Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Ảnh hưởng của tư tưởng nho giáo đến nền giáo dục việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (592.64 KB, 65 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Vi Thái Lang

Trường đại học sư phạm hà nội 2
khoa GIáO DụC CHíNH TRị
**************

TRịNH DUY LONG

ảNH HƯởNG CủA TƯ TƯởNG NHO GIáO
ĐếN NềN GIáO DụC VIệT NAM TRONG
GIAI ĐOạN HIệN NAY

khóa luận tốt nghiệp đại học
Chuyên ngành: Triết học

Người hướng dẫn khoa học
TS. Vi thái lang

hà nội - 2011
1

SV: Trịnh Duy Long

K33A - GDCD


Khãa ln tèt nghiƯp

GVHD: TS. Vi Th¸i Lang



LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành nhất tới TS. Vi Thái Lang người thầy đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hồn thành khóa luận này.
Em xin bày tỏ lịng cảm ơn đến các thầy giáo, cơ giáo trong trường Đại
học sư phạm Hà Nội 2, đặc biệt là các thầy cơ trong khoa Giáo dục chính trị
đã giảng dạy em trong suốt thời gian vừa qua.
Em cũng xin bày tỏ lịng cảm ơn tới gia đình cũng như bạn bè đã tạo
điều kiện và giúp đỡ em hồn thành khóa luận này.
Với điều kiện hạn chế về thời gian cũng như kiến thức của bản thân nên
khóa luận khó tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong sự góp ý của các thầy
giáo, cơ giáo và các bạn sinh viên.
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 05 năm 2011
Tác giả khóa luận

Trịnh Duy Long

2

SV: TrÞnh Duy Long

K33A - GDCD


Khãa ln tèt nghiƯp

GVHD: TS. Vi Th¸i Lang

LỜI CAM ĐOAN

Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của TS.
Vi Thái Lang. Tôi xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, tháng 05 năm 2011
Tác giả khóa luận

Trịnh Duy Long

3

SV: TrÞnh Duy Long

K33A - GDCD


Khãa ln tèt nghiƯp

GVHD: TS. Vi Th¸i Lang

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1

Chương 1 : MỘT SỐ NÉT KHÁI QUÁT VỀ XÃ HỘI TRUNG QUỐC
THỜI CỔ ĐẠI VÀ VỀ NHO GIÁO


5

1.1. Tình hình kinh tế xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu – Chiến Quốc
(770-221 tr. CN)

5

1.2. Vài nét về tác giả và tác phẩm của Nho giáo

8

Chương 2 : TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA NHO GIÁO

19

2.1. Quan điểm của Nho giáo về vai trị, mục đích giáo dục và đối tượng
giáo dục.

19

2.2. Nguyên tắc, phương pháp và nội dung giáo dục của Nho giáo.

24

Chương 3 : NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC NHO
GIÁO ĐẾN NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY.

38

3.1. Thực trạng của nền giáo dục Việt Nam hiện nay.


38

3.2. Những ảnh hưởng của tư tưởng giáo dục Nho giáo đến nền giáo dục
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

45

KẾT LUẬN

61

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

64

4

SV: TrÞnh Duy Long

K33A - GDCD


Khãa ln tèt nghiƯp

GVHD: TS. Vi Th¸i Lang

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong bất cứ thời đại nào, nhân tố cội nguồn, xuất phát điểm của sự
phát triển kinh tế - xã hội là sự phát triển của con người, con người muốn phát
triển địi hỏi phải có sự phát triển của giáo dục- đào tạo, từ thời cổ đại con
người đã ý thức được điều đó và có sự quan tâm đặc biệt đến giáo dục - đào
tạo, một minh chứng hùng hồn nhất cho luận điểm này đó là ở Trung Quốc
ngay từ thế kỷ IV-V TCN đã xuất hiện những luồng tư tưởng lớn về giáo dục,
đại diện tiêu biểu nhất là Nho giáo với một hệ thống tư tưởng triết học, chính
trị, văn hóa, xã hội rộng lớn và sâu sắc, trong đó hệ thống tư tưởng giáo dục
của Nho giáo được đánh giá là giàu sức sống nhất của Nho giáo.
Ngày nay, trong điều kiện hiện đại với sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học cơng nghệ, thì giáo dục- đào tạo lại càng đóng vai trị quan trọng, cũng
như nhiều nước trên thế giới, Việt Nam coi giáo dục là “quốc sách hàng đầu”
là khởi nguyên cho mọi sự phát triển của kinh tế xã hội. Vì vậy, xây dựng một
nền giáo dục phát triển bền vững là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và nhân dân
ta. Khi nghiên cứu để xây dựng, phát triển giáo dục, đòi hỏi đến sự tác động
tổng thể của các yếu tố truyền thống, hiện đại, lịch sử, tự nhiên…Trong đó sự
ảnh hưởng rất lớn của Nho giáo đến tư tưởng con người Việt Nam. Một thời
kỳ rất dài Việt Nam lấy Nho giáo làm nền tảng cho giáo dục, đào tạo nhờ đó
đã tạo ra nhiều thế hệ các nhà nho, có đóng góp lớn lao vào sự nghiệp dựng
nước và giữ nước. Vì thế khơng ai có thể phủ nhận những ảnh hưởng mạnh
mẽ của Nho giáo đến con người Việt Nam và nền giáo dục Việt Nam. Để thấy
được sự kế thừa và phát triển những nhân tố tích cực trong tư tưởng giáo dục

