộc. Sau đó tác giả nghiên cứu thực trạng chỉ ra những thành tựu và
hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế và từ đó, đưa ra các giải pháp để
nâng cao hiệu quả của hội nhập.

Lê Thị Hiên

3


Khoa Giáo dục chính trị

Khóa luận tốt nghiệp

Ngoài ra, còn nhiều tác giả khác cũng đã bàn đến HNKTQT nhưng do
khuôn khổ của khóa luận, thời gian hạn chế nên tôi chỉ kể ra được một số tài
liệu đã tóm lược ở trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Đề tài nghiên cứu một cách tổng quát vai trò của HNKTQT đối với việc
tạo ra những tiền đề nhằm đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, chỉ ra
những thành tựu, hạn chế của quía trình HNKTQT ở nước ta hiện nay; bước
đầu đưa ra một số giải pháp để thúc đẩy HNKTQT ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế trong việc tạo ra những
tiền đề cần thiết để thúc đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam hiện
nay.
- Phân tích thực trạng của HNKTQT ở Việt Nam, những thành tựu và
hạn chế trong quá trình hội nhập và nguyên nhân của những hạn chế đó.
- Bước đầu đưa ra một số giải pháp mở rộng HNKTQT nhằm thúc đẩy

quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của HNKTQT đối với quá trình CNH,
HĐH ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu vai trò của HNKTQT đối
với quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam trong giai đoan hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
- Phương pháp quy nạp - diễn dịch
- Phương pháp lôgic - lịch sử,…

Lê Thị Hiên

4


Khoa Giáo dục chính trị

Khóa luận tốt nghiệp

6. Ý nghĩa của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Làm sáng tỏ vai trò tích cực của HNKTQT và góp phần lý giải cơ sở
khoa học cho việc khẳng định vai trò tích cực của HNKTQT đối với quá trình
CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay.
- Tạo cơ sở cho việc nghiên cứu những vấn đề về HNKTQT.
6.2.Ý nghĩa thực tiễn
Đánh giá đúng thực tiễn HNKQTQT của Việt Nam và đưa ra một số giải
pháp cơ bản mở rộng HNKTQT nhằm thúc đẩy quá trình CNH, HĐH ở Việt

Nam hiện nay
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
khóa luận bao gồm 3 chương 9 tiết.

Lê Thị Hiên

5


Khoa Giáo dục chính trị

Khóa luận tốt nghiệp

Chƣơng 1

MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ VÀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
1.1. Lý luận về hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế
Toàn cầu hóa (Globalization) là thuật ngữ lần đầu tiên xuất hiện trong từ
điển tiếng Anh năm 1961 và được sử dụng phổ biến từ đầu thập kỷ 90 của thế
kỷ XX cho đến nay, tức là từ khi làn sóng “Toàn cầu hóa” mới xuất hiện gắn
liền với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, nó bao trùm hầu hết mọi lĩnh
vực của đời sống nhân loại.
Nếu như toàn cầu hóa đặt ra yêu cầu hình thành một quá trình hướng tới
sự thống nhất toàn cầu về phát triển thì HNKTQT là sự đáp ứng yêu cầu đó.
Toàn cầu hóa kinh tế và HNKTQT là cặp phạm trù “song sinh” trong sự phát
triển của nền kinh tế thị trường thế giới. Nhưng không phải vì thế mà đồng
nhất toàn cầu hóa kinh tế và HNKTQT là một, nếu tiếp cận theo quan điểm

này thì chúng ta sẽ không thể phân biệt được những tác động chung của toàn
cầu hóa kinh tế với những tác động rất cụ thể của HNKTQT tạo ra cho từng
quốc gia. Vậy thì HNKTQT là gì? Nó được quan niệm như thế nào?
Có khá nhiều định nghĩa về HNKTQT tùy theo những cách tiếp cận khác
nhau, song có thể đưa ra một số định nghĩa tiêu biểu như:
“Hội nhập kinh tế quốc tế là sự tham gia của một nước vào quá trình
phân công lao động quốc tế, là một yêu cầu khách quan của quá trình phát
triển kinh tế dựa trên sự phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ của khoa
học công nghệ” [3, tr.28].
PGS.TS.Đặng Văn Thanh định nghĩa:
“Hội nhập kinh tế quốc tế về thực chất là quá trình gắn kết nền kinh tế
thế giới trên cơ sở tự do hóa nền kinh tế và mở cửa thị trường trong nước”
[15,tr.22]
Lê Thị Hiên

6


Khoa Giáo dục chính trị

Khóa luận tốt nghiệp

Như vậy HNKTQT chính là quá trình liên kết kinh tế có mục tiêu, định
hướng cụ thể gắn với phạm vi, cấp độ cũng như điều kiện cụ thể của mỗi
nước. Mỗi nước do những điều kiện kinh tế - xã hội đặc thù sẽ có lộ trình và
những bước đi, các giải pháp hội nhập khác nhau.
Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” C. Mác và P.Ănghen cũng đã
dự báo: Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới và thay cho tình trạng cô
lập trước kia của các địa phương và dân tộc vẫn tự cung, tự cấp, ta thấy phát
triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc. Từ đó

đến nay tiến trình hợp tác quốc tế đã phát triển rất mạnh mẽ, với gia tốc ngày
một lớn. Chẳng hạn loài người cần đến 100 năm để tiêu thụ hết 100 triệu
chiếc ôtô, cần 40 năm để tiêu thụ hết 100 triệu chiếc máy tính thu hình, nhưng
chỉ cần 4 năm sẽ có 100 triệu người tham gia mạng thông tin toàn cầu
Internet. Điều đó cho thấy sự phát triển như vũ bão của lực lượng sản xuất mà
trước hết là lĩnh vực công nghệ thông tin với sự lên ngôi của nền kinh tế
tri thức.
HNKTQT là khách quan do toàn cầu hóa kinh tế và cuộc cách mạng
khoa học công nghệ mới quy định song không thể có HNKTQT chung chung
mà là HNKTQT của mỗi nước.
Khi nói về hội nhập quốc tế có ba cấp độ: Hội nhập song phương, hội
nhập khu vực, ví dụ như EU, ASEAN, hội nhập toàn cầu, ví dụ như WTO.
Trong đó hội nhập song phương và hội nhập khu vực không thể đồng nghĩa
với toàn cầu hóa mà chỉ là những nấc thang, những mức độ tiến tới toàn cầu
hóa nhưng khi nói tới HNKTQT thì có những cấp độ như sau:
Cấp độ thứ nhất: Buôn bán trao đổi hàng hóa, dịch vụ, quá trình này đòi
hỏi phải có sự thỏa thuận của cộng đồng quốc tế (cả kể song phương và đa
phương) như chấp nhận thanh toán của các ngân hàng thương mại và ngân
hàng ngoại thương.

