Tải bản đầy đủ (.pdf) (44 trang)

Ứng dụng một số bài tập bổ trợ nhằm nâng cao hiệu quả giậm nhảy của nhảy xa cho nữ học sinh khối 11 trường THPT cao bá quát gia lâm hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.3 KB, 44 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT

ỨNG DỤNG MỘT SỐ BÀI TẬP BỔ TRỢ
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẬM NHẢY
CỦA NHẢY XA CHO NỮ HỌC SINH KHỐI 11
TRƢỜNG THPT CAO BÁ QUÁT
GIA LÂM - HÀ NỘI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Cử nhân khoa học sƣ phạm TDTT - GDQP
Hƣớng dẫn khoa học

Ngƣời thực hiện

LÊ XÔ VIỆT

TH.S Hà Minh Dịu

Hà Nội – 2010


1

LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là: Lê Xô Việt
Sinh viên K32 TDTT - GDQP - Trường Đại Học Sư phạm Hà Nội 2
Xin cam đoan như sau:
1. Đề tài nghiên cứu khoa học này của tôi là đề tài đầu tiên đề cập, bàn
luận và nghiên cứu đến vấn đề: “ứng dụng một số bài tập bổ trợ nhằm nâng
cao hiệu quả giậm nhảy của nhảy xa cho Nữ học sinh khối 11 trờng THPT
Cao Bá Quát – Gia Lâm – Hà Nội”


2. Các số liệu đưa ra trong đề tài này là những số liệu hoàn toàn đúng
với thực tế và đã được sử lý bằng phương pháp toán học thống kê.

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2010

Sinh viên

Lê Xô Việt


2

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

1. THPT

: Trung học phổ thông

2. TDTT

: Thể dục thể thao

3. GDTC

: Giáo dục thể chất


4. UBTDTT - VN: ủy ban Thể dục thể thao - Việt Nam
5. NXB

: Nhà xuất bản

6. SL

: Số lượng

7. CT/TW

: Chỉ thị/ Trung ương

8. ĐHSP

: Đại Học Sư Phạm

9. cm

: Centimet


3

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1: Kết quả quan sát sư phạm về những sai lầm trong giai đoạn
giậm nhảy của nhảy xa kiểu “ưỡn thân” (n = 100)
Bảng 3.2: Kết quả phỏng vấn về những nguyên nhân và sai lầm thường
mắc trong khi học kỹ thuật giai đoạn giậm nhảy của nhảy xa kiểu “ưỡn thân”
(n = 10)

Bảng 3.3: Tổng hợp kết quả của hai phương pháp quan sát sư phạm và
phương pháp phỏng vấn về những sai lầm trong học tập kỹ thuật giai đoạn
giậm nhảy của nhảy xa kiểu “ưỡn thân”
Bảng 3.4: Kết quả đánh giá về trình độ kỹ thuật và thành tích Nhảy xa
kiểu “ưỡn thân” của 100 học sinh khối 11 trường THPT Cao Bá Quát
Bảng 3.5: Kết quả phỏng vấn lựa chọn các bài tập bổ trợ nhằm nâng
cao hiệu quả giậm nhảy của nhảy xa kiểu “ưỡn thân” (n = 14)
Bảng 3.6: Nội dung bài tập bổ trợ nâng cao hiệu quả giậm nhảy của
nhảy xa kiểu “ưỡn thân” cho Nữ học sinh khối 11 trường THPT Cao Bá Quát
- Gia Lâm - Hà Nội
Bảng 3.7: Tiến trình ứng dụng các bài tập vào quá trình thực nghiệm
(nA = nB = 23)
Bảng 3.8: Kết quả kiểm tra các test của 2 nhóm trước thực nghiệm
(nA = nB = 23)
Bảng 3.9: Kết quả kiểm tra các test của 2 nhóm sau 6 tuần thực nghiệm
(nA = nB = 23)
Bảng 3.10: Kết quả thành tích Nhảy xa kiểu “ưỡn thân” của Nữ học
sinh khối 11 trường THPT Cao Bá Quát - Gia Lâm - Hà Nội trước và sau thực
nghiệm (nA = nB = 23)
Biểu đồ 1: Kết quả test bật xa tại chỗ trước và sau thực nghiệm


4

(nA = nB = 23)
Biểu đồ 2: Kết quả test chạy 30m xuất phát cao trước và sau thực nghiệm
(nA = nB = 23)
Biểu đồ 3: Kết quả test Nhảy xa ưỡn thân trước và sau thực nghiệm
(nA = nB = 23)
Biểu đồ 4: Kết quả thành tích Nhảy xa kiểu “ưỡn thân” của Nữ học

sinh khối 11 trường THPT Cao Bá Quát - Gia Lâm - Hà Nội trước và sau thực
nghiệm (nA = nB = 23)


5

MỤC LỤC

Trang
Đặt vấn đề

1

Chương 1: Tổng quan các vấn đề nghiên cứu

5

1.1. Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh THPT

5

1.2. Khái niệm - vai trò tác dụng của bài tập bổ trợ

7

1.3. Đặc điểm kỹ thuật giậm nhảy của nhảy xa

9

1.4. Xu thế sử dụng các bài tập bổ trợ trong thể thao nói chung và

trong giảng dạy môn nhảy xa nói riêng

11

Chương 2: Nhiệm vụ, phương pháp và tổ chức
nghiên cứu

13

2.1. Nhiệm vụ

13

2.2. Phương pháp nghiên cứu

13

2.3. Tổ chức nghiên cứu

15

Chơng 3: Kết quả nghiên cứu

16

3.1. Thực trạng về công tác giảng dạy và học tập môn Nhảy xa
kiểu “ưỡn thân” của học sinh khối 11 trường THPT

16


Cao Bá Quát - Gia Lâm - Hà Nội
3.2. Lựa chọn và ứng dụng một số bài tập nhằm nâng cao
hiệu quả giậm nhảy của nhảy xa kiểu “ưỡn thân” cho Nữ học sinh
trường THPT Cao Bá Quát - Gia Lâm - Hà Nội

