Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Vấn đề đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.23 KB, 65 trang )

Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục chính trị

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=====O0O=====

NGUYỄN THỊ PHÚC

VẤN ĐỀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP TRONG
THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành : Triết học

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS.VI THÁI LANG

Nguyễn Thị Phúc

0

K34 GDCD- GDQP


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục chính trị

HÀ NỘI – 2012


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài này, em đã nhận được sự hướng dẫn chỉ
bảo tận tình của thầy giáo- tiến sĩ Vi Thái Lang. Với tấm lòng biết ơn sâu sắc
của mình em xin chân thành cảm ơn thầy.
Em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô trong trường ĐHSP
Hà Nội 2, đặc biệt các thầy cô trong khoa giáo dục chính trị, các thầy cô trực
tiếp giảng dạy bộ môn triết cùng các cô chú trong thư viện trường ĐHSP Hà Nôị
2 đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành tốt khoá luận của mình.
Em cũng xin bày tỏ lời cảm ơn tới gia đình cũng như các bạn sinh viên
K34, đã tạo điều kiện và giúp đỡ em hoàn thành tốt khoá luận này.
Với điều kiện hạn chế về thời gian cũng như về kiến thức của bản thân
nên khoá luận này khó tránh khỏi những thiếu sót, kính mong sự chỉ bảo của các
thầy cô và các bạn sinh viên để đề tài được hoàn thiệnn hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.!
Hà Nội, ngày, tháng 5 năm 2012
Tác giả khoá luận
Nguyễn Thị Phúc

Nguyễn Thị Phúc

1

K34 GDCD- GDQP


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục chính trị
LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của thầy giáo- tiến sĩ Vi Thái Lang.
Tôi xin cam đoan những kết quả của khoá luận chưa từng được công bố ở
bất kì công trình nghiên cứu nào, đó là những kết quả đúng, nếu sai tôi hoàn
toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày, tháng 5 năm 2012
Tác giả khoá luận
Nguyễn Thị Phúc

Nguyễn Thị Phúc

2

K34 GDCD- GDQP


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục chính trị
DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT
CNCS: Chủ nghĩa cộng sản.
CNXH: Chủ nghĩa xã hội.
CNTB: Chủ nghĩa tư bản.
CSCN: Cộng sản chủ nghĩa.
Đtrgc: Đấu tranh giai cấp.
TBCN: Tư bản chủ nghĩa.
XHCN: Xã hội chủ nghĩa.

Nguyễn Thị Phúc


3

K34 GDCD- GDQP


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục chính trị

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................. 5
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ GIAI CẤP, ĐẤU TRANH
GIAI CẤP TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ .................................................. 10
1.1. Một số quan niệm về giai cấp, đấu tranh giai cấp ................................ 10
1.2. Quan điểm về thời kì quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội ........................... 20
1.3. Tính tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ lên Chủ
Nghĩa Xã Hội .............................................................................................. 22
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CỦA CUỘC ĐẤU TRANH GIAI CẤP TRONG
THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM ............... 26
2.1. Thực trạng của cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực kinh tế .............. 26
2.2. Thực trạng của cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực chính trị ............ 32
2.3. Thực trạng của cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực tư tưởng- văn hoá
...................................................................................................................... 37
Chƣơng 3: MỘT SỐ HƢỚNG GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC HIỆN
THẮNG LỢI CUỘC ĐẤU TRANH GIAI CẤP TRONNG THỜI KÌ QUÁ
ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM ....................................... 44
3.1. Gĩư vững định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa cho các thành phần kinh tế 44
3.2. Xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân........................................ 48
3.3.Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng lấy chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động .. 52

KẾT LUẬN............................................................................................ 56
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................... 54

Nguyễn Thị Phúc

4

K34 GDCD- GDQP


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục chính trị
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Lý luận giai cấp và đtrgc là một trong những nội dung cơ bản của chủ
nghĩa Mác -Lê Nin, có vai trò quan trọng trong sự nghiệp cách mạng. Nó được
coi là sợi chỉ đỏ xuyên suốt học thuyết Mác - Lê Nin, là hòn đá tảng để phân biệt
những người Mác xít với những kẻ giả danh Mác xít, với chủ nghĩa cơ hội, xét
lại trong phong trào cộng sản công nhân quốc tế. Trong khi khẳng định vai trò
của đtrgc trong thời kì quá độ lên CNXH, chủ nghĩa Mác-Lê Nin không tuyệt đối
hoá vấn đề giai cấp, đtrgc mà trái lại luôn đòi hỏi phải đặt nó trong những điều
kiện hoàn cảnh cụ thể và quan hệ với các nhân tố khác. Việc giải quyết đúng đắn
vấn đề giai cấp và đtrgc trong thời kì quá độ có ý nghĩa to lớn đối với sự thành
bại của CNXH.
Trên lĩnh vực lí luận và thực tiễn, từ khi cách mạng tháng Mười Nga thắng
lợi, sau sự khủng hoảng tan rã của CNXH trong những năm vừa qua đã nảy sinh
nhiều vấn đề lí luận phản kích chủ nghĩa Mác-Lê Nin đặc biệt đã xuất hiện
những khuynh hướng "tả khuynh" "hữu khuynh" trong việc nhận thức, giải quyết

vấn đề giai cấp và đtrgc. Có nhiều trường hợp đã tuyệt đối hoá đtrgc, không nhận
thấy các nhân tố khác tác động đến sự phát triển của xã hội, CNXH. Ngược lại
có trường hợp phủ nhận đtrgc dẫn đến Đảng cộng sản mất vai trò lãnh đạo đối
với xã hội.
Trong quá trình đấu tranh bảo vệ thành quả cách mạng tháng Mười Nga
V.I Lê Nin kịch liệt phê phán mọi quan điểm phủ nhận hay tuyệt đối hoá đtrgc,
họ không nhìn thấy tính chất phức tạp của nó trong thời kì mới. Người luôn đòi
hỏi những người Mác xít giải quyết vấn đề này một cách biện chứng trong các
thời kì khác nhau của cách mạng.

