Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thưc hiện chính sách tín dụng để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa , hiện đại hóa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (816.37 KB, 82 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=====***=====

NGUYỄN VĂN MẠNH

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG
ĐỂ THÚC ĐẨY SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị

HÀ NỘI - 2013


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=====***=====

NGUYỄN VĂN MẠNH

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG
ĐỂ THÚC ĐẨY SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị


Người hướng dẫn khoa học

ThS. TRẦN THỊ HOA LÝ

HÀ NỘI - 2013


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình hoàn thành khóa luận em đã nhận được sự giúp đỡ
nhiệt tình của các thầy giáo, cô giáo trong khoa Giáo dục chính trị.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thạc sĩ Trần Thị Hoa Lý người đã tận tình giúp đỡ em trong suốt quá trình em làm khóa luận.
Do thời gian có hạn, kinh nghiệm nghiên cứu còn hạn chế, vì vậy đề tài
không trách khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý chân
thành từ phía thầy cô và các bạn để khóa luận được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 05 năm 2013
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Văn Mạnh


LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam đoan toàn bộ nội dung trong bài khóa luận là do em độc
lập nghiên cứu. Các số liệu, kết quả nêu trong khóa luận hoàn toàn là trung
thực, nếu sai em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, tháng 05 năm 2013
Sinh viên thực hiện


Nguyễn Văn Mạnh


DANH MỤC MỘT SỐ CỤM TỪ VIẾT TẮT

1. CBTD

: Cán bộ tín dụng

2.

CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

3.

NHCS

: Ngân hàng chính sách

4.

NHNN

: Ngân hàng Nhà nước

5.

NHTM

: Ngân hàng thương mại


6.

NHTW

: Ngân hàng Trung ương

7.

NSNN

: Ngân sách Nhà nước

8.

XDCB

: Xây dựng cơ bản


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG VÀ CHÍNH
SÁCH TÍN DỤNG ........................................................................................ 6
1.1. Tín dụng ................................................................................................ 6
1.2. Chính sách tín dụng ............................................................................. 12
1.3. Sự cần thiết phải thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
hiện nay...................................................................................................... 15
1.4. Vai trò của chính sách tín dụng đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam hiện nay ...................................................................... 19

Chương 2: THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÍN
DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................................ 23
2.1. Những thành tựu đạt được của việc thực hiện chính sách tín dụng để
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay .... 23
2.2. Những hạn chế của việc thực hiện chính sách tín dụng ở Việt Nam
hiện nay...................................................................................................... 35
Chương 3: NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ
YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH TÍN DỤNG ĐỂ THÚC ĐẨY SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................ 45
3.1. Những định hướng chủ yếu của việc thực hiện chính sách tín dụng để
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay .... 45
3.2. Một số giải pháp giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả việc thực
hiện chính sách tín dụng để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Việt Nam hiện nay ............................................................................ 51
KẾT LUẬN ................................................................................................. 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 74


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Chính sách tín dụng là một bộ phận của chính sách kinh tế - tài chính
nói chung và chính sách tiền tệ nói riêng, đồng thời là công cụ quan trọng của
Nhà nước để quản lý và điều hành nền kinh tế. Xây dựng và thực thi một
chính sách tín dụng phù hợp với cơ chế thị trường có ý nghĩa chiến lược phát
triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta.
Tuy nhiên, trên thực tế việc xây dựng và điều hành chính sách tín dụng
ở Việt Nam còn nhiều bất cập cả về nội dung chính sách, cơ chế quản lý và
phương thức tổ chức vận hành. Nguyên nhân của những bất cập đó, một phần

là do nhận thức chưa đầy đủ, một phần là do những thay đổi trong quản lý
kinh tế và môi trường pháp lý của Nhà nước, do tác động bởi những xu hướng
phát triển mới của kinh tế quốc tế và trong nước hiện nay. Vì vậy, hàng loạt
vấn đề liên quan trực tiếp đến chính sách tín dụng đã và đang đặt ra cần được
bàn luận giải quyết.
Đặc biệt, khi cơ chế thị trường ngày càng được xác lập và hoàn thiện ở
nước ta, cùng với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, việc nghiên cứu tiếp tục đổi mới chính sách tiền tệ - tài chính nói chung
và chính sách tín dụng nói riêng đang là yêu cầu hết sức quan trọng và cấp
thiết, được coi là nhiệm vụ hàng đầu hiện nay.
Trong bối cảnh đó, tôi đã chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả việc thực hiện chính sách tín dụng để thúc đẩy sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay” làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Hơn hai thập kỷ qua và hiện nay, nền kinh tế nước ta đang trong giai
đoạn chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước

1


theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách tín dụng đã thể hiện vai trò hết
sức quan trọng trong việc khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
trong nền kinh tế, góp phần ổn định và tăng trưởng kinh tế.
Việc xây dựng và điều hành chính sách dụng ở Việt Nam hiện nay còn
nhiều vấn đề bất cập cả về nội dung chính sách, cơ chế quản lý và phương
thức tổ chức vận hành. Do vậy, hàng loạt vấn đề liên quan trực tiếp đến tín
dụng và chính sách tín dụng đã và đang được bàn luận, giải quyết thông qua
các công trình nghiên cứu như:
“Những giải pháp chủ yếu để mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng
ngân hàng đối với nền kinh tế ngoài quốc doanh” của Tiến sĩ Nguyễn Thạc

