Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Sự ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức trong triết học nho giáo tới đời sống tinh thần của con người việt nam thời kỳ phong kiến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (550.31 KB, 64 trang )

Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

TRƯỜNG ĐẠI
HỌC
SƯ PHẠM
LỜI
CẢM
ƠN HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
********
Để hoàn thành khóa luận này, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô
Nguyễn Thị Thùy Linh đã tận tình hướng dẫn, cung cấp tài liệu và động viên
TRẦN THỊ LOAN

khích lệ em trong suốt quá trình em viết khóa luận tốt nghiệp.
Em chân thành cảm ơn quý thầy, cô Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
và đặc biệt là các thầy, cô trong khoa Giáo dục chính trị đã tận tình truyền đạt
kiến
trong HƯỞNG
4 năm học tập.
Với vốn
thức được tiếp
thu trong
quá
SỰthức
ẢNH
CỦA
TƯkiếnTƯỞNG
ĐẠO


ĐỨC
trình học không chỉ là nền tảng cho quá trình nghiên cứu khóa luận mà còn là

TRONG TRIẾT HỌC NHO GIÁO TỚI ĐỜI

hành trang quí báu để em bước vào đời một cách vững chắc và tự tin.

Em cũng
xin bày THẦN
tỏ lời cảm ơn
tới gia CON
đình cũng
như bạn bèVIỆT
đã tạo điều
SỐNG
TINH
CỦA
NGƯỜI
kiện và giúp đỡ em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.

NAM TRONG THỜI KÌ PHONG KIẾN

Do điều kiện hạn chế về thời gian và kinh nghiệm còn non yếu nên
khóa luận không
tránh khỏi
những
thiếu
sót.. Rất mong
được sự đóng góp ý
KHÓA

LUẬN
TỐT
NGHIỆP
ĐẠI HỌC
kiến của quý thầy cô và các bạn sinh viên để khóa luận được hoàn thiện hơn.

Chuyên ngành: Triết Học

Cuối cùng em kính chúc quý thầy, cô dồi dào sức khỏe và thành công
trong sự nghiệp cao quý.
Người hướng dẫn khoa học :
GV. NGUYỄN THỊ THÙY LINH

Xuân hòa, ngày tháng năm 2011
HÀ NỘI – 2011

Sinh viên
Trần Thị Loan

SVTH:Trần Thị Loan

1

K33 - GDCT


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2


LỜI CAM ĐOAN

Khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Sự ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức
trong triết học Nho giáo tới đời sống tinh thần của con người Việt Nam
thời kì phong kiến” là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn
của giảng viên Nguyễn Thị Thùy Linh. Tôi xin cam đoan rằng khóa luận tốt
nghiệp của mình không trùng với kết quả của các công trình nghiên cứu đã
công bố trước đó.

Xuân hòa, ngày tháng năm 2011

Sinh viên

Trần Thị Loan

SVTH:Trần Thị Loan

2

K33 - GDCT


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

MỤC LỤC

Phần mở đầu ..................................................................................... 1
Phần nội dung

Chương 1: Khái lược về lịch sử ra đời của Nho giáo
1.1. Điều kiện kinh tế xã hội Trung Quốc thời kỳ
Xuân Thu – Chiến Quốc .....................................................................8
1.2. Sự phát triển của Nho giáo...........................................................11
Chương 2: Tư tưởng đạo đức trong triết học Nho giáo
2.1. Quan niệm đạo đức thể hiện trong phạm trù nhân ........................18
2.2. Quan niệm đạo đức thể hiện trong phạm trù nghĩa.......................22
2.3. Quan niệm đạo đức thể hiện trong phạm trù lễ.............................26
2.4. Quan niệm đạo đức thể hiện trong phạm trù trí ............................27
2.5. Quan niệm đạo đức thể hiện trong phạm trù chính danh ..............29
Chương 3: Những ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức trong triết học
Nho giáo tời đời sống tinh thần của con người Việt Nam thời kỳ
phong kiến.
3.1. Tư tưởng đạo đức Nho giáo ở Việt Nam trước thời kỳ
nhà Lý – Trần .....................................................................................32
3.2. Sự ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Nho giáo trong thời kỳ
nhà Lý - Trần ....................................................................................34
3.3. Sự ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Nho giáo sau thời kỳ
nhà Lý - Trần. .....................................................................................39

SVTH:Trần Thị Loan

3

K33 - GDCT


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2


3.4. Sự ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Nho giáo trong
giai đoạn hiện nay. .............................................................................43
Kết luận .............................................................................................58
Danh mục tài liệu tham khảo ..........................................................60

SVTH:Trần Thị Loan

4

K33 - GDCT


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nho giáo là một trong những dòng triết học ra đời từ thời Cổ đại ở
Trung Quốc, nhưng ảnh hưởng của nó đối với Trung Hoa thì vô cùng lớn.
Thậm chí, chúng ta không thể nghiên cứu Trung Quốc tách rời Nho giáo. Ban
đầu khi được truyền bá vào Việt Nam, Nho giáo đã được sử dụng như một thứ
vũ khí để thể hiện sức mạnh và tham vọng đồng hoá người Phương Nam của
phong kiến Phương Bắc. Triết học Nho giáo chủ yếu bàn về các vấn đề chính
trị, đạo đức luân lý. Nếu lược bỏ đi âm mưu, tham vọng xâm lược của phong
kiến Phương Bắc ẩn mình trong Nho giáo thì Nho giáo cũng là một học thuyết
rất tuyệt vời cho một tộc người còn rất non trẻ trong phát triển tư tưởng, văn
hoá, tính dân tộc như người Phương Nam lúc bấy giờ. Người Việt đã rất
thông minh nắm lấy cơ hội đó làm cho quá trình "Hán hoá" và truyền bá Nho

giáo của người Hán vào Việt Nam thật đặc biệt. Văn hoá Hán và Nho giáo
được người Việt tiếp biến có chọn lọc. Qua lăng kính của người Việt, Nho
giáo bị "khúc xạ" và mang những nội hàm mới. Nói về Việt Nam và văn hoá
Việt Nam lại không thể không kể đến Nho giáo. Trong quá trình du nhập, tồn
tại và phát triển ở Việt Nam, ở một khía cạnh nào đó Nho giáo đã góp phần to
lớn trong việc kiến tạo bộ mặt văn hoá Việt Nam. Như giáo sư Đào Duy Anh
đã nói: “Không ai chối cãi được rằng Khổng giáo hay Nho giáo đã tham gia
một phần quan trọng vào sự đúc nặn cái diện mạo tinh thần của dân tộc và sự
tạo thành văn hóa của dân tộc”[1, Tr. 23].
Lịch sử sản xuất, đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt đã
hình thành các giá trị đạo đức cho người Việt nhưng không thể phủ nhận vai
trò của Nho giáo. Nếu sản xuất và đấu tranh giữ nước là thực tiễn hình thành
các giá trị đạo đức truyền thống của người Việt thì Nho giáo chính là hệ thống