Lê Thị Hiên

7


Khoa Giáo dục chính trị

Khóa luận tốt nghiệp

Cấp độ thức hai: Buôn bán kinh doanh thông qua hiệp định thương mại,

có thỏa thuận song phương và đa phương về thuế quan (liên minh thuế quan)
và các điều kiện cả mức độ thể chế hóa có giới hạn.
Cấp độ thứ ba: Cấp độ này là sự thiết lập các hợp đồng dài hạn về ưu đãi
thuế quan và các điều kiện kinh doanh khác như hải quan.
Cấp độ thứ tư, đây là cấp độ cao nhất tính đến thời điểm này. Nó là liên
minh kinh tế và liên minh tiền tệ, hình thành đồng tiền chung, ngân hàng
Trung ương chung và có sự phối hợp các chính sách kinh tế với nhau. Ở cấp
độ này, trình độ thể chế hóa rất cao và thường xuyên được bổ sung hoàn
thiện, các quốc gia tham gia vào cộng đồng phải chia sẻ chủ quyền với cộng
đồng.
Tóm lại HNKTQT cũng là một quá trình phát triển tất yếu khách quan
của nền kinh tế thế giới, và theo đó HNKTQT là cách tiếp cận khác đi của
toàn cầu hóa kinh tế.
1.1.2. Sự cần thiết phải tham gia hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
1.1.2.1. Hội nhập kinh tế quốc tế - xu hướng tất yếu của thời đại
Cái quy định xu hướng tất yếu của thời đại ở đây trước hết cần phải nói
đó là sự phát triển như vũ bão của các công nghệ cao đang đưa loài người vào
nền kinh tế tri thức.
Thế giới ngày nay có những biến đổi rất sâu sắc và mạnh mẽ, trong
những thập niên vừa qua công nghệ phát triển nhanh chóng đặc biệt là công
nghệ cao như: Công nghệ thông tin, điện tử, phần mềm, công nghệ sinh học
mà điển hình là công nghệ gen, nhân bản vô tính,…đã tạo ra sự biến đổi trong
toàn bộ xã hội loài người và đưa con người bước vào thời đại kinh tế tri thức.
Nếu như trước đây khoa học công nghệ đóng vai trò tạo ra phương pháp
để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất chất lượng và hiệu quả
sản xuất thì bây giờ theo tiên đoán của C.Mác là hoàn toàn đúng. Khoa học

Lê Thị Hiên

8



Khoa Giáo dục chính trị

Khóa luận tốt nghiệp

công nghệ đã trực tiếp tạo ra sản phẩm, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
và quan trọng hàng đầu. Mà quá trình phát triển của lực lượng sản xuất trải
qua ba thời kỳ: Kinh tế nông nghiệp đến kinh tế công nghiệp và sau đó là
những yếu tố của nền kinh tế tri thức đang bắt đầu xuất hiện. Trong nền kinh
tế tri thức ấy thì chiếm đa số là các ngành dựa vào sự phát triển của tri thức,
dựa vào thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ, đó là các ngành:
Công nghệ thông tin, công nghiệp công nghệ cao, dịch vụ mới,...và cũng có
thể là những ngành truyền thống đã được cải tạo bằng khoa học công
nghệ cao.
Khi kinh tế tri thức phát triển nó tạo ra nhiều tác động làm biến đổi xã
hội. Trong đó, sự biến đổi về cơ cấu giai cấp trong xã hội là điển hình mà tiêu
biểu là giai cấp công nhân - lực lượng chủ yếu tạo ra của cải xã hội và đại
diện cho lực lượng sản xuất mới.
Bên cạnh đó, xu thế chung của thời đại ngày nay là xu thế hòa bình ổn
định, hợp tác, vì sự phát triển và tiến bộ của loài người.
Thứ nhất: Một thời kỳ hòa bình, hợp tác và phát triển đã được mở ra sau
khi chiến tranh lạnh kết thúc, các nước chuyển từ đối đầu sang đối thoại, bắt
tay nhau cùng hợp tác và phát triển đất nước đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế.
Thứ hai: Hiện nay toàn cầu hóa đang là xu thế điển hình bên cạnh những
mặt tích cực nó cũng tạo ra những mặt tiêu cực. Các vấn đề toàn cầu xuất hiện
và trở thành những vấn đề bức xúc đòi hỏi phải có sự hợp tác của các quốc
gia như các vấn đề về: môi trường, dân số, bệnh hiểm nghèo, tệ nạn xã hội,
hòa bình an ninh,…Những vấn đề này đòi hỏi toàn nhân loại phải bắt tay
nhau, chung sức, chung lòng vượt qua những thách thức ấy, bởi nó không

phải là vấn đề riêng của một quốc gia nào mà là những vấn đề mang tính toàn
cầu. Các quốc gia cần phải có sự hợp tác để ngày càng có thể tạo dựng được
một thế giới hòa bình, ổn định và phát triển