Hoát viết năm 1993. Luận án đã đề cập tới các luận điểm khoa học về bản
chất, vai trò của tín dụng trong nền kinh tế thị trường; đánh giá tổng quát thực
trạng thể chế và hoạt động của tín dụng ngân hàng trong khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh.
“Đổi mới chính sách tiền tệ, tín dụng, ngân hàng trong giai đoạn
chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta” của Tiến sĩ Cao Sỹ Kiêm được Nxb
Chính trị quốc gia xuất bản năm 1995 với nội dung: Vai trò tiền tệ - tín dụng
và ngân hàng trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ
mô của nhà nước. Hệ thống tiền tệ - tín dụng và ngân hàng Việt Nam trong
tiến trình đổi mới. Những giải pháp chủ yếu tiếp tục đổi mới hệ thống chính
sách tiền tệ - tín dụng - ngân hàng ở Việt Nam.
Hay “Vai trò của các chính sách tín dụng và tiền tệ trong quá trình hội
nhập giai đoạn 2005- 2010” của tác giả Hà Kim Nga xuất bản năm 2005:
Trình bày thực trạng việc thực hiện chính sách tín dụng và tiền tệ ở Việt Nam
giai đoạn 2005 - 2010 và phân tích vai trò của chính sách tín dụng và tiền tệ
trong quá trình hội nhập kinh tế, cũng đưa ra những giải pháp mang tính định
hướng nhằm phát triển kinh tế trong thời gian tới.

2


Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Tăng cường sự gắn kết giữa đào tạo nguồn
nhân lực và hoạt động các tổ chức tín dụng ở Việt Nam” năm 2005 của Ngân
hàng Nhà nước - thường trực Hội đồng khoa học và công nghệ Ngân hàng:
Gồm các bài viết về đào tạo nguồn nhân lực và hoạt động của các tổ chức tín
dụng; xây dựng nguồn nhân lực - chìa khóa của sự thành công trong hoạt
động Ngân hàng; đào tào nguồn nhân lực cho hội nhập kinh tế nhìn từ cơ sở;
hoạt động nghiên cứu khoa học ngân hàng và giải pháp phát triển, đổi mới
phương thức liên kết đào tạo giữa các cơ sở đào tạo trong ngành với các tổ
chức tín dụng; nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho các tổ chức

tín dụng,...
“Đổi mới quản lý nhà nước đối với tiền tệ, tín dụng” xuất bản năm
2006 của tác giả Trần Đình Ty: Cung cấp một cách hệ thống và toàn diện cơ
sở quản lí tiền tệ và tín dụng. Phân tích cụ thể thực trạng quản lí nhà nước đối
với tiền tệ, tín dụng ở nước ta và đưa ra các giải pháp đổi mới quản lí nhà
nước đối với tiền tệ tín dụng.
Và còn một số bài báo bàn về chính sách tín dụng được đăng trên các
tạp chí kinh tế, tạp chí ngân hàng, …
Song chưa có nhiều tác giả đi sâu vào nghiên cứu các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách tín dụng. Đề tài khóa luận này đã
nghiên cứu thực trạng việc thực hiện chính sách tín dụng ở nước ta và từ đó
đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách tín
dụng trong thời kỳ CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ
- Mục đích của đề tài:
Khóa luận nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn việc thực hiện,
vận hành chính sách tín dụng đối với sự phát triển của nền kinh tế theo cơ chế
thị trường, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Trên cơ sở

3


đó, đưa ra quan điểm, định hướng và giải pháp cơ bản nhằm năng cao hiệu
quả việc thực hiện chính sách tín dụng hiện nay.
- Nhiệm vụ của đề tài:
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận về tín dụng, chính sách tín dụng,
sự cần thiết phải thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện
nay và vai trò của chính sách tín dụng đối với sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
+ Nghiên cứu thực trạng quá trình thực hiện chính sách tín dụng ở Việt

Nam thời gian qua, phân tích những thành tựu đạt được cũng như phát hiện
những vấn đề bất cập của việc thực hiện chính sách tín dụng .
+ Đặt trong điều kiện mới, yêu cầu mới của quá trình phát triển kinh tế
ở nước ta, đặc biệt trước yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH, từ đó đề xuất
những quan điểm có tính định hướng và kiến nghị những giải pháp vĩ mô chủ
yếu nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách tín dụng trong
những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của khóa khóa luận tập trung vào các vấn đề về
chính sách tín dụng mang tính vĩ mô, chiến lược, có vai trò là công cụ quản lý
và điều hành hoạt động tín dụng trong nền kinh tế.
- Phạm vi nghiên cứu:
Khóa luận chỉ tập trung nghiên cứu vào giai đoạn từ 1990 đến nay và
định hướng những năm tiếp theo trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế và
thực hiện chiến lược CNH, HĐH đất nước.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chủ yếu được sử dụng trong nghiên cứu đề tài là phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết
hợp với việc sử dụng phương pháp lôgic, thống kê, phương pháp diễn giải và
quy nạp để giải quyết các vấn đề.
4


Bên cạnh đó, cũng vận dụng kết quả nghiên cứu của các tài liệu, sách
báo có liên quan và sử dụng các số liệu, thông tin từ NHNN để làm sáng tỏ
thêm các quan điểm của khóa luận.
6. Đóng góp mới của đề tài
Luận giải một cách có hệ thống, có cơ sở lý luận và thực tiễn việc thực
hiện chính sách tín dụng.