SVTH:Trần Thị Loan

5

K33 - GDCT


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

lý luận làm cho các giá trị đạo đức đó được khái quát lại, thâu tóm lại một
cách sâu sắc, có tính "tự giác" và trở thành chuẩn mực cho các thế hệ người
Việt. Quan hệ giữa tư tưởng đạo đức của Nho giáo và đạo đức của người Việt
là quan hệ có tính hai chiều. Tư tưởng đạo đức của Nho giáo từng được chọn
làm chuẩn mực để giáo dục đạo đức cho người Việt và đặt dấu ấn rất rõ ràng

vào nhân cách người Việt. Ngược lại, qua thực tiễn phát triển tư tưởng đạo
đức xuất phát từ nhu cầu tự thân của người Việt, các phạm trù đạo đức của
Nho giáo được mở rộng nội hàm và trở nên phong phú, thể hiện tính phù hợp
trong nhiều thời đại. Việc nghiên cứu tư tưởng đạo đức Nho giáo và vai trò,
ảnh hưởng của nó trong việc xây dựng, hoàn thiện đạo đức con người Việt
Nam trong lịch sử và hiện nay nhằm khẳng định những giá trị đạo đức tốt đẹp,
bền vững mà con người Việt Nam đã bồi đắp trong lịch sử và rút ra những giá
trị, đóng góp của tư tưởng đạo đức Nho giáo trong hoàn thiện đạo đức con
người Việt Nam trong lịch sử và hiện nay. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập
và sự thay đổi trong định hướng giá trị nhân cách của người Việt Nam, việc
phát triển con người Việt Nam bền vững cần có cơ sở triết học vững chắc
nhằm vừa đảm bảo, duy trì các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp mà vẫn
chứa đựng yếu tố năng động, hiện đại. Chính vì lý do đó nên tôi chọn đề tài
“Sự ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức trong triết học Nho giáo tới đời sống
tinh thần của con người Việt Nam thời kì phong kiến”.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Nho giáo là một trường phái triết học lớn lại được ra đời từ thời cổ đại
tại một quốc gia có nền văn minh rực rỡ nên ngay từ khi mới ra đời Nho giáo
nói chung và tư tưởng đạo đức của triết học Nho giáo nói riêng đã thu hút
được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu như:
“Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị trong điều kiện kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay” của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thế Kiệt –

SVTH:Trần Thị Loan

6

K33 - GDCT



Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

viện triết học, học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Đề tài đã tập trung
làm rõ thực trạng và xu hướng biến động của đạo đức người cán bộ lãnh đạo
chính trị nước ta hiện nay, từ đó đưa ra phương hướng và những giải pháp
nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị ở
Việt Nam. Đề tài mới dừng lại ở phạm vi đối tượng là phẩm chất đạo đức
người cán bộ lãnh đạo chính trị ở Việt Nam chứ chưa đề cập tới người dân
Việt Nam nói chung.
“Đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh qua các phạm trù
mà Người đã sử dụng” của tác giả Hoàng Trung (2001). Ông đã tập trung
làm nổi bật việc Hồ Chí Minh trong nhiều trường hợp đã viện dẫn những tư
tưởng tích cực trong các kinh điển của Nho giáo để nêu gương phẩm chất đạo
đức của người cán bộ cách mạng. Tác giả cũng chỉ làm nổi bật một số phạm
trù đạo đức của Nho giáo được Người vận dụng trong một số trường hợp,
chưa đưa ra những ảnh hưởng đạo đức của triết học Nho giáo tới đời sống
tinh thần con người Việt Nam.
“Một số đặc trưng cơ bản của Nho giáo Việt Nam” của Giáo sư, Tiến sĩ
Nguyễn Tài Thư.
Trước hết, bài viết trình bày ba đặc trưng cơ bản của Nho giáo Việt
Nam: thứ nhất là về vai trò của Nho giáo đối với xã hội Việt Nam phong kiến,
độc lập, tự chủ; thứ hai là về chiều hướng và động lực phát triển của Nho giáo
Việt Nam; thứ ba là về bốn phong cách tư duy của Nho giáo Việt Nam. Tiếp
đó, bài viết chỉ ra và phân tích ba nguyên nhân đã làm nên những đặc trưng
đó, gồm: một là, sự truyền bá và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam đã diễn
ra trong điều kiện không bình thường; hai là, chế độ phong kiến chuyên chế
tông pháp ở Việt Nam chỉ cho phép Nho giáo phát triển theo một chiều hướng
và trong phạm vi có lợi cho triều đình; và ba là, Nho giáo Việt Nam thiếu cơ

sở vật chất cần thiết để phát triển. Trong phạm vi và đối tượng là những đặc

SVTH:Trần Thị Loan

7

K33 - GDCT


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

trưng cơ bản của Nho giáo ở Việt Nam tác giả bài viết đã tập trung vào những
vấn đề thuộc Nho giáo ở Việt Nam. Khóa luận trên cơ sở kế thừa những kết
quả nghiên cứu của tác giả và tiếp tục đi sâu nghiên cứu và phân tích những
ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Nho giáo tới đời sống tinh thần người dân
Việt Nam trong thời kì phong kiến.
“Học thuyết chính trị xã hội của Nho giáo và sự thể hiện của nó ở Việt
Nam (từ thế kỉ XI đến nửa đầu thế kỉ XIX)” của Tiến sĩ Nguyễn Thanh Bình
đã phân tích Nho giáo với tính cách là học thuyết chính trị xã hội. Tác giả đã
bàn đến những vấn đề của Nho giáo như con người, vai trò của con người, xã
hội lý tưởng, đồng thời cũng đề cập đến nhân, lễ, chính danh, đến những
chuẩn mực đạo đức nhưng khai thác dưới góc độ chính trị xã hội. Từ đó đề
cập đến sự thể hiện của các tư tưởng ấy dưới chế độ phong kiến ở Việt Nam.
“Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị trong điều kiện kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay – thực trạng và xu hướng biến động” do phó
Giáo sư Tiến sỹ Nguyễn Thế Kiệt làm chủ nhiệm đã tập trung bàn về vai trò
của đạo đức trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay. Đề tài đã tập trung làm rõ thực trạng và xu hướng biến động

của đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị nước ta hiện nay, từ đó đưa ra
phương hướng và những giải pháp nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị ở Việt Nam theo nội dung và yêu cầu về đạo
đức của đội ngũ này. Đề tài giới hạn trong phạm vi hẹp đó là thực trạng và xu
hướng biến động đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị chứ chưa đề cập
tới những ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo tới đời sống tinh thần con người
Việt Nam thời kì phong kiến .

SVTH:Trần Thị Loan

8

K33 - GDCT


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu những ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức
trong triết học Nho giáo mà tiêu biểu nhất là tư tưởng của : Khổng Tử, Mạnh
tử và Tuân Tử.
Phạm vi nghiên cứu của khóa luận là đời sống tinh thần con người Việt
Nam thời phong kiến..
4. Mục đích nghiên cứu
Đề tài tập trung phân tích và luận giải những ảnh hưởng của tư tưởng
đạo đức trong triết học Nho giáo tới đời sống tinh thần của con người Việt
Nam thời phong kiến .
5. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện được mục đích nêu trên khóa luận đi vào giải quyết một
số nhiệm vụ :
Trình bày khái lược về lịch sử ra đời của Nho giáo gồm: Điều kiện kinh
tế xã hội Trung Quốc thời kì Xuân thu- Chiến quốc.
Sự phát triển của triết học Nho giáo.
Phân tích tư tưởng đạo đức trong triết học Nho giáo.
Nêu lên những ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức trong triết học Nho
giáo tới đời sống tinh thần con người Việt Nam thời phong kiến.
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Khóa luận dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng ta về Nho giáo và vấn đề đạo đức,
xây dựng đạo đức cho con người Việt Nam .
Khóa luận sử dụng các phương pháp: phân tích tài liệu, lôgic – lịch sử,
tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, đối chiếu so sánh …
7. Kết cấu của khóa luận
Khóa luận gồm :

SVTH:Trần Thị Loan

9

K33 - GDCT


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Phần mở đầu.
Phần nội dung khóa luận gồm 3 chương và 11 tiết:

Chương 1: Khái lược về lịch sử ra đời của Nho giáo
1.1 Điều kiện kinh tế xã hội Trung Quốc thời kì Xuân Thu- Chiến Quốc
1.2 Sự phát triển của Nho giáo
Chương 2: Tư tưởng đạo đức trong triết học Nho giáo
2.1 Quan niệm đạo đức thể hiện trong phạm trù Nhân
2.2 Quan niệm đạo đức thể hiện trong phạm trù Nghĩa
2.3 Quan niệm đạo đức thể hiện trong phạm trù Lễ
2.4 Quan niệm đạo đức thể hiện trong phạm trù Trí
2.5 Quan niệm đạo đức thể hiện trong phạm trù Chính danh
Chương 3: Những ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức trong triết học Nho
giáo tới đời sống tinh thần của con người Việt Nam thời kì phong kiến.
3.1 Tư tưởng đạo đức Nho giáo ở Việt Nam trước thời kì nhà Lý- Trần
3.2 Sự ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Nho giáo
trong thời kì nhà Lý- Trần
3.3 Sự ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Nho giáo
sau thời kì nhà Lý- Trần
3.4 Sự ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Nho giáo
trong giai đoạn hiện nay.
Phần kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo

SVTH:Trần Thị Loan

10

K33 - GDCT


Khoá luận tốt nghiệp


Trường ĐHSP Hà Nội 2

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
KHÁI LƯỢC VỀ SỰ RA ĐỜI CỦA NHO GIÁO
1.1 Điều kiện kinh tế xã hội Trung Quốc thời kì Xuân Thu- Chiến quốc
Nho giáo phát triển rực rỡ nhất ở Trung Quốc trong thời kì Xuân Thu –
Chiến Quốc. Đây là thời kỳ lịch sử Trung Quốc có nhiều biến động : từ chế
độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến, còn gọi là thời Đông Chu, do
Chu Bình Vương dời đô về phía Đông (Lạc Dương, Hà Nam ngày nay). Tuy
nhiên cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự
đóng góp của Chu công Đán còn gọi là Chu Công.
Chính sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội trong thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc đã tạo tiền đề cho sự phát triển triết học Nho giáo với những triết
gia vĩ đại mà tên tuổi của họ gắn liền với lịch sử của nhân loại. Trước hết :
Về kinh tế:
Thời Xuân Thu, nền kinh tế Trung Quốc đang chuyển từ thời đại đồ
đồng sang thời đại đồ sắt. Việc dùng bò kéo đã trở thành phổ biến. Thời kì
này hệ thống thủy lợi đã trải khắp khu vực Trường Giang. Diện tích đất đai
nhờ đó mà mở rộng. Phát minh mới về kĩ thuật khai thác và sử dụng đồ sắt đã
đem lại những tiến bộ mới trong việc cải tiến công cụ và kĩ thuật sản xuất
nông nghiệp tạo điều kiện tăng năng suất lao động trong nông nghiệp.Thời kì
này chế độ tư hữu ruộng đất còn được pháp luật nhà nước thừa nhận và bảo
vệ.