5

SV: TrÞnh Duy Long

K33A - GDCD



Khãa ln tèt nghiƯp

GVHD: TS. Vi Th¸i Lang

của Nho giáo, đồng thời khắc phục những hạn chế còn tồn tại trong nền giáo
dục Việt Nam thì việc nghiên cứu kĩ lưỡng tư tưởng giáo dục của Nho giáo và
những ảnh hưởng của nó đến nền giáo dục Việt Nam là điều cần thiết. Đây
cũng chính là lý do tơi chọn đề tài “ Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đến
nền giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nho giáo là một trường phái triết học rất lớn, lại ra đời vào thời cổ đại
tại một quốc gia có nền văn minh rực rỡ nên ngay từ khi mới ra đời Nho giáo
đã thu hút được sự quan tâm của những chuyên gia chính trị, văn hóa, xã hội
Trung Quốc và thế giới. Chính vì vậy có nhiều cơng trình, cuốn sách viết về
Nho giáo trong đó đề cập đến tư tưởng giáo dục như :
Lê Ngọc Anh: Về ảnh hưởng của Nho giáo tại Việt Nam (triết học số
3, Hà Nội 1999).
Nguyễn Thanh Bình: Đôi điều suy nghĩ vế đối tượng và nội dung giáo
dục hóa của Nho giáo (giáo dục lý luận số 10, Hà Nội 2000).
Dỗn Chính: Quan điểm của Khổng Tử về giáo dục và đào tạo con
người (triết học số 3).
Quang Đạm: Nho giáo xưa và nay (NXB văn hóa, Hà Nội 1994)…
Tuy nhiên, các cơng trình đó chủ yếu nghiên cứu về Nho giáo mà ít đề
cập đến ảnh hưởng của nó trong giao đoạn hiện nay và chưa cập nhật đến sự
thay đổi lớn lao của giáo dục - đào tạo Việt Nam trong giai đoạn hiện nay .
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích:
Qua đề tài chúng ta thấy được những quan điểm về giáo dục của Nho
giáo, từ đó nhìn vào nền giáo dục Việt Nam hiện nay để thấy được những ảnh


6

SV: TrÞnh Duy Long

K33A - GDCD


Khãa ln tèt nghiƯp

GVHD: TS. Vi Th¸i Lang

hưởng tích cực và những hạn chế, những điểm kế thừa và phát triển từ tư
tưởng giáo dục của Nho giáo.
Nhiệm vụ:
Đề tài lần lượt đi vào giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu cơ sở nảy sinh tư tưởng giáo dục của Nho giáo ( hoàn cảnh xã
hội Trung Quốc thời Xuân Thu- Chiến Quốc và cuộc đời sự nghiệp của
một số nhân vật tiêu biểu của Nho giáo).
- Tìm hiểu tư tưởng giáo dục của Nho giáo.
- Nghiên cứu những ảnh hưởng của tư tưởng giáo dục của Nho giáo đến
nền giáo dục Việt Nam hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Như đã khẳng định, Nho giáo là một trường phái tư tưởng rộng lớn và
sâu sắc, có ảnh hưởng lớn và mạnh mẽ trong lịch sử Trung Quốc và các nước
lân cận, tuy nhiên trong phạm vi đề tài chúng ta chỉ đi sâu vào tìm hiểu tư
tưởng của Nho giáo về giáo dục, từ đó thấy được những ảnh hưởng của nó
đến nền giáo dục nước ta hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, khóa luận này

sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu như: Phương pháp logic và lịch
sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp
quy nạp và diễn dịch, phương pháp chứng minh…
6. Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
khóa luận gồm 3 chương.
Chương 1: Một số nét khái quát về xã hội Trung Quốc thời cổ đại và về
Nho giáo.

7

SV: TrÞnh Duy Long

K33A - GDCD


Khãa ln tèt nghiƯp

GVHD: TS. Vi Th¸i Lang

Chương 2: Quan điểm giáo dục của Nho giáo.
Chương 3: Những ảnh hưởng của tư tưởng giáo dục Nho giáo đến nền giáo
dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

8

SV: TrÞnh Duy Long

K33A - GDCD



Khãa ln tèt nghiƯp

GVHD: TS. Vi Th¸i Lang

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ NÉT KHÁI QUÁT VỀ XÃ HỘI TRUNG QUỐC THỜI CỔ
ĐẠI VÀ VỀ NHO GIÁO

1.1. Tình hình kinh tế - xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu – Chiến Quốc
(770- 221 tr.CN)
Thời cổ, Trung Quốc đã trải qua các triều đại: Hạ, Thương, Chu. Nhà
Hạ, được mở đầu bằng sự cai trị của vua Võ và kết thúc bằng sự lật đổ vua
Kiệt của Thành Thang ( khoảng thế kỉ XXII đến hết thế kỉ XVII tr.CN).
Nhà Thương (khoảng từ thế kỉ XVII đến hết thế kỉ XII tr.CN ) đứng đầu là
vua Thành Thang, đặt đô ở đất Bạc tỉnh Hà Nam bây giờ. Từ thế kỉ XIV
tr.CN, ông Bàn Canh rời đô về đất Ân cũng là tỉnh Hà Nam bây giờ và
chuyển từ sinh hoạt du mục sang định cư nơng nghiệp. Vì thế nhà Thương
cịn được gọi là nhà Ân.
Nhà Chu chia làm 2 thời kỳ: Tây Chu (1135- 770 tr.CN) và Đông Chu (770221 tr. CN) hay thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc.
Khoảng thế kỷ XI tr.CN, con trai của Chu Văn Vương là Chu Vũ
Vương đã diệt vua Trụ của nhà Thương, lập lên nhà Chu, đóng đơ ở Thiểm
Tây ngày nay, phía tây nước Chu gọi là Tây Chu, đưa chế độ nô lệ Trung
Quốc lên đỉnh cao, mở đầu thời kỳ văn minh dựng nước của lịch sử Trung
Quốc. Đầu nhà Chu có nhiều ơng vua sáng suốt như Chu Văn Vương nổi
tiếng là trọng hiền tài, Chu Cơng có tài tổ chức việc nước… Đây là thời kì
cực thịnh của nhà Chu.
Nhà Chu chia thiên hạ thành hơn 70 nước để phong cho những công
thần và con cháu làm chư hầu. Những nước chư hầu ấy đều được quyền tự
chủ nhưng hàng năm phải tiến cống cho thiên tử nhà Chu và có khi có chinh