Chỉ rõ vai trò to lớn của việc thực hiện một cách hiệu quả chính sách
tín dụng đối với nền kinh tế trong sự nghiệp CNH, HĐH.
Chỉ ra được những tồn tại của hoạt động tín dụng và đề xuất những
kiến nghị mang tính khả thi cho những quan điểm mới, chính sách cụ thể và
giải pháp xây dựng và vận hành chính sách tín dụng, nâng cao chất lượng hoạt
động tín dụng trong điều kiện hiện nay và những năm tới.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của khóa luận gồm 3 chương, 8 tiết.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG
VÀ CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG

1.1. Tín dụng
1.1.1. Khái niệm tín dụng
Toàn bộ lịch sử xã hội loài người đã cho thấy, vào cuối thời kỳ công xã
nguyên thủy, phân công lao động đã bắt đầu phát triển, chế độ tư hữu xuất
hiện như một đòi hỏi khách quan của sự phát triển xã hội. Sản xuất hàng hóa
là sản xuất ra sản phẩm để trao đổi mua bán chứ không phải chỉ để tự tiêu
dùng. Trong nền kinh tế hàng hóa, sự phát triển của sản xuất xã hội cũng đi từ
đơn giản đến phức tạp. Việc trao đổi hàng hóa có thể tiến hành trực tiếp hàng
đổi hàng, hoặc có thể mua bán thông qua tiền tệ. Chủ nghĩa tư bản văn minh
hơn chế độ phong kiến là nhờ đã phát triển mạnh mẽ kinh tế hàng hóa, đồng
thời cũng phát triển mạnh kinh tế thị trường. Chính trong điều kiện của nền
kinh tế hàng hóa với việc sử dụng tiền tệ đã sinh ra phạm trù tín dụng.
Tín dụng - “khái niệm được sử dụng rộng rãi trong quá trình cho vay,

nhất là các khoản cho vay ngắn hạn,… Việc một người có một khoản tín dụng
đồng nghĩa với việc anh ta có một phương tiện để mua hàng hóa mà không
phải trả ngay, hoặc có thể rút tiền từ một tổ chức cho vay nào đó. Trong môn
kinh tế tiền tệ, khái niệm “tín dụng” thường được dùng để chỉ các loại hình
cho vay có hiệu ứng tiền tệ, tức làm tăng cung ứng tiền tệ (khi sự gia tăng
mức cho vay của ngân hàng dẫn tới sự gia tăng của tiền gửi ngân hàng), hoặc
làm tăng các phương tiện thay thế tiền, chẳng hạn tín dụng thương mại. Mối
quan hệ giữa tiền và tín dụng này là mối quan hệ trực tiếp ở cấp kinh tế vĩ mô,

6


khi người ta phân tích sự thay đổi của cung ứng tiền trên phương diện mở
rộng tín dụng trong nước” [18, tr. 585].
Những quan điểm, tư tưởng cơ bản về lý thuyết tiền tệ, tín dụng, ngân
hàng trong học thuyết kinh tế của C.Mác cũng đã đề cập khá rõ nét theo một
trình tự khoa học, logic về sự ra đời, quá trình tồn tại và vai trò của tín dụng.
Trước hết là tín dụng thương mại gắn với việc thực hiện chức năng phương
tiện thanh toán của tiền tệ thông qua hành vi “mua bán chịu” hàng hóa giữa
những người sản xuất kinh doanh. C.Mác cho rằng “tín dụng thương mại là
cho vay bằng hàng hóa, tức là thực hiện bán hàng trước, trả tiền sau”, cho nên
“trong số tiền phải hoàn trả lại bao gồm cả khoản thù lao về việc sử dụng tư
bản và sự rủi ro có thể xảy ra trước khi đến kỳ hạn trả” [11, tr.491]. Sau đó là
sự ra đời của tín dụng ngân hàng trên cơ sở mở các nghiệp vụ “chiết khấu kỳ
hạn phiếu, tức là chuyển những kỳ phiếu đó thành tiền trước kỳ hạn của
chúng và bằng cách ứng tiền cho vay”[11, tr.488].
Các nhà kinh tế học cổ điển cũng như một số nhà kinh tế thị trường
trước đây, trong các thuyết về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng thường đề cập
nhiều đến các vấn đề về tiền tệ và ngân hàng, chứ chưa đề cập sâu đến vấn đề
tín dụng. Lúc đầu tín dụng chưa được đề cập mổ xẻ một cách độc lập, chỉ khi

chủ nghĩa tư bản phát triển ở giai đoạn cao, nền kinh tế thị trường đạt tới mức
hoàn chỉnh và phát triển, cũng là lúc phạm trù tín dụng được luận giải một
cách đầy đủ. Khi đó, mỗi Nhà nước đều tranh thủ tối đa kết quả của những
nghiên cứu tín dụng, chỉ ra vai trò của tín dụng, từ đó xây dựng cho mình một
chính sách tín dụng phục vụ những mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội.
Có nhiều góc độ xem xét và đưa ra những khái niệm về tín dụng.
Nhưng có thể nói nổi bật và rõ nét là nghiên cứu phạm trù tín dụng trong mối
quan hệ với tiền tệ và sự vận động của giá trị. Tín dụng là những quan hệ vay
và bán chịu hàng hóa và vốn giữa những người sở hữu khác nhau. Tín dụng