22

3.3. Tổ chức thực nghiệm và đánh giá kết quả sau thực nghiệm

28

Kết luận và kiến nghị

36

Tài liệu tham khảo

38

Phụ lục

39


6

ĐẶT VẤN ĐỀ

Giáo dục thể chất là một bộ phận hữu cơ của mục tiêu giáo dục và đào
tạo, nhằm giúp con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất,

phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức. Sức khỏe tốt là nhân tố quan
trọng trong việc phát triển sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Giáo dục
thể chất trong nhà trường phổ thông đã góp phần vào sự nghiệp thể dục thể
thao của đất nước, đáp ứng nhiệm vụ giao tiếp thể thao của học sinh Việt
Nam và quốc tế, đó là mục tiêu của Đảng và Nhà nước.
+ Ngày 24 tháng 3 năm 1994 Ban chấp hành TW Đảng đã ban hành
Chỉ thị số 36/CT/TW có nêu:
“Ban cán sự Đảng bộ giáo dục và đào tạo và Ban cán sự tổng cục thể
dục thể thao phối hợp chỉ đạo tổng kết công tác giáo dục thể chất, cải tiến
chương trình giảng dạy, tiêu chuẩn rèn luyện thân thể. Đào tạo giáo viên thể
dục thể thao cho trường học các cấp những cơ sở vật chất để thực hiện chế độ
giáo dục thể chất bắt buộc ở tất cả các trường học”… [1]
Bộ giáo dục và Đào tạo kết hợp với ủy ban thể dục thể thao đã tổ chức
đánh giá rút kinh nghiệm công tác giáo dục thể chất cho các trường học cho
thấy:
GDTC học sinh những năm qua tuy đã có nhiều cố gắng nhưng nói
chung còn nhiều yếu kém, bất cập. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng
đó, như thiếu giáo viên, thiếu cơ sở vật chất, sân bãi tập luyện.
Những năm qua, hoạt động TDTT trong học sinh đã được tổ chức sôi
nổi, hầu hết các địa phương trong cả nước, góp phần tích cực vào việc giáo
dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ phát triển toàn diện, xây dựng nếp sống lành mạnh
trong học sinh, góp phần giáo dục đạo đức, đẩy lùi các tệ nạn xã hội.


7

Ngày nay trên đà phát triển của đất nước, nền kinh tế của nước nhà
được phát triển không ngừng, công cuộc đổi mới đất nước ngày càng thể hiện
rất rõ, con người không dừng ở chỗ ăn no mặc đủ, mà còn phải ăn ngon mặc
đẹp, thì nhu cầu đòi hỏi xã hội ngày phải cao hơn và khác hơn.

TDTT là một bộ phận quan trọng của đời sống con người nó đã góp
phần giáo dục và đào tạo con người mới. Ngay từ khi con em chúng ta, các
cháu đã được rèn luyện các tư thế cơ bản, tư thế ngay ngắn. Nhờ có tập luyện
thể dục thể thao mà giáo dục cho các em tính tập thể, ý thức tổ chức kỷ luật,
rèn luyện thói quen trong tập luyện, con người được phát triển hoàn hảo, thân
thể đẹp đẽ hơn.
Thể thao bao gồm rất nhiều môn như Bóng chuyền, Bóng đá, Bóng
bàn, Bóng rổ, Cầu lông, Bơi lội, Điền kinh… nói chung các môn này là loại
hình hoạt động rất phong phú, thu hút đông đảo tầng lớp thanh thiếu niên
tham ra tập luyện, có những môn có thể tập theo tập thể, có những môn chỉ
cần cá nhân ở riêng lẻ cũng có thể tập luyện được.
Ngày nay trong các trường học, môn Điền kinh cũng là môn học cơ
bản, chiếm nhiều thời gian nhất trong chương trình học chính khóa của Bộ
giáo dục và Đào tạo đề ra. Bởi vì, tập luyện Điền kinh giúp con người phát
triển toàn diện các tố chất thể lực như sức nhanh, sức mạnh, sức bền… đặc
biệt qua môn Nhảy xa ngoài phát triển những tố chất thể lực trên còn phát
triển sự khéo léo phối hợp các động tác, tính chính xác qua học giai đoạn
giậm nhảy, sự nhịp nhàng uyển chuyển thể hiện qua các bước chạy đà và cũng
chính qua các đặc điểm trên mà môn Nhảy xa là môn học chính trong công
tác GDTC của nhà trường THPT.
Nhảy xa kiểu “ưỡn thân” là hoạt động phức tạp thể hiện qua các giai
đoạn; giai đoạn chạy đà, giai đoạn giậm nhảy, giai đoạn bay trên không, giai