Nguyễn Thị Phúc

5

K34 GDCD- GDQP


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục chính trị

Thực tiễn xây dựng CNXH ở nước ta và các nước trên thế giới chứng
minh rằng khi nắm chính quyền nếu giai cấp vô sản nhận thức và giải quyết vấn
đề giai cấp đúng đắn thì cách mạng mới có thể thắng lợi. Ngược lại, nếu nhận
thức và giải quyết không đúng đắn, mắc sai lầm cách mạng sẽ khó khăn tổn thất
thậm chí thất bại.
Ngày nay trước sự biến động phức tạp của thế giới, sau sự sụp đổ của Liên
Xô và các nước XHCN Đông Âu, các thế lực thù địch đẩy mạnh tấn công xuyên
tạc bác bỏ lí luận giai cấp và đtrgc của chủ nghĩa Mác- Lê Nin. Đặc biệt ở Việt
Nam từ khi thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần vận hành

theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng XHCN và
mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, có nhiều quan điểm cho rằng: ở nước ta
hiện nay không còn giai cấp tư sản nên không còn mâu thuẫn giai cấp và đtrgc
nữa, có quan điểm sai lầm coi học thuyết giai cấp và đtrgc của chủ nghĩa Mác Lê Nin là lỗi thời muốn lẩn tránh vấn đề giai cấp và đtrgc. Mặt khác, cũng có
những quan điểm lại quá cứng nhắc và cường điệu hoá mâu thuẫn giai cấp cho
rằng: do phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế thế giới, sự phân hoá
giàu nghèo diễn ra nhanh chóng nên mâu thuẫn giai cấp nảy sinh. Để tránh tình
trạng đó phải đóng cửa, không mở rộng quan hệ với các nước, không phát triển
kinh tế thị trường.
Rõ ràng vấn đề giai cấp và đtrgc đang trở thành điểm nóng trong cuộc đấu
tranh tư tưởng hiện nay. Vì vậy nhận thức đúng đắn lí luận giai cấp và đtrgc của
chủ nghĩa Mác -Lê Nin, vai trò của đtrgc trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt
Nam là một trong những vấn đề có ý nghĩa cấp thiết về lí lận và thực tiễn.

Nguyễn Thị Phúc

6

K34 GDCD- GDQP


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục chính trị

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta trong những năm gần đây, những nội dung liên quan đến quan
điểm giai cấp và đtrgc trong thời kì quá độ lên CNXH đã được nhiều tập thể và
tác giả quan tâm nghiên cứu. Ở những góc độ, khía cạnh khác nhau các tác giả
đã cho ra mắt bạn đọc các công trình nghiên cứu của mình dưới nhiều hình thức

như: đề tài khoa học, luận án, luận văn, sách báo, các bài viết trên các tạp chí ...
chẳng hạn một số công trình sau:
- Bàn về đtrgc, đấu tranh giữa hai con đường trong thời kì quá độ -Viện
triết học 1976.
- Đấu tranh giai cấp trong chặng đầu của thời kì quá độ - NXB Hồ Chí
Minh 1984.
- Qua điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin về giai cấp và đtrgc, PGS- PTS
Trần Hữu Nghĩa.
- Những vấn đề chính trị - xã hội trong thời kì quá độ, PGS - PTS Đỗ
Nguyên Phương chủ biên - Đề tài cấp Nhà nước KX 07 - Hà Nội 1994.
- Lý lụân Mác xít về mối quan hệ giai cấp dân tộc và thời đại, PGS - PTS
Trần Phúc Thăng, TCCS, tháng 7 - 1996.
Ngoài ra còn các công trình, bài báo nghiên cứu về cơ cấu giai cấp - xã
hội, phân tầng xã hội ở nước ta hiện nay.
Nhìn chung mỗi công trình bài viết trên thường đi sâu nghiên cứu một nội
dung cụ thể nào đó của lí luận đtrgc trong thời kỳ quá độ và phân tích sự vận
dụng sáng tạo lí luận này của Đảng cộng sản vào Việt Nam. Do vậy vấn đề này
cần được nghiên cứu một cách khoa học và nghiêm túc.

Nguyễn Thị Phúc

7

K34 GDCD- GDQP


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục chính trị


3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích
Trên cơ sở lí luận và khẳng định những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lê Nin về giai cấp, đtrgc trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam, nêu
lên tính tất yếu cũng như thực trạng của cuộc đtrgc từ đó đề xuất một số hướng
giải pháp cơ bản nhằm thực hiện thắng lợi cuộc đtrgc trong thời kì quá độ lên
CNXH ở Việt Nam.
* Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nêu trên, khoá lụân tập trung thực hiện những
nhiệm vụ sau:
Khẳng định giá trị khoa học và ý nghĩa của học thuyết giai cấp và đtrgc
chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kì quá độ.
Nêu lên thực trạng và các giải pháp cơ bản nhằm thực hiện thắng lợi cuộc
đtrgc trong điều kiện mới hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng.
Đtrgc trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu về không gian: Nghiên cứu cuộc đtrgc trong thời kì
quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Nghiên cứu cuộc đtrgc trong thời kì quá
độ.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận triết học Mác xít, quan điểm đổi mới của
Đảng, khoá luận sử dụng kết hợp các phương pháp trong quá trình nghiên cứu

Nguyễn Thị Phúc

8


K34 GDCD- GDQP


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục chính trị

chủ yếu là: phương pháp phân tích - tổng hợp, lịch sử - lôgíc, phương pháp trừu
tượng hoá, phương pháp liên hệ thực tiễn ... để giải quyết các nhiệm vụ đã đặt ra.
6. Ý nghĩa của đề tài
* Ý nghĩa lí luận
Trên cơ sở khẳng định những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê
Nin, đề tài tiếp tục bổ sung làm rõ và hoàn thịên thêm vai trò của cuộc đtrgc
trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam hiện nay.
Tạo cơ sở lí luận cho việc nghiên cứu cuộc đtrgc.
* Ý nghĩa thực tiễn
Đánh giá đúng thực trạng và đưa ra một số hướng giải pháp cơ bản đảm
bảo thực hiện thắng lợi cuộc đtrgc trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam
hiện nay.
Do trình độ có hạn, nội dung đề tài được trình bày còn hạn chế, song tôi
chỉ hy vọng rằng đó cũng là những đóng góp nhỏ của tôi khi thực hiện đề tài
này.
7. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu kết luận, khoá luận được kết cấu gồm 3 chương, 9 tiết.