7


không phải là những hoạt động vay tiền đơn giản mà là hoạt động vay tiền có
điều kiện, tức là sau một thời gian phải bồi hoàn và thanh toán lợi tức. Tín
dụng là hình thức đặc thù của vận động giá trị, khác với lưu thông hàng hóa
đơn thuần. Vận động giá trị dẫn đến các phương thức tín dụng được thực hiện
thông qua các giai đoạn chuyển giao giá trị và bồi hoàn giá trị. Tiền tệ có vai
trò là hàng hóa ở đây không phải là bán ra mà là cho vay. Cũng có thể là
người vay chỉ có quyền sử dụng tạm thời tiền tệ, quyền sở hữu vẫn thuộc về
người cho vay. Sau một thời gian nhất định, tất yếu tiền tệ đó phải được quay
về trả lại đầy đủ quyền sở hữu và quyền sử dụng cho người cho vay. Khi phát
sinh hành động vay tiền, lúc đó không phải là hành động trao đổi ngang giá,
mà là sự chuyển dịch giá trị đơn phương. Người cho vay khi cho vay không
thu được bất kỳ một sự ngang giá nào, chỉ sau một thời gian nhất định người
đi vay phải trả lại không chỉ số vốn ban đầu mà còn phải trả một khoản lợi tức
nữa, gọi là mức lãi tiền vay. Đó chính là mức giá cho thuê giá trị vốn trong
thời gian nhất định.
“Tín dụng là hình thức vận động của vốn cho vay, nó phản ánh mối quan
hệ kinh tế giữa chủ thể sở hữu và các chủ thể sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong

nền kinh tế trên nguyên tắc hoàn trả có kỳ hạn cả gốc lẫn lợi tức” [1, tr.378].
Tín dụng là một phạm trù kinh tế thuộc về kinh tế hàng hóa, là mối
quan hệ kinh tế phát sinh giữa hai chủ thể, là những người hoặc các quốc gia
khác nhau về khả năng và nhu cầu tiền tệ, có nhu cầu chuyển nhượng giá trị
và chấp nhận giá trị. Tín dụng không chỉ là một hình thức vận động của vốn
tiền tệ (vốn vay) mà còn là một loại quan hệ xã hội, trước hết là lòng tin. Từ
xa xưa, tín dụng dựa trên lòng tin là chủ yếu, đến nay nó được bảo trợ của
pháp luật nhà nước. Song tín dụng không phản ánh mọi mối quan hệ xã hội,
mà chỉ những quan hệ xã hội biểu hiện các mối quan hệ vay mượn. Tín dụng

8


biểu hiện các mối quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình phân phối lại vốn tiền
tệ theo nguyên tắc hoàn trả. Cơ sở vật chất của tín dụng là tiền tệ và hàng hóa.
1.1.2. Bản chất, chức năng và các hình thức tín dụng
Bản chất của tín dụng là: “Tính hoàn trả tiền vay là một trong những
dấu hiệu thể hiện bản chất của tín dụng. Khác với các hàng hóa khác, giá trị
và giá trị sử dụng của nó trong khi bán được chuyển từ người bán sang người
mua, còn vốn được chuyển giao thông qua tín dụng chỉ tạm thời chuyển
nhượng sử dụng. Trong quan hệ tín dụng, chỉ có giá trị sử dụng được chuyển
đến người chủ mới. Tính hoàn trả không tự nó xuất hiện mà dựa vào quá trình
vật chất, vào sự kết thúc tuần hoàn vốn và được bảo đảm bằng hiệu quả cụ thể
sau một chu kỳ sử dụng vốn của người vay cá biệt” [20, tr. 207]. Như vậy,
bản chất của tín dụng được thể hiện là hình thức vận động của vốn tiền tệ
trong xã hội theo nguyên tắc có hoàn trả nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh
phát triển, tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống cho người dân.
Trong nền kinh tế hàng hóa, tín dụng thực hiện 2 chức năng cơ bản:
Một là, tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ trên cơ sở có hoàn trả.
Thực hiện chức năng này, tín dụng thu hút đại bộ phận tiền tệ nhàn rỗi trong

nền kinh tế và phân phối lại vốn đó dưới hình thức cho vay để bổ xung vốn
cho doanh nghiệp, cá nhân có nhu cầu về vốn nhằm phục vụ cho sản xuất
kinh doanh và tiêu dùng. Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ là hai quá
trình thống nhất trong sự vận hành của hệ thống tín dụng. Ở đây sự có mặt
của tín dụng được xem như chiếc cầu nối giữa các nguồn cung - cầu về vốn
tiền tệ trong nền kinh tế. Thông qua chức năng này, tín dụng đã trực tiếp tham
gia điều tiết các nguồn vốn tạm thời từ nơi thừa đến nơi thiếu.
Hai là, phản ánh một cách tổng hợp và kiểm soát các hoạt động của nền
kinh tế. Trong việc thực hiện chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ
nhằm phục vụ yêu cầu tái sản xuất, tín dụng có khả năng phản ánh một cách