Lê Thị Hiên

9


Khoa Giáo dục chính trị

Khóa luận tốt nghiệp

1.1.2.2. Việt Nam có đầy đủ những tiền đề, cơ sở để tham gia HNKTQT
Về vị trí địa lý: Việt Nam nằm trên bán đảo Đông Dương, là vị trí trung
tâm của Châu Á với đường bờ biển kéo dài có tiềm năng về phát triển du lịch
biển, thủy sản. Do nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa nên nước ta có
một hệ sinh thái đa dạng, có nhiều danh lam thắng cảnh và nhiều khu di tích
có thế mạnh về du lịch. Đồng thời, là nơi án ngữ các đầu mối giao thông quan
trọng do đó chúng ta có điều kiện thông thương với nhiều quốc gia tên thế
giới, trong lục địa và hải đảo. Có nhiều cảng biển có vị trí quan trọng cả về
kinh tế lẫn quân sự, và hơn hết là nước ta lại có nguồn tài nguyên phong phú,
đây là điều kiện quan trọng để phát triển các ngành kinh tế khác nhau phục vụ
cho CNH, HĐH.
Về chính trị, xã hội: Ở nước ta có tình hình chính trị, xã hội tương đối ổn
định, là nơi đầu tư an toàn cho các quốc gia vào nước ta kinh doanh, là điểm
đến an toàn bởi chúng ta có một hệ thống chính trị ổn định, một Đảng vững
mạnh, một chính quyền luôn lấy lợi ích của nhân dân làm đầu, nhà nước ta là
nhà nước của dân do dân và vì dân. Ở nước ta không có các hiện tượng xung
đột vũ trang như một số khu vực như: Tây Á, Trung Đông,..gây lo ngại cho

các nhà đầu tư nước ngoài. Trong khi đó chúng ta lại nằm trong khu vực
được xem là nơi có nền kinh tế năng động hiện nay, giàu tiềm năng về tự
nhiên và con người. Chính vì thế, Việt Nam luôn là sự lựa chọn của nhiều nhà
đầu tư quốc tế.
Về con người: Ngày nay lợi thế so sánh của sự phát triển được đánh giá
ở trình độ trí tuệ tri thức cao của con người “Chất xám trở thành nguồn vốn
lớn và quý giá, là thước đo trình độ phát triển giữa các nước” [8, tr.30]. Việt
Nam hiện nay có nguồn nhân lực dồi dào, với hơn 80 triệu dân và là nước có
dân số trẻ, tỷ lệ người biết chữ khá cao, lại có truyền thống cần cù thông
minh, ham học hỏi, ý chí tự lực tự cường vươn lên. Mặt khác nước ta lại rất

Lê Thị Hiên

10


Khoa Giáo dục chính trị

Khóa luận tốt nghiệp

coi trọng đến chất lượng đội ngũ cán bộ và công nhân viên, coi sự phát triển
con người là nhiệm vụ trung tâm, giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu. So
với các nước có thu nhập như ta, chúng ta có một đội ngũ tri thức tương đối
lớn, đã có lực lượng lao động trí tuệ cao - chủ thể đi đầu thực hiện nhiệm vụ
quan trọng như lựa chọn, tiếp thu, làm chủ, thích nghi và sáng tạo công nghệ
mới. Hơn nữa chúng ta đang có một chiến lược giáo dục đào tạo đúng đắn:
Nâng cao dân trí đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài nhằm tạo nên một năng
lực nội sinh to lớn cho CNH, HĐH đất nước.
Đồng thời, Việt Nam có lợi thế của một nước đi sau, điều đó tạo điều
kiện cho chúng ta đi tắt đón đầu tiếp thu kinh nghiệm và rút kinh nghiệm từ

các nước đi trước, học hỏi kinh nghiệm của họ, tranh thủ được những thời cơ
và tránh được những sai lầm, rút ngắn được CNH, HĐH trong thời kỳ quá độ.
Như vậy, những điều kiện trong nước nêu trên là những khả năng thực tế
do hiện thực sinh ra. Nó còn đang ở dạng tiềm thế, nó sẽ trở thành hiện thực
khi có điều kiện phù hợp tức là cần phải kết hợp với sức mạnh ngoại lực.
Không nên bỏ qua những cơ hội đó Việt Nam cần phải tham gia hội nhập với
nền kinh tế thế giới để tận dụng được những mặt tích cực của quá trình hội
nhập để đat được mục tiêu phát triển đất nước.
Nhận thấy được tầm quan trọng cũng như tính cấp thiết của quá trình hội
nhập kinh tế, ngay từ Đại hội VI Đảng ta cho rằng: Gắn thị trường trong nước
và xuất khẩu, có chính sách bảo vệ sản xuất nội địa. Tại Đại hội VII đã đưa ra
luận điểm mang tính chỉ đạo tổng quát cho việc thực hiện chính sách mở cửa:
“Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, phấn đấu vì hòa
bình độc lập và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế với tất
cả các quốc gia, tất cả các tổ chức kinh tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập,
chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi” [5, tr.147]. Đại hội Đảng lần thứ VIII
(1996) cũng đã đưa ra và cụ thể hóa quan điểm của đại hội VII như sau: xây

Lê Thị Hiên

11


Khoa Giáo dục chính trị

Khóa luận tốt nghiệp

dựng một nền kinh tế mở, hội nhập khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất
khẩu,…điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập khu vực, vừa hội nhập
toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta và các đối tác. Chủ động tham gia

thương mại thế giới các diễn đàn, các tổ chức, các định chế quốc tế một cách
có chọn lọc, với bước đi thích hợp. HNKTQT tuy là xu hướng tất yếu khách
quan nhưng nó sẽ không thể có được nếu như ta đóng cửa. Do đó, chúng ta
phải chủ động hội nhập xây dựng một nền kinh tế tự chủ trên cơ sở học tập
kinh nghiệm các nước đi trước, mở rộng quan hệ hợp tác song phương và đa
phương, để từng bước đưa đất nước xây dựng thành công sự nghiệp CNH,
HĐH. Từ việc nhận thức đó các Đại Hội lần thứ IX, X của Đảng ta đã phát
triển những quan điểm trên lên một tầm cao mới: “Thực hiện nhất quán
đường lối độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối
ngoại mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế, đưa quan hệ quốc
tế song phương và đa phương đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững…”, [6,
tr.119]; “chủ động và tích cực HNKTQT, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế
trên các lĩnh vực khác,…” [7, tr.112]
Cùng với toàn cầu hóa về kinh tế, HNKTQT được coi là một trong
những xu hướng chủ yếu của quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại, với sự tham gia
của hầu hết các nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên do đặc
điểm của mỗi quốc gia là không giống nhau nên mỗi nước phải tìm cho mình
những bước đi thích hợp để hội nhập có hiệu quả.
1.2. Lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.2.1. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNH và HĐH là hai khái niệm được hình thành khi mà nhân loại đã trải
qua hai cuộc cách mạng kĩ thuật, công nghiệp hóa được hiểu là quá trình thay
thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Với việc trang bị như
vậy, nó góp phần đưa nền kinh tế phát triển ở một trình độ mới. Do đó, CNH,

