Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

những thách thức trong quá trình hội nhập của Liên Minh Châu Âu về khía cạnh an ninh – đối ngoại.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.81 KB, 24 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA QUỐC TẾ HỌC

TIỂU LUẬN
MÔN: NHẬP MÔN CHÂU ÂU HỌC
Đề tài:

NHỮNG THÁCH THỨC TRONG QUÁ TRÌNH
HỘI NHẬP CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU TRÊN
PHƯƠNG DIỆN AN NINH ĐỐI NGOẠI

Nhóm 6

K53– Quốc tế học

GV

TSKH. Lương Văn Kế

Hà Nội 10/2011
DANH SÁCH PHÂN CÔNG NHÓM 6
1


TÊN
Nguyễn Xuân Quỳnh

NHIỆM VỤ
- III.3, “Những thách thức của EU trong quá trình
hội nhập về an ninh_ đối ngoại sau hiệp ước


Lisbon.”

Trần Phương Thảo

- II.2, “Những thách thức của EU trong quá trình hội
nhập về an ninh_ đối ngoại sau hiệp ước Maastricht
đến trước Lisbon”

Lê Hồng Vân

Nguyễn Thu Hạnh

- Power Point
- Tổng hợp Word
- Thuyết trình
- I, Tổng quan về chính sách đối ngoại của EU
- Viết mở bài và kết luận
- II.1., “Những thách thức của EU trong quá trình
hội nhập về an ninh_ đối ngoại trước hiệp ước
Maastricht.”

Mục lục

2


Lời mở đầu…………………………………………………………………........

3


I, Tổng quan về chính sách đối ngoại của EU…………………………………...5

II, Những thách thức của EU trong quá trình hội nhập về an ninh_đối ngoai
2.1., Giai đoạn trước hiệp ước Msastricht………………………………..6
2.2, Giai đoạn sau hiệp ước Maastricht đến trước Lisbon………………..9
2.3, Giai đoạn sau hiệp ước Lisbon.……………………….………........16

Kết luận………………………………………………………………………….
21
Tài liệu tham khảo……………………………………………………………….22

LỜI MỞ ĐẦU
3


Liên minh châu Âu (European Union – viết tắt là EU) là một liên minh kinh tế
chính trị bao gồm 27 quốc gia thành viên thuộc châu Âu. EU được thành lập trên khuôn
khổ Hiệp ước Masstricht vào ngày 1 tháng 11 năm 1993 dựa trên nền móng có sẵn là Cộng
đồng Kinh tế châu Âu (European Economic Community– EEC). Từ khi thành lập đến nay,
Liên minh châu Âu liên tục phát triển và trở thành một trong những trung tâm của thế giới
về kinh tế cũng như chính trị. Tổ chức này đã trải qua những giai đoạn liên kết về nhiều
mặt và ngày nay đóng một vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế, đặc biệt là ở châu Âu.
Liên minh Châu Âu (EU) là một phức hợp chính trị đặc biệt bao gồm nhiều thiết chế được
hình thành theo các phương pháp khác nhau và hoạt động theo những nguyên tắc chuyên
biệt nhưng lại gắn kết với nhau một cách chặt chẽ. Các thể chế của EU không tự nhiên ra
đời, mà là sản phẩm của một quá trình vận động và phát triển liên tục hơn năm mươi năm
nhằm duy trì hòa bình, ổn định và thúc đẩy phát triển, thịnh vượng trên mảnh đất châu Âu.
Sở dĩ EU là một mô hình hội nhập thành công nhất trong lịch sử bởi trong suốt quá trình
tồn tại và phát triển, hệ thống các thiết chế luôn được phát triển và bổ sung hướng đến mục
tiêu xây dựng một châu Âu “thống nhất trong đa dạng”. Với việc kết nạp thêm 10 nước

Đông Âu cũ làm thành viên năm 2004, Liên minh châu Âu trở thành tổ chức liên kết khu
vực lớn nhất và thành công nhất trên thế giới. EU đã đóng góp một vai trò nhất định trong
chính sách đối ngoại và an ninh trên trường quốc tế.
Trong quá trình tiến tới xây dựng một Liên minh Châu Âu với vai trò như một
“siêu quốc gia”, chính sách an ninh và đối ngoại chung luôn là một khâu then chốt mang
tính chất quyết định. Chính sách đối ngoại và an ninh chung là một nền tảng quan trọng
cho quá trình nhất thể hoá ở châu Âu về mặt chính trị và có ảnh hưởng nhất định đến chính
sách đối ngoại của từng nước EU cũng như đến quan hệ quốc tế. Được định hình từ hiệp
ước Maastricht (năm 1992), hiệp ước Maastricht tạo nền tảng cho sự ra đời của chính sách
đối ngoại và an ninh chung (CFSP) và được bổ sung và phát triển thông qua các hiệp ước
tiếp theo là hiệp ước Amsterdam (năm 1999), hiệp ước Nice (năm 2003) và mới đây là
hiệp ước Lisbon (năm 2009). Sau một thời gian dài hình thành và phát triển, Liên minh
Châu Âu đã đạt được những thành công nhất định trong việc hội nhập toàn diện về khía
cạnh an ninh đối ngoại. Song rõ ràng là tham vọng của các nước Liên minh Châu Âu về
liên kết trong lĩnh vực an ninh đối ngoại nói chung là rất lớn, và những thành công trên
thực tế cho đến thời điểm hiện nay vẫn chưa thỏa mãn được tham vọng đó. Sau khi Hiệp
ước Lisbon được kí kết và có hiệu lực chính thức vào 1/12/2009, nhiều nhà nghiên cứu và

4


hoạch định chính sách đã có nhận định rằng Hiệp ước này có khả năng tạo ra những thay
đổi căn bản trong chính sách đối ngoại và an ninh chung của EU.
Nhận thức được nhu cầu tìm hiểu về tiến trình hội nhập về chính sách an ninh đối
ngoại chung của Liên minh Châu Âu, bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào việc đưa ra
những nhận định về “những thách thức trong quá trình hội nhập của Liên minh Châu
Âu trên khía cạnh an ninh đối ngoại”. Trong đó, bài nghiên cứu sẽ tập trung phân tích
những thách thức mà Liên minh Châu Âu đã phải đối mặt trong 3 giai đoạn chính: trước
hiệp ước Masstricht; từ hiệp ước Masstricht đến trước hiệp ước Lisbon; và sau hiệp ước
Lisbon. Từ đó, phần nào có thể đưa ra những phán đoán về khả năng hội nhập của Liên

minh Châu Âu trong tương lai.

I, TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH AN NINH ĐỐI NGOẠI CỦA EU:

5


Chính sách đối ngoại và an ninh chung của Châu Âu (CFSP) đã phát triển trong
một thời gian dài và đã không còn là một vấn đề mới đối với EU. Bắt đầu từ ý tưởng được
để ra trong kế hoạch Pleven đến việc đưa ý tưởng này ra hội nghị, diễn đàn. Từ đó, hình
thành nên những hợp tác chính trị của một số khu vực tại Châu Âu và tiến tới xây dựng
thành một cơ chế có tính pháp lý trong các hiệp ước như hiệp ước Maastricht và Lisbon.
Trong lịch sử phát triển của liên minh này đã không ít lần mong muốn về một cơ chế đối
ngoại an ninh chung được biểu hiện. Và hơn bao giờ hết, Eu luôn muốn có một Bản sắc
chung về an ninh, chủ động trong các hoạt động ngoại giao và quân sự để duy trì ổn định
khu vực và độc lập trong hành động và suy nghĩ. Chính vì thế mà mục đích ra đời một
chính sách đối ngoại và an ninh chung gồm 3 mục đích:1
+ Thứ nhất là để tăng cường khả năng giải quyết xung đột, và duy trì ổn định khu
vực, thúc đẩy tiến trình “nhất thể hóa Châu Âu”
+ Thứ hai là Eu muốn có một lực lượng phòng thủ riêng
+ Thứ ba là sự độc lập trong đối ngoại và an ninh sẽ làm tăng cường hình ảnh của
EU trên trường quốc tế
Xuất phát từ mục đích đó, trong báo cáo tóm tắt trước Nghị viện Châu Âu năm
2009 nội dung chính trong chính sách đối ngoại và an ninh chung của EU đã đề cập tới
những vấn đề sau.
1, Bối cảnh và những thách thức mà thế giới nói chung và khu vực nói riêng đang
phải đối mặt. Trong các vấn đề về quốc tế, chính sách đối ngoại và an ninh chung của EU
tập trung vào các vấn đề về việc phổ biến vũ khí giết người hàng loạt, chủ nghĩa khủng bố,
an ninh năng lượng, biến đổi khí hậu…Đối với khu vực, những vấn đề đặt ra cho chính
sách đối ngoại và an ninh chung của EU là xung đột khu vực ở Châu Á, Trung Đông, Châu

Phi và Mỹ La tinh.
2, Xây dựng sự ổn định tại châu Âu và những mục tiêu xa hơn nưa
- Một viễn cảnh châu Âu ổn định
Hội đồng châu âu tái khẳng định rằng việc thực thi một cách chặt chẽ việc nối lại
sự nhất trí trong vấn đề mở rộng dựa vào sự hợp nhất của những lời cam kết, những điều
kiện nghiêm khắc và công bằng, giao thiệp tốt và khả năng của EU trong việc hội nhập các
thành viên mới, tếp tục xây dựng cơ sở cho các hoạt động của EU bao gồm chính sách đối
ngoại và an ninh chung tại tất cả các quốc gia thành viên trong quá trình mở rộng
Dương Thanh Bình, Những thách thức đối với Liên minh Châu Âu trong gia đoạn hiện
nay, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 36,2000, trang 63-64
1

6


Bằng các hiệp định, các hội nghị giữa EU và các nước: Thổ Nhĩ Kỳ, Croatia,các
nước trong khu vực Balkan và Kosovo, các nhà lãnh đạo EU hy vọng sớm tìm ra được
tiếng nói thống nhất giữa các bên nhằm giải quyết các tranh chấp, xung đột luôn tiềm ẩn
trong khu vực, qua đó xây dựng châu Âu thành một khu vực ổn định và thống nhất.
- Tăng cường hợp tác với các nước láng giềng
Chính sách với các nước láng giềng châu âu (ENP) vẫn giữ nguyên bản khung cho
các dối tác trong khu vực lân cận. EU tiếp tục thảo luận về việc tăng cường sự phát triển
của mối quan hệ song phương với một số nước đối tác nam ENP.
- Thảo luận khủng hoảng và mở rộng xung đột tại các nước láng giềng
3, Đóng góp cho việc hoạt động đa phương hoạt động có hiệu quả hơn nhằm đóng
góp cho sự bền vững trong mối quan hệ ngoại giao với các đối tác trong khu vực
- Hành động trong khuôn khổ đa pương
Thách thức toàn cầu yêu cầu những các giải quyết toàn cầu. Hợp tác chặt chẽ với
UN, NATO, OCSE và hội đồng châu âu cũng các cơ chế phối hợp quốc tế khác là cách tốt
nhất để thực hiện thành công mục tiêu này.

- Tăng cường quyền sở hữu khu vực
Bản báo cáo thực hiện năm 2008 đã nhấn mạnh rằng “cách giải quyết tốt nhất cho
các xung đột cần phải trói buộc tất cả các nước trong khu vực với nhau bằng nguyên tắc
chung về hòa bình. Tổ chức khu vực cần có vai trò mấu chốt cho vấn đề này. EU đóng góp
tầm quan trọng đặc biệt trong việc thúc đẩy sự tự chịu trách nhiệm thông qua mối quan hệ
của EU với các tổ chức khu vực và bằng các hợp tác nội và ngoại khu vực.
4, Ủng hộ, thúc đẩy nền dân chủ, nhân quyền, và hệ thống luật pháp, đặc biệt trong
các lĩnh vực bình đẳng giới và quyền cho phụ nư và trẻ em. Đặc biệt quan tâm và thúc đẩy
vấn đề nhân quyền tại một số nước Châu Á và Trung Đông. Cuộc chiến chống lại tội phạm
thông qua sự hợp tác hỗ trỡ và liên kết với các tổ chức pháp lý như Tòa án quốc tế.
5, Củng cố quan hệ với các đối tác chiến lược ở các khu vực trên thế giới: Mỹ, Nga,
Trung Quốc, Ấn Độ, Mexico, Brazil, Nhật Bản, Canada, Nam Phi.
Để cho ra đời được những nội dung như trên, Liên minh Châu Âu đã phải trải qua
một thời kì phát triển lâu dài hơn 50 năm với vô vàn những khó khăn và thách thức.

II, NHỮNG THÁCH THỨC TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP CỦA LIÊN
MINH CHÂU ÂU TRÊN KHÍA CẠNH AN NINH ĐỐI NGOẠI
2.1, GIAI ĐOẠN TRƯỚC HIỆP ƯỚC MAASTRICHT

7


Có thể nói ý tưởng của việc hình thành một chính sách an ninh đối ngoại chung của
Liên minh Châu Âu đã được ra đời từ rất sớm.
Năm 1950 kế hoạch Pleven ra đời với ý tưởng thành lập Cộng đồng phòng thủ châu
Âu (EDC) giữa 6 nước sáng lập cộng đồng than thép. Cụ thể là “xây dựng 1 quân đội
chung dưới sự lãnh đạo chung của Bộ trưởng phòng thủ châu Âu” và “tổ chức các cuộc
họp định kỳ bàn về CSĐN chung”. Mặc dù là kế hoạch đầy tham vọng của EU tuy nhiên
tại thời điểm đó kế hoạch đã không thành công. Nguyên nhân là của sự thất bại này là sau
Chiến tranh thế giới thứ II, Châu Âu là khu vực bị tàn phá một cách nặng nề về mọi mặt.