9


tổng hợp và nhạy bén tình hình hoạt động của nền kinh tế. Do đó, tín dụng
còn được coi là một trong những công cụ quan trọng của nhà nước để kiểm
soát, thúc đẩy quá trình thực hiện các chiến lược hoạch định phát triển kinh tế.
Mặt khác, tín dụng còn góp phần cho việc tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông,
do tín dụng gắn liền với thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế.
Đồng thời, tín dụng có thể phản ánh và kiểm soát quá trình phân phối sản
phẩm quốc dân trong nền kinh tế.
Hình thức tín dụng có nhiều loại được phân theo những tiêu thức khác
nhau, dựa vào trình độ phát triển và biểu hiện vật chất của tín dụng. Kể từ
hình thức tín dụng đầu tiên là cho vay nặng lãi, đến nay sự phát triển của tín
dụng trong nền kinh tế hàng hóa đã cho ra đời nhiều hình thức tín dụng.
- Căn cứ vào thời hạn tín dụng có: Tín dụng ngắn hạn và tín dụng dài hạn.
- Căn cứ vào đối tượng tín dụng có: Tín dụng lưu động và tín dụng
vốn cố định.
- Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn tín dụng có: Tín dụng sản xuất và
lưu thông hàng hóa, tín dụng tiêu dùng.

- Căn cứ vào chủ thể tín dụng có: Tín dụng thương mại, tín dụng ngân
hàng, tín dụng nhà nước.
- Khi các quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng mở rộng thì hình thức tín
dụng quốc tế cũng ngày càng được phát triển.
1.1.3. Tính tất yếu khách quan của việc hình thành, phát triển tín dụng
Theo sự phát triển của lực lượng sản xuất, xã hội loài người cũng phát
triển theo các hình thái kinh tế khác nhau. Ở xã hội cộng sản nguyên thủy do
lực lượng sản xuất kém phát triển, xã hội không có của dư, sản phẩm do con
người làm ra chưa đủ tích lũy, quan hệ sản xuất dựa trên cơ sở cộng đồng,
mọi sản phẩm đều là của chung, con người hoàn toàn dựa vào nhau, chung
sống, tư hữu chưa ra đời. Do đó chưa xuất hiện quan hệ mua bán, trao đổi.

10


Sau đó, với sự phát triển của lực lượng sản xuất đã tạo điều kiện tăng
năng suất lao động, sản phẩm làm ra ngày càng nhiều, con người không chỉ
đủ tiêu dùng mà dần dần còn có tích lũy, dự trữ xuất hiện của dư. Cùng với sự
phát triển của phân công lao động xã hội, của công cụ lao động, chế độ tư hữu
dần dần xuất hiện, sự phân hoá giữa người giàu người nghèo và các tầng lớp,
giai cấp, các giai cấp cũng theo đó phát triển ngày càng rõ rệt. Quan hệ trao
đổi, mua bán, vay mượn cũng từng bước xuất hiện với nhiều hình thức đa
dạng phong phú. Tuy nhiên quan hệ vay mượn thời kỳ đầu chỉ là hình thức sơ
khai, phôi thai của tín dụng sau này.
Khi sản xuất phát triển đến một mức độ nhất định, nhu cầu mua bán,
trao đổi, vay mượn tăng lên, xuất hiện tiền tệ (một loại hàng hoá đặc biệt, vật
trung gian trong trao đổi mua bán, một loại của cải để tích trữ...), xã hội dần
dần xuất hiện quan hệ tín dụng. Vì vậy, sự tồn tại và phát triển quan hệ tín
dụng do các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Một là, trong quá trình sản xuất kinh doanh do sự vận động của vốn

tiền tệ dẫn đến nảy sinh hiện tượng trong cùng một thời gian có những đơn vị
kinh tế thừa vốn để sản xuất kinh doanh, chưa có nhu cầu sử dụng. Ngược lại,
có những đơn vị thiếu vốn, có nhu cầu vay mượn tăng vốn đầu tư cho sản
xuất kinh doanh. Tình trạng đó nảy sinh mâu thuẫn đỏi hỏi có cách thức giải
quyết mở đường cho sản xuất phát triển. Do vậy cần có sự tập trung vốn, phân
phối lại các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi theo nguyên tắc vay mượn hoàn trả
cả gốc và lãi trong một thời gian nhất định, bảo đảm quá trình tái sản xuất,
tuần hoàn, xoay vòng của nguồn vốn được diễn ra liên tục nâng cao khả năng
sản xuất kinh doanh, tiết kiệm được nguồn vốn ...
Hai là, trong đời sống sinh hoạt, vận động của toàn xã hội có tình trạng
có những cơ quan, đơn vị, tổ chức tập thể và trong nhân dân (cá nhân, hộ gia
đình ...) thường xuyên có lượng tiền nhàn rỗi chưa cần sử dụng ngay. Đây
cũng là một điều kiện, cơ sở tiềm tàng dẫn đến nảy sinh quan hệ tín dụng bởi

11


lẽ không có những lượng tiền nhàn rỗi đó thì không có cơ sở để thực hiện
quan hệ tín dụng.
Ba là, do trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam tồn
tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau về vốn với nhiều thành phần kinh tế,
song lại đòi hỏi có sự chuyển hoá trong nội bộ của các hình thức sở hữu cũng
như giữa các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế. Tuy nhiên để việc
chuyển vốn giữa các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế không làm
ảnh hưởng, không xâm phạm đến quyền lợi của nhau giữa các chủ sở hữu cần
phải thông qua quan hệ tín dụng, có vay, có trả theo thoả thuận nhất định mà
bên cho vay khi nhận lại số tiền cho vay ngoài phần gốc còn được thêm một
số tiền lãi theo tỷ lệ quy định. Nhờ đó mà quyền lợi của các chủ sở hữu khác
nhau khi tham gia quan hệ tín dụng được đảm bảo một cách chặt chẽ, theo
một quy tắc thống nhất, với sự bảo đảm có tính pháp lý, pháp luật.