Lê Thị Hiên

12



Khoa Giáo dục chính trị

Khóa luận tốt nghiệp

HĐH là quá trình tất yếu mà tất cả các quốc gia nếu như muốn đưa nền kinh
tế phát triển. Và ở mỗi nước CNH, HĐH đều có những đặc điểm riêng , thời
gian diễn ra khác nhau và cách thức, con đường riêng phù hợp với hoàn cảnh
và điều kiện cụ thể của quốc gia đó.
Tương tự vậy, ở Việt Nam sau khi nước nhà được thống nhất, cả nước đi
lên chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được bắt đầu.
Nhưng do hậu quả của nhiều năm do chiến tranh để lại, do cơ chế quản lý bộc
lộ nhiều yếu kém, đời sống kinh tế xã hội có nhiều bất ổn đã đẩy nền kinh tế
nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng kéo dài trong nhiều năm liền.
Để thoát khỏi tình trạng đó và với mục đích tạo ra những cơ hội và tiềm
năng cho việc phát triển đất nước chúng ta phải tiến hành CNH, HĐH.
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại,
rút từ kinh nghiệm tiến hành CNH, HĐH và từ thực tiễn tiến hành công
nghiệp hóa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Hội nghị Ban chấp hành Trung
ương lần thứ bảy khóa VI và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng
Cộng sản Việt Nam đã xác định:
“CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã
hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách
phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và
phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công
nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao
động xã hội cao” [2, tr.281].
CNH được đề ra từ đại hội Đảng III nhưng CNH, HĐH được chính thức
quan tâm và đề ra chủ trương từ Đại Hội VII, VIII. Thực chất khi công nghiệp
hóa gắn với hiện đại hóa ở nước ta, nó là quá trình tạo ra những tiền đề vật

chất kỹ thuật về con người, công nghệ, phương tiện, phương pháp, những yếu
tố cơ bản của lực lượng sản xuất cho Chủ nghĩa xã hội.

Lê Thị Hiên

13


Khoa Giáo dục chính trị

Khóa luận tốt nghiệp

CNH, HĐH chính là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các lĩnh vực
của đời sống xã hội dựa trên sự vận dụng những tiến bộ của khoa học công
nghệ nhằm đưa đất nước từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước
công nghiệp có cơ sở vật chất, kĩ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ, đòi sống vật chất tinh thần được nâng cao, quốc
phòng an ninh vững chắc, đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Với việc xác định CNH, HĐH là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt
thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội và trong thực tế nhiều năm gần đây
chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
1.2.2. Sự cần thiết phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam
Sau năm 1975, cả nước bắt tay vào xây dựng chế độ mới, chế độ xã hội
chủ nghĩa, thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội bắt đầu trên cả nước, nhưng
đây cũng là thời kỳ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đứng trước nhiều
thách thức và khó khăn lớn.
Trong khi yêu cầu của chủ nghĩa xã hội là cần phải có cơ sở vật chất kĩ
thuật hiện đại, có nền kinh tế phát triển cao. Nhưng do hậu quả của chiến
tranh, do cơ chế tập trung quan liêu bao cấp có nhiều bất cập và yếu kém đã

làm cho nền kinh tế không phát triển được, khủng hoảng kinh tế kéo dài và
trầm trọng, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, tình hình đó đòi hỏi chúng ta
phải tiến hành CNH, HĐH đất nước. Sự nghiệp này sẽ là tiền đề, là cách thức,
là con đường để đạt tới một nền kinh tế phát triển, đồng thời chính sự nghiệp
đó sẽ xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật vững chắc để chúng ta tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
Mặt khác, do xuất phát điểm thấp lại là một nước nông nghiệp lạc hậu
chậm phát triển, cơ sở vật chất kĩ thuật thấp kém, trình độ của lực lượng sản
xuất chưa phát triển, quan hệ sản xuất mới thiết lập nên chưa được hoàn thiện.

Lê Thị Hiên

14


Khoa Giáo dục chính trị

Khóa luận tốt nghiệp

Vì vậy CNH, HĐH là quá trình tất yếu khách quan để xây dựng cơ sở vật chất
kĩ thuật và hoàn thiện quan hệ sản xuất.
Cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật đang phát triển mạnh mẽ như vũ
bão, xu thế giao lưu hội nhập ngày càng phát triển, nhu cầu ứng dụng và
chuyển giao công nghệ ngày càng nhiều. Khoa học - công nghệ mới ngày
càng tinh vi hơn, góp phần vào việc tìm kiếm các vật thể mới, nâng cao năng
lực quản lý và lao động của con người. Khoa học - công nghệ tham gia vào
yếu tố của lực lượng sản xuất góp phần làm phong phú thêm công nghệ sản
xuất, nâng cao kỹ năng sản xuất góp phần vào sự phát triển của sản xuất nói
riêng và xã hội nói chung. Vì thế Việt Nam tất yếu phải tiến hành CNH, HĐH
để có thể nắm bắt được những cơ hội ứng dụng các thành tựu khoa học - công

nghệ tiên tiến trên thế giới góp phần phát triển lực lượng sản xuất và các lĩnh
vực khác của đời sống xã hội.
Ngoài ra CNH, HĐH ở nước ta còn có một số tác dụng lớn đó là:
CNH, HĐH góp phần phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
Khi kết thúc thời kỳ quá độ hình thành căn bản nền kinh tế công nghiệp gắn
với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ. Nước ta đi lên chủ
nghĩa xã hội với điểm xuất phát thấp, nền nông nghiệp lạc hậu. Vì vậy CNH,
HĐH là quá trình tạo ra những điều kiện vật chất - kĩ thuật cần thiết về con
người và khoa học công nghệ, thúc đẩy chuyển đổi cở cấu kinh tế nhằm huy
động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để không ngừng phát triển năng
suất lao động xã hội, làm cho nền kinh tế phát triển nhanh, đời sống vật chất
tinh thần được nâng cao, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ môi
trường sinh thái.
Quá trình CNH, HĐH tạo ra cơ sở vật chất - kĩ thuật làm biến đổi về chất
lượng sản xuất, nhờ đó nâng cao chất lượng nguồn nhân lực - nhân tố trung
tâm của sự phát triển kinh tế. Đồng thời tạo điều kiện cho việc xây dựng và
phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