Chính vì vậy, các nhà lãnh đạo Tây Âu đều chỉ chú trọng tới việc làm sao giữ đươc nền
hòa bình lâu bền ở Châu Âu để Tây Âu có thể phát triển được liên tục. Một liên minh về
chính trị là lĩnh vực quá nhạy cảm đối với quyền lợi của các quốc gia tại thời điểm bấy giờ.
Các nước vừa thoát khỏi cuộc chiến tranh nên không có nhu cầu chuyển nhượng sự độc lập
tự chủ về đối ngoại cho các quốc gia khác.
Sau khi Cộng đồng Than Thép (ECSC) ra đời và có hiệu lực (1951). Gần như ngay
sau đó, Liên minh Châu Âu đã thể hiện rằng tham vọng về một liên minh chính trị về an
ninh đối ngoại chưa bao giờ bị dập tắt. 1952, Hiệp ước về thành lập cộng đồng phòng thủ
(EDC) ra đời. Tuy nhiên 1954, Quốc hội Pháp đã bác bỏ Hiệp ước này. Lúc này, sự bất
đồng của các nước Châu Âu là thách thức lớn nhất trong tiến trình hội nhập về an ninh- đối
ngoại của liên minh Châu Âu. Tại thời điểm EDC ra đời, Pháp tích cực theo đuổi, Anh và
Đức thì phản đối, các nước Châu Âu khác tỏ ra thờ ờ và chỉ tập trung theo đuổi các mục
đích hội nhập kinh tế. Trong giai đoạn 1957-1967, hai bản Hiệp ước quan trọng của Liên
minh Châu Âu là Hiệp ước Roma và Hiệp ước Merger đều không đề cập tới vấn đề hợp tác
hay liên minh về an ninh đối ngoại. Từ đó có thể thấy rằng ưu tiên hàng đầu của các quốc
gia Châu Âu tập trung vào chính sách về kinh tế nội khối và thúc đẩy hội nhập toàn diện về
Kinh tế. Bởi vậy, ngay sau Chiến Tranh thế giới thứ hai, một loạt kế hoạch được đề ra
(Liên minh phương Tây sau đổi thành Liên minh Tây Âu, Hội đồng Châu Âu, Cộng đồng
phòng thủ Châu Âu v.v..) là những kế hoạch chưa chín muồi. Tất yếu nó vấp phải thách
thức lớn nhất chính là sự nghi kị lẫn nhau giữa các nước Tây Âu ( sự nghi ngờ đế quốc
Đức phục hồi và trả thù, sự nghi ngờ các mối quan hệ giữa Anh với Mỹ, Đức với Mỹ…). 2.
Mặc dù các kế hoạch trên đều không đưa lại kết quả như mong đợi song phần nào đã góp
Đào Huy Ngọc (chủ biên) Liên minh châu Âu, học viên quan hệ quốc tế, Hà Nội, 1995,
trang 129
2

8


phần vào việc “khởi động” một tiến trình liên kết và mang lại sự cổ vũ cho các nước thành

viên về ý đồ liên kết chính trị.
Phải mãi tới năm 1969, tại hội nghị thượng đỉnh Hague, các nước thành viên mới
quyết định xem xét việc đưa ra một CSĐN chung. Năm 1970 hợp tác chính trị châu Âu
(EPC) ra đời. Tuy nhiên EPC ra đời thực chất chỉ như một “sự thỏa hiệp”, nhắm đáp ứng
với nhu cầu phát triển về kinh tế đối ngoại chứ các quốc gia thì chưa muốn bị phụ thuộc.
Chính vì vậy, tại thời điểm này, EPC mới chỉ dừng ở mức độ “hợp tác” chứ không được
thành lập bằng 1 hiệp ước. EPC không có một cơ sở pháp lý hoặc một thể chế hoạt động
chính thức. EPC hợp tác chỉ dựa trên cơ sở tự nguyện và các nước thành viên hoàn toàn
độc lập. Tóm lại, EPC không có tính ràng buộc cao và phải đòi hỏi hợp tác tự nguyện.
Bối cảnh quốc tế cuối những năm 70, đầu những năm 80 đang là giai đoạn cuối của
chiến tranh lạnh. Ở khu vực Châu Âu gặp nhiều biến động trong đó nổi bất là sự có mặt
của Liên Xô ở Afganistan và chiến tranh hồi giáo ở Iran. Vì vậy, EPC buộc phải xem xét
việc tăng cường và nâng cao vai trò trên trường quốc tế. Năm 1974 Hội đồng châu Âu ra
đời đã tạo một điều kiện thuận lợi cho việc phối hợp về chính trị trong liên minh. Đây là
nơi để các nguyên thủ quốc gia trao đổi và phối hợp chính sách với nhau. Năm 1975 Hội
nghị về an ninh và hợp tác châu Âu (CSCE) được thành lập. Một tổ chức an ninh và hợp
tác châu Âu gồm Tây Âu và Nga. Đây là lần đầu tiên trong diễn đàn, các nước châu Âu thể
hiện được sự thống nhất cho thấy dấu hiệu các nước sẵn sàng từ bỏ một phần sự độc lập
trong CSĐN để đạt một mục tiêu chung.
Năm 1981 London Report được thông qua nhằm củng cố EPC, ưu tiên việc tham
vấn giữa các các thành viên và Ủy ban châu Âu về các vấn đề đối ngoại tác động đến tất cả
thành viên. Nhưng nó vẫn chỉ là “hợp tác” chứ không có tính pháp lý nên mức độ ảnh
hưởng là không đánh kể. Nhưng cộng đồng Châu Âu đã bắt đầu cho thấy những dấu hiệu
cho việc sẵn sàng hợp tác trong lĩnh vực an ninh đối ngoại. Năm1986, EPC được chính
thức công nhận trong Định ước châu Âu thống nhất. Khẳng định các nước thành viên sẽ
“nỗ lực tham gia thiết lập và thực hiện một CSĐN chung của cộng đồng”. EPC đã không
còn chỉ dừng lại ở hợp tác mà đã trở thành cơ chế, có mục tiêu hoạt động. Mục tiêu của
EPC được mở rộng ra tất cả các vấn đề đối ngoại liên quan đến các quyền lợi chung. Cuối
cùng sau 17 năm ban hành EPC chính thức có cơ sở pháp lý thực sự và đồng thời thể hiện
rằng Cộng đồng Châu Âu ý thức được vai trò của Chính sách đối ngoại chung, đó là điều

mà Cộng đồng Châu Âu tất yếu sẽ phải tiến đến.