Bốn là, do yêu cầu của quá trình hạch toán kinh tế trong sản xuất, kinh
doanh rất chặt chẽ, cụ thể chi tiết nên các đơn vị, tổ chức kinh tế, các doanh
nghiệp phải luôn chủ động, thận trọng trong việc tính toán huy động, chuẩn bị
tạo nguồn vốn, nắm chắc nguồn vốn cũng như sử dụng vốn, kể cả vốn cố định
và lưu động. Cần tính toán, cân nhắc, xác định đúng nhu cầu vốn của mình
trong sản xuất kinh doanh để đảm bảo lấy thu bù chi và có lãi. Chính việc đi
vay và cho vay thông qua quan hệ tín dụng, các đơn vị tổ chức kinh tế đã giải
quyết được vấn đề nhu cầu về vốn, sử dụng vốn.
Từ những vấn đề trình bày ở trên có thể đi đến khẳng định rằng sự hình
thành và phát triển của quan hệ tín dụng, hoạt động tín dụng trong quá trình
phát triển của sản xuất của nền kinh tế là một tất yếu khách quan, là vấn đề có
tính quy luật.
1.2. Chính sách tín dụng
1.2.1. Khái niệm chính sách tín dụng

12


Đứng trên góc độ quản lý vĩ mô nền kinh tế, chính sách tín dụng là một
bộ phận của chính sách kinh tế - tài chính nói chung và chính sách tiền tệ nói
riêng, là công cụ quan trọng của nhà nước để quản lý và điều hành nền kinh
tế. Chính sách tín dụng là ý chí nguyện vọng, là sách lược và kế hoạch, là
phương thức và biện pháp của nhà nước nhằm đạt được mục tiêu khai thác tối
đa các nguồn vốn trong và ngoài nước, phân phối và sử dụng có hiệu quả nhất
các nguồn vốn đó, đảm bảo các lợi ích tổng thể xã hội cũng như các lợi ích cá
biệt theo tính chất sở hữu các nguồn vốn. Trong nền kinh tế vận hành theo cơ
chế thị trường, người chịu trách nhiệm về xây dựng và thực thi chính sách tín
dụng là ngân hành trung ương.
Chính sách tín dụng là việc định hướng cho các hoạt động và quan hệ
tín dụng trong nền kinh tế, vừa thực hiện tốt vai trò quản lý của nhà nước

trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, vừa đảm bảo cho yêu cầu kinh doanh tín dụng
theo các nguyên tắc của cơ chế vận hành nền kinh tế. Chính sách tín dụng là
nội dung và công cụ của chính sách tiền tệ, có quan hệ mật thiết với chính
sách tài chính và các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
Mục tiêu cuối cùng của chính sách tín dụng là tăng trưởng kinh tế, ổn
định tiền tệ và đảm bảo hoạt động an toàn của các tổ chức tín dụng. Đây cũng
được xem là sự đồng nhất với mục tiêu của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên,
trước đó chính sách tín dụng cần đạt được các mục tiêu cung ứng đủ khối
lượng tín dụng cho nhu cầu đầu tư và phát triển nền kinh tế, giải quyết hài hòa
quan hệ cung cầu tín dụng, đảm bảo hoạt động tín dụng an toàn và hiệu quả.
1.2.2. Nội dung và một số công cụ để thực hiện chính sách tín dụng
- Nội dung:
Chính sách tín dụng là một bộ phận cấu thành chủ yếu của chính sách
tiền tệ của ngân hàng trung ương, là sự thể hiện cung cấp tiền vay của chính
sách kinh tế nhà nước, trong một thời kỳ nào đó, là cơ sở để ngân hàng phân

13


phối vốn vay, tổ chức quản lý hoạt động tín dụng. Do yêu cầu của nền kinh tế
và mục tiêu chính sách tiền tệ của từng thời kỳ khác nhau, nên nội dung của
chính sách tín dụng trong từng thời kỳ cũng khác nhau. Những yếu tố cấu
thành chủ yếu nội dung của chính sách tín dụng bao gồm:
+ Chính sách huy động vốn.
+ Chính sách cung ứng và phân bổ tín dụng.
+ Chính sách lãi suất.
+ Chính sách kiểm soát an toàn tín dụng.
Căn cứ chủ yếu để xác định chính sách tín dụng là chính sách chung,
nhiệm vụ chung phát triển kinh tế quốc dân trong các thời kỳ lịch sử và yêu
cầu của chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương. Xác định chính sách