Nguyễn Thị Phúc

9

K34 GDCD- GDQP



Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục chính trị

Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ GIAI CẤP, ĐẤU TRANH
GIAI CẤP TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1. Một số quan niệm về giai cấp, đấu tranh giai cấp
1.1.1. Các quan niệm ngoài Mác xít về giai cấp, đấu tranh giai cấp
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, những quan điểm về giai cấp và đtrgc
được hình thành từ rất sớm. Ngay từ thời kì cổ đại, trong học thuyết của mình,
các nhà tư tưởng đã phản ánh tình trạng xã hội phân chia thành giai cấp và đtrgc.
Ở Trung Quốc, từ thiên niên kỉ thứ hai trước công nguyên, đã hình thành
xã hội chiếm hữu nô lệ. Vào thời chiến quốc (Thế kỉ V- III trước công nguyên)
trong cuốn "Quản tử" tác giả đã thừa nhận việc phân chia xã hội thành đẳng cấp
và chỉ rõ "sĩ, nông, công, thương" là cơ sở tồn tại của Nhà nước. Nhà tư tưởng
lớn của Trung Quốc là Khổng Tử cũng đã đưa ra học thuyết bảo vệ lợi ích của
giới quý tộc. Ông cho rằng, người quân tử và kẻ tiểu nhân là những hạng người
có địa vị và nhân cách khác nhau. Người quân tử có quyền lực lớn kẻ tiểu nhân
là người hèn kém, luôn phải phục tùng quyền lực của người quân tử.... giữa
người quân tử và kẻ tiểu nhân phải có sự cách biệt nếu không thì sẽ loạn. Ông
nói "Nếu xoá bỏ sự cách biệt giữa quý tộc và thường dân thì lúc đó làm thế nào
để chứng tỏ uy tín và sự cao quý của người quý tộc. Hơn nữa lúc đó quốc gia sẽ
ra sao nếu không có sự phân biệt giữa người quyền quý và kẻ dân thường" [6,
tr.58].
Nhà tư tưởng Lão Tử (Thế kỉ VI- V trước công nguyên) đã có tư tưởng
bảo vệ lợi ích của những người nông dân bị phá sản chống lại quyền lực của vua
chúa quý tộc. Cuốn "Đạo đức kinh" được các đệ tử của ông soạn thảo vào thế kỷ
thứ IV - III TCN đã thể hiện rõ. Ông lên án chế độ thuế khoá nặng nề, sự áp bức,

lộng hành của bọn vua chúa. Ông so sánh sự đói nghèo của nhân dân lao động

Nguyễn Thị Phúc

10

K34 GDCD- GDQP


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục chính trị

với sự xa hoa của bọn giàu có và cho rằng: sự xa hoa này là kết quả của việc
cướp bóc người lao động. Trong tư tưởng này của Lão Tử đã thấy sự đối lập giữa
quý tôc, chủ nô và nô lệ.
Nhà tư tưởng Mặc Tử (479- 381 trước công nguyên) đã thừa nhận trong
xã hội có các đẳng cấp như: sĩ, nông, công, thương. Ông lên án chế độ phân biệt
đẳng cấp giữa quý tộc và thường dân và đòi hỏi phải có sự bình đẳng cho các
tầng lớp xã hội. Tuy nhiên ông chưa giải thích được nguồn ngốc của sự xuất hiện
các đẳng cấp khác nhau trong xã hội.
Ở Hy Lạp cổ đại, trong các học thuyết chính trị, xã hội của các nhà tư
tưởng như: Hêraclít, Đêmôcrít, Platôn.... đều thừa nhận xã hội đã có sự phân chia
thành giai cấp, tầng lớp xã hội đối lập nhau.
Platôn (427- 347 trước công nguyên) đã viết hai tác phẩm nổi tiếng "Nhà
nước" và "Luật lệ" trong đó khẳng định cần phải đấu tranh chống sự giàu có và
nghèo nàn. Ông cho rằng, trong nhà nước lí tưởng tồn tại ba tầng lớp người:
+ Thứ nhất: Các nhà thông thái, nhà triết học ở địa vị cao nhất.
+ Thứ hai: Các chiến binh dũng cảm, ý chí ở địa vị thấp hơn.
+ Thứ ba: Những người nông dân và thợ thủ công.