SVTH:Trần Thị Loan

11

K33 - GDCT



Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Đồ sắt phát triển khá phổ biến, kỹ thuật canh tác phát triển. Nền sản
xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển mạnh mẽ. Sự phân công
lao động và chuyên môn hóa sản xuất ngày càng cao. Sự phát triển của lực
lượng sản xuất, của kinh tế đã có tác động mạnh đến hình thức sở hữu ruộng
đất, kết cấu và điạ vị kinh tế của các giai tầng trong xã hội.
Trên cơ sở phát triển sản xuất thủ công nghiệp, thương nghiệp cũng
phát đạt hơn trước. Tiền tệ đã xuất hiện. Trong xã hội đã hình thành một tầng
lớp thương nhân giàu có và ngày càng có thế lực. Thương nhân đã có nhiều
người kết giao với chư hầu và công khanh đại phu, gây nhiều ảnh hưởng đối
với chính trị đương thời. Tuy nhiên do tình trạng xã hội đang rối ren, phương
tiện giao thông thô sơ, lãnh chúa chia năm xẻ bảy do nạn chư hầu cát cứ đi lại
rất khó khăn nên việc kinh doanh đòi hỏi phải do những người có đầu óc tháo
vát và lòng quả cảm đảm đương. Hơn thế, nghề buôn bán ở Trung Quốc thời
bấy giờ bị coi là nghề rẻ mạt nhất nên nó cũng chưa thực sự phát triển. Nhưng
sự hình thành của thương nghiệp, buôn bán đã tạo ra trong cơ cấu giai cấp xã
hội một tầng lớp mới. Từ tầng lớp này dần dần xuất hiện một loại quý tộc mới
với thế lực càng mạnh, tìm cách leo lên tranh giành quyền lực với tầng lớp
quý tộc cũ.
Về chính trị - xã hội
Thời Xuân Thu, mệnh lệnh của Thiên Tử không còn được tuân thủ, trật
tự lễ nghĩa, kỷ cương xã hội bị đảo lộn, đạo đức suy đồi. Sự tranh giành địa vị
xã hội của các thế lực cát cứ đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào tình trạng
chiến tranh khốc liệt liên miên. Thời Xuân Thu có khoảng 242 năm đã xảy ra
483 cuộc chiến tranh lớn nhỏ. Đầu thời Tây Chu có hàng ngàn nước, đến thời
Xuân Thu chỉ còn hơn một trăm nước. Đây chính là điều kiện lịch sử đòi hỏi

giải thể chế độ thị tộc nhà Chu, hình thành xã hội phong kiến; đòi hỏi giải thể
nhà nước của chế độ gia trưởng, xây dựng nhà nước phong kiến nhằm giải

SVTH:Trần Thị Loan

12

K33 - GDCT


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

phóng lực lượng sản xuất, mở đường cho xã hội phát triển. Sự biến chuyển sôi
động đó của thời đại đã đặt ra và làm xuất hiện những tụ điểm, những trung
tâm các “kẻ sĩ” luôn tranh luận về trật tự xã hội cũ và đề ra những hình mẫu
của xã hội tương lai. Lịch sử gọi thời kỳ này là thời kỳ “Bách gia chư tử”
(trăm nhà trăm thầy), “Bách gia tranh minh” (trăm nhà đua tiếng). Chính
trong quá trình ấy đã sản sinh các nhà tư tưởng lớn và hình thành nên các
trường phái triết học khá hoàn chỉnh. Mở đầu cho lịch sử tư tưởng Trung
Quốc có ngôn ngữ và ý nghĩa chặt chẽ. Trong đó phải kể đến một luồng tư
tưởng khá phổ biến và có ảnh hưởng khá sâu sắc trong xã hội đương đại sau
này đó là tư tưởng Đức trị lấy Nhân- Nghĩa- Lễ- Trí- Tín mà dạy người, lấy
cương thường mà hạn chế nhân dục để giữ trật tự trong xã hội cho bền vững.
Người ta gọi tư tưởng đó là Nho giáo với những nhà tư tưởng tiêu biểu, đại
diện đó là: Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử.
Thời Xuân Thu các lãnh chúa càng tăng cường bóc lột nhân dân lao
động. Người dân ngoài việc phải đi chiến trận thực hiện các cuộc chinh phạt
của các tập đoàn quý tộc, còn phải chịu sưu thuế, phu phen, lao dịch nặng nề.

Thiên tai thường xuyên xảy ra, nạn cướp bóc nổi lên khắp nơi làm cho đời
sống nhân dân càng thêm khốn khổ. Dân lưu vong “đồng trong ruộng ngoài
bỏ hoang”.
Việc các nước gây chiến tranh thôn tính lẫn nhau cũng như các lãnh
chúa bóc lột tàn khốc dân chúng không chỉ dẫn tới sự diệt vong của hàng loạt
nước chư hầu nhỏ mà còn phá hoại lễ nghĩa nhà Chu, phá hoại trật tự triều
hội, triều cống , chinh phạt giữa các nước chư hầu làm cho mâu thuẫn trong
giai cấp thống trị ngày càng trở nên gay gắt và sự rối loạn trong xã hội ngày
càng tăng. Đặc biệt những nghi lễ chặt chẽ tôn nghiêm trước đây đã từng góp
phần bảo vệ và làm hưng thịnh chế độ tông pháp nhà Chu đến lúc này cũng bị
xem thường. Tình trạng lễ nghĩa, cương thường cũng bị đảo lộn, đạo đức suy

SVTH:Trần Thị Loan

13

K33 - GDCT


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

đồi ở thời kì Xuân Thu biểu hiện ra qua các tệ nạn xã hội như “tiếm ngôi việt
vị”, chư hầu chiếm dụng lễ nghĩa của Thiên tử, đại phu chiếm dụng lễ nghĩa
của chư hầu. Trong xã hội, cảnh tôi giết Vua, con hại cha, anh em, vợ chồng
chia lìa thường xuyên xảy ra. Tình trạng đó không phải xảy ra một sớm một
chiều mà nó đã nó âm ỉ mục ruỗng từ lâu. Chế độ lễ nghi của nhà Chu trở
thành các hình thức sáo rỗng. Do đói rét, cực khổ, nạn trộm cướp nổi lên. Bọn
thống trị lại tăng cường “hình pháp” làm cho đời sống nhân dân càng trở nên

nghẹt thở. Do đó thời kì này nổi lên những cuộc khởi nghĩa của nông dân và
nô lệ. Tất cả tình hình ấy đã đẩy mâu thuẫn xã hội thời Xuân Thu lên đến đỉnh
cao, đưa chế độ chiếm hữu nô lệ Trung Quốc lao nhanh đến giờ phút cáo
chung.
1.2 Sự phát triển của Nho giáo
Sự phát triển của Nho giáo trải qua thời kì: Nho giáo nguyên thủy,
Hán Nho và Tống Nho:
Nho giáo nguyên thủy
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự
đóng góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công.‘Đến thời Xuân Thu, xã
hội loạn lạc, Khổng Tử phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và
tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi ông là
người sáng lập ra Nho giáo. Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã viết bộ Lục kinh
gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh
Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi
là Ngũ kinh.. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để
soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm,
còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu
nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung.
Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của