9

SV: TrÞnh Duy Long

K33A - GDCD


Khãa ln tèt nghiƯp

GVHD: TS. Vi Th¸i Lang

phạt ở đâu thì phải theo mệnh lệnh thiên tử đem quân đi tịng chinh. Khi nhà
Chu cịn thịnh thì trật tự đó cịn phân minh. Đến thời U Vương lên ngơi, vua
ăn chơi trụy lạc, nhà Chu suy yếu phải rời đô sang Lạc Ấp ( tỉnh Hà Nam bây
giờ ) thì mệnh lệnh thiên tử không ai theo, các chư hầu phân ra 160 nước,
chiến tranh liên miên, chư hầu nổi lên một số nước mạnh như Tề, Sở, Tấn,
Ngô…tranh nhau xưng bá, thiên tử không không đủ uy quyền ngăn cản. Từ
khoảng thế kỉ VII tr.CN, xã hội Tây Chu suy tàn, bước vào thời kỳ biến động
lớn lao, kéo dài đến giữa thế kỉ III tr.CN. Lịch sử gọi đó là thời kì Đơng Chu
hay thời kì Xn Thu – Chiến Quốc (770 – 221 tr.CN)
Ở thời kỳ này đồ sắt xuất hiện phổ biến thay thế công cụ đồ đồng, đồ đá
đã đem lại sự phát triển mạnh mẽ của nền sản xuất nông nghiệp. Đây cũng là
thời kỳ khởi sắc của nền kinh tế thương nghiệp. Vào khoảng thế kỉ VI-V
tr.CN đã xuất hiện những thành thị buôn bán nhộn nhịp. Ở các nước Hàn, Tề,
Tấn, Sở thành thị đã có một cơ sở kinh tế tương đối độc lập, từng bước tách ra
khỏi chế độ thành thị tự hệ của quý tộc thị tộc thành những đơn vị, khu vực
của tầng lớp địa chủ mới lên. Hiện tượng này trong lịch sử gọi là “ hai đô thị
sánh nhau trong nước”. Sự phát triển của sức sản xuất đã tác động mạnh mẽ
đến hình thức sở hữu ruộng đất và kết cấu giai tầng của xã hội. Nếu như vào

thời Chu “ đất đai khắp gầm trời này không đâu không phải là thần dân của
nhà vua” thì nay các quyền sở hữu tối cao (về đất và dân) đã bị một lớp người
mới lên chiếm làm tư liệu. Giai cấp quý tộc, thị tộc nhà Chu bị mất đất, mất
dân, địa vị kinh tế ngày càng sa sút và đương nhiên địa vị chính trị, ngơi thiên
tử nhà Chu chỉ cịn là hình thức, sự phân biệt sang hèn dựa trên cơ sở huyết
thống của thị tộc tỏ ra khơng cịn phù hợp nữa mà đòi hỏi phải dựa trên cơ sở
tài sản, các chư hầu của nhà Chu không chịu phục tùng vương mệnh nữa,
khơng cống nạp. Họ mang qn thơn tín lẫn nhau, tự xưng bá vương, tầng lớp

10

SV: TrÞnh Duy Long

K33A - GDCD


Khãa ln tèt nghiƯp

GVHD: TS. Vi Th¸i Lang

địa chủ mới lên lấn át quý tộc, thị tộc cũ thậm chí cịn chiếm cả chính quyền
như họ Q, họ Lỗ ở nước Tề.
Kết quả của những biến động về kinh tế đã dẫn đến sự phân hóa giai cấp,
nhiều giai tầng cũ mới đan xen, mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt, điển
hình là những mâu thuẫn sau:
Một là, mâu thuẫn giữa tầng lớp mới lên có tư hữu tài sản, địa vị kinh tế
trong xã hội mà không được tham gia chính quyền với giai cấp quí tộc, thị tộc
cũ nhà Chu đang nắm chính quyền.
Hai là, mâu thuẫn giữa tầng lớp sản xuất nhỏ, thợ thủ công, thương
nhân với giai cấp quí tộc, thị tộc nhà Chu. Trong bản thân giai cấp q tộc, thị

tộc nhà Chu có một bộ phận tách ra và chuyển hóa lên giai cấp mới, một mặt
họ muốn bảo lưu nhà Chu, một mặt khơng hài lịng với trật tự hiện có và
muốn cải biến nó bằng con đường cải cách.
Tầng lớp tiểu quí tộc, thị tộc một mặt họ đang bị một tầng lớp mới lên
tấn cơng về chính trị, kinh tế mặt khác họ cũng có mâu thuẫn với tầng lớp đại
q tộc đang nắm quyền.
Ba là, mâu thuẫn giữa nơng dân công xã thuộc các thị tộc bị nhà Chu
nô dịch với nhà Chu và tầng lớp mới lên đang ra sức bóc lột tận cùng sức lao
động của họ.
Đó là những mâu thuẫn chủ yếu của thời kỳ lịch sử đang địi hỏi giải
thể chế độ nơ lệ thị tộc của nhà Chu, hình thành xã hội phong kiến nhằm phát
triển lực lượng sản suất, mở đường cho xã hội phát triển.
Sự chuyển biến sơi động đó của thời đại đã đặt ra và làm xuất hiện
những tụ điểm, những trung tâm các “kẻ sĩ’ luôn tranh luận về trật tự xã hội
cũ và đề ra những hình mẫu của xã hội tương lai. Lịch sử gọi thời kỳ này là
thời kỳ “ bách gia chư tử” (trăm nhà trăm thầy), “Bách gia tranh minh” (trăm

11

SV: TrÞnh Duy Long

K33A - GDCD


Khãa ln tèt nghiƯp

GVHD: TS. Vi Th¸i Lang

nhà đua tiếng). Chính trong q trình đó đã nảy sinh các nhà tư tưởng lớn và
hình thành lên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh. Đặc điểm của các

trường phái này là luôn lấy con người và xã hội làm trung tâm của sự nghiên
cứu, có xu hướng chung là giải quyết những vấn đề thực tiễn đạo đức chính trị
của xã hội. Theo Lưu Hâm (đời Tây Hán) Trung Hoa thời kỳ này có 09
trường phái triết học chính (gọi là Cửu lưu hoặc Cửu gia) là Nho gia, Đạo gia,
Mặc gia, Âm Dương gia, Danh gia, Pháp gia, Nông gia, Tung Hồnh gia, Tạp
gia. Trong đó luồng tư tưởng lớn nhất, có ảnh hưởng sâu sắc trong xã hơi
Trung Quốc đương đại và sau này là tư tưởng “Đức trị” lấy nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín mà dạy người, lấy cương thường mà hạn chế nhân dục để giữ gìn trật
tự trong xã hội cho bền vững. Người ta gọi tư tưởng đó là Nho giáo mà người
sáng lập ra nó là Khổng Tử.
1.2. Vài nét về tác giả và tác phẩm của Nho giáo
1.2.1. Tác giả
Người sáng lập học thuyết Nho gia là Khổng Tử (551-479 tr.CN). Ông tên là
Khâu, tự Trọng Ni sinh tại ấp Trân, làng Xương Bình nước Lỗ (nay là huyện
Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đơng, Trung Quốc). Nhiều sử sách ghi rằng ông sinh ra
trong một gia đình nghèo nhưng thực tế gia đình ơng có ơng tổ ba đời vốn
thuộc dịng dõi q tộc sa sút từ nước Tống rời đến nước Lỗ. Sinh ra trong
thời kỳ biến loạn nên tuổi thơ Khổng Tử trải qua nhiều biến cố đau buồn.
Cha của Khổng Tử là Thúc Lương Ngột (cháu 13 đời của Vi Tử Diễn, anh
của vua Trụ nhà Thương ) làm chức võ quan ở nước Lỗ, đến 70 tuổi mới lấy
Nhan Thị Trưng Tại – một người phụ nữ hiểu biết về văn hóa truyền thống
mà sinh ra ơng. Năm lên 3 tuổi, Đức Khổng Tử mồ côi cha, lớn lên phải làm
lụng vất vả để nuôi mẹ nhưng rất ham học. Khổng Tử học không riêng một
thầy nào, tức không được một tôn sư truyền cho một học thuyết nào cả nhưng