Theo Platôn xã hội cần phải duy trì các hạng người khác nhau do đó
không thể có sự hoàn toàn bình đẳng giữa mọi người. Platôn bảo vệ quyền thống
trị của tầng lớp quý tộc, chủ nô, mặt khác cũng thừa nhận sở hữu tư nhân là
nguồn gốc sinh ra sự phân cực quá lớn về tài sản và muốn xoá bỏ sở hữu tư
nhân.
Sau Platôn là Arixtôt (384- 322 trước công nguyên). Với tác phẩm "Chính
trị và chính thể Aten" của mình. Ông thừa nhận trong xã hội có một loại người

Nguyễn Thị Phúc

11

K34 GDCD- GDQP


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục chính trị

cầm quyền, thống trị và một loại người là kẻ bị trị và nô lệ. Chế độ nô lệ đó là
nền tảng, điều kiện cần thiết cho sự tồn tại của nhà nước.
Như vậy, ngay từ thời kì cổ đại ở Trung Quốc và Hy Lạp đã xuất hiện
những tư tưởng phản ánh về sự phân chia xã hội thành giai cấp và cuộc đấu tranh
giữa các giai cấp... Các tư tưởng này còn đơn giản chưa tạo ra được một định
nghĩa khái quát về giai cấp mà chỉ thừa nhận giai cấp là những loại người có
quyền lực, có địa vị và chức năng khác nhau. Và cũng cho rằng nguồn gốc của
sự phân chia các hạng người đó là do trời, tự nhiên quy định hoặc do thượng đế
thần thánh mà chưa thấy giai cấp có nguồn gốc từ đời sống kinh tế xã hội, chưa
thấy được tính lịch sử của giai cấp.
Khi CNTB bắt đầu hình thành cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai

cấp địa chủ quý tộc xuất hiện, quan niệm về giai cấp trở nên rõ ràng hơn.
Các tư tưởng nổi tiếng thời kì này như: Tomatmorơ (1478- 1535),
Tômatđơ Cămpanenla (1568-1639) đều nêu lên tư tưởng cho rằng: giai cấp là
những tầng lớp người có quyền lực, địa vị khác nhau trong xã hội, giai cấp và sự
đtrgc, sự bất công mất dân chủ trong xã hội có nguyên nhân khách quan từ trong
sự phát triển kinh tế, trong hình thức sở hữu về tài sản. Tuy nhiên họ chưa thực
sự thấy được cơ sở kinh tế của giai cấp còn chịu ảnh hưởng nặng nề của Cơ đốc
giáo vẫn đứng trên quan điểm thần luận về các quá trình lịch sử xã hội để giải
thích các hiện tượng.
Vào cuối thế kỉ XVIII đầu XIX với sự xuất hiện các tác phẩm của Xanh xi
Mông (1760- 1825) các tư tưởng về giai cấp và đtrgc đã đi xa và cụ thể hơn. Ông
đưa ra nhiều ý kiến về giai cấp và đtrgc. Lúc đầu ông chia xã hội thành ba giai
cấp: các nhà khoa học, chủ sở hữu và không có sở hữu. Theo ông đtrgc là đặc
trưng của bất cứ xã hội nào có áp bức bóc lột. Cuộc đấu tranh đó thể hiện nguyện

Nguyễn Thị Phúc

12

K34 GDCD- GDQP


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục chính trị

vọng của các giai cấp muốn xác lập một trật tự xã hội phù hợp nhất với lợi ích
của họ. Ông đưa ra một tư tưởng sâu sắc rằng cuộc cách mạng Pháp là do cuộc
đtrgc gay gắt hơn nữa đó không phải chỉ là cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và
bọn phong kiến mà còn là cuộc đấu tranh giữa những người không có tài sản và

những người hữu sản.
Tuy nhiên công lao lớn nhất trong việc phát hiện ra giai cấp và đtrgc lại
thuộc về những nhà sử học Pháp: G.Phrăng xoa ghi đô (1778-1875),Ô guyt
xtanh Chiery (1795-1856), Phrăng xoa min hê (1796-1884).
Các nhà sử học Pháp đã đưa ra những suy đoán sâu sắc về sự phân chia
giai cấp và xem đtrgc là nội dung chủ yếu của lịch sử mặc dù họ chưa hiểu một
cách khoa học về giai cấp và đtrgc.
Theo họ, những sự thay đổi về quan hệ tài sản chủ yếu là quan hệ về ruộng
đất đã dẫn tới mối quan hệ giai cấp mới và sự thay đổi về chế độ chính trị. Đồng
thời họ cho rằng, sự hình thành giai cấp và Nhà nước là dựa trên cơ sở chinh
phục bằng vũ lực và sự tan rã của xã hội cũ.
Lịch sử đã nghi nhận công lao phát hiện ra những vấn đề giai cấp và đtrgc
của các học giả tư sản. Điều này đã được Mác đánh giá "Tôi không có công tìm
ra sự tồn tại của giai cấp trong xã hội hiện đại cũng như cuộc đấu tranh giữa các
giai cấp đó. Những nhà viết sử đã mô tả sự phát triển lịch sử của các cuộc đtrgc
và các nhà kinh tế tư sản đã mô tả kết cấu kinh tế từ trước tôi rất lâu [9, tr.661662].
Học thuyết về giai cấp và đtrgc của chủ nghĩa Mác - Lê Nin vạch ra tính
tất yếu của cuộc đtrgc giữa vô sản và tư sản đồng thời khẳng định tính tất yếu
của chuyên chính vô sản. Chính vì vậy ngày nay các đại biểu tư tưởng của giai