Lê Thị Hiên

15


Khoa Giáo dục chính trị

Khóa luận tốt nghiệp

Sự nghiệp CNH, HĐH thúc đẩy sự phân công lao động xã hội phát triển,
thúc đẩy quá trình quy hoạch vùng và lãnh thổ hợp lý hơn theo hướng chuyên
canh, tập trung, làm cho quan hệ kinh tế giữa các vùng miền trở nên

thống nhất.
CNH, HĐH có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển
cao trên cơ sở củng cố và phát triển khối liên minh công - nông - trí, góp phần
tăng cường sức mạnh quyền lực và hiệu quả bộ máy quản lý kinh tế của nhà
nước. Đồng thời CNH, HĐH còn là tiền đề để xây dựng và phát triển, hiện đại
hóa nền quốc phòng - an ninh.
1.3. Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế đối với quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
1.3.1. Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần khơi thông, huy động và phân
bổ có hiệu quả nguồn vốn từ nước ngoài cho công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước
Tiến hành CNH, HĐH đòi hỏi chúng ta phải có nguồn vốn lớn phục vụ
đầu tư. Khi tham gia vào quá trình hội nhập sẽ giúp cho nước ta sử dụng tốt
và có hiệu quả nguồn vốn trong nước, tăng cơ hội tiếp cận nhiều nguồn vốn
của nước ngoài,…Tuy nhiên, tiến lên chủ nghĩa xã từ một nền kinh tế nghèo
và lạc hậu làm cho việc tích lũy vốn từ nội bộ của nền kinh tế hết sức khó
khăn. Để thoát khỏi những khó khăn ngoài những nguồn vốn tích lũy từ nội
bộ nền kinh tế chúng ta cần phải tận dụng mọi khả năng để thu hút các nguồn
vốn từ bên ngoài bao gồm nguồn vốn trực tiếp và nguồn vốn gián tiếp.
Đối với nguồn vốn trực tiếp (FDI): FDI giữ vai trò trọng yếu trong CNH,
HĐH ở Việt Nam. Trước hết đây sẽ là nguồn vốn bù đắp vào tình trạng thiếu
vốn nghiêm trọng của Việt Nam khi bắt đầu quá trình công nghiệp hóa. Hơn
nữa, đây là dạng đầu tư an toàn không gây nợ, ít hậu quả tiêu cực do FDI là
dòng vốn dài hạn, không dễ bị rút ồ ạt trước thay đổi đột ngột về kinh tế và

Lê Thị Hiên

16



Khoa Giáo dục chính trị

Khóa luận tốt nghiệp

chính trị. Nhưng điều quan trọng nhất là FDI tác động lên tăng trưởng kinh tế
nhờ làm tăng và thay đổi các yếu tố đầu vào cùng với vốn là công nghệ mới,
kỹ năng quản lý, tiếp thị,… tạo điều kiện mở rộng thị trường xuất, nhập khẩu,
khai thác được lợi thế so sánh, và cuối cùng, thông qua cải biến năng suất lao
động cũng như năng suất tổng các nhân tố, đã làm tăng khả năng cạnh tranh
của nền kinh tế. Hội nhập về kinh tế nước ta có điều kiện giao lưu về kinh tế
với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, họ biết đến nước ta và những
lợi thế vốn có của nước ta nên sẽ muốn tìm kiếm nơi đầu tư, việc tìm kiếm
đầu tư của những nhà đầu tư nước ngoài là cơ hội tốt để chúng ta phát huy lợi
thế của mình thu hút đầu tư nước ngoài đặc biệt là về nguồn vốn.
Trong nhiều năm gần đây, nhận thức được vai trò của nguồn vốn đầu tư
nước ngoài, và nhờ những nỗ lực quan trọng của chính phủ Việt Nam trong
việc cải thiện môi trường đầu tư, nhất là từ khi “Luật đầu tư nước ngoài” được
sửa đổi các nhà đầu tư có cơ hội đầu tư vào Việt Nam qua đó mà FDI vào
Việt Nam không ngừng tăng lên.
Đầu tư nước ngoài đóng góp phần tương đối quan trọng cho tăng trưởng
GDP của Việt Nam, trong cơ cấu GDP, tỉ trọng do FDI đem lại ngày càng gia
tăng trong tổng GDP. Năm 1994 FDI bắt đầu tạo ra sản phẩm, mức đóng góp
cho tăng trưởng GDP cao nhất là 58% (1999) và hiện nay mức đóng góp cho
tăng trưởng của khu vực này chiếm khoảng từ 25 - 30 %. Kim ngạch xuất
khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cũng ngày một gia tăng trong
những năm qua, năm 2004 đạt 14,26 tỷ USD gấp 19 lần so với năm 1996 (786
triệu USD) [17, tr.153]. Chính vì xuất khẩu của khu vực này có xu hướng tăng
liên tục trong những năm gần đây và đã trở thành động lực chính dẫn dắt tăng
trưởng xuất khẩu nước ta, năm 2011 xuất khẩu khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài đạt 47,2 tỷ USD. Điều đó góp phần tăng trưởng kinh tế và giảm thâm

hụt cán cân thương mại, làm lành mạnh hóa cán cân thương mại nước ta

Lê Thị Hiên

17


Khoa Giáo dục chính trị

Khóa luận tốt nghiệp

Những điều đó cho thấy nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành
một bộ phận quan trọng trong tổng đầu tư toàn xã hội ở nước ta. Mặc dầu
chiếm tỷ trọng không cao nhưng nó đã có đóng góp quan trọng vào tăng
trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
Bên cạnh đó, FDI còn đóng góp một phần quan trọng vào việc tạo ra giá
trị công nghiệp, đẩy nhanh quá trình tăng sản lượng công nghiệp, góp phần
thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa. Khu vực FDI đã có đóng góp tới gần
40% giá trị sản lượng công nghiệp giai đoạn (2001 - 2011), tức là tương
đương với giá trị sản lượng công nghiệp của khu vực nhà nước. Đồng thời
khu vực FDI có tốc độ tăng giá trị sản lượng công nghiệp nhanh hơn nhiều
các khu vực khác của nền kinh tế. Khu vực này là động lực chính làm cho sản
lượng toàn ngành công nghiệp tăng hai chữ số trong đầu những năm 2000 khi
mà “luật doanh nghiệp” ra đời.
Mặt khác, do chủ thể của FDI là các công ty xuyên quốc gia nên sự hiện
diện của dòng vốn này đồng thời là quá trình đẩy nhanh sự phát triển của các
ngành dựa trên công nghệ tiên tiến, thúc đẩy quá trình hiện đại hóa và tạo
điều kiện cho công nghiệp hóa rút ngắn. Khi vào một thị trường mới, FDI
luôn gắn liền với áp dụng công nghệ mới, thực hiện chuyển giao công nghệ và
kỹ năng quản lý từ các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường nội địa để đảm