SVTH:Trần Thị Loan

14

K33 - GDCT


Khoá luận tốt nghiệp


Trường ĐHSP Hà Nội 2

ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên
Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng
giáo hay “tư tưởng Khổng - Mạnh“. Từ đây mới hình thành hai khái niệm,
Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó còn được
gọi là Nho học; còn Nho giáo mang tính tôn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu trở
thành thánh đường và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín
điều mà các nhà Nho cần phải thực hành.
Hán Nho
Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ
Đế đã đưa Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất
đất nước về tư tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống
bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời
kỳ này được gọi là Hán Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là
Hán Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị, Thiên tử là con trời, dùng
“lễ trị” để che đậy “pháp trị”.
Tống Nho
Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký, cùng
với Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh
là sách gối đầu giường của các nhà Nho. Nho giáo thời kỳ này được gọi là
Tống Nho, với các tên tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo,
Trình Di. (Ở Việt Nam, thế kỷ thứ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giỏi Nho học
nên được gọi là “Trạng Trình”). Phương Tây gọi Tống nho là “Tân Khổng
giáo”. Điểm khác biệt của Tống nho với Nho giáo trước đó là việc bổ sung
các yếu tố “tâm linh” (lấy từ Phật giáo) và các yếu tố “siêu hình” (lấy từ Đạo
giáo) phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị.
Năm 362 trước công nguyên, trong tất cả những quốc gia lớn thời đó,
có vương quốc Tần là mạnh nhất. Tần Hiếu Công lên ngôi tích cực phát triển


SVTH:Trần Thị Loan

15

K33 - GDCT


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

nông nghiệp, củng cố và chuẩn bị binh bị. Do những cuộc cải cách của
Thương Ưởng vào những năm từ 359 đến 350 trước công nguyên về kinh tế,
tổ chức hành chính, pháp luật, tiền tệ, thuế má, chế độ khen thưởng, quan hệ
gia trưởng và công xã nông thôn ở nước Tần hoàn toàn tan rã.
Chính từ những cải cách trên và sử dụng phương pháp pháp trị, nước
Tần đã trở thành nước hùng mạnh nhất trong “thất hùng”. Cục diện thời Chiến
quốc đã làm nảy sinh ra những thủ đoạn ngoại giao và quân sự dùng để đối
phó lẫn nhau giữa các nước gọi là thuật “hợp tung” và “liên hoành”. Trong
đó, Tô Tần (thế kỉ IV trước công nguyên, người Lạc Dương) đã đề xuất thuật
“hợp tung”,hợp nhiều nước yếu để đánh nước mạnh và Trương Nghi (thế kỉ
thứ IV trước công nguyên, người nước Ngụy) đề xuất thuật “liên hoành” tôn
một nước mạnh để đánh nước yếu, giúp nước Tần lần lượt đánh bại sáu nước
ở phía đông là Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Tề, Yên, chấm dứt các cuộc chiến tranh
liên miên tàn khốc, thống nhất Trung Hoa thành một quốc gia phong kiến
trung ương tập quyền đầu tiên vào năm 221 trước công nguyên. Đó là đế chế
Tần. Biến cố này là dấu ấn ghi lại sự thay đổi lớn nhất trong lịch sử chính trị
Trung Quốc. Nó gắn liền với một tư tưởng triết học có ảnh hưởng lớn thời
bấy giờ là Pháp gia mà người đại biểu xuất sắc là Hàn Phi Tử đã giúp nước
Tần thành công trong sự nghiệp thống nhất Trung Quốc.

Với chính sách hà khắc để đạt được mục đích thống nhất về tư tưởng và
chính trị trong xã hội nhà Tần đã chủ trương “chôn Nho, đốt sách”(phần thư
khanh Nho), cấm tất cả các học thuyết đương thời, chỉ cho giữ lại các sách về
y học, chiêm tinh, nông học cùng với việc gây chiến tranh chinh phạt. Tần
Thủy Hoàng áp dụng một chính sách cai trị bằng pháp luật độc đoán vào bậc
nhất; nó đối lập hoàn toàn với chủ trương cai trị bằng tình người dân chủ của
Nho gia. Mâu thuẫn đó là nguyên nhân tất yếu dẫn đến việc nhà Tần tiêu diệt
Nho giáo với hành động tàn bạo “đốt sách, chôn Nho” nổi tiếng. Sau khi Tần

SVTH:Trần Thị Loan

16

K33 - GDCT


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Thủy Hoàng chết, nhà Tần sụp đổ, Hán Cao Tổ là Lưu Bang đã rút ra được
một số kinh nghiệm của nhà Tần mà bớt đi phần hà khắc mà trưng dụng trí
thức. Nhưng phải đến Hán Vũ Đế, theo lời khuyên của Đổng Trọng Thư thì
Nho giáo mới được đưa lên địa vị quốc giáo. Nho giáo trở thành hệ tư tưởng
chính thống bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm.
Không những thế, nó còn được truyền bá khắp miền Đông Á..
Việt Nam là một trong những đất nước chịu ảnh hưởng rất lớn của tư
tưởng Nho giáo Trung Quốc. Sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam gắn
liền với sự xâm lược của thế lực phong kiến phương Bắc. Tuy nhiên trải qua
hơn 1000 năm Bắc thuộc Nho giáo vẫn chưa xác lập được vị trí độc tôn trong