Nguyễn Thị Phúc

13

K34 GDCD- GDQP


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục chính trị


cấp tư sản luôn tìm mọi cách phủ nhận học thuyết trên bằng những phương pháp
khác nhau.
Chưa bao giờ học thuyết giai cấp và đtrgc của chủ nghĩa Mác - Lê Nin lại
bị các học giả tư sản và những người khoác áo cộng sản tấn công và bác bỏ như
ngày nay. Họ ngang nhiên công bố hãy từ bỏ giáo điều về giai cấp và đtrgc. Họ
tìm mọi cách quy sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu vào sai
lầm của học thuyết giai cấp và đtrgc của chủ nghĩa Mác - Lê Nin.
Một số học giả tư sản đã phủ nhận hoàn toàn học thuyết giai cấp và đtrgc.
Họ cho rằng, C.Mác đã quá nhấn mạnh đến sự đối lập giữa giai cấp tư sản và
giai cấp vô sản khi xây dựng học thuyết về giai cấp. Theo họ, giai cấp không
phải là hiện tượng phổ biến. Quy luật đtrgc không phải là quy luật chung cho
mọi xã hội. Do vậy không thể áp dụng cho xã hội tư bản được .
Ở Mỹ có những quan điểm coi lí luận giai cấp và đtrgc không vận dụng
vào Mỹ được vì quan hệ sở hữu ở Mỹ đã thay đổi, không còn giai cấp vô sản
nữa. Công nhân ở Mỹ cũng được hưởng lợi nhuận do mua cổ phiếu và cổ phần
trong công ty. Hơn nữa hiện nay do kinh tế tri thức phát triển, sở hữu trí tuệ được
đảm bảo do vậy mọi người đều có sở hữu và đều tự do. Sự phân biệt giai cấp trở
nên vô nghĩa, mâu thuẫn giai cấp và đtrgc không còn nữa.
Một số học giả khác tuy có thừa nhận sự phân chia xã hội thành giai cấp
nhưng lại tìm cách bác bỏ quan niệm về giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lê Nin đã
đưa ra. Họ giải thích nguồn gốc giai cấp từ cơ sở sinh học như tố chất cấu tạo cơ
thể. Hoặc một số người còn lấy các tiêu chí như: trạng thái tâm lý, khả năng trí
tuệ, nghề nghiệp làm cơ sở phân chia giai cấp. Một số khác lại chỉ căn cứ vào thu
nhập để phân biệt.

Nguyễn Thị Phúc

14


K34 GDCD- GDQP


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục chính trị

Tất cả những quan điểm trên đều trái với quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê Nin, đều nhằm phản bác lại lí luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin về giai cấp và
đtrgc.
Trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cũng đã xuất hiện những
quan điểm sai lầm về đtrgc.
Quan điểm "hữu khuynh" (như Cauxky, Becxtanh... ) tuy thừa nhận cở sở
kinh tế của giai cấp nhưng lại muốn dùng phương pháp cải lương để giải quyết
mâu thuẫn giai cấp. Họ nhấn mạnh và tuyệt đối hoá đấu tranh kinh tế, lẩn tránh
mục tiêu chính trị và cách mạng xã hội. Theo họ mục tiêu đtrgc chỉ là cải cách
điều kiện làm việc để cải thiện đời sống của công nhân dưới chế độ tư bản, điều
hoà lợi ích giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Trái với quan điểm "hữu khuynh" quan điểm "tả khuynh" thực chất là đầu
óc cách mạng tư sản, tương tự như chủ nghĩa vô chính phủ, xa rời những điều
kiện và yêu cầu tất yếu của cuộc đtrgc triệt để của giai cấp vô sản. Những người
theo quan điểm tả khuynh nêu các khẩu hiệu cách mạng cực đoan để lợi dụng
tình cảm của quần chúng, che dấu bản chất chủ nghĩa cơ hội của nình. Họ luôn
chủ quan trong việc đánh giá các sự kiện muốn bỏ qua những bước quá độ,
những biện pháp mềm dẻo do vậy đẩy phong trào đến chỗ phưu lưu mạo hiểm.
Chủ nghĩa cơ hội "tả khuynh" "hữu khuynh" đều trái với quan điểm cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, đều là những căn bệnh nghiêm trọng có thể gây
tổn thương nghiêm trọng cho phong trào cách mạng. Chính vì vậy nhận thức
đúng đắn lí luận giai cấp và đtrgc của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, hiểu đúng đắn đặc
điểm giai cấp và đtrgc trong cuộc đấu tranh mới hiện nay là yêu cầu lí luận và
thực tiễn cấp bách.


Nguyễn Thị Phúc

15

K34 GDCD- GDQP


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục chính trị

1.1.2. Quan niệm Mác xít về giai cấp và đấu tranh giai cấp
Giữa thế kỉ XIX, ở các nước Châu Âu phương thức sản xuất Tư bản chủ
nghĩa đã phát triển và bộc lộ những mâu thuẫn sâu sắc. Phong trào đấu tranh của
giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản đã rộng khắp. Những trung tâm lớn của tư
bản công nghiệp: Anh, Pháp, Mỹ....liên tiếp nổ ra những cuộc đấu tranh của hàng
vạn công nhân làm dung chuyển CNTB. Tình hình đó đã tác động mạnh mẽ đến
tư tưởng của những người tri thức trẻ lúc ấy trong đó có C.Mác và Ph.Ăngghen
kế thừa ý tưởng của các nhà lí luận thời đại trước, đứng trên lập trường duy vật
về lịch sử. C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng thành công lí luận khoa học về
giai cấp và đtrgc trong xã hội có giai cấp. Cốt lõi của học thuyết giai cấp và đtrgc
C.Mác và Ph.Ăngghen được khái quát trong bức thư gửi Vây đơ may e 5-3-1852
"Về phần tôi thì tôi không có cái công lao là đã phát hiện ra sự tồn tại của giai
cấp trong xã hội hiện đại, cũng như cuộc đtrgc giai cấp ấy với nhau. Các sử gia
tư sản trước tôi rất lâu đã trình bày sự phát triển lịch sử của cuộc đtrgc, còn các
nhà kinh tế học tư sản thì đã trình bày giải phẫu kinh tế của các giai cấp ấy. Cái
mới mà tôi đã làm và chứng minh rằng: 1. Sự tồn tại giai cấp chỉ gắn liền với các
giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất. 2.Cuộc đtrgc nhất thiết dẫn
đến chuyên chính vô sản. 3.Bản thân nền chuyên chính vô sản này chỉ là bước

quá độ tiến tới thủ tiêu mọi giai cấp và tiến tới một xã hội không có giai cấp" [9,
tr.661-662].
Lí luận về giai cấp và đtrgc được C.Mác và Ph.Ăngghen diễn đạt rõ ràng
nhưng cũng rất đơn giản trong "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" bắt đầu bằng
câu "Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước tới nay chỉ là lịch sử đtrgc" [7,
tr.596"].