bảo tính cạnh tranh cao. Do đó, khu vực FDI là khu vực tạo ra một động lực
mạnh mẽ để hiện đại hóa công nghệ, áp dụng phương pháp và phương tiện
sản xuất tiên tiến nâng cao hàm lượng công nghệ mới trong sản phẩm. FDI
hiện gần như đóng vai trò quyết định cho sự phát triển những ngành dựa trên
công nghệ cao ở Việt Nam.
FDI còn có nhiều đóng góp quan trọng trong việc hình thành nhiều
ngành kinh tế, như khai thác, lọc hóa dầu thô, ôtô, xe máy, xi măng, sắt thép,
thực phẩm, thức ăn gia súc cũng như góp phần hình thành một số khu đô thị

Lê Thị Hiên

18


Khoa Giáo dục chính trị

Khóa luận tốt nghiệp

hiện đại như Phú Mỹ Hưng, Nam Thăng Long, nhiều khách sạn 4 - 5 sao, khu
nghỉ dưỡng cao cấp, văn phòng cho thuê,... Lĩnh vực dịch vụ tài chính, bảo
hiểm, ngân hàng, bán buôn, bán lẻ đã du nhập phương thức kinh doanh hiện
đại công nghệ tiên tiến, thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của các tầng lớp
dân cư.
Như vậy, FDI giữ vai trò đáng kể trong GDP của cả nước và góp phần
nâng cao mức tăng trưởng chung của nền kinh tế và dĩ nhiên góp phần thúc
đẩy tiến trình CNH. Sự tăng nhanh và liên tục của phần đóng góp của khu vực
FDI đối với nền kinh tế đã góp phần tạo ra những tiền đề quan trọng cho tăng
trưởng liên tục, đảm bảo được tính bền vững của tăng trưởng.
Tương tự như vậy, HNKTQT đã đẩy mạnh thu hút ODA vào các công
trình kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện quan trọng và căn bản cho phát triển nhanh

và bền vững, đây chính là việc làm đáp ứng yêu cầu của CNH, HĐH đó là cần
phải xây dựng được cơ sở hạ tầng kĩ thuật cho CNXH. Thực tế đã cho thấy
rằng phát triển hạ tầng cơ sở như: điện, đường, viễn thông, thông tin đã đóng
vai trò hết sức quan trọng cho phát triển kinh tế vùng, đặc biệt là các vùng
nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Phần lớn ODA vào Việt Nam đều sử dụng vào
phát triển kết cấu hạ tầng sản xuất và xã hội. Trong đó: Điện chiếm khoảng
26%, giao thông là 27%, tín dụng điều chỉnh cơ cấu kinh tế là 10% nông
nghiệp là 14,3%, cấp thoát nước là 7%, lĩnh vực xã hội (y tế, dân số, giáo
dục,...) là 6,8%, các ngành khác là 7, 2% [17, tr.161]. Nguồn vốn ODA cam
kết vào Việt Nam liên tục tăng từ sau khi mở cửa và đẩy mạnh hội nhập. Theo
báo Kinh doanh số ra ngày 3/12/2010 tổng gói cam kết viện trợ phát triển
chính thức mà các nhà tài trợ dành cho Việt Nam trong năm 2011 đạt 7,9 tỷ
USD. Các đối tác phát triển cam kết sẽ hỗ trợ cho sự phát triển của Việt Nam
với tư cách là nước có thu nhập trung bình. Trong số vốn ODA 7,9 tỷ USD
cam kết cho năm 2011, số vốn của các nhà tài trợ song phương là 3,3 tỷ USD,

Lê Thị Hiên

19


Khoa Giáo dục chính trị

Khóa luận tốt nghiệp

các nhà tài trợ đa phương là 4,6 tỷ USD. Trong số các nhà tài trợ song
phương, Nhật Bản đứng đầu về số vốn ODA cam kết, đạt 1,76 tỷ USD. Tiếp
theo là Hàn Quốc, Pháp, Đức lần lượt là 412 triệu USD; 221 triệu USD và
199 triệu USD,… Phía nhà tài trợ có tổ chức, Ngân hàng Thế giới (WB) là
nhà tài trợ đa phương đứng đầu với cam kết hỗ trợ vốn ODA trên 2,6 tỷ USD;

Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) là 1,5 tỷ USD (Nguồn: Báo Đầu tư ngày
17/3/2011). Mặc dù vấn đề giải ngân ODA hiện còn nhiều vướng mắc, cản trở
lớn đến việc phát huy và tận dụng nguồn lực quan trọng này cho phát triển
bền vững, nhưng những đóng góp của ODA vào tăng trưởng kinh tế là rất rõ.
HNKTQT còn làm tăng tỷ trọng các các loại hình đầu tư vào lĩnh vực
dịch vụ. Cuộc cải cách mở rộng thị trường dịch vụ viễn thông đã làm tăng tỷ
lệ mạng lưới viễn thông và thu hút được một khối lượng lớn đầu tư nước
ngoài vào xây dựng kết cấu hạ tầng cơ bản. Các nhà đầu tư lại tập trung vào
lĩnh vực này vì các ngành công nghiệp hiện nay phần lớn đã ở tình trạng bão
hòa, ít có không gian mới, trong khi đó các ngành dịch vụ được xây dựng trên
nền tảng vốn doanh nghiệp, chu kỳ kinh doanh ngắn mà hiệu quả lại nhanh.
HNKTQT cũng đã bắt đầu khơi thông nguồn vốn gián tiếp nước ngoài
rất cần thiết và quan trọng cho CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay. Đầu tư gián
tiếp nước ngoài là khoản đầu tư được thực hiện thông qua những chế định tài
chính trung gian như các quỹ đầu tư hoặc đầu tư trực tiếp vào cổ phần của các
công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán. Tại các nước có thị trường vốn
được tự do hóa hoàn toàn, các công cụ điều tiết vĩ mô có tác dụng đầy đủ
trong việc huy động vốn đầu tư cho phục hồi kinh tế và tăng trưởng. Nhưng
xuất phát từ thực tế phát triển của đất nước, việc tự do hóa tài chính thường
phải rất thận trọng song không có nghĩa là ngập ngừng hay dè dặt, quay lưng
với luồng vốn gián tiếp. Theo thời báo tài chính ngày 31/ 08 / 2004 đầu tư
gián tiếp vào các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam

Lê Thị Hiên

20


Khoa Giáo dục chính trị


Khóa luận tốt nghiệp

mới chỉ chiếm 0,6% GDP, quy mô của thị trường ở Việt Nam chỉ bằng 0,4%
tổng quy mô của thị trường Inđônêsia, nhưng trong nhiều năm gần đây dòng
vốn này đang có xu hướng tăng trở lại.Tính từ đầu năm đến tháng 3/2012,
Việt Nam đã thu hút được số vốn trị giá hơn 30 triệu USD từ các quỹ ngoại,
nhiều hơn lượng vốn ròng chảy vào các thị trường khác trong khu vực. Tuy
nhiên trong thực tế thì việc thu hút đầu tư gián tiếp nước ngoài còn kém là do
nhiều lý do khác nhau. Mặc dù vậy trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay,
cơ hội để Việt Nam tiếp cận với luồng vốn gián tiếp còn là vô cùng lớn và đó
sẽ là những tiền đề quan trọng thể hiện nền kinh tế Việt Nam trong tương lai
sẽ thực sự là bộ phận hữu cơ của nền kinh tế thị trường thế giới.
Tóm lại, việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới giúp chúng ta giải quyết
một phần bài toán về vốn cho quá trình CNH, HĐH đất nước. Nó đã thúc đẩy
việc tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, chống thất thoát, lãng phí
trong đầu tư, tăng cường công tác điều hành chính sách tài chính, tiền tệ,
khơi thông và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn khác nhau thúc đẩy quá
trình tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế nước ta.
1.3.2. Hội nhập kinh tế quốc tế giúp đào tạo và sử dụng tốt hơn nguồn
nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
CNH, HĐH không chỉ đòi hỏi vốn, kĩ thuật, tài nguyên,…mà cần phải
phát triển một cách tương xứng năng lực của con người sử dụng những
phương tiện đó. Nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của CNH, HĐH bao gồm
những con người có đức có tài, ham học hỏi, thông minh sáng tạo và làm việc
quên mình, vì độc lập và sự phồn vinh của Tổ quốc; được chuẩn bị tốt về kiến
thức văn hóa, thành thạo về kĩ năng nghề nghiệp, năng lực sản xuất kinh
doanh, trình độ khoa học kĩ thuật ngang tầm thế giới.
Để đáp ứng được những yêu cầu như trên, bên cạnh việc coi trọng đầu tư
cho giáo dục - đào tạo thì tham gia HNKTQT cũng là điều cần thiết để nâng


Lê Thị Hiên

21


Khoa Giáo dục chính trị

Khóa luận tốt nghiệp

cao chất lượng nguồn nhân lực. Hội nhập đòi hỏi mỗi một người dân nói
chung và lực lượng lao động nói riêng cần phải không ngừng nâng cao trình
độ theo kịp sự phát triển của khoa học - công nghệ dựa trên yêu cầu của công
nghệ và cuộc sống hiện đại. Hội nhập cũng tạo điều kiện cho người lao động
nhanh chóng tiếp cận được thông tin tri thức mới góp phần nâng cao dân trí.
Đây là điều kiện và còn là động lực quan trọng đối với việc nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực.
HNKTQT đem lại nhiều cơ hội việc làm, đặc biệt là việc làm theo hướng
công nghiệp với hàm lượng vốn, tri thức cao, các rào cản pháp lý về di
chuyển pháp nhân,các quan hệ kinh tế, đối ngoại, lao động,...được thiết lập
tạo điều kiện cho lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài.
HNKTQT tạo cơ hội gia tăng các giá trị tài sản vô hình cho bản thân
người lao động và các doanh nghiệp thông qua các hoạt động hợp tác, chuyển
dao công nghệ với các nước có nền công nghiệp tiên tiến trên thế giới. Đó là
các chuẩn mực, mô hình hệ thống tổ chức quản lý hiện đại được áp dụng cho
các doanh nghiệp sản xuất,…
HNKTQT tạo thêm cơ hội việc làm cho người lao động và nâng cao chất
lượng nhân lực cho lao động Việt Nam đặc biệt là lao động có trình độ kỹ
thuật cao. Khi tham gia hội nhập về kinh tế sẽ góp phần đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, sẽ có một lượng lớn lao động nông
nghiệp, thanh niên nông thôn nhàn rỗi, thiếu việc làm tham gia vào hoạt động

kinh tế trong các doanh nghiệp, các hộ gia đình, đơn vị kinh doanh cá
thể…Điều này đồng nghĩa với việc mang lại nhiều cơ hội thay đổi công việc
và tăng thu nhập cho một bộ phận lớn lao động nông nghiệp hiện nay. Hơn
nữa sự phát triển nhanh chóng về công nghệ và thiết bị sản xuất và các hoạt
động trao đổi chuyên gia giữa các nước với Việt Nam sẽ làm cho lộ trình
chuyên môn kĩ thuật, hợp tác quốc tế về lao động có cơ hội phát triển, từ đó

Lê Thị Hiên

22


Khoa Giáo dục chính trị

Khóa luận tốt nghiệp

góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để có thể làm chủ công nghệ và
thiết bị tiên tiến trên thế giới.
Hội nhập kinh tế thế thêm nguồn lực vật chất cho phát triển nguồn nhân
lực. Thông qua các dự án hợp tác đầu tư của các tập đoàn lớn trên thế giới vào
Việt Nam, sẽ tạo ra các nguồn tài chính dồi dào hơn cho việc đổi mới công
nghệ và thiết bị của các ngành kinh tế.
Việc hội nhập sẽ tạo điều kiện và thúc đẩy việc thiết lập cơ cấu lao động
theo định hướng thị trường. Đó là những lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao, trong khi những lao động không có chuyên môn kỹ thuật phải được
cắt giảm. Điều này tạo điều kiện cho nhân lực lao động của nước ta tham gia
sâu hơn vào phân công và hợp tác lao động quốc tế, đây là nền móng cho việc
tạo việc làm một cách ổn định và bền vững.
Tham gia vào hội nhập người Việt Nam có điều kiện tiếp nhận với công
nghệ hiện đại và phương pháp quản lý tiên tiến, qua đó nâng cao năng suất lao