tín dụng nhất thiết phải phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - chính trị ở
từng thời kỳ nhất định của Nhà nước, đồng thời cũng phải phù hợp với quy
luật khách quan vận hành cung cầu vốn trong nền kinh tế. Chính sách tín dụng
phải thúc đẩy mục tiêu phát triển kinh tế quốc dân, nâng cao hiệu quả vốn vay
và hiệu quả kinh tế - xã hội.
- Một số công cụ để thực hiện chính sách tín dụng:
Hệ thống công cụ để thực hiện chính sách tín dụng bao gồm hai nhóm:
Nhóm 1: Các công cụ tác động trực tiếp.
1. Hạn mức tín dụng: NHTW ấn định một khối lượng cung ứng cho nền
kinh tế trong một giai đoạn nhất định và xác định phương thức cung ứng nó.
Đó là hạn mức tín dụng từ NHTW cấp cho các tổ chức tín dụng và hạn mức
từ các tổ chức tín dụng cho từng đơn vị kinh tế.
2. Tiêu chuẩn cấp tín dụng: Ngân hành Trung ương quy định các điều
kiện cấp tín dụng có tính chất hành lang pháp lý cho các tổ chức tín dụng thực
hiện. Đây là một công cụ mang tính hành chính bắt buộc, nhằm duy trì sự an
toàn và những trật tự ổn định trên thị trường tín dụng.
Nhóm 2: Các công cụ tác động gián tiếp.
14


1. Tái cấp vốn: Thực hiện vai trò là ngân hàng của các ngân hàng, Ngân
hàng Trung ương sẽ là người cho vay cuối cùng đối với các tổ chức tín dụng,
khi các tổ chức tín dụng đã sử dụng hết mọi khả năng vay vốn trong nền kinh tế
cũng như vay lẫn nhau mà vẫn cần đến tiền của Ngân hàng Trung ương.
2. Lãi suất điều tiết gián tiếp của Ngân hàng Trung ương: Thông qua
lãi suất tái chiết khấu và lãi suất giao dịch trên thị trường tiền tệ (nghiệp vụ thị
trường mở). Bằng công cụ lãi suất này Ngân hàng Trung ương thực hiện ý
định mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín dụng cho nền kinh tế.
3. Dự trữ bắt buộc: Là công cụ khống chế khả năng tạo tiền của các tổ
chức tín dụng. Nó là tỷ lệ nhất định mà các tổ chức tín dụng đã huy động và

phải trích gửi tài khoản riêng tại Ngân hàng Trung ương. Do luôn phải trích
một phần tiền huy động được gửi vào dự trữ bắt buộc, các ngân hàng không
thể cho vay toàn bộ số tiền huy động, nên bị khống chế khả năng cho vay.
Nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc tối thiểu nâng lên, khả năng cho vay của các tổ chức
tín dụng càng bị thu hẹp, khối lượng tín dụng cho nền kinh tế sẽ giảm. Ngược
lại, tỷ lệ dự trữ tối thiểu hạ xuống, thì các tổ chức tín dụng sẽ cho vay được
nhiều hơn với cùng số tiền huy động được, khối lượng tín dụng cho nền kinh
tế sẽ có xu hướng mở rộng.
1.3. Sự cần thiết phải thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam hiện nay
1.3.1. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Ở thế kỷ XVII, XVIII, khi cách mạng công nghiệp được tiến hành ở
Tây Âu, công nghiệp hóa được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công
bằng lao động sử dụng máy móc. Khái niệm công nghiệp hóa mang tính lịch
sử, tức là luôn có sự thay đổi cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội,
của khoa học - công nghệ. Do đó, việc nhận thức đúng đắn khái niệm này
trong từng giai đoạn phát triển của nền sản xuất xã hội có ý nghĩa to lớn cả về
lý luận và thực tiễn.

15


Kế thừa có chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại, rút những
kinh nghiệm trong lịch sử tiến hành công nghiệp hóa, và từ thực tiễn công
nghiệp hóa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương lần thứ bảy khóa VI và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng
Cộng sản Việt Nam đã xác định:
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ
sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức

lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại
dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ nhằm
tạo ra năng suất lao động xã hội cao” [1, tr. 281].
Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên đây được Đảng ta xác
định rộng hơn những quan niệm trước đó, bao hàm cả về hoạt động sản xuất,
kinh doanh, cả về dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, được sử dụng bằng các
phương tiện và các phương pháp tiên tiến, hiện đại cùng với kỹ thuật và công
nghệ cao. Như vậy, công nghiệp hóa theo tư tưởng mới là không bó hẹp trong
phạm vi trình độ các lực lượng sản xuất đơn thuần, kỹ thuật đơn thuần để
chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khí như quan niệm trước đây.
Do những biến đổi của nền kinh tế thế giới và điều kiện cụ thể của đất
nước, CNH, HĐH ở nước ta hiện nay có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, CNH, HĐH ở nước ta vì mục tiêu xã hội chủ nghĩa, là quá
trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải biến một xã hội
nông nghiệp lạc hậu thành xã hội công nghiệp gắn với việc hình thành từng
bước quan hệ sản xuất tiến bộ.
Thứ hai, CNH, HĐH ở một nước nông nghiệp lạc hậu, bình quân ruộng
đất/đầu người thấp, thu nhập quốc dân bình quân/đầu người thấp nên sức mua
hạn chế.