Nguyễn Thị Phúc

16

K34 GDCD- GDQP


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục chính trị

Đóng góp to lớn của C.Mác và Ph.Ăngghen vào vấn đề giai cấp ở chỗ,
C.Mác đã đưa ra quan niệm khoa học về giai cấp. Trong bức thư gửi J .Vây đơ
may e, C. Mác đã nhấn mạnh: Sự tồn tại giai cấp chỉ gắn liền với các giai đoạn
phát triển lịch sử nhất định của sản xuất.
Theo quan điểm Mác xít, sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự
phân công lao động xã hội làm cho năng suất lao động được nâng cao. Các quá
trình này tác động lẫn nhau đã tạo ra của cải vật chất dư thừa tương đối. Chính
số của cải dư thừa có giới hạn này đã tạo ra chế độ tư hữu làm cơ sở cho sự phân
hoá xã hội thành các giai cấp đối kháng.
Chủ nghĩa Mác - Lê Nin không phải chỉ thấy rõ cội nguồn của sự phân
hoá giai cấp ở cơ sở kinh tế mà còn thấy đặc trưng cơ bản của giai cấp cũng là
đặc trưng kinh tế. Trong tác phẩm "Sáng kiến vĩ đại" V.I. Lê Nin, đã đưa ra định

nghĩa nổi tiếng về giai cấp: "Người ta gọi giai cấp là những tập đoàn to lớn, gồm
những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất
định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này
được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất, và về vai trò của
họ trong tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng
thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những
tập đoàn người to lớn mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn
khác do chỗ các tập đoàn có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội
nhất định" [12, tr.17-18].
Định nghĩa trên của V.I. Lê Nin, đã cho thấy những tiêu chuẩn cụ thể để
xác định các giai cấp khác nhau đồng thời cũng xác định rõ: Trong tất cả các xã
hội có giai cấp đối kháng, quan hệ giữa các giai cấp cơ bản là quan hệ giữa giai
cấp bóc lột và bị bóc lột.

Nguyễn Thị Phúc

17

K34 GDCD- GDQP


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục chính trị

Xuất phát từ những quan điểm duy vật về giai cấp như trên, các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác - Lê Nin đã phân tích toàn bộ sự phát sinh phát triển của
giai cấp trong các giai đoạn lịch sử khác nhau và cho rằng thực chất mối quan hệ
giữa chúng như : chủ nô và nô lệ, địa chủ và nông nô, tư sản và vô sản là quan hệ
bóc lột và bị bóc lột.

Trong bộ tư bản nổi tiếng, C.Mác đã tập trung phân tích mối quan hệ giưa
tư sản và vô sản, vạch ra mâu thuẫn đối kháng không thể điều hoà được giữa hai
giai cấp này và chỉ ra xu thế tất yếu phải thay thế xã hội Tư bản bằng một xã hội
tốt đẹp hơn chế độ XHCN và CSCN giải phóng giai cấp, giải phóng nhân loại ra
khỏi áp bức. Các ông đã xây dựng những nguyên lí cơ bản của cuộc đtrgc của
giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản nhằm xây dựng xã hội CSCN.
Xuất phát từ lập trường duy vật biện chứng và xã hội C.Mác và
Ph.Ăngghen còn phân tích kết cấu giai cấp ở các nước TBCN khác nhau vạch ra
các giai cấp cơ bản và không cơ bản, những giai cấp trung gian, các tầng lớp xã
hội khác nhau và xác định vai trò của chúng trong xã hội có giai cấp.
Từ những quan điểm khoa học về giai cấp C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I. Lê
Nin đã phân tích cuộc đtrgc trong lịch sử. Các ông cho rằng lịch sử loài người từ
khi có giai cấp đối kháng là lịch sử đtrgc. Trong tác phẩm "Gửi nông dân nghèo"
V.I. Lê Nin đã đưa ra định nghĩa về đtrgc như sau: "Đtrgc là đấu tranh của một
bộ phận nhân dân này chống một bộ phận nhân dân khác, cuộc đấu tranh của
quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền
đặc lơị, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân
làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư
sản [13, tr.237- 238].

Nguyễn Thị Phúc

18

K34 GDCD- GDQP


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục chính trị


Như vậy trong xã hội có giai cấp đối kháng, đtrgc là tất yếu đồng thời
cũng là động lực của xã hội có giai cấp. Cuộc đấu tranh đó diễn ra quyết liệt,
không thể điều hoà. Sau khi giai cấp vô sản giành chính quyền từ tay giai cấp tư
sản tiến hành xây dựng CNXH và CNCS. Cuộc đtrgc chỉ kết thúc khi CNXH và
CNCS thắng lợi trên phạm vi thế giới.
Tuy nhiên, theo quan điểm Mác xít, giai cấp không tồn tại vĩnh viễn. Nếu
do nguyên nhân kinh tế làm nảy sinh giai cấp thì đến một lúc nào đó sự phát
triển ở trình độ cao của lực lượng sản xuất cũng tạo điều kiện để thủ tiêu giai
cấp. Chính CNTB với một lực lượng sản xuất khổng lồ đang tạo cơ sở vật chất
để đi đến một xã hội với trình độ phát triển cao hơn về mọi mặt một xã hôi
không còn có giai cấp. Chính vì vậy cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai
cấp tư sản là cuộc đtrgc cuối cùng trong lịch sử nhân loại.
Cuộc đấu tranh giai cấp vô sản tất yếu đi đến thủ tiêu quyền lực chính trị
của giai cấp tư sản thiết lập nền chuyên chính vô sản. Nhưng chuyên chính vô
sản không phải là mục tiêu của đtrgc. Chuyên chính vô sản chỉ là công cụ, là
phương tiện mà giai cấp vô sản phải thiết lập để thực hiện mục tiêu cách mạng.
Mục tiêu cơ bản của cách mạng vô sản là xây dựng thành công CNXH và CNCS.
Chuyên chính vô sản chỉ tồn tại chừng nào CNCS chưa được xác lập một cách
căn bản. Chừng nào chế độ tư hữu về cơ bản bị xoá bỏ, năng suất lao động cao
đến mức đáp ứng nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội thì chuyên chính vô
sản trở nên không cần thiết và tự nó tiêu vong. Vì vậy chuyên chính vô sản chỉ là
bước quá độ để đi đến một xã hội không còn giai cấp.
Học thuyết giai cấp và đtrgc của chủ nghĩa Mác- Lê Nin không những
khẳng định đtrgc là quy luật là động lực phát triển của xã hội có giai cấp mà còn
chỉ ra ở mỗi xã hội cụ thể quy luật đtrgc cũng được biểu hiện một cách đặc thù.