9


Như vậy trong giai đoạn trước hiệp ước Masstricht từ năm 1950-1986, đặc điểm
của quá trình hội nhập của Liên minh Châu Âu trên khía cạnh an ninh đối ngoại là chưa
được quan tâm đúng mức, thiếu trọng tâm và thiếu sự dẫn dắt cần thiết. Chính vì vậy mục
tiêu liên kết chính trị nhằm tạo cho Châu Âu một địa vị chính trị đối ngoại chung độc lập
thể hiện qua các kế hoạch như Kế hoạch Fouchet (1960-1962), Báo cáo Davignon (1973),
Báo cáo Tindeman (1975), và đỉnh cao là Định ước Châu Âu duy nhất (1986) đều chưa đặt
được kết quả cao nhất. Kết quả thu được chỉ gói gọn trong việc các nước Tây Âu cũng đã
có một lập trường chung trong một số vấn đề chính trị như trong diễn đàn Hội nghị An
ninh hợp tác Châu Âu, trong một số vấn đề về Trung Đông,… 3Tóm lại cho đến cuối thập
kỷ 1980 kết quả xây dựng một cộng đồng chính trị an ninh đối ngoại còn hết sức hạn chế.
Những thách thức chủ yếu dẫn đến hệ quả này chính là tình hình quan hệ, sự thiếu
ý chí giữa các quốc gia Châu Âu mà chủ yếu bắt nguồn từ cục diện và bối cảnh thế giới
giai đoạn đó. Trong thế giới hai cực, và sự phụ thuộc rất lớn vào nền kinh tế Mỹ, thực sự
Châu Âu khó có thể nhanh chóng tiến lên xây dựng một chính sách an ninh đối ngoại độc
lập của riêng mình mà không chịu sự chi phố, can thiệp của Mỹ. Thêm vào đó, tại thời
điểm này, Liên minh Châu Âu chưa có được tiềm lực mạnh mà cụ thể ở đây là tiềm lực về
kinh tế để có thể tạo tiền đề cho việc xây dựng một liên minh về chính trị. Tất yếu dẫn tới
việc quá trình hội nhập về an ninh đối ngoại chỉ dừng lại ở mức “gọi tên” chứ chưa có
được tầm ảnh hưởng mạnh mẽ.

2.2, GIAI ĐOẠN TỪ HIỆP ƯỚC MAASTRICHT ĐẾN TRƯỚC HIỆP ƯỚC
LISBON.
Vào đầu những năm 1990, tình hình thế giới và Châu Âu đã có những chuyển biến
lớn. Sự sụp đổ của Liên Xô và các quốc gia ở Đông Âu, nước Đức thống nhất. Tây Âu
đứng trước những cơ hội và thách thức mới. Trật tự hai cực thế giới không còn, không còn

phải đối phó với một địch thủ mạnh hơn mình về nhiều mặt như Liên Xô trước đây, Liên
minh Châu Âu đang có cơ hội thoát khỏi sự phụ thuộc vào Mỹ, nắm lấy sự độc lập thực sự
và toàn diện cho chính mình đồng thời xây dựng vị thế trên trường quốc tế. Tuy nhiên,
những thách thức mới như cuộc xung đột sắc tộc tôn giáo ở Nam Tư, sự cạnh tranh của
Mỹ, Nhật, những dòng người tị nạn vì nguyên nhân kinh tế, chính trị... Một Đông Âu bất
ổn và nhiều biến động sẽ ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc đến vấn đề an ninh nội bộ của EU.
Một nước Đức thống nhất sẽ vừa là sự lo ngại của các quốc gia khác về một nước Đức
3

Đào Huy Ngọ, Liên minh châu Âu, Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội, 1995, trang 129

10


hùng mạnh nhưng bá quyền. Sự mất cân bằng giữa Pháp và Đức, trụ cột của cộng đồng có
nguy cơ bị phá vỡ. Nhưng nước Đức cũng có thể trở thành một “đầu tàu” lôi kéo sự phát
triển của các quốc gia Châu Âu nói riêng và liên minh Châu Âu nói chung. Cùng với đó là
những phản ứng khác nhau của các nước thành viên về cuộc chiến tranh vùng Vịnh mà sâu
xa trong đó là mối quan hệ với Mỹ. Anh thì ủng hộ, Pháp và Đức thì cố gắng giữ vai trò
trung lập, các quốc gia khác thì khá dè dặt. Như vậy, chỉ trong một khoảng thời gian ngắn,
các nước Tây Âu và Cộng đồng Châu Âu đã phải đứng trước một loạt vấn đề nan giải, đỏi
hỏi mạnh mẽ sự làm chủ trong các quyết định về đối nội và đối ngọai. Trong khi đó, “Cộng
đồng Châu Âu là một tên khổng lồ về kinh tế, một chú lùn về chính trị và một con sâu về
quân sự”. Sự bất đồng trong chính sách đối ngoại của các thành viên đòi hỏi sự cần thiết có
một bộ máy, một cơ chế giúp EU hoạt động với tư cách là một tổ chức thống nhất trên
trường quốc tế.
Tất cả đã thúc đẩy việc EC quyết định thay thế EPC bằng chính sách đối ngoại và an
ninh chung (CFSP) được qui định trong hiệp ước Maastricht. "Chính sách đối ngoại và
an ninh chung sẽ bao gồm tất cả các vấn đề liên quan đến an ninh của Liên minh bao
gồm một khuôn khổ cuối cùng của một chính sách quốc phòng chung có thể dẫn tới

một hệ thống phòng thủ chung" (mục B – chương I- Hiệp ước Maastricht). Trong đó, nội
dung của chính sách đối ngoại và an ninh chung được quy định trong chương V của Hiệp
ước Masstricht với 5 mục tiêu:
-

Bảo vệ các giá trị chung, các quyền lợi cơ bản, nền độc lập và thống nhất của liên
minh phù hợp với các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp Quốc.

-

Tăng cường an ninh của liên minh và của các nước thành viên dưới mọi hình thức

-

Giữ gìn hòa bình và củng cố an ninh quốc tế theo hiến chương Liên Hợp Quốc
cũng như đạo luật Hensiki, hiến chương Pari.

-

Thúc đẩy hợp tác quốc tế

-

Phát triển và củng cố dân chủ và pháp quyền, tôn trọng quyền con người và các
quyền tự do cơ bản.
Mục tiêu về an ninh của Tây Âu là thiết lập nền an ninh và phòng thủ chung châu Âu

với bản sắc riêng và độc lập nhằm hạn chế ảnh hưởng và lệ thuộc vào Mỹ. Liên minh Tây
Âu (WEU) được xem là có vai trò chính trong tiến trình liên kết châu Âu trên lĩnh vực an
ninh và phòng thủ chung. WEU được chủ trương phát triển như một phương tiện để tăng