16


Thứ ba, CNH, HĐH trong điều kiện nền kinh tế thị trường nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, CNH, HĐH diễn ra trong điều kiện khoa học công nghệ phát
triển mạnh mẽ, trong xu thé quốc tế hóa nền kinh tế vì vậy CNH, HĐH ở
nước ta hiện nay tiến hành theo chiến lược kinh tế mở.
Thứ năm, CNH, HĐH trong bối cảnh thuận lợi và khó khăn, thời cơ và

nguy cơ tồn tại đan xen vì vậy chúng ta cần chủ động nắm thời cơ, phát huy
những thuận lợi để triển khai nhanh quá trình CNH, HĐH theo những bước đi
vững chắc, tạo thế và lực mới để vượt qua khó khăn thử thách, đẩy lùi nguy
cơ.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện chiến lược kinh tế mở có
thể đi nhanh nếu chúng ta biết tận dụng, tranh thủ được thành tựu của thế giới
và sự giúp đỡ quốc tế. CNH, HĐH trong điều kiện chiến lược kinh tế mở
cũng gây nên không ít trở ngại do những tác động tiêu cực của nền kinh tế thế
giới, do trật tự của nền kinh tế thế giới mà các nước tư bản phát triển thiết lập
không có lợi ích cho các nước nghèo, lạc hậu. Vì thế, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế độc lập,
tự chủ.
1.3.2. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Mỗi phương thức sản xuất xã hội chỉ có thể được xác lập vững chắc
trên cở sở vât chất - kỹ thuật tương ứng. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của một xã
hội là toàn bộ hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội phù
hợp với trình độ kỹ thuật tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để
sản xuất ra của cải vật chất nhằm thỏa mãn nhu cầu của xã hội. Nhiệm vụ
quan trọng nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội không
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, là phải xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của

17


chủ nghĩa xã hội, trong đó có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn
hóa và khoa học tiên tiến. Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ quan trọng
nói trên, nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hóa, tức là chuyển nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu thành nền kinh tế công nghiệp.
Chủ nghĩa xã hội muồn tồn tại và phát triển, cũng cần phải có một nền
kinh tế tăng trưởng và phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và

chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Cơ sở vật chất - kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội cần phải xây dựng trên cơ sở những thành tựu mới nhất,
tiên tiến nhất của khoa học và công nghệ. Cơ sở vật chất - kỹ thuật đó phải tạo
ra một năng suất lao động xã hội cao. Công nghiệp hóa chính là quá trình tạo ra
nền tảng cơ sở vật chất đó cho nền kinh tế quốc dân xã hội chủ nghĩa.
Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ
sở vật chất - kỹ thuật thấp kém, trình độ của lực lượng sản xuất chưa phát
triển, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mới được thiết lập, chưa được hoàn
thiện. Vì vậy, quá trình công nghiệp hóa chính là quá trình xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân. Mỗi bước tiến của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là một bước tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cho
chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp phần hoàn
thiện quan hệ xã hội chủ nghĩa.
Trong xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa về kinh tế đang phát triển
mạnh mẽ, trong điều kiện cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện
đại phát triển rất nhanh chóng, có nhiều thời cơ và cũng có nhiều nguy cơ,
vừa tạo ra vận hội mới, vừa cản trở, thách thức nền kinh tế của chúng ta, đan
xen với nhau, tác động lẫn nhau. Vì vậy, đất nước chúng ta phải chủ động
sáng tạo nắm lấy thời cơ, phát huy những thuận lợi để đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra thế và lực mới để vượt qua những khó
khăn, đẩy lùi nguy cơ, đưa nền kinh tế tăng trưởng, phát triển bền vững.

18


1.4. Vai trò của chính sách tín dụng đối với sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay
Trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong sự nghiệp CNH, HĐH
chính sách tín dụng có vai trò hết sức quan trọng, không chỉ là một nhân tố
góp phần tác động và thúc đẩy phát triển kinh tế, mà còn là công cụ quản lý

kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Xét ở góc độ vĩ mô, chính sách tín dụng có
những vai trò chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, chính sách tín dụng là công cụ điều tiết khối lượng tiền tệ tín dụng trong nền kinh tế, góp phần thực hiện mục tiêu ổn định tiền tệ, kiềm
chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế.
Mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ cũng như chính sách tín dụng
là ổn định tiền tệ và tăng trưởng kinh tế. Trong quá trình điều hành chính sách
tiền tệ để thực hiện những mục tiêu, chính sách tín dụng được xác đinh là một
nội dung cơ bản, đồng thời là một công cụ quan trọng. Chính sách cung ứng
tiền (chính sách tín dụng vĩ mô của NHTW) cho nền kinh tế là chính sách
quan trọng ảnh hưởng đến quá trình thực hiện các mục tiêu của chính sách
tiền tệ. Chính sách cung ứng tiền thể hiện quan điểm về khối lượng tín dụng
được cung cấp thêm cho nền kinh tế qua hệ thống các tổ chức tín dụng và
kênh ngân sách. Khi muốn thúc đẩy gia tăng tốc độ phát triển kinh tế, thì cần
thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng, đồng nghĩa với nó là một chính sách tín
dụng mở rộng. Ngược lại, khi nền kinh tế có những dấu hiệu bất ổn về tài
chính, tiền tệ do mức độ tăng trưởng “nóng”, cần phải hạn chế tốc độ phát
triển để ổn định tiền tệ thì NHTW sẽ thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt.
Đồng nghĩa với nó là một chính sách tín dụng hạn chế. Nghĩa là NHTW sẽ
hạn chế việc cung cấp tín dụng cho các tổ chức tín dụng để giảm bớt khả năng
cho vay các nhà đầu tư, giảm bớt khối lượng tiền có trong lưu thông, đảm bảo
ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát.

19


×