8

đoạn rơi xuống hố cát nếu không có sự phối hợp nhịp nhàng thì rất khó cho
việc hình thành kỹ thuật. Vì vậy trong khi học môn Nhảy xa kiểu “ưỡn thân”
người học phải tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc: phương hướng biên độ,
nhịp điệu, tốc độ động tác và sự nỗ lực huy động các tố chất thể lực tham gia

thực hiện động tác trong điều kiện tâm lý ổn định vững chắc.
Trong các môn học Điền kinh nói chung và môn Nhảy xa nói riêng,
ngoài yếu tố thể lực ra thì vấn đề kỹ thuật là vô cùng quan trọng nó quyết định
đến thành tích thi đấu. Qua thực tế, các công trình nghiên cứu khoa học TDTT
đã chứng minh rằng “Động tác kỹ thuật càng thuần thục chính xác thì càng
tiết kiệm sức, vận dụng và phát huy khả năng dùng sức phối hợp, cảm giác
không gian, thời gian là vấn đề quan trọng đòi hỏi người tập không những cơ
bản mà còn nắm vững yếu lĩnh động tác”. [5] Qua lý luận và thực tiễn đã
chứng minh rằng, quá trình tạo cho người học những hình ảnh chính xác về
kỹ thuật động tác ban đầu, là một trong những biện pháp rút ngắn thời gian
hoàn thiện động tác, ngăn chặn những sai lầm kỹ thuật.
Những năm học vừa qua, chúng tôi đã quan sát trực tiếp việc giảng dạy
môn Nhảy xa kiểu “ưỡn thân” trong các trường THPT. Học sinh ở trường
THPT có nhiều em mắc phải sai lầm trong môn Nhảy xa kiểu “ưỡn thân” và
đây cũng chính là vấn đề tồn tại mà dẫn đến học sinh học tập còn hạn chế
nhiều về học tập, thành tích chưa cao. Để phù hợp với những chương trình
giảng dạy đáp ứng mục tiêu của Bộ giáo dục và Đào tạo, giáo dục cho các em
học sinh có sức khỏe tốt, đáp ứng được mục tiêu học tập và hướng nghiệp.
Theo các chuyên gia về môn Nhảy xa thì một trong những yếu tố quan
trọng của Nhảy xa là kỹ thuật giai đoạn giậm nhảy. Đây là giai đoạn quan
trọng nhất, quyết định đến thành tích của VĐV, vấn đề nghiên cứu và lựa


9

chọn bài tập bổ trợ sửa chữa những sai lầm trong quá trình nghiên cứu của
chúng tôi, góp phần nâng cao hiệu quả quá trình giảng dạy và huấn luyện.
Trên thực tế có rất nhiều phương pháp giảng dạy và các bài tập về
Nhảy xa trong đó những bài tập khắc phục để hoàn thiện kỹ thuật giai đoạn
giậm nhảy cho các trường THPT hiện nay chưa được triệt để, nhất là trên địa

bàn Gia Lâm - Hà Nội.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“ứng dụng một số bài tập bổ trợ nhằm nâng cao hiệu quả giậm nhảy của
nhảy xa cho Nữ học sinh khối 11 trường THPT Cao Bá Quát – Gia Lâm –
Hà Nội”.
Mục đích nghiên cứu của đề tài:
ứng dụng một số bài tập bổ trợ phù hợp với điều kiện, đối tượng, lứa
tuổi với mục đích là nâng cao hiệu quả giậm nhảy của nhảy xa kiểu “ưỡn
thân”.
Đề tài nhằm xác định các bài tập trên cơ sở lựa chọn phù hợp với Nữ
học sinh THPT để nâng cao hiệu quả giậm nhảy của nhảy xa, phát triển thành
tích Nhảy xa.


10

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh THPT
1.1.1. Đặc điểm tâm lý
ở lứa tuổi này, trí tuệ các em mang tính nhạy bén và phát triển đến trình
độ tương đối như người đã trưởng thành. Tư duy của các em chặt chẽ và nhất
quán. Các em đã có thái độ tự giác tích cực trong tập luyện xuất phát từ những
động cơ đúng đắn. Các em rất nhạy bén với những động tác, kỹ thuật mới.
Tuy nhiên tâm lý và suy luận thích triết lý lại đưa các em đến chỗ vội vàng
thiếu khái quát, thiếu cơ sở thực tế, nên dẫn đến tình trang xa rời lý thuyết với
thực hành.
Trí nhớ của các em thường không máy móc, khi học bài thường chú ý
đến chủ đề và vạch ra giàn ý, rút ra ý chính gạch dưới chân, xây dựng sơ đồ
tóm tắt.

Tưởng tượng các em phát triển mạnh, biểu tượng mang tính sáng tạo
cao. Các em có những ước mơ mới táo bạo và muốn làm những việc có ý
nghĩa xã hội lớn lao. Các em đã có tính độc lập trong suy nghĩ và hành động
mọi việc thường tỏ ra chủ động sáng tạo.
ở lứa tuổi này, các em tỏ ra mình là người lớn đòi hỏi mọi người xung
quanh tôn trọng mình, tỏ ra mình là người hiểu biết, ưa hoạt động hơn so với
quá trình ức chế, nên các em tiếp thu cái mới nhanh nhưng lại chóng chán,
chóng quên và các em dễ bị môi trường bên ngoài tác động vào, tạo nên sự
đánh giá cao về mình, sự đánh giá cao đó sẽ gây tác động không tốt trong học
tập và tập luyện thể dục thể thao. Vì vậy, khi tiến hành công tác giáo dục
TDTT cho lứa tuổi này cần phải uốn nắn nhắc nhở, chỉ bảo định hướng và
động viên các em hoàn thành tốt các nhiệm vụ kèm theo khen thưởng, động
viên đúng mức để các em tham gia tập luyện nhiệt tình hơn. Trong quá trình