đời sống. Chiến thắng trên sông Bạch Đằng năm 938 đã chấm dứt hơn 1000
năm Bắc thuộc và mở ra một thời kì mới cho sự phát triển của Việt Nam. Các
triều đại đầu tiên của nền độc lập không theo đạo Nho mà theo đạo Phật. Các
nhà sư có vai trò to lớn trong việc gây dựng triều Lý - nhà nước quân chủ tập
quyền đầu tiên ở nước ta và cũng từ khi nhà Lý ra đời do nhu cầu quản lý nhà
nước mà nhà Lý đã bắt đầu quan tâm đến Nho giáo. Sang thời Lý Thánh
Tông, Nho giáo được phát triển và cũng từ đó về sau Nho giáo thâm nhập
vào xã hội Việt Nam ngày càng sâu đậm trên nhiều lĩnh vực tư tưởng, thơ
văn, phong tục, tập quán …Nho giáo tồn tại và phát triển trong lòng xã hội
phong kiến Việt Nam qua các triều đại và khi thực dân Pháp đặt chân sang đô
hộ, xã hội Việt Nam đã trở thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Cùng với
đó, văn hoá phương Tây và hệ tư tưởng tư sản tràn vào Việt Nam. Đồng thời,
nền giáo dục Nho học bị bãi bỏ. Nho giáo ở Việt Nam tiếp tục suy tàn và đổ
vỡ. Tuy nhiên, bọn thực dân Pháp thống trị vẫn muốn duy trì ở nước ta những
quan hệ phong kiến và những yếu tố của hệ tư tưởng phong kiến để củng cố
chế độ thuộc địa. Vì thế, thực dân Pháp đã sử dụng Nho giáo vào việc cai trị
dân bản xứ.

SVTH:Trần Thị Loan

17

K33 - GDCT


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã làm cho Nho giáo ở Việt Nam suy

sụp hoàn toàn cùng với sự sụp đổ của chế độ phong kiến nửa thuộc địa. Từ
đây, có thể nói, trên bình diện là một vũ khí tư tưởng của giai cấp thống trị và
trên bình diện là một tôn giáo với những nghi lễ cung đình phức tạp, Nho giáo
không còn tồn tại nữa. Nhưng trong xã hội Việt Nam hiện nay, những tàn dư
của Nho giáo vẫn còn sống một cách dai dẳng trong các quan hệ xã hội, trong
sự ứng xử giữa người và người, trong phong tục tập quán và cả trong những
nghi thức thờ cúng tín ngưỡng cổ truyền của dân tộc.
Cũng giống như nhiều nhà tư tưởng khác trên thế giới như Thích Ca
Mầu Ni, Giê-xu,… người đời sau không thể nắm bắt các tư tưởng của Khổng
tử một cách trực tiếp mà chỉ được biết các tư tưởng của ông bằng các ghi chép
do các học trò của ông để lại. Khó khăn nữa là thời kỳ “đốt sách, chôn Nho”
của nhà Tần, hai trăm năm sau khi Khổng Tử qua đời khiến việc tìm hiểu tư
tưởng gốc của Khổng Tử càng khó khăn. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đời
sau vẫn cố gắng tìm hiểu và hệ thống các tư tưởng và cuộc đời của ông. Thời
Xuân Thu, Khổng Tử đã viết bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh
Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc
nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Khổng Tử
mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò
xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời
thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp,
còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử
đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử.
Các tác phẩm của Nho giáo đều được hình thành từ thời kì Nho giáo
nguyên thủy. Sách kinh điển gồm 2 bộ: Ngũ kinh và Tứ thư. Hệ thống kinh
điển đó hầu hết viết về xã hội, về những kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa ít

SVTH:Trần Thị Loan

18


K33 - GDCT


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

viết về tự nhiên. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính
trị, về đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho gia.

Ngũ kinh
Kinh Thi: sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử nói nhiều về
tình yêu nam nữ. Khổng Tử đã san định thành 300 thiên nhằm giáo dục mọi
người tình cảm trong sáng, lành mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng .
Kinh Thư: ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước
Khổng Tử. Khổng Tử đã san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương
các minh quân như: Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.
Kinh Lễ: ghi chép lại nghi lễ đời trước. Khổng Tử hiệu đính lại mong
dùng làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói: “Không
học kinh Lễ thì không biết đi đứng ở đời”(sách Luận ngữ).
Kinh Dịch: nói về các tư tưởng triết học của Trung Hoa cổ đại dựa trên
các khái niệm âm dương, bát quái. Đời Chu, Chu Văn Vương đặt tên và giải
thích các quẻ của bát quái gọi là Thoán Từ. Chu Công Đán giải thích chi tiết
nghĩa của từng hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời Chu gọi là
Chu Dịch.
Kinh Xuân Thu: ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê hương của
Khổng Tử. Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục
đích trị nước nên ông chọn lọc các sự kiện ghi kèm các lời bình, sáng tác
thêm lời thoại để giáo dục các bậc vua chúa.
Kinh Nhạc: do khổng Tử hiệu đính nhưng về sau bị thất lạc chỉ còn lại

một ít làm thành một thiên trong kinh Lễ gọi là Nhạc Kí.
Như vậy Lục kinh chỉ còn lại Ngũ kinh.
Tứ Thư

SVTH:Trần Thị Loan

19

K33 - GDCT


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Luận ngữ: ghi lại lời dạy của Khổng Tử do học trò của ông ghi chép lại
sau khi ông mất(Luận ngữ =các lời bình luận).
Đại học: dạy phép làm người để trở thành bậc quân tử. Sách này do
Tăng Sâm dựa trên lời dạy của ông soạn ra(Đại học = sự học lớn).
Trung dung: dạy người ta sống dung hòa không thiên lệch. Sách này do
Khổng Cấp soạn ra(Trung =ý muốn nói cái tâm không lệch bên này hay bên
kia; Dung nghĩa là dung dưỡng giữ mãi ở mức như vậy).
Mạnh Tử: ghi lại lời dạy của Mạnh Tử - Mạnh Tử tên thật là Mạnh
Kha, là người tiêu biểu nhất sau Khổng Tử, phát triển tư tưởng của Khổng Tử
ở thời Chiến Quốc..