12

SV: TrÞnh Duy Long

K33A - GDCD



Khãa ln tèt nghiƯp

GVHD: TS. Vi Th¸i Lang

hồi nhỏ ơng cũng được học ở trường công mở dạy con cái quí tộc về lục
nghệ: lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số.
Năm 15 tuổi Khổng Tử đã học hết chương trình đó để trở thành một nho
sinh và bắt đầu để chí vào việc tự học về đạo, nghiên cứu về lễ - mơn mà ơng
thích.
Năm 19 tuổi thành gia thất, vợ của ông là con của họ Thượng Quan nước
Tống.
Năm 20 tuổi, vợ Ngài sinh đặng một con trai, đặt tên là Lý Tự Bá Ngư. Về
sau, Bá Ngư chết lúc 50 tuổi, chết trước Khổng Tử. Con của Bá Ngư tên là
Khổng Cấp, tự là Tử Tư, sau theo học Tăng Sâm, rồi làm ra sách Trung Dung.
Năm 21 tuổi, Đức Khổng Tử được cử làm chức Ủy Lại, một chức quan
nhỏ coi việc sổ sách của kho lúa, cũng là cân đo và gạt lúa. Sau đó làm quan
Tư Chức Lại, coi viêc ni bị, dê, súc vật dùng trong việc tế tự.
Năm 25 tuổi, ông chịu tang mẹ.
Năm 29 tuổi, ông học đàn với Sư Tương, ở nước Lỗ.
Tuy là chức quan nhỏ nhưng Đức Khổng Tử đã nổi tiếng là người học
rộng biết nhiều nên quan đại phu nước Lỗ là Trọng Tôn Cồ cho 2 người con
trai là Hà Kỵ và Nam Cung Quát theo ông học Lễ.
Đến năm thứ 9 đời vua Lỗ Định Công, Khổng Tử được 51 tuổi, vua nước
Lỗ mời ra làm quan, phong cho chức Trung Đô Tể lo việc cai trị ở ấp Trung
Đô, tức là đất kinh thành. Một năm sau, bốn phương lấy chính sự của Ngài
làm khn mẫu.
Năm Lỗ Định Cơng thứ 10, Ngài phị vua Lỗ đi phó hội với Tề Cảnh Cơng
ở Giáp Cốc. Nhờ tài ngôn luận và ứng đáp kịp thời, vua Tề rất khâm phục và

trả lại cho nước Lỗ 3 khoảng đất ở Quỳ Âm mà nước Tề đã chiếm của nước
Lỗ mấy năm trước.

13

SV: TrÞnh Duy Long

K33A - GDCD


Khãa ln tèt nghiƯp

GVHD: TS. Vi Th¸i Lang

Qua năm sau, Đức Khổng Tử giữ chức Tư Không, rồi thăng lên Đại Tư
Khấu ( Hình Bộ Thượng Thư) coi việc hình án. Ông đặt ra luật lệ để cứu giúp
kẻ nghèo khổ, lập ra phép tắc, định việc tống táng, lớn nhỏ có trật tự, trai gái
khơng lẫn lộn, nạn trộm cắp khơng cịn nữa, xã hội được an bình thịnh trị.
Sau bốn năm Lỗ Định Công phong Ngài làm Nhiếp Tướng Sự (Tướng Quốc)
coi việc chính sự trong nước.
Ngài cầm quyền được 7 ngày thì xin vua Lỗ giết gian thần Thiếu Chính
Mão để chỉnh đốn quốc chính. Từ khi giết xong Thiếu Chính Mão, Lỗ Định
Cơng và 3 nhà Mạnh, Thúc, Quý mới một lòng nghe theo lời của Đức Khổng
Tử. Nhờ vậy, Đức Khổng Tử chỉnh đốn lại kỷ cương trong nước, dạy dân
những điều lễ nghĩa, liêm sỉ nên dân khơng cịn nhiều loạn mà chính trị mỗi
ngày một hay.
Một thời gian sau, vua nước Lỗ ham mê tửu sắc, bị người nước Tề ly
gián nên không nghe lời khuyên can của Khổng Tử, bỏ bê việc triều chính,
thực hành khơng đúng lễ, Khổng Tử treo mũ từ quan cùng một số học trò chu
du liệt quốc.

Đức Khổng Tử cùng học trò đi qua các nước : Vệ, Tống, Trần, Khuông,
Thái, Sở, để mong thuyết phục các vua chư hầu chịu đem cái đạo của ông ra
ứng dụng để đem lại thái bình thịnh trị cho dân chúng. Nhưng cái đạo của
Khổng Tử là Vương đạo nên đi ngược chiều ý đồ Bá đạo của các vua chư hầu
và quyền lợi của các quan đại phu nên các vua chư hầu đều không dám dùng
Khổng Tử.
Rốt cuộc, sau 14 năm chu du các nước không thành công, Ngài trở về
nước Lỗ, có quan đại phu Quý Khang Tử sai Cơng Hoa ra đón Ngài.
Khi về nước Lỗ, Khổng Tử đã 68 tuổi, Ngài trở lại quê nhà để mở
mang việc dạy học và soạn sách.