11

giảng dạy dần dần từng bước động viên học sinh tiếp thu chậm, từ đó các em
tỏ ra không chán nản, có định hướng đúng và hiệu quả bài tập được nâng cao
lên. Trong quá trình giảng dạy, các giáo viên ở các trường cần chú trọng về sự
phát triển cân đối cho các em học sinh.
1.1.2. Đặc điểm sinh lý [6]
Đặc điểm nổi bật về cơ sở sinh lý giải phẫu là sự hình thành giới tính. ở
lứa tuổi này, cơ thể các em phát triển tương đối hoàn thiện nhưng chậm dần.
Chức năng sinh lý tương đối ổn định, khả năng hoạt động của các bộ phận
trong cơ thể cũng được nâng cao. Nhưng do sự thay đổi phức tạp của sự phát
triển cơ thể nên việc vận dụng các bài tập phải phù hợp với đặc điểm lứa tuổi.
- Hệ thần kinh: ở lứa tuổi này đang phát triển và dần hoàn thiện như
người trưởng thành. Tuy nhiên với một số bài tập bổ trợ đơn điệu cũng làm
cho học sinh chóng mệt mỏi. Hệ thần kinh giao cảm nhạy bén nên dễ bị tăng

do hồi hộp xúc động.
- Hệ tuần hoàn: Buồng tim phát triển tương đối hoàn chỉnh (mạch đập
của nam 70 – 80 lần/phút, nữ 75 – 85 lần/phút). Phản ứng của hệ tuần hoàn
tương đối rõ rệt, sau vận động huyết áp và mạch hồi phục nhanh.
- Hệ hô hấp: Được hoàn chỉnh lưu lượng phút và dung lượng tim đập
cao, tuy vậy tần số thở của học sinh lứa tuổi 17 – 18 cơ bản giống người lớn
khoảng 12 - 14 lần/phút tuy nhiên cơ thể vẫn còn yếu, cho nên sức co giãn
của lồng ngực chủ yếu các em thở bằng bụng. Vì vậy trong tập luyện cần chú
ý thở chậm thở sâu để tăng cường cơ năng trong hô hấp.
- Hệ tiêu hóa: Rất tốt, sự hấp thụ các chất dinh dưỡng qua tiêu hóa
nhanh và hiệu suất lớn.
- Hệ bài tiết và điều hòa thân nhiệt: Hoạt động khá hiệu quả đặc biệt
là bài tiết qua da. Do vậy hồi phục sau tập luyện diễn ra nhanh chóng hơn so
với người lớn.


12

- Hệ xương: ở thời kỳ này hệ xương đã phát triển nhanh và đột ngột,
đàn tính của xương giảm, độ giãn của xương tăng, do hàm lượng Ma zíc phốt
pho canxi trong xương tăng, xuất hiện sự cốt hóa ở một số bộ phận của xương
như xương cột sống. Nên cùng với sự phát triển về chiều dài của cột sống thì
khả năng biến đổi của cột sống không giảm mà trái lại tăng thêm xu hướng
cong vẹo.
- Hệ cơ: ở giai đoạn này phát triển với tốc độ nhanh khối lượng và số
lượng tăng đáng kể các nhóm cơ nhỏ đã phát triển hơn so với hệ xương, ở thời
kỳ này cơ bắp phát triển nhanh, không đồng đều chủ yếu là các cơ lớn phát
triển tương đối nhanh, như cơ đùi, cơ cánh tay. Vì sự phát triển không đồng
đều đó nên khi tập luyện, người giáo viên, huấn luyện viên chú ý phát triển cơ
bắp cho các em.

* Kết luận: Từ những đặc điểm tâm, sinh lý nói trên chúng tôi đã đề ra
các biện pháp tập luyện và sửa chữa kỹ thuật cho phù hợp với trình độ lứa
tuổi, khả năng tập luyện với khối lượng sao cho hợp lý, nhất là các bài tập bổ
trợ chuyên môn để nâng cao hiệu quả giậm nhảy của nhảy xa. ở lứa tuổi này,
các em tránh tập luyện quá mức, quá sức sẽ gây ra phá vỡ định hình động tác.
Khối lượng không cao kỹ thuật đơn giản, sau đó tăng dần độ khó và khối
lượng bài tập lên.
1.2. Khái niệm – vai trò tác dụng của bài tập bổ trợ
1.2.1. Khái niệm
Cho đến nay khái niệm về bài tập bổ trợ có những cách trình bày sau:
Theo lý luận và phương pháp giáo dục TDTT của PGS Nguyễn Toán
và TS Phạm Danh Tốn thì cho rằng: “ bài tập bổ trợ là các bài tập phức hợp
các yếu tố của đối tượng thi đấu cùng các biến dạng của chúng, cũng như các
bài tập dẫn dắt động tác có chủ đích và có hiệu quả đến sự phát triển của tố
chất và các kỹ xảo của vận động ở chính ngay môn thể thao đó”. [9]


13

Còn một số các nhà khoa học nước ngoài thì cho rằng: “bài tập bổ trợ
còn là một trong những biện pháp giảng dạy, bao gồm các bài tập mang tính
chuẩn bị cho vận động. Bài tập mang tính dẫn dắt, bài tập mang tính chuyển
đổi và bài tập mang tính tăng cường các tố chất thể lực.” [7]
Theo chúng tôi, tuy có khác về cách trình bày nhưng luôn có sự thống
nhất về ý nghĩa. Vậy ta có thể chốt lại về khái niệm bài tập bổ trợ là các bài
tập mang tính chuẩn bị, tính dẫn dắt, tính chuyển đổi và tính thể lực, mang
tính chuyên biệt cho từng kỹ thuật và từng môn thể thao khác nhau.
1.2.2. Vai trò, tác dụng của bài tập bổ trợ
Theo các nhà khoa học, các chuyên gia thể thao thì các bài tập bổ trợ là
một biện pháp quan trọng trong giảng dạy và huấn luyện kỹ thuật.