11


cường trụ cột châu Âu tại Liên minh Bắc Đại Tây Dương, tức nâng cao vai trò trụ cột của
WEU trong NATO. Do đó, ý đồ độc lập vẫn luôn là ý tưởng in sâu trong tiềm thức của các
nhà lãnh đạo EU, trở thành một chính sách lớn của Tây Âu thời kỳ sau chiến tranh lạnh và
cũng là nguyên nhân sâu xa của quyết định thành lập Lực lượng phản ứng nhanh vào tháng
12/1999, trong cuộc họp thượng đỉnh EU tại Helsinki. Lực lượng có biên chế từ 50.000
đến 60.000 lính, có chức năng "triển khai và thực thi các sứ mệnh nhân đạo, cứu hộ và gìn
giữ hoà bình"4, có khả năng hoạt động độc lập, có thể được gửi ra nước ngoài trong vòng
hai tháng và được duy trì ít nhất trong một năm. Mục tiêu cụ thể của lực lượng này là lập ra
một khả năng phản ứng nhanh mang tính tập thể của EU đối với các cuộc khủng hoảng
quốc tế. Hội nghị cũng đã thông qua việc thành lập Uỷ ban Chính trị và An ninh thường
trực có trụ sở tại Brussel - Bỉ với đội ngũ nhân viên quân sự cố vấn cho các nhà lãnh đạo
EU trong việc hoạch định chính sách. Quyết định thành lập lực lượng phản ứng nhanh của
EU diễn ra trong bối cảnh Mỹ và Tây Âu vừa cùng nhau tiến hành cuộc chiến Kosovo, kỷ
niệm trọng thể 50 năm ngày thành lập NATO và hân hoan với "chiến thắng" tại Kosovo.
Trong cuộc chiến tại Kosovo, với tư cách là một tổ chức đang hướng tới việc thực hiện
một chính sách an ninh và phòng thủ chung, Tây Âu đã tỏ ra rất mờ nhạt và không đưa ra
được một sáng kiến nào trong suốt cuộc chiến. Chẳng hạn, khi NATO bắt đầu không kích
Nam Tư thì hai ngày sau EU mới thụ động đưa ra tuyên bố ủng hộ hành động của NATO 5.
Bên cạnh đó, một số thành viên Tây Âu như Pháp và Đức lại hành động đơn lẻ nhằm phục
vụ những ý đồ riêng của mình. Hơn thế, qua cuộc chiến, Mỹ đã phô bày được sức mạnh
quân sự hiện đại và hùng mạnh, vai trò và khả năng lãnh đạo quân sự của mình đối với Tây
Âu. Chiến dịch không kích Kosovo cho thấy một cách sống động vai trò mờ nhạt của lực
lượng quân đội và sự phụ thuộc của Tây Âu vào Mỹ như máy bay của Mỹ đã thực hiện
phần lớn các chuyến không kích còn Tây Âu phần nhiều không tham gia tích cực sau vài
ngày ném bom đầu tiên, hay các nước Tây Âu có khoảng 2 triệu quân nhưng đã rất khó
khăn và lúng túng khi triển khai 40.000 quân vào Kosovo...

Vì vậy, lực lượng phản ứng nhanh ra đời đã tạo cho EU một khả năng giải quyết khủng
hoảng quân sự thực sự tại châu Âu và một số khu vực có lợi ích sát sườn với Tây Âu mà
không có sự lãnh đạo hay tham gia của Mỹ. Mục tiêu của EU là có thể tiến hành các hoạt
Reinmund Seidelmann, Problems and Prospects of the Common Foreign and Security
Policy (CFSP) and European Security and Defence Policy (CESDP): A German View.
5 Nguyễn Diệu Hương, Thành lập lực lượng phản ứng nhanh EU: Hệ quả tất yếu của cuộc
chiến Kosovo?,
4

12


động quân sự riêng ở những nơi mà NATO không tham gia để đảm nhận trách nhiệm lớn
hơn về an ninh khu vực chủ yếu trong biên giới EU, và nếu cần thiết cả ở bên ngoài biên
giới. Do vậy quyết định về Lực lượng phản ứng nhanh chính là một bước tiến trong việc
khẳng định một bản sắc an ninh và phòng thủ châu Âu trong NATO, thực hiện chính sách
đối ngoại chung, giúp Tây Âu từng bước giải quyết các vấn đề an ninh của chính mình.
Theo đó, nếu bấy lâu nay châu Âu vẫn luôn được coi là có thế mạnh về chính trị và kinh tế
thì quyết định này sẽ giúp biến những thế mạnh đó của Tây Âu từng bước chuyển hoá có
hiệu quả thành sức mạnh quân sự. Thông qua việc lập ra một khả năng an ninh có hiệu quả,
EU có thể sử dụng những công cụ sẵn có để đưa châu Âu tiến một bước dài gần tới vị thế
ngang bằng hơn về chính trị với Mỹ, tiếng nói có trọng lượng hơn với thế giới. Hơn thế,
theo chiều ngược lại, việc phát triển sức mạnh quân sự sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh
tế bởi lẽ xây dựng một lực lượng quân sự sẽ đòi hỏi phải hiện đại hoá sức mạnh quân sự,
phát triển các loại vũ khí mới. Điều này sẽ giúp tạo ra công ăn việc làm, giải quyết phần
nào vấn đề thất nghiệp của Tây Âu. Do đó, những lợi ích kinh tế này sẽ là một trong những
nhân tố thúc đẩy liên minh quân sự trong vài năm đầu tiên tồn tại của nó. Ngoài ra, một lợi
ích nữa cũng cần được tính đến, đó là quyết định này sẽ đem lại một di sản lịch sử cho
chính bản thân từng cá nhân các nhà lãnh đạo EU. Lịch sử hình thành và phát triển của
Liên minh châu Âu sẽ khó có thể bỏ qua những nỗ lực đáng kể này của thế hệ các nhà lãnh

đạo EU trong việc đi tới một liên minh quân sự. Điều này sẽ góp phần củng cố vai trò và vị
trí của họ trên trường chính trị của từng quốc gia nói riêng. Tuy nhiên, đó là những tính
toán trên lý thuyết còn những công việc Tây Âu phải làm trên thực tế để biến ý tưởng đó
thành hiện thực thì còn rất nhiều thách thức:
1. Về chính trị
Đã có sự chia rẽ giữa các nước thành viên EU về khái niệm Bản sắc quốc phòng và an
ninh châu Âu. Tuy cùng nhận thức được là phải thực hiện các mục tiêu của mình với một
chính sách đối ngoại chung của EU, hai nước hùng mạnh nhất trong châu Âu là Pháp và
Đức lại có những ý đồ và mục tiêu riêng. Nước Đức nhận thức được cơ hội tăng thêm
trọng lượng của mình trong việc tự ràng buộc với chính sách đối ngoại chung của châu Âu
so với việc thực hiện chính sách đối ngoại riêng. Pháp muốn biến châu Âu dưới sự lãnh
đạo của mình thành một cực quyền lực và cho rằng có thể tìm lại vai trò bình đẳng của
mình so với các cường quốc khác thông qua con đường châu Âu. Pháp tiếp tục theo đuổi
chính sách dân tộc và cạnh tranh với Mỹ, tuy không công khai và trực diện như trước.