Nguyễn Thị Phúc

19


K34 GDCD- GDQP


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục chính trị

Vì vậy không được tuyệt đối hoá đtrgc coi đtrgc là động lực duy nhất phát triển
xã hội và lấy đtrgc giải thích mọi hiện tượng xã hội.
CNTB trong thời đại ngày nay, đtrgc vẫn là tất yếu, là động lực phát triển
xã hội. Mặc dù giai cấp tư sản đã tận dụng, khai thác triệt để những thành tựu
mới nhất của khoa học công nghệ vào sản xuất. Đời sống của một bộ phận giai
cấp công nhân được cải thiện. Mặc dù vậy mâu thuẫn cơ bản của CNTB vẫn
không hề thay đổi và diễn ra quyết liệt. Đó là cuộc đấu tranh đòi giảm giờ làm,
đòi cải thiện điều kiện làm việc, đòi tăng lương của giai cấp vô sản chống lại mọi
hình thức áp bức bóc lột của giai cấp tư sản.
1.2. Quan điểm về thời kì quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội
Trong tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức" C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng:
Đối với mỗi chúng ta CNCS không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra,
không phải là một lí tưởng mà xã hội phải khuôn theo. Chúng ta gọi CNCS là
một phong trào hiện thực nó xoá bỏ trạng thái hịên nay. Các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác - Lê Nin chỉ ra rằng: Bước chuyển biến từ xã hội trước lên xã hội sau,
dù nhảy vọt hay tuần tự đều tất yếu phải trải qua một thời kì trung gian quá độ.
C.Mác và Ph.Ăngghen khi nghiên cứu về quá trình chuyển biến từ CNTB
lên CNXH ở các nước tư bản Tây Âu, nơi có nền kinh tế - xã hội phát triển đã
khẳng định "Giữa xã hội TBCN và xã hội CSCN là một thời kì cải biến cách
mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kì ấy là một thời kì quá độ
chính trị và Nhà nước của thời kì ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên
chính cách mạng của giai cấp vô sản" [8, tr.97]. "Thời kì ấy không thể nào lại

không phải là một thời kì đấu tranh giữa CNTB đang giẫy chết và CNCS đang
phát sinh... nhưng vẫn còn rất non yếu [10, tr.21]. Vì vậy về mọi phương diện
kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức, văn hoá.... xã hội đó còn mang dấu vết của xã

Nguyễn Thị Phúc

20

K34 GDCD- GDQP


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục chính trị

hội cũ - xã hội XHCN còn chưa phát triển trên những cơ sở riêng vững chắc của
nó.
Theo V.I.Lê Nin trong điều kiện mới cách mạng XHCN mở ra đầu tiên ở
Nga, một nước tư bản phát triển trung bình có điểm xuất phát bước vào thời kì
quá độ thấp hơn các nước tư bản Tây Âu, cả về kinh tế xã hội lẫn lượng giai cấp,
công nhân phát triển chậm, nông dân còn đa số... Do đó V.I.Lê Nin cho rằng
bước quá độ lên CNXH ở Nga là một thời kì quá độ lâu dài, cần nhiều bước quá
độ nhỏ, những nhịp cầu và những hình thức kinh tế trung gian để lôi cuốn nhân
dân Nga với đa số là tiểu nông đi lên CNXH.
Như vậy, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, đã chỉ rõ tất yếu phải có
thời kì quá độ từ CNTB lên CNXH. Có hai con đường quá độ: Con đường quá
độ trực tiếp là từ các nước TBCN phát triển, con đường quá độ gián tiếp là từ các
nước TBCN trung bình hoặc nước tiền tư bản để đi lên CNXH. Đây là thời kì
khó khăn, phức tạp và kéo dài lên tránh chủ quan, nóng vội, duy ý chí.
Các nước quá độ theo phương thức gián tiếp cần có sự giúp đỡ của một số

nước công nghiệp tiên tiến đã làm cách mạng XHCN thành công. Bên cạnh đó
cần có sự lãnh đạo của chính Đảng vô sản kiên trì đưa đất nước đi theo con
đường XHCN.
* Việt Nam sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã
bước ngay vào thời kì quá độ xây dựng CNXH, bỏ qua chế độ TBCN. Qúa độ
lên CNXH ở nước ta diễn ra trong điều kiện kinh tế xã hội đặc thù.
Trước 1945 Việt Nam vốn là một nước thuộc địa nửa phong kiến. Nền sản
xuất lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, công nghiệp nhỏ bé, 80% dân số
là nông dân, lực lượng sản xuất còn ở trình độ thấp.