Như chúng ta đã biết, một kỹ thuật thường cấu trúc các chuỗi động tác
có trình tự, có sự phối hợp, có liên quan, có tác động đến nhau. Thúc đẩy hoặc
hạn chế nhau để cùng thực hiện một yêu cầu, yếu lĩnh kỹ thuật động tác nào
đó. Một kỹ thuật khó thường gồm nhiều khâu, nhiều giai đoạn, nhiều cử động
nên cùng một lúc người học không thể nào hình thành ngay các kỹ năng cũng
như các đường mòn liên hệ trên vỏ đại não các cử động đó. Do vậy, người ta
phân nhỏ kỹ thuật, nhất là kỹ thuật phức tạp thành các giai đoạn động tác
khác nhau.
Trong môn Nhảy xa người ta phân kỹ thuật ra thành 4 giai đoạn: chạy
đà, giậm nhảy, trên không, tiếp đất.
Trên cơ sở người học nắm bắt từng phần sau đó liên kết lại thành kỹ
thuật hoàn chỉnh. ở mỗi giai đoạn kỹ thuật, để giúp người học hình thành
được kỹ thuật người ta sử dụng các bài tập bổ trợ:
- Mang tính chuẩn bị nhằm đưa người tập vào trạng thái sinh lý, tâm lý
thích hợp với việc tiếp thu kỹ thuật.


14

- Mang tính dẫn dắt nhằm làm cho người tập nắm được yếu lĩnh từ dễ
đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ đơn lẻ đến liên hoàn của một số kỹ
thuật cần học.
- Mang tính chuyển đổi từ động tác này sang động tác khác với các
không gian và thời gian khác nhau, nhằm tạo ra sự lợi dụng các khả năng đã
có, hình thành ra các khả năng mới và có thể đáp ứng cho người học thực hiện
thuận lợi các kỹ năng đã học, người ta còn cần tập các bài tập bổ trợ thể lực
cho người tập.
Vì vậy đi đôi với các bài tập bổ trợ chuyên môn nói ở trên, người ta
cũng rất chú trọng đưa vào trong chương trình giảng dạy các bài tập để tăng
cường một số tố chất thể lực chuyên môn cần thiết.

1.3. Đặc điểm kỹ thuật giậm nhảy của nhảy xa
Nhảy xa là môn thể thao dùng tốc độ chạy đà và sức bật của một chân
để đưa trọng tâm cơ thể lên một khoảng cách xa nhất. Nhảy xa là hoạt động
không có chu kỳ và các động tác không nối tiếp nhau bằng móc xích liên tục.
Vậy muốn có thành tích cao, đòi hỏi người tập phải có trình độ tập luyện cao
về thể lực và kỹ thuật, người tập phải có tốc độ nhanh, sức bật tốt, biết phối
hợp năng lực vận động với kỹ thuật một cách thuần thục. Khi học tập cũng
như huấn luyện Nhảy xa người ta chia thành 4 giai đoạn đó là: giai đoạn chạy
đà, giai đoạn giậm nhảy, giai đoạn bay trên không và giai đoạn rơi xuống hố
cát.
Giậm nhảy được thực hiện trong thời gian ngắn, đây là phần khó khăn
chủ yếu. Nếu lúc giậm nhảy mà không pháp huy tối đa lực giậm nhảy thì tốc
độ bay ra giảm do đó thành tích của người nhảy giảm đi. Trong lúc giậm
nhảy, người nhảy cần cố gắng giữ chuyển động của chạy đà tạo nên, đặt chân
đúng ván, bật lên với góc (45) là tốt nhất . Giậm nhảy cần phối hợp đồng thời
với động tác bước bộ, đánh tay, đầu giữ thẳng không được ngửa ra sau hay
cúi về trước.


15

Tóm lại: Nhảy xa là một liên kết kỹ thuật phức tạp là sự kết hợp giữa
các giai đoạn. Vì vậy trong giảng dạy và huấn luyện giai đoạn kỹ thuật giậm
nhảy là nhiệm vụ quan trọng cấp bách hiện nay.
1.3.1. Các yếu tố chi phối hiệu quả nắm bắt kỹ thuật giai đoạn giậm
nhảy của nhảy xa
Theo các nhà khoa học TDTT của Liên Bang Xô Viết cũ như: Philin,
Zaxiors, Pôpôp đã trình bày yếu tố chi phối việc nắm bắt kỹ thuật cũng như
nâng cao thành tích Nhảy xa là: [ 6 ]
1.3.1.1. Khả năng phối hợp vận động trong thực hiện động tác

Khả năng này được biểu hiện bước đầu ở động tác bật xa tại chỗ. VĐV
muốn bật xa tại chỗ cần phối hợp nhịp nhàng giữa động tác tay, chân, thân
người, đặc biệt là sự nhịp nhàng trong sự dùng sức cơ bắp.
1.3.1.2. Phương hướng và mức độ dùng sức
Thành tích Nhảy xa về cơ bản phụ thuộc vào góc bay của tổng trọng
tâm cơ thể khi rơi xuống và tốc độ bay ban đầu. Mà tốc độ bay ban đầu phụ
thuộc vào tốc độ đà tối đa có được trong lúc giậm nhảy.
- Độ xa của lần nhảy được tính theo cộng thức: S =

V02 sin 2
g

Trong đó: V0: là tốc độ bay ban đầu
 : là góc độ bay
g: là gia tốc rơi tự do (g = 9,8m/s)
Như vậy xét về mặt lý thuyết, thành tích Nhảy xa phụ thuộc vào tốc độ
bay ban đầu, góc bay và độ bay ra của trọng tâm cơ thể và trong lúc VĐV
không thể tác động lên quỹ đạo bay do chạy đà và giậm nhảy tạo nên. Vì vậy,
người nhảy phải có tốc độ chạy đà thích hợp, tạo lực giậm nhảy lớn, để giúp
cho người nhảy có thời gian bay trên không dài thì cơ thể người nhảy phải có
độ cao và độ xa khi bay trên không. Vậy phương hướng dùng sức giậm nhảy
vô cùng quan trọng.