13


Bên cạnh đó, các nước Tây Âu chưa nhất trí về vấn đề tài chính để hỗ trợ cho chính
sách an ninh mới của châu Âu trong khi hầu hết các nước châu Âu thành viên NATO giờ
đây đều có xu hướng chi ít hơn cho quốc. Vì vậy, đây sẽ tiếp tục là một vấn đề nan giải mà
các nước thành viên EU phải giải quyết cho đến khi Lực lượng phản ứng nhanh chính thức
được thành lập. Ngoài ra, việc thành lập Lực lượng phản ứng nhanh lại làm nảy sinh mối
quan hệ bên trong giữa các tổ chức quân sự hiện có của Tây Âu. Hiện Tây Âu có các tổ
chức quân sự như Liên minh Tây Âu (WEU), Quân đoàn châu Âu và Lực lượng phản ứng
nhanh. Sẽ có sự chồng chéo nhiệm vụ giữa các tổ chức nói trên: trong những trường hợp
nào thì EU dùng đến WEU, Quân đoàn châu Âu và Lực lượng phản ứng nhanh? Có thể
thấy Tây Âu chưa sử dụng một cách có hiệu quả các tổ chức quân sự có sẵn trong tay hoặc
chưa tập hợp được các lợi ích về chính trị - quân sự của tất cả các thành viên EU để có một
tổ chức quân sự duy nhất của riêng mình. Chính vì vậy, hội nghị thượng đỉnh Cologne đã

thông qua việc xoá bỏ Liên minh Tây Âu vào cuối năm 2000 và chuyển giao những khả
năng của nó sang cho EU6.
2. Về quân sự
EU cũng phải tính đến việc Lực lượng phản ứng nhanh sử dụng các phương tiện có sẵn
của NATO và WEU. EU có thể sử dụng các phương tiện của WEU và NATO khi tiến hành
hành động quân sự không có đồng minh tham gia. Tuy nhiên, giữa NATO và WEU đã có
sự xác định rõ ràng những sắp xếp và cơ chế cho sự hợp tác cũng như thủ tục pháp lý để
châu Âu sử dụng các phương tiện của NATO trong trường hợp có các hoạt động của WEU.
Chính vì vậy, Mỹ và Tây Âu sẽ phải cùng nhau thảo luận việc trao đổi, hợp tác và minh
bạch giữa EU và NATO. Mặt khác, việc sử dụng các phương tiện và khả năng của NATO
cũng lại hạn chế khả năng của Lực lượng phản ứng nhanh EU vì lực lượng này không có
sẵn phương tiện và khả năng độc lập tác chiến. Khi có khủng hoảng xảy ra sẽ lại xảy ra
tình trạng lúng túng vì thiếu phương tiện trong tay và thiếu thời gian để xem xét tính chất
của cuộc khủng hoảng để quyết định có nên tham gia hay không. Đến khi lực lượng này
thực sự được triển khai thì có lẽ đã quá muộn, không còn mang tính chất "phản ứng nhanh"
hoặc vai trò đi đầu đã bị Mỹ nẫng tay trên. Còn trong trường hợp sử dụng các phương tiện
của NATO thì EU vẫn sẽ lại chịu sự chi phối nào đó của Mỹ và NATO vì các nước NATO
không phải là thành viên của EU sẽ được quyền tham gia.
Nguyễn Diệu Hương, Thành lập lực lượng phản ứng nhanh EU: Hệ quả tất yếu của cuộc
chiến Kosovo?,
6

14


Trong khi đó, thực trạng sức mạnh quân sự của các nước Tây Âu nói chung và từng
nước thành viên nói riêng hiện nay còn tồn tại rất nhiều yếu kém. Chi tiêu quốc phòng của
EU ít hơn rất nhiều so với Mỹ (khoảng 140 tỷ so với 290 tỷ/năm), công nghệ và nghiên
cứu cao cấp (30 tỷ so với 10 tỷ/năm) 7 và được đầu tư vào những lĩnh vực đem lại ít hiệu
quả như các dự án giống nhau ở nhiều nước thành viên EU. Hơn thế, quân đội của Tây Âu

có số lượng quá đông (một số nước hiện có hơn 1% dân số mặc quân phục) không phù hợp
với nhu cầu quân sự hiện nay và không có hiệu quả kinh tế. Chính vì vậy, kinh tế Mỹ và
Tây Âu có qui mô gần bằng nhau (khoảng 8000 tỷ đôla), nhưng tiềm năng quân sự của Tây
Âu chỉ bằng 1/5 sức mạnh quân sự của Mỹ 8. EU cần xác định được khoảng cách trong khả
năng quân sự của mình và chấm dứt tình trạng đó, lập nên kế hoạch quốc phòng ở cấp độ
châu Âu chứ không phải ở từng quốc gia, và xây dựng lại lực lượng quân đội để chi tiêu
dành cho quốc phòng đáp ứng yêu cầu. Do đó, để xây dựng Lực lượng phản ứng nhanh,
Tây Âu cần xây dựng một đội quân chiến đấu nhỏ gọn, tinh nhuệ, có khả năng chiến đấu
cao, được trang bị các phương tiện kỹ thuật hiện đại.
3, Thể chế và cách thức tiến hành:
Để tiến hành các mục tiêu đã đề ra, Liên minh Châu Âu đã tiến hành theo hai cách
thức: thiết lập sự hợp tác giữa các nước thành viên, thiết lập các bước hoạt động chung
trong các lĩnh vực àm các nước thành viên có những lợi ích chung quan trọng.9
Theo cách thứ nhất, các nước thành viên sẽ thông báo và bàn bạc với nhau trong khuôn
khổ Hội đồng Bộ trưởng châu Âu mọi vẫn đề về chính sách an ninh đối ngoại. Khi thấy
cần thiết, hội đồng có thể đề ra một lập trường chung và các nước thành viên sẽ điều chỉnh
chính sách quốc gia sao cho phù hợp và phải bảo vệ lập trường chung đó. Như vậy, các
nước thành viên sẽ vẫn giữ cho mình một chính sách đối ngoại và an ninh riêng.
Theo cách thứ hai, trách nhiệm được trao cho Hội đồng Bộ trưởng. Trên cơ sở các
phương hướng chung của Hội đồng Châu Âu, hội đồng Bộ trưởng sẽ quyết định trên
Nguyễn Diệu Hương, Thành lập lực lượng phản ứng nhanh EU: Hệ quả tất yếu của cuộc
chiến Kosovo?,
8 Nguyễn Diệu Hương, Thành lập lực lượng phản ứng nhanh EU: Hệ quả tất yếu của cuộc
chiến Kosovo?,
9 Đào Huy Ngọc (chủ biên) Liên minh châu Âu, học viên quan hệ quốc tế, Hà Nội, 1995,
trang 138
7