Nguyễn Thị Phúc

21

K34 GDCD- GDQP


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục chính trị

Sau năm 1975 nền sản xuất ở nước ta chủ yếu là sản xuất nhỏ. Qúa độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta không phải là quá độ trực tiếp mà là bước quá độ gián
tiếp từ sản xuất nhỏ bỏ qua TBCN lên CNXH.
Đặc điểm đó quy định bước đi hình thức của thời kì quá độ. Từ sau Đại
hội VI (Tháng 12- 1986) đến nay Đảng ta chủ trương thực hiện nhất quán chính
cách kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng XHCN. Từ đó hình thành cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần như một tất yếu khách quan. Đại hội X của Đảng (Tháng 4- 2006) đã xác
định nước ta có năm thành phần kinh tế đó là: Kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể,

kinh tế tư nhân (gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), thành phần kinh tế
Tư bản Nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đảng ta thừa nhận thực
hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng XHCN là đặc trưng cơ bản
của thời kì quá độ ở nước ta. Quan điểm đó được Đại hội XI của Đảng tiếp tục
khẳng định.
1.3. Tính tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ lên Chủ
Nghĩa Xã Hội
Chủ nghĩa Mác - Lê Nin khẳng định từ CNTB lên CNXH tất yếu phải trải
qua những bước quá độ trong đó có bước quá độ về kinh tế. Sự quá độ về kinh tế
là sự kết hợp, xen kẽ "những nét" "những mảnh" của CNXH đang được xây
dựng với "những mảnh" của CNTB đang bị tiêu diệt. Vì vậy đặc trưng cơ bản
của thời kì quá độ là tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Tương ứng với các thành
phần kinh tế là các giai cấp khác nhau. Cuộc đtrgc giữa các giai cấp vẫn tiếp tục
diễn ra quyết liệt và cuộc đấu tranh này thực hiện giải quyết nhiệm vụ xây dựng
một xã hội hơn hẳn CNTB trong đó xây dựng kinh tế là nhịêm vụ trọng tâm.

Nguyễn Thị Phúc

22

K34 GDCD- GDQP


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục chính trị

Như vậy, theo chủ nghĩa Mác - Lê Nin, đtrgc là tất yếu khách quan là
động lực phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp. Đtrgc tồn tại trong suốt thời

kì qúa độ từ CNTB lên CNXH và chỉ kết thúc khi xã hội không còn có giai cấp,
CNXH và CNCS thực sự thắng lợi trên phạm vi thế giới. Tuy nhiên, ở những
nước khác nhau và trong những điều kiện lịch sử khác nhau, nội dung và hình
thức của đtrgc cũng khác nhau. Vì vậy vận dụng lí luận giai cấp và đtrgc phải hết
sức linh hoạt, không giáo điều máy móc.
* Ở Việt Nam trong thời kì quá độ, ngoài các giai cấp cơ bản là: công
nhân, nông dân, tư sản còn các tầng lớp trí thức, tiểu thương, tiểu chủ. Các giai
cấp, tầng lớp không tồn tại riêng biệt mà đan xen ảnh hưởng lẫn nhau, cạnh tranh
với nhau.
Giai cấp công nhân là giai cấp trung tâm trong thời kì qúa độ nên nhiệm
vụ của giai cấp công nhân là người tổ chức, lãnh đạo, xây dựng một xã hội mới
trên tất cả các lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hoá.... Bước vào thời kì thực hiện
nền kinh tế nhiều thành phần, giai cấp công nhân không ngừng lớn mạnh có
khoảng 5 triệu người.
Giai cấp nông dân Việt Nam chiếm 80% dân số. Họ được giải phóng khỏi
ách áp bức bóc lột của địa chủ, phong kiến và tư bản trở thành bạn đồng minh
của giai cấp công nhân trong cách mạng XHCN. Nhưng họ ít nhiều có khuynh
hướng tự phát TBCN.
Tầng lớp trí thức XHCN có vai trò, cống hiến to lớn trong sự nghiệp xây
dựng CNXH, họ trưởng thành nhanh chóng về số lượng và chất lượng. Hiện nay
cả nước có 150 vạn cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học.
Giai cấp tư sản nước ta trong cách mạng XHCN đã bị đánh đổ nhưng chưa
tiêu diệt hoàn toàn, hiện nay nó phát triển khá nhanh. V.I Lê Nin cho rằng:

Nguyễn Thị Phúc

23

K34 GDCD- GDQP



Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục chính trị

"Bước vào thời kì quá độ từ CNTB lên CNXH là một thời đại lịch sử chừng nào
mà giai đoạn đó chưa chấm dứt thì bọn bóc lột vẫn nuôi hy vọng phục hồi, hy
vọng này ắt sẽ biến thành những mưu toan phục hồi.... Chúng lao mình vào cuộc
chiến đấu với nghị lực tăng gấp mười lần, với một nhiệt tình cuồng dại, với lòng
căm thù tăng gấp một trăm lần, để chiếm lại cái thiên đường đã mất [11, tr.320321].
Tầng lớp tiểu thương tiểu chủ là tầng lớp khá đông đảo ở nước ta, tập
trung chủ yếu ở các thành phố như: Hà Nội, Hồ Chí Minh và các thị xã, thị trấn.
Do điều kiện, môi trường làm việc khác nhau và phức tạp, họ rất dễ hoang mang
dao động và tư tưởng của họ bị chi phối bởi tư tưởng của giai cấp lãnh đạo xã
hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX của Đảng (Tháng 4- 2001) đã khẳng
định rằng hiện nay và cả trong thời kì quá độ ở nước ta còn tồn tại một cách
khách quan các giai cấp và đtrgc. Không thể xoá nhoà ranh giới giữa các giai
cấp, không thể phủ nhận đtrgc. Tuy nhiên đtrgc ở nước ta hiện nay diễn ra trong
những điều kiện mới với những nội dung và hình thức mới rất phức tạp, có mặt
ngày càng gay gắt hơn. Đúng như tinh thần của Đại hội IX đã nêu "Nội dung chủ
yếu của cuộc đtrgc trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước theo định hướng XHCN, khắc
phục tình trạng nước nghèo kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội chống áp
bức bất công đấu tranh ngặn chặn và khắc phục những hành vi sai trái, đấu tranh
làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch, bảo
vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước XHCN phồn vinh nhân
dân, hạnh phúc".

Nguyễn Thị Phúc


24

K34 GDCD- GDQP


×