16

1.4. Xu thế sử dụng các bài tập bổ trợ trong thể thao nói chung và trong
giảng dạy môn Nhảy xa nói riêng
Do vai trò tác dụng to lớn nói trên của các bài tập bổ trợ đối với quá
trình giảng dạy và huấn luyện kỹ thuật nên nhiều nước có nền công nghiệp

phát triển đã đầu tư cải tiến vận dụng thành quả của các ngành khoa học khác
để tạo ra nhiều các bài tập bổ trợ chuyên môn.
- Hiện nay các nhà khoa học đã phát hiện mối quan hệ giữa ngũ quan
(xúc giác, thính giác, khứu giác, thị giác, vị giác) đều có tác động quan trọng
với việc nắm bắt kỹ năng, kỹ xảo và phát triển các tố chất vận động. Vì vậy
ngoài việc dùng dụng cụ trực quan hoặc ngôn ngữ nhiều chuyên gia thể thao
đã dùng ánh sáng, âm thanh tiếng động như trống, kèn trong tập luyện để tác
động vào tâm lý cũng như quá trình hưng phấn của người tập giúp cho việc
tập luyện bổ trợ đạt hiệu quả cao.
Nhịp sinh học được các nhà khoa học Fuse và Swaplota (Mỹ) đề xuất
vào thể kỷ thứ 19. Theo 2 ông: nếu tính từ ngày sinh thì cứ 23 ngày là một
chu kỳ thể lực, 28 ngày là một chu kỳ tình cảm, 33 ngày là một chu kỳ trí lực.
Nếu tập luyện vào nhịp sinh học cao nhất của thể lực, trí lực và tình cảm thì
hiệu quả sẽ cao hơn. Còn các ngày khác cần có sự điều chỉnh thích hợp. Khi
mở rộng kỹ năng cơ thể, nếu tập luyện vào thời điểm nhịp sinh học cao sẽ có
hiệu quả cao nhất. [ 5 ]
Tóm lại: Từ những xu thế trên, để nâng cao hiệu quả bài tập bổ trợ
chuyên môn đang ngày được các nước có nền thể thao tiên tiến sử dụng rộng
rãi trong giảng dạy và huấn luyện thể thao. Họ coi đó là biện pháp để nâng
cao chất lượng giảng dạy và huấn luyện các môn thể thao nói chung và môn
Nhảy xa nói riêng.


17

CHƢƠNG 2
NHIệM Vụ, PHƢƠNG PHáP Và Tổ CHứC NGHIÊN CứU
2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thành mục đích trên đề tài đề ra các nhiệm vụ sau:
- Nhiệm vụ 1: Thực trạng về công tác giảng dạy và học tập môn Nhảy

xa kiểu “ưỡn thân” của học sinh khối 11 trường THPT Cao Bá Quát - Gia
Lâm - Hà Nội.
-Nhiệm vụ 2: Lựa chọn và ứng dụng một số bài tập nhằm nâng cao
hiệu quả giậm nhảy của nhảy xa kiểu “ưỡn thân” cho Nữ học sinh trường
THPT Cao Bá Quát – Gia Lâm – Hà Nội
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết được các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài chúng tôi xác
định phương pháp nghiên cứu sau:
2.2.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu
Phương pháp này được sử dụng để nghiên cứu tổng hợp các tài liệu có liên
quan đến đề tài, từ đó rút ra cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm đảm bảo tính
chính xác trong quá trình tiến hành giải quyết và vấn đề nghiên cứu.
2.2.2. Phương pháp quan sát sư phạm
Chúng tôi sử dụng phương pháp này để quan sát việc giảng dạy, và học
tập môn Nhảy xa kiểu “ưỡn thân” của Nữ học sinh khối 11 trường THPT Cao
Bá Quát – Gia Lâm – Hà Nội. Từ đó có cơ sở để đánh giá thực trạng việc sử
dụng bài tập bổ trợ trong giảng dạy kỹ thuật giậm nhảy của nhảy xa. Đồng
thời sử dụng phương pháp này để quan sát thu nhập số liệu cần thiết trong
thực nghiệm để giúp cho việc rút ra được các kết luận chính xác.
2.2.3. Phƣơng pháp kiểm tra sƣ phạm
Chúng tôi sử dụng phương pháp này để kiểm tra thành tích học tập môn
Nhảy xa kiểu “ưỡn thân” của Nữ học sinh khối 11 trường THPT Cao Bá Quát
– Gia Lâm – Hà Nội. Từ đó có cơ sở để đánh giá thực trạng việc sử dụng bài
tập bổ trợ trong giảng dạy kỹ thuật giậm nhảy của nhảy xa. Đồng thời sử dụng


18

phương pháp này để quan sát thu nhập số liệu cần thiết trong thực nghiệm để
giúp cho việc rút ra được các kết luận chính xác.