15



nguyên tắc bỏ phiếu nhất trí trường hợp nào được các nước liên minh “hành động chung”
và “hành động chung” đó được thực hiện như thế nào, nội dung và mục tiêu cụ thể ra sao.
Như vậy, có thể thấy rằng vai trò của các quốc gia ở đây vẫn rất lớn. Nó được biểu hiện
rõ nhất ở chỗ bỏ phiếu theo nguyên tắc nhất trí vẫn đóng vai trò quan trọng trong trình tự
đưa ra hành động chng. Tuy nhiên, vấn đề ưu tiên của các quốc gia là khác nhau nên cách
thức này đã cản trở và là nguyên nhân dẫn đến sự không đồng bộ trong hoạt động đối
ngoại của Liên minh. Một số thành viên của EU có lập trường trung lập trong các vấn đề
chính trị như Thụy điển, Ireland, Phần Lan. Để đi tới một sự thống nhất về một chính sách
an ninh đối ngoại chung có khả năng sẽ đòi hỏi một số lại định hướng về triển vọng chính
sách đối ngoại của các nước này - một sự thay đổi này sẽ khiến một phần dân số của họ có
thể phản đối. Với sự mở rộng về phía đông của Liên minh châu Âu và tăng gấp đôi gần
đúng của các thành viên của EU, hàng loạt các lợi ích chính sách đối ngoại sẽ mở rộng
đáng kể. Kết quả là, khả năng EU sẽ đạt được một sự đồng thuận là có khả năng giảm với
việc EU mở rộng. Ít nhất, thời gian thực hiện đàm phán một hành động chung là có khả
năng tăng, do đó hạn chế tốc độ và hiệu quả của một chính sách đối ngoại.
Như vậy, trong giai đoạn từ hiệp ước Masstricht tới trước hiệp ước Lisbon, chúng ta đã
thấy một sự phát triển rõ rệt của quá trình hội nhập về an ninh đối ngoại của Liên minh
Châu Âu. CFSP ra đời đã thể hiện sự rõ ràng và tiến bộ hơn EPC. Thứ nhất, CFSP thể hiện
một sự cam kết mạnh mẽ giữa các nước thành viên trong việc hoạch định chính sách
chung. Thứ hai, việc phố hợp hoạt động giữa các thành viên được quy định rõ ràng hơn là
thông qua đa số biểu quyết tại hội đồng. Thứ ba, CFSP đã nêu được toàn bộ nội dung các
vấn đề an ninh. Cuối cùng, CFSP đã trở thành một trong ba trụ cột trong thể chế của Liên
minh Châu Âu. Cùng với CFSP, Liên minh Châu Âu đã đặt mình như là một chủ thể riêng
biệt và thống nhất trên trường quốc tế, quyết tâm khẳng định vị thế chung của Liên minh.
Song trong giai đoạn này, chính sách phỏng thủ chung Liên minh Tây Âu vẫn chưa thể
thay thế được chính sách đối ngoại, an ninh và phòng thủ của mỗi quốc gia.

2.3, GIAI ĐOẠN SAU HIỆP ƯỚC LISBON.
Hiệp ước Lisbon ra đời năm 2007 và chính thức có hiệu lực từ ngày 1/12/2009. Hiệp

ước đã mang lại nhiều thay đổi cho Liên minh Châu Âu, đặc biệt trong chính sách đối
ngoại và an ninh chung. Nhiều công cụ chính sách đối ngoại của EU được quy tụ dưới sự

16


lãnh đạo của một cơ quan: các chương trình viện trợ phát triển và các hiệp định thương mại
sẽ do Ủy ban châu Âu quản lý và một loạt các vấn đề về an ninh, khủng hoảng, quân đội và
cảnh sát hiện tại đang được điều khiển bởi 27 quốc gia thành viên thông qua Hội đồng các
Bộ trưởng. Nhà lãnh đạo Chính sách Đối ngoại mới, Nữ Nam tước Catherine Ashton được
biết đến là “Đại diện Cấp cao” sẽ nắm giữ vị trí thứ hai của cả Ủy ban châu Âu (Cơ quan
hành pháp của EU)10 và Hội đồng Bộ trưởng mà các Bộ trưởng của các nước thành viên
cùng với Nghị viện châu Âu quyết định các quan điểm và chính sách của EU. Bà Ashton sẽ
chủ tọa các phiên họp về chính sách đối ngoại của EU và đề xuất chương trình hành động.
Bà cũng sẽ chỉ đạo các công cụ khác của Liên minh - viện trợ, thương mại, quân đội, cảnh
sát.... thông qua cơ quan ngoại giao mới: cơ quan Hoạt động Đối ngoại châu Âu. Điều này
không có nghĩa là Đại sứ quán của 27 quốc gia thành viên hay viện trợ hoặc các chương
trình của họ tại các nước ngoài EU sẽ bị giảm đi. Bằng việc chủ tọa các phiên họp về chính
sách đối ngoại của EU và điều hành các công cụ EU khác, nữ Nam tước Ashton sẽ dần
mang các chương trình và chính sách của các quốc gia thành viên lại gần nhau hơn. Các
quan điểm và hành động của các nước thành viên sẽ ngày càng gắn kết hơn và được phối
hợp tốt hơn trong EU. Đây là một giai đoạn phát triển xa hơn của Liên minh châu Âu: từng
bước và dựa hoàn toàn trên mong muốn của các nước thành viên, các thể chế đang hoạt
động và các nguyên tắc dân chủ mạnh mẽ.
Mục tiêu cơ bản11 của CFSP theo như hiệp ước Lisbon bao gồm 8 mục tiêu:
- Bảo vệ các giá trị chung, các quyền lợi căn bản, nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ
- Củng cố và ủng hộ dân chủ, luật pháp, nhân quyền và các điều luật của luật quốc tế
- Duy trì hoa bình, chống xung đột, đảm bảo an ninh thế giới trong khuôn khổ Hiến
chương Liên hiệp quốc, đạo luật Heneski và hiến chương Paris
- Thúc đẩy hợp tác kinh tế, xac hội với các nước đang phát triển nhằm mục tiêu chống

đói nghèo
- Tăng cường sự hội nhập giữa các nước trên thế giới trong lĩnh vực kinh tế
Background: “The High representative for Foreign Affairs and Security Policy” on
November 2009
11 Common foreign and security policy:
/>10

17


- Giúp đỡ các nước hoàn thiện phương thức quốc tế về bảo vệ môi trường nhằm mục
tiêu phát triển bền vững
- Hỗ trợ giải quyết các vấn đề dân số, thiên tai
- Tăng cường hệ thống quốc tế với nền tảng là hợp tác đa phương mạnh mẽ
Thêm vào đó, sau năm 2007, EU chính thức mở rộng thêm 2 thành viên, nâng tổng số
thành viên lên đến 27 nước. Trong khi đó, với tham vọng của các nhà lãnh đạo châu Âu,
con số thành viên của EU không chỉ dừng lại tại đấy.
Với sự mở rộng lãnh thổ và những biến chuyển trong tình hình thế giới từ năm 2007
đến nay đã tạo ra rất nhiều thách thức cho các nước thành viên hoàn thiện và thực thi
CFSP.
Thứ nhất, là một liên minh có đông thành viên, khó tránh EU có nhiều ý kiến trái
chiều, bất đồng. Song điều đó cũng làm cho những người chủ trương đẩy nhanh việc xây
dựng và hoàn thiện CFSP thêm lo ngại các thành viên không những không nỗ lực khắc
phục mà đôi khi có phản ứng gây chia rẽ nội bộ sâu sắc.
Sự thiếu hụt ý chí của các quốc gia thành viên do vấn đề chính trị còn là vấn đề nhạy
cảm liên quan trực tiếp đến lợi ích và chủ quyền của mỗi quốc gia. Nhiều nước thành viên
tỏ thái độ nghi ngờ, lo sợ cuộc phiêu lưu chính trị này sẽ kéo dài mà kết quả đem lại không
đáng kể. Nhiều công dân của một số quốc gia nhỏ của EU cho rằng không cần thiết phải
tham gia vào 1 tổ chức và chấp nhận sự lãnh đạo của ngoài quốc gia. Hợp tác chính trị quá
phúc tạp và có khả năng ảnh hưởng đến căn cước quốc gia, họ ngờ vực chính sách này sẽ