14

SV: TrÞnh Duy Long

K33A - GDCD


Khãa ln tèt nghiƯp

GVHD: TS. Vi Th¸i Lang

Tổng số mơn đệ của Đức Khổng Tử có lúc lên tới 3000 người (Tam
thiên đồ đệ). Trong đó có 72 người được liệt vào hàng tài giỏi nên được gọi là
Thất thập nhị hiền. Sau này, họ soạn lại bộ Luận Ngữ, Trung Dung, Đại Học
để truyền đạo cho ông.
Đức Khổng Tử san định lại các kinh sách của Thánh hiền đời trước
như: Kinh Thi, Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc. Sau đó, Đức
Khổng Tử viết ra sách Xuân Thu, chép lại những việc của nước Lỗ mà của
nhà Châu (Chu) liên hệ với các nước chư hầu từ đời Lỗ Ai Công thứ 14 (481

tr.CN). Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc, chỉ còn lại 5 quyển được người đời gọi
là Ngũ kinh và trở thành sách kinh điển của Nho giáo.
Khổng Tử khơng chỉ là một nhà chính trị tài giỏi mà còn là một nhà
giáo dục vĩ đại. Ông là người đầu tiên mở trường tư và là người thầy dạy đầu
tiên của Trung Quốc. Bằng sự kiện này Khổng Tử đã trở thành người thực
hiện bước đột phá trong ngành giáo dục ở Trung Quốc và mang lại cho ngành
giáo dục một hình thức, một phong trào mới, đây được coi là cuộc cách mạng
trong giáo dục.
Năm 479 tr.CN vào tháng 2 âm lịch, Khổng Tử lâm trọng bệnh vài
ngày sau đó con người vĩ đại ấy đã qua đời ở tuổi 73. Ông mất đi nhưng hệ tư
tưởng của Khổng Tử còn ảnh hưởng mạnh mẽ đến chính trị, văn hóa, tư tưởng
của người Trung Quốc cổ đại và sau này, khơng những thế nó cịn tác đơng
mạnh mẽ đến các nước lân cận như Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc…Đặc
biệt tư tưởng về văn hóa giáo dục của Khổng Tử có ý nghĩa vơ cùng to lớn
trong thời đại ngày nay, đây cũng là yếu tố tạo lên vị trí “vạn niên sư biểu”
của Khổng Tử.
Sau khi Khổng Tử chết, Nho gia chia làm 8 phái, quan trọng nhất là 2
phái: Mạnh Tử và Tuân Tử.

15

SV: TrÞnh Duy Long

K33A - GDCD


Khãa ln tèt nghiƯp

GVHD: TS. Vi Th¸i Lang


Mạnh Tử (372-289 tr.CN) tên là Mạnh Kha, tự là Tử Dư, sinh vào đời
vua Liệt Vương nhà Chu, quê gốc ở đất Trâu thuộc nước Lỗ, nay là thành phố
Trâu Thành, tỉnh Sơn Đơng, Trung Quốc. Ơng mồ cơi cha, chịu sự nuôi
dưỡng giáo dục của mẹ là Chương Thị. Sau này bà được biết đến với cái tên
Mạnh Mẫu (mẹ của Mạnh Tử).
Thời niên thiếu, Mạnh Tử làm môn sinh của Khổng Cấp, cháu nội của
Khổng Tử. Vì vậy, ơng chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng Khổng giáo và trở
thành đại biểu xuất sắc của Nho giáo thời Chiến Quốc.
Mạnh Tử đi sâu tìm hiểu bản tính con người, đề ra thuyết “tính thiện”. Ơng
cho rằng “thiên mệnh” quyết định nhân sự, nhưng con người có thể thơng
qua việc tồn tâm dưỡng tính mà nhận thức được thế giới khách quan, tức là
cái gọi là “tận tâm, tri tính, trị thiên”, “vạn vật đều có đủ trong ta”. Ơng hệ
thống hóa triết học của Nho gia trên phương diện thế giới quan và nhận thức
luận, tạo lên đầu mối của khuynh hướng duy tâm trong Nho giáo sau này.
Về trước tác, có tập “Mạnh Tử” đã cùng cuốn Luận Ngữ, Trung Dung,
Đại Học hợp thành bộ Tứ thư – sách kinh điển của Nho giáo.
Tuân Tử (313-238 tr.CN) cũng là một đại diện xuất sắc của Nho giáo
sau này. Ơng tên là Huống, cịn có tên khác là Khanh, tự Tôn Khang, sinh ở
nước Triệu, làm việc cho Tề Tuyên Vương của nước Tề.
Trước 40 tuổi, Tuân Tử chuyên tâm vào việc trau rồi học vấn. Khoảng trước
sau 50 tuổi đi du hành qua các nước. Từ 60 tuổi trở đi, những năm đầu làm
huyện lệnh Lan Lăng nước Sở, những năm sau thì mở lớp dạy học, y như
Khổng Tử, Mạnh Tử thủa trước.
Tuân Tử đã phát triển truyền thống trọng lễ của Nho giáo, nhưng khác
với Mạnh Tử, ơng coi con người có tính ác, chủ chương thế giới khách quan
có quy luật riêng. Theo ơng sức người có thể thắng trời. Tư tưởng triết học

16

SV: TrÞnh Duy Long


K33A - GDCD


Khãa ln tèt nghiƯp

GVHD: TS. Vi Th¸i Lang

của Tn Tử rõ ràng mang đặc sắc của chủ nghĩa duy vật thô sơ, tạo lên đầu
mối cho khuynh hướng duy vật trong Nho giáo.
1.2.2. Tác phẩm
Kinh điển của Nho giáo phải kể tới có bộ Tứ thư và Ngũ kinh.
- Tứ thư là bốn tác phẩm kinh điển của Nho học bao gồm: Đại Học, Luận
Ngữ, Trung Dung và Mạnh Tử.
+ Đại Học:
Là một trong những kinh điển trọng yếu của Nho gia. Nó vốn là một
thiên trong sách Lễ Ký (Kinh lễ sau này), được Tăng Sâm một học trò của
Khổng Tử chế hóa thành. Tuy nhiên, nó chỉ thuộc bộ Tứ thư vào thời Tống
với sự xuất hiện của cuốn Tứ thư tập chú của Chu Hy.
Trên quan đại phu, sách Đại học gồm 2 phần: phần đầu có một thiên
gọi là kinh, chép lại các lời nói của Khổng Tử; phần sau là giảng giải của
Tăng Tử, gọi là truyện, gồm 9 thiên.
Đại học đưa ra ba cương lĩnh (Tam cương lĩnh) bao gồm: Minh minh đức
(làm sáng tỏ cái đức sáng), Tân dân (Làm mới cho dân, có khi viết là Thân
dân, nghĩa là gần gũi với dân) và Chỉ ư chí thiện (dừng ở nơi chí thiện).
Ba cương lĩnh này được cụ thể hóa bằng 8 điều mục nhỏ (gọi là Bát
điều mục ), bao gồm: cách vật (tiếp cận và nhận thức sự vật), trí tri (đạt tri
thức về sự vật ), thành ý (làm cho ý của mình thành thực), chính tâm (làm cho
tâm của mình được trung chính), tu thân (tu sửa thân mình), tề gia (xếp đặt
mọi việc cho gia đình hài hịa), trị quốc (khiến cho nước được an trị), bình