2.2.3. Phương pháp điều tra phỏng vấn
Để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả giậm nhảy trong nhảy
xa của Nữ học sinh. Chúng tôi tiến hành phỏng vấn trực tiếp và gián tiếp với
các chuyên gia, các huấn luyện viên, giáo viên trực tiếp giảng dạy và huấn
luyện. Trên cơ sở đó những ý kiến đóng góp cho việc giải quyết nhiệm vụ
nghiên cứu đảm bảo tính khách quan trong quá trình nghiên cứu.
2.2.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
- Chúng tôi sử dụng phương pháp này nhằm kiểm nghiệm, đánh giá
hiệu quả của các buổi tập lựa chọn trong quá trình thực nghiệm.
- Quá trình này được thực hiện bằng cách phân nhóm tiến hành thực
nghiệm.
- Chúng tôi chọn Nữ học sinh hai lớp 11A5 và lớp 11A8.
- Tổng số có 46 em, mỗi nhóm 23 em.
- Nhóm thực nghiệm là lớp 11A8, 23 em tập theo các bài tập và phương
pháp mà chúng tôi đã lựa chọn.
- Nhóm đối chiếu là lớp 11A5, 23 em tập theo các bài tập trong giảng
dạy theo phân phối chương trình của Bộ giáo dục và Đào tạo ban hành.
2.2.5. Phương pháp toán học thống kê
Để giải quyết nhiệm vụ trên chúng tôi sử dụng các công thức sau, nhằm
giúp cho việc rút ra kết luận có độ tin cậy và có sức thuyết phục cao.
-Công thức tính giá trị trung bình: X =
Trong đó: X : Giá trị trung bình



: Là tổng

X i : Các số liệu

n : Tổng hợp mẫu


X
n

i


19

- Công thức tính phương sai:
2 

 X  X 

2

n 1

- Công thức tính độ lệch chuẩn:
  2

- Công thức:
t

XAXB

2
nA




2
nB

2.3. Tổ chức nghiên cứu
2.3.1. Thời gian nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài từ tháng 12/2009 đến tháng
05/2010 được chia lam 3 giai đoạn.
+ Giai đoạn 1: Từ tháng 12/2009 đến tháng 01/2010. Tham khảo phân
tích đề tài, lựa chọn đề tài, xây dựng và bảo vệ đề cương.
+ Giai đoạn 2: Từ tháng 02/2010 đến tháng 04/2010. Tiến hành quan
sát sư phạm, phỏng vấn để xác định và ứng dụng các bài tập bổ trợ để nâng
cao hiệu quả giậm nhảy của nhảy xa, tiến hành thực nghiệm và sử lý số liệu.
+ Giai đoạn 3: Từ tháng 04/2010 đến tháng 05/2010. Hoàn thiện và
bảo vệ luận văn trước hội đồng khoa học.
2.3.2. Đối tượng nghiên cứu
Hệ thống các bài tập bổ trợ nhằm nâng cao hiệu quả giậm nhảy của
nhảy xa.
2.3.3. Địa điểm nghiên cứu
+ Trường ĐHSP Hà Nội 2
+ Trường THPT Cao Bá Quát – Gia Lâm – Hà Nội
2.3.4. Phạm vi nghiên cứu
46 Nữ học sinh khối 11 trường THPT Cao Bá Quát - Gia Lâm - Hà
Nội.


20

CHƢƠNG 3
KếT QUả NGHIÊN CứU

3.1. Thực trạng về công tác giảng dạy và học tập môn Nhảy xa kiểu “ƣỡn
thân” của học sinh khối 11 trƣờng THPT Cao Bá Quát – Gia Lâm – Hà
Nội
3.1.1. Thực trạng công tác giảng dạy môn Nhảy xa kiểu “ưỡn thân”
cho học sinh khối 11 trường THPT Cao Bá Quát – Gia Lâm – Hà Nội
Môn Điền kinh cũng như các môn học khác, nó là một môn thể thao lâu
đời, được phổ biến trên khắp Thế giới, với nhiều môn phong phú và và đa
dạng.
Thấy được tầm quan trọng và đồng thời muốn xây dựng một phong trào
thể thao rộng khắp và có tầm nhìn, Bộ giáo dục và Đào tạo đã đưa môn Điền
kinh là một nội dung học bắt buộc đối với học sinh trong các trường THPT
trong cả nước trong đó có môn Nhảy xa.
- Đội ngũ giáo viên:
Đội ngũ giáo viên GDTC của trường THPT Cao Bá Quát - Gia Lâm Hà Nội, là những thầy cô có chuyên môn nghiệp vụ tốt, dày dặn kinh nghiệm,
nhiệt tình và tâm huyết với nghề. Nhà trường có 6 giáo viên chính dạy môn
GDTC, trong đó 5 giáo viên có trình độ đại học với thâm niên công tác từ 12
năm trở lên và 1 giáo viên có trình độ cao đẳng sư phạm TDTT với thân niên
công tác dưới 8 năm.
- Cơ sở vật chất:
Qua 6 tuần thực tập tại trường THPT Cao Bá Quát - Gia Lâm - Hà nội,
chúng tôi thấy rằng co sở vật chất của nhà trường tương đối đầy đủ, trang


21

thiết bị tập luyện cho các môn thể thao nói chung và môn Nhảy xa nói riêng là
tương đối đầy đủ, đảm bảo an toàn cho người tập luyện thể dục thể thao.
Phong trào tập luyện các môn TDTT nói chung tổ chức thường xuyên
các em tham gia tập luyện nhiệt tình. Vì vậy đã thu được kết quả tương đối
cao, đoạt giải ba môn Bóng rổ và giải nhì môn Điền kinh (chạy 100m) trong