SVTH:Trần Thị Loan

20


K33 - GDCT


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

CHƯƠNG 2:
TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC TRONG
TRIẾT HỌC NHO GIÁO
2.1 Quan niệm đạo đức thể hiện trong phạm trù Nhân
Khổng Tử [551 - 479 TCN] người sáng lập học thuyết Nho giáo; tên
Khâu, tự Trọng Ni, sinh ở nước Lỗ trong một gia đình quý phái nhưng nghèo.
Từng chu du nhiều nơi, lấy việc dạy học, đọc sách làm vui. Ông là người có
công lớn trong việc chỉnh lý san định lại các sách cổ như Kinh Thi, Kinh Thư,
Kinh Dịch... Học trò có cả ngàn người. Sau khi Khổng Tử mất, Nho giáo
được chia thành nhiều phái, trong đó nổi bật nhất là hai phái: Mạnh Tử và
Tuân Tử.
Nhân là phạm trù vừa mang tính khởi đầu vừa là phạm trù hạt nhân của
Khổng Tử. Khái niệm “Nhân” trong học thuyết của Khổng Tử được đề cập ở
rất nhiều tác phẩm nhưng được tập trung nhiều trong cuốn “Luận ngữ”. “Luận
ngữ” là tác phẩm ghi lại lời bàn luận giữa Khổng Tử và các học trò của ông.
“Trong “Luận ngữ” có nhiếu khái niệm được lặp lại nhiều lần. Chẳng hạn
như khái niệm “Nhân” – 109 lần, khái niệm “Lễ” – 74 lần, khái niệm
“Đạo”- 60 lần”[ 2, Tr. 6 ].
“Nhân” trong “Luận ngữ” của Khổng Tử là một trong những khái niệm
nhận được nhiều ý kiến đánh giá khác nhau nhất. Có người cho Nhân là nội
dung cơ bản của Luận ngữ, là tư tưởng chủ đạo của Khổng Tử. Có người lại
cho rằng: “Lễ” mới là nội dung cơ bản của tác phẩm và có người lại coi cả
“Nhân” và “Lễ” đều là nội dung cơ bản của tác phẩm. Nhưng xét trong thời

kì lịch sử của Trung Quốc thì có lẽ “Nhân” là tư tưởng chủ đạo của Khổng
Tử. Trung Quốc lúc đó là thời kì mà “chiến tranh là phương thức phổ biến để
giải quyết mâu thuẫn về quyền lợi, địa vị đương thời”[ 18, Tr. 5]

SVTH:Trần Thị Loan

21

K33 - GDCT


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Coi “Nhân” là yêu người trong “Luận ngữ”, Khổng Tử đã dành không
ít lời để nói về đạo làm người. Khi Nhan Uyên hỏi Khổng Tử về Nhân,
Khổng Tử đã nói: “Sửa mình theo lễ là Nhân. Ngày nào cũng khắc kỉ phục lễ
ngày đó mọi người trong thiên hạ tự nhiên cảm hóa mà theo về đức nhân. Vậy
nhân là do mình chớ há do người sao?”(Luận ngữ; Nhan uyên -1).
Trọng Cung – một học trò khác của Khổng Tử hỏi về Nhân. Khổng Tử
cho rằng: “những cái gì mà mình không muốn thì đừng đem thi hành cho
người khác. Đó là đức hạnh của người Nhân” (Luận ngữ- Nhan Uyên, 2). Còn
khi Phàn Trì hỏi về Nhân, Khổng Tử giảng giải rằng: “Khi ở nhà thì giữ diện
mạo cho khiêm cung, khi làm việc thì thi hành một cách kính cẩn, khi giao
thiệp với người thì giữ dạ trung thành. Dẫu có đi đến các nước rợ Di, Địch
cũng chẳng bỏ bạ cái đó, như vậy là người có đức Nhân” (Luận ngữ, Tử Lộ;
19).
Người có đức Nhân trong quan niệm của Khổng Tử là còn là người
phải làm cho năm điều đức hạnh được phổ cập trong thiên hạ. Năm điều đức

hạnh đó là: cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Với Khổng Tử, chỉ có người Nhân
mới có thể có được cuộc sống an vui lâu dài với lòng nhân của mình và dẫu
có ở hoàn cảnh nào cũng có thể yên ổn thanh thản. Do vậy theo ông người
nhân “bậc quân tử không bao giờ lìa bỏ điều nhân, dẫu chỉ trong một bữa ăn.
Người quân tử không bao giờ ở sai điều nhân dẫu trong lúc vội vàng, khi ngả
nghiêng vẫn theo điều nhân”(Luận ngữ - Lí Nhân, 5).
Như vậy trong quan niệm của Khổng Tử “Nhân” không chỉ là “yêu
người”, thương người mà còn là đức hoàn thiện con người và do vậy “nhân
chính” là đạo làm người – sống với mình và sống với người, đức Nhân là cái
bền vững như núi sông. Như vậy, quan niệm về đức nhân của Khổng Tử là
một đóng góp lớn trong việc giáo dục đào tạo con người giúp con người phát
triển toàn diện, vừa có đức vừa có tài.

SVTH:Trần Thị Loan

22

K33 - GDCT


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Tuy nhiên do hạn chế về lập trường giai cấp nên quan niệm về đức
nhân của Khổng Tử cũng có nội dung giai cấp rõ ràng khi ông cho rằng chỉ có
người quân tử mới có được đức nhân, còn kẻ tiểu nhân tức nhân dân lao động
không có đức nhân; nghĩa là đạo nhân chỉ là đạo của người quân tử là của giai
cấp thống trị. Trong thời kì Xuân Thu – Chiến Quốc đã có nhiều học thuyết
phê phán chữ Nhân của Khổng Tử. Có người cho đó là giả dối, có người cho

đó là nói suông, có người lại cho đó là nguồn gốc của bất nhân, bất nghĩa. Thế
nhưng không phải vì thế mà tư tưởng “Nhân” của Khổng Tử không đi vào
lòng người đương thời. Nó đã gây cho họ biết bao xúc động và làm cơ sở cho
hành động nhân đạo của họ.
Mạnh Tử: Sống trong thế kỷ thứ 4 trước công nguyên, là người nước
Trâu tức thành phố Trâu Thành tỉnh Sơn Đông ngày nay. Tương truyền Mạnh
Tử là hậu duệ dòng họ Mạnh qúi tộc của nước Lỗ. Trong thời Mạnh Tử,
muôn nhà đua tiếng trên văn đàn, Mạnh Tử đã kế thừa và phát huy tư tưởng
của Khổng Tử, người sáng lập ra học thuyết Nho giáo, đề xuất một hệ thống
tư tưởng hoàn chỉnh, có ảnh hưởng to lớn đối với người đời sau, được tôn
xưng là “Á Thánh” chỉ sau Khổng Tử.
Mạnh Tử đã kế thừa và phát huy tư tưởng đức trị của Khổng Tử, phát
triển học thuyết Nhân chính, trở thành hạt nhân trong tư tưởng chính trị của
ông.
Mạnh Tử giải thích “người có đức Nhân được những người xung quanh
kính yêu gọi là thiện. Người làm điều thiện theo lương tâm gọi là tín. Người
mà tín thiện đầy đủ, mọi hành vi hợp với ý lành gọi là mỹ. Người có mỹ đầy
đủ làm nên sự nghiệp khiến cho mỹ của mình tỏa sáng trên đời gọi là đại. Đại
là bậc đại nhân lại biết cảm hóa người khiến thiên hạ phải quay về nẻo thiện
gọi là thánh” [5, Tr.65 ].