thiên hạ ( khiến cho thiên hạ được bình yên).
Minh minh đức ứng với các vật, trí tri, thành ý, chính tâm và tu thân trong Bát
điều mục. Tân dân ứng với tề gia và trị quốc. Chỉ ư chí thiện ứng với bình
thiên hạ.

17

SV: TrÞnh Duy Long

K33A - GDCD


Khãa ln tèt nghiƯp

GVHD: TS. Vi Th¸i Lang

Sách Đại học dạy cho người ta cách tu thân và cai trị thiên hạ theo chủ
chương “vi đức dĩ chính” của Nho giáo.
+ Trung Dung :
Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra trên cơ sở một thiên trong Kinh Lễ. Tử
Tư là học trò của Tăng Tử, cháu nội của Khổng Tử.
Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời của Khổng Tử nói về đạo
“trung dung”, tức là nói về cách làm cho ý nghĩa và việc làm luôn ở mức
trung hịa, khơng thái q bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín cho thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân.
Sách Trung Dung chia làm 2 phần:
Phần 1: Từ chương 01 đến chương 20.
Là phần chính, gồm những lời của Khổng Tử dạy các học trò về đạo lý Trung
dung, phải làm sao cho tâm được: tồn, dưỡng, tĩnh, sát; mức ở được gồm đủ :
Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín cho hợp với mn vật, hợp với lịng trời để thành

người tài giỏi.
Phần 2 : Từ chương 21 đến chương 33.
Là phần phụ, gồm những ý kiến của Tử Tư giảng giải thêm cho rõ ràng ý
nghĩa và giá trị chung của hai chữ Trung dung.
Cả 2 cuốn sách Đại Học và Trung Dung trước đây là những thiên trong Kinh
Lễ, sau các Nho gia đời Tống tách riêng ra làm 2 quyển để hợp với sách Luận
Ngữ và Mạnh Tử thành bộ Tứ Thư.
+ Luận Ngữ:
Đây là sách sưu tập, ghi chép lại những lời dạy của Khổng Tử và những
lời nói của ơng đương thời. Sách Luận Ngữ gồm 20 thiên, mỗi thiên đều lấy
chữ đầu mà đặt tên, các thiên khơng có liên hệ với nhau.

18

SV: TrÞnh Duy Long

K33A - GDCD


Khãa ln tèt nghiƯp

GVHD: TS. Vi Th¸i Lang

Đọc sách này, người ta hiểu được phẩm chất tư cách và tính tình của Khổng
Tử, nhất là về giáo dục. Khổng Tử tỏ ra là người thấu hiểu tâm lý của từng
học trị, khéo léo đem lời giảng dạy thích hợp với từng trình độ, từng hồn
cảnh của mỗi người. Như có cùng một câu hỏi mà ông trả lời cho mỗi người
một cách.
Sách Luận Ngữ dạy đạo quân tử một cách thực tiễn, miêu tả tính khí đức
độ của Khổng Tử để làm mẫu mực cho người đời sau noi theo.

+ Mạnh Tử:
Là bộ sách làm ra bởi Mạnh Tử và các mơn đệ của ơng như: Nhạc Chính
Khắc, Cơng Tơn Sửu, Vạn Chương… ghi chép lại những lời đối đáp của
Mạnh Tử với các vua chư hầu, Giữa Mạnh Tử và các học trị cùng với những
lời phê bình của Mạnh Tử về các học thuyết như học thuyết của Mặc Tử,
Dương Chu.
Sách Mạnh Tử gồm 7 thiên chia làm 2 phần: Tâm học và Chính trị học.
Tâm học: Mạnh Tử cho rằng mỗi người đều có tính thiện do trời phú cho.
Sự giáo dục đó phải lấy tính thiện đó làm cơ bản, giữ cho nó khơng mờ tối,
trau dồi nó để trở thành người lương thiện.Tâm là cái thần minh của trời ban
cho con người. Như vậy tâm của ta với tâm của trời đều cùng một thể. Học là
để giữ cái Tâm, ni cái Tính biết rõ Trời mà theo chính mệnh.
Chính trị học: Mạnh Tử chủ chương “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi
khinh”. Đây là một tư tưởng rất mới và rất độc đáo trong thời quân chủ
chuyên chế đang thịnh hành.
Mạnh Tử nhìn nhận chế độ qn chủ, vua khơng có quyền lấy dân làm của
riêng mình phải duy dân và vì dân. Muốn vậy phải có luật pháp cơng bằng,
dẫu vua cũng khơng được vượt ngồi pháp luật đó. Người trị dân trị nước
phải chăm lo việc dân việc nước, làm cho đời sống của dân thật sung túc, phải