động. Mặt khác nó còn giúp cho người lao động có cơ hội tiếp xúc với một
môi trường việc làm rộng mở và đa dạng. Xu hướng phân phối theo lao động
được thiết lập, giá trị theo lao động được đánh giá và đền bù một cách thỏa
đáng. Người lao động Việt Nam có cơ hội nhận được sự giúp đỡ của cộng
đồng quốc tế trong việc đào tạo, tìm kiếm việc làm và một số vấn đề xã hội
khác.
1.3.3. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội tiếp cận công nghệ hiện đại, tri
thức quản lý tiên tiến của các nước vào việc đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Trong sự nghiệp CNH, HĐH, khoa học - công nghệ được xác định là
động lực, khoa học và công nghệ có vai trò quyết định lợi thế cạnh tranh và
tốc độ phát triển kinh tế nói chung, CNH, HĐH nói riêng của các quốc gia. Ở
nước ta, khi nói về vai trò của khoa học công nghệ đối với CNH, HĐH, nghị

Lê Thị Hiên

23


Khoa Giáo dục chính trị

Khóa luận tốt nghiệp

quyết Trung ương 2 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã
khẳng định: CNH, HĐH đất nước phải bằng và dựa vào khoa học công nghệ;
khoa học và công nghệ phải trở thành nền tảng và động lực cho CNH, HĐH.
Nước ta là một nước đi lên từ một nền kinh tế kém phát triển tiềm lực
khoa học và công nghệ của nước ta còn yếu. Muốn tiến hành CNH, HĐH
thành công thì cần phải xây dựng một tiềm lực khoa học và công nghệ thích
ứng với sự đòi hỏi của nó, tức là phải đạt được trình độ tiên tiến của các nước

trong khu vực và trên thế giới trên một số lĩnh vực quan trọng. Muốn vậy cần
phải nhận thức được xu thế nhảy vọt của cách mạng khoa học và công nghệ,
và kinh tế tri thức trên thế giới. Chính vì thế khi tham gia hội nhập vào nền
kinh tế thế giới, mở rộng hợp tác khoa học công nghệ với các nước và các tổ
chức quốc tế, giúp chúng ta có thể tiếp cận, kế thừa những thành tựu khoa học
và công nghệ của thế giới, tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế.
Tham gia HNKTQT đã tạo điều kiện để công nghệ hiện đại và tri thức
quản lý tiên tiến đi vào nước ta theo nhiều kênh: đầu tư trực tiếp, nhập khẩu
bằng phát minh hoặc mua giấy phép, nhập khẩu lao động có trình độ tay nghề
cao thông qua hợp tác giáo dục và đào tạo. Tất cả những điều đó sẽ giúp Việt
Nam tranh thủ được kỹ thuật công nghệ tiên tiến của các nước đi trước để đẩy
nhanh quá trình CNH, HĐH tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội. HNKTQT là con đường để khai thông thị trường nước ta với khu vực và
thế giới, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn và có hiệu quả qua đó mà các kỹ
thuật công nghệ mới có điều kiện du nhập vào nước ta. Đồng thời là cơ hội để
chúng ta lựa chọn công nghệ, kỹ thuật nước ngoài nhằm phát triển năng lực
kỹ thuật công nghệ quốc gia. Trong cạnh tranh quốc tế có thể công nghệ này
là cũ với một số nước phát triển nhưng lại hiệu quả tại một số nước đang phát
triển như Việt Nam. Trong những năm qua, cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật nhất là công nghệ thông tin và viễn thông phát triển mạnh làm thay đổi

Lê Thị Hiên

24


Khoa Giáo dục chính trị

Khóa luận tốt nghiệp


bộ mặt kinh tế thế giới và đã tạo điều kiện để Việt Nam tiếp cận và có cơ hội
phát triển. Sự xuất hiện và đi vào hoạt động của nhiều khu công nghiệp mới,
hiện đại như TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương, Vĩnh Phúc,
Hải Phòng,… và những xí nghiệp liên doanh trong ngành dầu khí đã chứng
minh điều đó.
Trước hết qua kênh đầu tư trực tiếp: chính các chủ dòng vốn đầu tư trực
tiếp đang mang công nghệ hiện đại và tri thức quản lý sản xuất kinh doanh
vào Việt Nam. Với môi trường đầu tư ngày càng lành mạnh, những định
hướng quy hoạch tổng thể bền vững và đúng hướng không chỉ khuyến khích
các nhà đầu tư chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến vào
nước ta mà còn tạo những điều kiện và tiền đề cho những sáng kiến thay đổi
công nghệ theo hướng hiện đại hơn. Ngoài ra, trong khi hội nhập được sự trợ
giúp của Internet cho phép các nhà khoa học Việt Nam kết nối với các kênh
công nghệ trên thế giới, rút ngắn thời gian tiếp cận.
Kênh đào tạo và quảng bá giáo dục từ các sở hữu tri thức hỗ trợ đắc lực
cho việc chuyển giao công nghệ mới và tri thức quản lý hiện đại vào nước ta.
Chính sách mở cửa đã giúp Việt Nam có khả năng tiếp cận với các nền giáo
dục và đào tạo tiên tiến của thế giới. Với sự ra đời và phát triển không ngừng
của công nghệ thông tin, cơ hội tiếp cận với công nghệ mới cũng như kiến
thức quản lý hiện đại là hiện thực. Đây chính là quá trình chuyển giao các
công nghệ mới, các tri thức quản lý tiên tiến nhanh và hiệu quả mà hội nhập
mang lại cho chúng ta.
Tham gia hội nhập kinh tế chúng ta có nhiều cơ hội trong việc phát triển
và ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất, kinh doanh. Để đảm bảo
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam, đòi hỏi các doanh
nghiệp Việt Nam phải đầu tư đổi mới công nghệ mạnh mẽ hơn. Cụ thể là gia
tăng nhu cầu áp dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất để làm

Lê Thị Hiên


25


×