giải TDTT các trường THPT Thành phố Hà Nội. Môn Nhảy xa nói riêng các
em ít tham tập luyện hơn so với các môn bóng.
3.1.2. Thực trạng việc sử dụng các bài tập bổ trợ trong giai đoạn
giảng dạy kỹ thuật giậm nhảy của nhảy xa kiểu “ưỡn thân” cho Nữ học
sinh khối 11 trường THPT Cao Bá Quát – Gia Lâm – Hà Nội
Để tìm hiểu rõ và đánh giá thực trạng việc sử dụng các bài tập bổ trợ,
chúng tôi sử dụng 2 phương pháp sau:
- Phương pháp quan sát sư phạm.
- Phương pháp phỏng vấn.
3.1.2.1. Tìm hiểu thực trạng việc sử dụng bài tập bổ trợ bằng phương
pháp quan sát sư phạm
Qua các buổi quan sát, chúng tôi sử dụng đồng hồ bấm giây và phiếu
ghi chép để thu nhập số liệu. Đối tượng quan sát là hai lớp 11A5 và 11A8.
Thời gian quan sát là các buổi tập ở giai đoạn giậm nhảy và ở giai đoạn hoàn
thiện, mỗi buổi 45 phút. Địa điểm quan sát ở trên sân tập của trường THPT
Cao Bá Quát – Gia Lâm – Hà Nội.
Qua quan sát, chúng tôi thấy:
- Các bài tập bổ trợ kỹ thuật được dùng là:
+ Đứng tại chỗ mô phỏng động tác tay kết hợp chân lăng.
+ Đứng chân giậm nhảy trước (cách mép hố cát (0,8 – 1,2 m), chân
lăng sau. Tạo đà và giậm nhảy vào hố cát (chạm cát bằng cả hai chân phối
hợp với đánh tay).
+ Đi 3 bước giậm nhảy, thực hiện động tác bước bộ, kết hợp đánh tay.


22

+ Chạy 5 - 7 bước vào ván giậm nhảy kết hợp với đánh tay xốc người
lên cao.
- Các bài tập bổ trợ thể lực được dùng là :

+ Chạy nâng cao đùi 18m (nữ).
+ Chạy đạp thẳng chân sau (đạp sau) 20m(nữ).
+ Nhảy lò cò mỗi chân 30m x 5 lần.
+ Chạy nhanh 30m x 5 lần.
+ Đứng lên ngồi xuống bằng 2 chân (nam, nữ) 30 lần.
- Các bài tập bổ trợ chung:
+ Các bài tập cơ lưng, cơ bụng.
+ Các trò chơi.
- Thời gian thực hiện các bài tập bổ trợ từ 15 – 20 phút trong mỗi buổi
tập trong đó khoảng 40% là dành cho tập luyện các bài tập bổ trợ kỹ thuật và
60 % là dành cho tập luyện các bài tập bổ trợ phát triển thể lực.
- Khi quan sát chúng tôi trực tiếp đứng cạnh người thực hiện trong thời
gian quan sát các buổi tập khác nhau và thu được kết quả ở trên, chúng tôi
nhận thấy:
+ Số lượng các bài tập bổ trợ kỹ thuật, bài tập bổ trợ thể lực còn chưa
phong phú, sử dụng phương tiện còn ít.
+ Thời gian dành cho việc tập luyện các bài tập bổ trợ kỹ thuật và bài
tập thể lực là tương đối phù hợp (15 – 20 phút).
- Qua các buổi quan sát, chúng tôi đã tìm ra được những sai lầm sau:
1. Điểm giậm nhảy không chính xác.
2. Kết thúc nhảy trọng tâm cơ thể thấp.
3. Góc giậm nhảy quá lớn hoặc quá nhỏ.
4. Thời gian giậm nhảy dài.
5. Lực giậm nhảy yếu.
6. Góc độ của chân lăng với thân người quá lớn hoặc quá nhỏ.


23

- Kết quả của phương pháp quan sát sư phạm các sai lầm được thể hiện

ở bảng sau


24

Bảng 3.1: Kết quả quan sát sƣ phạm về những sai lầm của giai đoạn giậm
nhảy của nhảy xa kiểu “ƣỡn thân” (n = 85)
TT
1
2
3
4
5
6

Tên các sai lầm
Điểm giậm nhảy không chính xác
Kết thúc giậm nhảy trọng tâm cơ thể thấp
Góc giậm nhảy quá lớn hoặc quá nhỏ
Thời gian giậm nhảy dài
Lực giậm nhảy yếu
Góc độ của chân lăng với thân người quá lớn
hoặc quá nhỏ

Ngƣời mắc Tỷ lệ %
60
70,6%
28
32,9%
30

35,3%
10
11,8%
70
82,4%
15

17,6%

- Như vậy qua quan sát sư phạm chúng tôi thấy rằng ở những sai lầm 1
và sai lầm 5 là những sai lầm tỷ lệ mắc phải chiếm nhiều hơn và thường
xuyên hơn (60% - 70%). Tuy nhiên để làm rõ hơn vấn đề này chúng tôi đã
tiến hành phương pháp phỏng vấn.
3.1.2.2. Tìm hiểu thực trạng việc sử dụng bài tập bổ trợ bằng phương
pháp phỏng vấn chuyên gia.
- Chúng tôi tiến hành phương pháp hỏi trực tiếp và gián tiếp các giáo
viên đã giảng dạy và có kinh nghiệm sư phạm ở trong và ngoài trường.
Kết quả thu được ở và bảng sau.
Bảng 3.2: Kết quả phỏng vấn về những sai lầm thƣờng mắc trong khi học
kỹ thuật giai đoạn giậm nhảy của nhảy xa kiểu “ƣỡn thân” (n = 10)
TT

Tên các sai lầm

Ngƣời mắc Tỷ lệ %

1

Điểm giậm nhảy không chính xác


9/10

90

2

Kết thúc giậm nhảy trọng tâm cơ thể thấp

5/10

50

3

Góc giậm nhảy quá lớn hoặc quá nhỏ

6/10

60

4

Thời gian giậm nhảy dài

6/10

60

5


Lực giậm nhảy yếu

10/10

6

Góc độ của chân lăng với thân người quá
lớn hoặc quá nhỏ

2/10

20


×