19

SV: TrÞnh Duy Long

K33A - GDCD


Khãa ln tèt nghiƯp

GVHD: TS. Vi Th¸i Lang


lo giáo dục dân để dân hiểu rõ pháp luật mà tuân theo, lấy nhân nghĩa làm cơ
bản để thi hành.
Có thể nói, bộ sách Mạnh Tử có giá trị rất lớn đối với Nho giáo. Phần Tâm
học trong sách là đỉnh cao nhất trong học thuyết Nho giáo. Trình Y Xun đã
nói: Kẻ đi học nên lấy 2 quyển sách: Luận Ngữ và Mạnh Tử làm cốt. Đã học
được 2 bộ sách này rồi thì khơng cần học Ngũ Kinh cũng thơng rõ cái đạo của
thánh hiền.
- Ngũ Kinh : Do Khổng Tử soạn thảo hay hiệu đính gồm có: Kinh Thi, Kinh
Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu.
+ Kinh Thi: sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử, nói về tình
u nam nữ, Khổng Tử san định lại thành 300 thiên nhằm giáo dục mọi người
tình cảm trong sáng lành mạnh. Một lần, Khổng Tử hỏi con trai: “ Học Kinh
Thi chưa ?” người con trai trả lời “Chưa”, Khổng Tử nói: “ Khơng học
Kinh Thi thì khơng biết nói năng ra sao” (sách Luận Ngữ).
+ Kinh Thư: Ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua Lỗ có trước
Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các
minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.
+ Kinh Lễ: Ghi chép các lễ nghi đời trước, Khổng Tử hiệu đính lại mong
dùng làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự xã hội. Khổng Tử nói: “
Khơng học Kinh Lễ thì khơng biết đi đứng ở đời” (sách Luận Ngữ).
+ Kinh Dịch: Nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại dựa
trên các khái niệm Âm dương, Bát quái… Đời Chu, Chu Văn Vương đặt tên
và giải thích các quẻ của Bát quái gọi là Thoán từ. Chu Cơng Đán giải thích
chi tiết nghĩa của từng hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời Chu
gọi là Chu Dịch. Khổng Tử giảng giải rộng thêm Thoán từ và Hào từ cho dễ
hiểu hơn và gọi là Thốn truyện và Hào truyện.

20


SV: TrÞnh Duy Long

K33A - GDCD


Khãa ln tèt nghiƯp

GVHD: TS. Vi Th¸i Lang

+ Kinh Xn Thu: Ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ quê của Khổng Tử.
Khổng Tử không chỉ ghi chép lại như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị
nước nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời
thoại để giáo dục các bậc vua chúa. Ngài nói: “ Thiên hạ biết đến ta bởi kinh
Xuân Thu, thiên hạ trách ta cũng sẽ ở kinh Xuân Thu này”. Đây chính là cuốn
kinh mà Khổng Tử tâm đắc nhất.
Ngồi ra cịn có Kinh Nhạc do Khổng Tử hiệu đính nhưng về sau bị thất
lạc, chỉ cịn lại một ít làm thành một thiên trong Kinh Lễ gọi là Nhạc Ký. Như
vậy, Lục Kinh chỉ còn lại Ngũ Kinh.
Hệ thống các sách kinh điển của Nho giáo chủ yếu viết về xã hội, lịch sử,
phong tục tập quán và đặc biệt là về giáo dục, phương pháp giáo dục của Nho
giáo. Đó là bộ phận giàu sức sống nhất của Nho giáo.

21

SV: TrÞnh Duy Long

K33A - GDCD


Khãa ln tèt nghiƯp


GVHD: TS. Vi Th¸i Lang

CHƯƠNG 2
TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA NHO GIÁO
2.1. Quan điểm của Nho giáo về vai trị, mục đích và đối tượng giáo dục
2.1.1. Vai trị và mục đích của giáo dục
Trường phái Nho giáo không phải là người đầu tiên nhận thức được vai
trò của giáo dục nhưng đã khẳng định được vai trị to lớn của giáo dục đối với
xã hội lồi người. Nho giáo nhìn nhận vai trị quan trọng của giáo dục không
phải đơn thuần với tư cách của một nhà giáo dục mà còn với con mắt của một
nhà chính trị. Bởi giáo dục khơng những làm thay đổi mỗi con người mà còn
làm thay đổi cả cục diện xã hội và đất nước.
Đối với mỗi con người, giáo dục là yếu tố quan trọng để hình thành nhân
cách, bản tính con người “ ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri
lý” , nghĩa là ngọc mà khơng mài dũa thì khơng thành đồ dùng, học khơng
mài dũa thì khơng thành.
Khổng Tử nói “nhân chi sơ tính bản thiện, tính tương cận tập tương
viễn” [12,527]. Theo ơng con người sinh ra có thiên tính hiền lành và thiên
tính ban sơ này làm cho con người ta gần giống nhau nhưng do tác động của
môi trường sinh sống nên có kẻ giữ được nết lành, kẻ nhiễm tính ác cho nên
họ khác xa nhau “ Người ta sống ở đời là nhờ ngay thẳng, kẻ cong vạy mà
sống được đó là ăn may mà thốt chết đó thơi”[12,326]. Chính vì vậy để giữ
được bản tính của mỗi con người thì phải giáo dục, giáo hóa họ.
Trong lịch sử Trung Quốc chưa có thời kỳ nào chiến tranh kéo dài liên
miên như thời kỳ Xuân Thu- Chiến Quốc. Trong xã hội, con người chém giết
lẫn nhau, cả xã hội chìm đắm trong sự suy đồi, loạn lạc “đại nghịch vơ đạo”.
Chính vì vậy theo Khổng Tử muốn xã hội bình yên và hưng thịnh thì phải
giáo dục con người, lấy “nhân” làm gốc, lấy “lễ nghĩa” làm đầu phải đẩy


22

SV: TrÞnh Duy Long

K33A - GDCD


Khãa ln tèt nghiƯp

GVHD: TS. Vi Th¸i Lang

mạnh giáo dục để xã hội có luân thường đạo lý. Để con phải ra con, cha phải
ra cha, tôi phải ra tôi, vua phải ra vua, thì con người phải được giáo huấn, phải
đọc sách thánh hiền. Người đứng đầu xã hội (vua, quan), cũng phải là người
hiền tài lấy “đức” để trị dân, lấy “nhân” để trị nước, lấy “tam cương, ngũ
thường” để xem xét dùng người. Thời kỳ Khổng Tử làm quan đã lấy lễ giáo
đặt cao hơn pháp trị chẳng bao lâu nước Lỗ hưng thịnh, hùng cường nhân dân
sống trong cảnh thái bình. Đây chính là minh chứng hùng hồn khẳng định sứ
mệnh làm thay đổi bộ mặt xã hội của giáo dục.
 Mục đích của giáo dục:
Trên cơ sở nhận thức được vai trò to lớn của giáo dục đối với con người và
xã hội. Nho giáo đã xây dựng sự nghiệp giáo dục vững chắc. Sau Khổng Tử
và các học trò trực tiếp của Khổng Tử như 72 vị hiền những Khổng Cấp, Chu
Đơn Di, Trình Hạo, Trình Di, Chu Hy đời Tống, Vương Thủ Nhân đời
Minh… cũng đều là nhà học thuật và giáo dục xuất sắc trong các danh nhân
đạo Nho.
Thứ nhất: Xây dựng đạo lý.
Đạo ở đây là tu thân, đạo làm người, đạo trị nước yên dân. Khổng Tử nói
“kẻ sĩ để chí vào đạo lý”[12,273]. Tức kẻ sĩ phải lấy việc tu thân và thực hiện
lý tưởng chính trị làm mục tiêu phấn đấu. Khơng những thế Khổng Tử cịn rất