SVTH:Trần Thị Loan

23

K33 - GDCT


Khoá luận tốt nghiệp


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Ông cho rằng nếu các thành viên trong xã hội đều lấy Nhân để xử lý
mối quan hệ giữa con người với con người thì sự ổn định và thống nhất thiên
hạ của trật tự phong kiến là có bảo đảm và tin cậy.
Để nói rõ cội nguồn của qui phạm đạo đức này, Mạnh tử đề xuất tư
tưởng “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Bản chất con người vốn là thiện, tính
thiện đó là do thiên phú chứ không phải là do con người lựa chọn. Nếu con
người biết giữ gìn thì làm cho tính thiện ngày càng mạnh thêm; nếu không
biết giữ gìn sẽ làm cho nó ngày càng mai một đi thì con người trở nên nhỏ
nhen, ti tiện không khác gì loài cầm thú.
Từ đó, Mạnh Tử kết luận: bản chất con người là thiện nhưng con
người hiện thực có thể là ác, đó là do xã hội rối loạn, luân thường đạo lý bị
đảo lộn. Cho nên, để thiết lập quốc gia thái bình thịnh trị thì phải trả lại cho
con người tính thiện bằng đường lối chính trị lấy nhân nghĩa làm gốc.
Ông cho rằng tuy sự phân công giữa các thành viên trong xã hội có khác nhau
và sự khác biệt về giai cấp, nhưng nhân tính của họ là giống nhau.
Như vậy mạnh Tử đã kế thừa và phát huy tư tưởng đạo đức nhân lên một nấc
mới và nó là nền tảng để các nhà Nho nghiên cứu sau này.
Tuân Tử: Tuân Tử tên Huống , tự Khanh, cũng tự Tôn Khanh. Đời
Hán đặt tên sách của Tuân Tử là "Tôn Khanh Tử", sang thời Đường mới đổi
lại xưng hô "Tuân Tử". Tuân Tử người nước Triệu, sinh vào năm nào không
được rõ, chỉ biết "Niên giám Tuân Tử", bắt đầu ghi chép sự tích của Người từ
năm Triệu Huệ Văn Vương nguyên niên, tức 298 trước công nguyên và mất
vào năm thứ 25 Sở Khảo Liệt Vương, tức 238 trước công nguyên.
Tuân Tử đề ra “Tính ác”, “nhân chi sơ tính bản ác”, ngược lại với
“Tính thiện” của Mạnh Tử. Tuân Tử đã nói: “Kim nhân chi tính, sinh nhi háo
lợi yên, thuận chi, cố tranh đoạt sinh, nhi từ nhượng vong yên... Sinh nhi hữu
nhĩ mục chi dục, hữu háo thanh sắc yên, thuận chi, cố dâm loạn sinh, nhi lễ


SVTH:Trần Thị Loan

24

K33 - GDCT


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

nghĩa văn lý vong yên. Nhiên tắc, túng nhân chi tính, thuận nhân chi tình, tất
xuất ư tranh đoạt, thạp ư phạm nhân loạn lý, nhi quy ư bạo... Dụng thử quan
chi, nhiên tắc nhân chi tính ác minh dĩ”. (Tính người ngày nay, trời sinh có
kẻ hiếu lợi, do đó, mới sinh ra vấn đề tranh đoạt mà mất đi đức tính khiêm
nhường... Trời sinh người ta có thứ dục vọng bởi tai mắt, thích nghe cái hay,
nhìn cái đẹp do đó mới sinh ra vấn đề dâm loạn, mà mất đi lễ nghĩa, đạo lý
văn hóa. Vậy thì, nếu cứ chiều theo tính và thuận theo tình của con người, thì
sẽ diễn ra cảnh tranh giành, phạm tội loạn ly, rồi quy hết về bạo lực... Cứ nhìn
theo đó thì đã quá rõ ràng, tính người là ác vậy). Đó là lý luận của Tuân Tử,
giải thích tại sao bản tính của con người, từ chỗ trong trắng dẫn tới chỗ ác hại.
Như vậy Tuân Tử đã đưa ra một quan điểm mới về phạm trù nhân .
Đó là tính người và điều kiện xã hội đã quy định bản tính đó.
2.2 Quan niệm đạo đức thể hiện trong phạm trù Lễ
Quan niệm về Lễ của Khổng Tử: Khổng Tử cho rằng để đạt được đức
nhân, phải chủ trương dùng lễ để duy trì trật tự xã hội. Lễ trước hết là lễ nghi,
cách thờ cúng, tế lễ; lễ là kỷ cương, trật tự xã hội, là những qui định có tính
pháp luật đòi hỏi mọi người phải chấp hành. Ai làm trái những điều qui định
đó là trái với đạo đức. Trong Luận Ngữ, Khổng Tử thường nhắc rất nhiều đến
chữ lễ. Có thể nói, trong mỗi chương đều có nhiều đoạn bàn về lễ, có khi chủ

động giảng giải, có khi thụ động trả lời câu hỏi của các đồ đệ liên quan tới lễ.
Có thể phân chia ý nghĩa của lễ trong Luận Ngữ theo những phạm trù sau:
Thứ nhất, lễ là một phương cách biểu tả hòa khí, và như vậy nó có thể
giúp tề gia, trị quốc. Hữu Tử, một đồ đệ của Khổng Tử nói: "Lễ chi dụng, hòa
vi quý. Tiên vương chi đạo, tư vi mỹ; tiểu đại do chi. Hữu sở bất hành. Tri
hòa nhi hòa, bất dĩ lễ tiết chi, diệc bất khả hành giã”.
Thứ hai, lễ biễu hiện chính nền đạo đức. Theo Khổng Tử, căn bản của
lễ không có chi khác hơn là chính nền đạo đức. Ðạo nhân, đạo nghĩa (như

SVTH:Trần Thị Loan

25

K33 - GDCT


×