coi trọng đạo lý và đặt vấn đề đạo lý lên trên sinh hoạt và ăn uống hàng ngày
“Người quân tử bàn tính việc đạo lý, chẳng mưu toan việc ăn uống” [12,583].
Khổng Tử diễn tả lịng mình về đạo lý “sớm nghe đạo tối chết cũng
được”(Luận ngữ - Lý nhân). Đạo có vai trị quan trọng như vậy nên việc học
tập của người quân tử phải lấy đạo làm đích, phải có tinh thần cầu đạo, hướng
đạo, tích cực thi hành đạo. Bởi thế truyền đạo và thực hành ở đời là thực chất
và mục đích của giáo dục. Nếu chỉ ôm lấy cái đạo mà không đem ra thi hành

23

SV: TrÞnh Duy Long

K33A - GDCD


Khãa ln tèt nghiƯp

GVHD: TS. Vi Th¸i Lang

thì sao có thể gọi là thực học. Vì thế theo Nho giáo học đạo là để hành đạo
giúp đời là yêu cầu thân thiết đối với những người được giáo dục. Đây cũng là
nguyên nhân khiến cho Khổng Tử cùng học trò đi chu du liệt quốc trong suốt
13 năm.
Thứ 2: Hoàn thiện nhân cách.
Học là phải để cho mình chứ khơng phải cho ai, cho nên Khổng Tử nhận
định “kẻ đi học xưa kia lo vì mình, ngày nay kẻ đi học là vì người”[Luận ngữ Hiếu văn], vì người theo Khổng Tử là để khoa trương. Khổng Tử nhận định
trong các học trị của mình “chỉ có Nhan Hồi là hiếu học, là khơng đổi ý vì
giận, khơng chịu lỗi 2 lần” [Luận ngữ - Ung dã]. Chương trình giáo dục của
Khổng Tử để hình thành nhân cách “Văn chương, thực hành, trung nghĩa, tín
nhiệm” [Luận ngữ - Thuật nhi]. Trong bốn nội dung của chương trình, có ba

nội dung thuộc phương diện hành vi, đại biểu cho nhân cách của một cá nhân
hành động ở đời. Tóm lại nhân cách lý tưởng là hệ thống chuẩn mực về
những phẩm chất và tính cách của một con người lý tưởng, hồn thiện mà nền
giáo dục Nho học ln hướng tới và coi đó là mục tiêu để đào tạo ra tầng lớp
Nho sỹ, những hiền nhân, những bề tôi của chế độ phong kiến.
Thứ 3: Bồi dưỡng nhân tài chính trị cho đất nước.
Học để ứng dụng cho có ích với đời với xã hội, chứ khơng vì quan sang
bổng lộc. Khổng Tử nói rằng: “nói ít lỗi”, “làm ăn ít ăn năn, lộc ở bên trong
vậy”[Luận ngữ- Vi chính]. Ơng lại nói: “ Đọc 300 bài kinh khơng đạt, sai đi
bốn phương tám hướng mà khơng biết đối phó thì học nhiều để làm gì”[Luận
ngữ - Tử lộ]. Trong Nho giáo không bao giờ nhắc đến vấn đề đảo chính trong
chính trị mà chỉ trung với vua, phị vua, nếu lật đổ vua lên ngơi vương thì trở
thành bất trung, bất nghĩa. Đây chính là nguyên nhân giải thích tại sao Nho
giáo tồn tại một cách bền vững cùng với các triều đại phong kiến.

24

SV: TrÞnh Duy Long

K33A - GDCD


Khãa ln tèt nghiƯp

GVHD: TS. Vi Th¸i Lang

Bồi dưỡng nhân tài cho đất nước là mục đích thiết thực thúc đẩy sự phát triển
của xã hội trong mọi thời đại, vì thế sau Khổng Tử mấy trăm năm sách Đại
Học còn chỉ ra rằng kẻ sĩ quân tử rèn luyện và học tập là nhằm mục đích “Tu
thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.

Thứ 4 : Xây dựng một xã hội lý tưởng.
Trong xã hội đó con người sống “chính danh” vua ra vua, tơi ra tơi, cha
cho đúng nghĩa là cha… Mọi người làm tròn bổn phận của mình và thực hành
đúng đạo lý xã hội. Muốn đạt được mục đích này thì ba mục đích trên phải
được thực hiện và đó là tiền đề, cơ sở để xây dựng một xã hội lý tưởng đối lập
hoàn toàn với xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu - Chiến Quốc.
2.1.2. Đối tượng giáo dục
Trong tác phẩm Luận Ngữ chúng ta thấy tốt lên tư tưởng “hữu hố vơ
loại”. Khổng Tử quan niệm đối tượng của giáo dục là tất cả mọi người, không
phân biệt sang hèn, cao thấp, thiện ác,… Ơng là người đầu tiên nêu ra tư
tưởng “vơ loại” trong giáo dục điều này thể hiện tính chất tiến bộ trong điều
kiện xã hội phân chia giai cấp rõ nét khi đó.
Trước thời Khổng Tử, giáo dục được coi là một thứ xa xỉ, giáo dục chỉ
bó hẹp trong phạm vi tầng lớp quý tộc, giáo dục là đặc quyền của giai cấp
thống trị, là phương tiện riêng của tầng lớp quý tộc dùng để củng cố địa vị
giai cấp, duy trì bảo vệ đặc quyền đặc lợi cho mình. Đối với dân thường việc
học hành là hồn toàn xa lạ và là ước mơ. Nhưng đến Khổng Tử, ông đã mở
rộng phạm vi giáo dục cho tất cả mọi người. Có thể nói rằng, với luận điểm
“hữu giáo vô loại” Khổng Tử bước ra khỏi hệ tư tưởng thần quyền và thế
quyền đang thống trị xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ, tước bỏ đặc quyền học
vấn, giáo dục của quý tộc, đem nó phổ cập cho dân chúng, tạo điều kiện cho
tầng lớp những người lao động tu dưỡng rèn luyện, tham gia chính sự. Như

25

SV: TrÞnh Duy Long

K33A - GDCD



×