chỉ phục vụ lợi ích của các nước lớn trong liên minh. Còn nhiều người dân của các nước
lớn như Anh, Pháp, Đức… cũng lo ngại sẽ phải gánh chịu thêm chi phí cho những hoạt
động này. Phản đối từ dân chúng, những lợi ích quốc gia bị chia rẽ khiến nhiều nước thành
viên mất đi nhiệt tình tham gia hoặc tham gia một cách cầm chừng.12
Thứ hai, tác động của yếu tố Mỹ đối với các nước thành viên. E ngại sự lớn mạnh của 1
cực mới sẽ làm tổn hại đến vị trí độc tôn, nước Mỹ muốn làm một điều gì đó có ảnh hưởng
đến chính sách đối ngoại của EU và bảo hộ EU về phương diện an ninh thông qua NATO.
Tạp chí Nghiên cứu châu Âu: Chính sách đối ngoại và an ninh chung của Liên minh châu
Âu – Một số vấn đề và khả năng thực thi, số 1(312) 2010
12

18


Kiểm soát được EU có nghĩa là Mỹ đã nắm trong tay hầu hết lục địa Châu Âu. Vậy mà giờ
đây, EU đang thực thi chính sách đối ngoại tự chủ và an ninh quốc phòng độc lập, đó là
điều Mỹ không mong muốn. Quan hệ giữa Mỹ và EU luôn thể hiện tính hai mặt: vừa là đối
tác hàng đầu, vừa là đối thủ cạnh tranh. Những mối quan hệ phụ thuộc cảu các nước Tây
Âu và Mỹ trong lịch sử đã để lại những tác động nhất định. Mức độ quan hệ giữa Mỹ và
các nước thành viên là khác nhau. Đây cũng chính là điều kiện thuận lợi để Mỹ gây ảnh
hưởng và chia rẽ nội bộ EU.
Thứ ba, các chủ thể liên quan đến việc mở rộng EU vẫn đề cập đến sự qua lại của
“chiến lược và quyền lợi riêng”. 13 Một số nước còn cho rằng đó là sự xâm lược của một số
chính trị gia châu Âu, làm mất chủ quyền quốc gia. Đó là kết quả của sự hội nhập toàn diện
của EU và quá trình toàn cầu hóa. Tác động của nó gây nhiều khó khăn trong việc phân
định chính sách đối nội và đối ngoại, thách thức lập trường liên chính phủ. Khi đặc tính cơ
bản của dân tộc thay đổi, những đặc trưng mới đó tác động qua lại tạo ra đã vượt qua khỏi
phạm vi quốc gia, có nghĩa là CFSP đã vượt qua khỏi nguyên tắc liên chính phủ, bất chấp
những hạn chế của khung thể chế.
Luôn tồn tại những lợi ích chung trong việc duy trì sự phát triển của CFSP. Tuy nhiên

để cân bằng lợi ích quốc gia và tính tập thể là điều không dễ dàng. Một số quốc gia thành
viên thậm chí còn có xu hướng coi CFSP là yếu tố thêm vào chứ không thay thế chính sách
đối ngoại của riêng quốc gia hoặc có thể làm nền cho chính sách đối ngoại riêng của họ.
Chẳng hạn như vấn đề xung đột tại Libi đang châm ngòi cho những bất đồng trong nội
khối EU. Tại Hội nghị cao cấp của EU họp tại Bruxel (Bỉ) trong hai ngày 24-25/3/2011 đã
kết thúc trong bất đồng và chưa giải quyết được mâu thuẫn giữa các bên. Nhà lãnh đạo các
nước EU đã có 'sự đồng thuận' về vấn đề Li-bi. EU kêu gọi nhà lãnh đạo Libi ông
M.Gadafi từ chức ngay lập tức, sẽ áp dụng các lệnh trừng phạt nghiêm khắc hơn đối với
Tripoli; song lại nhấn mạnh, tương lai chính trị của Libi do người dân nước này tự quyết
định. Ðiều này chứng tỏ EU có những quan điểm khác nhau, mâu thuẫn nhau trong xử lý
quan hệ với Libi. Pháp và Anh là những nước đi đầu và tham gia tích cực chiến dịch 'Bình
minh Ô-đi-xê' của liên quân tiến công quân sự vào Libi, nhưng Ðức bỏ phiếu trắng đối với
dự thảo nghị quyết của HÐBA LHQ về Libi, sau đó rút quân khỏi vùng Ðịa Trung Hải
ngay sau liên quân tiến công Libi. Bun-ga-ri khẳng định, sự can dự của một số nước lớn
13

Chistos Kollias “Burden sharing aspects of European Union Common Defense Policy”

19


trong EU vào Libi là hành động mạo hiểm. Tại cuộc họp hôm 21-3 ở Bruxel, các bộ trưởng
ngoại giao EU đã không hàn gắn được rạn nứt giữa các nước thành viên tổ chức này chung
quanh chiến dịch can thiệp quân sự vào Libi cũng như vai trò của Tổ chức NATO trong
chiến dịch này.
Ðối với các nước châu Âu, Libi có tầm quan trọng cả về địa-chính trị và kinh tế. Libi
được coi là một thành viên 'nặng ký' trong kế hoạch thiết lập tổ chức các quốc gia vùng Ðịa
Trung Hải, là đối tác của một số nước EU. Libi có trữ lượng dầu khí phong phú và là cửa
ngõ vào châu Phi của các cường quốc châu Âu. Nhiều nước EU đang nhập một khối lượng
lớn dầu mỏ từ Libi, một mặt do chất lượng dầu mỏ cao, mặt khác việc vận chuyển thuận

lợi. Như vậy với chiêu bài lợi dụng những bất ổn chính trị tại Libi, các quốc gia tham chiến
đang bảo vệ cho lợi ích cá nhân của họ. Chính điều này đã làm khoét sâu hơn mâu thuẫn
giữa nội bộ các quốc gia trong EU, làm cho việc tìm kiếm một tiếng nói chung bị bế tắc.
Thứ tư, một số người cho rằng việc đồng thời hoạch định CFSP cùng với việc mở rộng
EU là điều phi logic, thậm chí cho rằng không thể hoạch định được CFSP khi mà đường
biên giới của EU còn chưa được xác định. Trong tham vọng mở rộng châu Âu của mình,
các nhà lãnh đạo EU đang xem xét kết nạp thêm Thổ Nhĩ Kỳ và một số nước khác thuộc
Đông Nam Âu – một trong những khu vực bất ổn, luôn tiềm tang những nguy cơ ảnh
hưởng đến hòa bình và an ninh của châu Âu. Điều này khiến cho nhiều nước thành viên lo
ngại về một bức tranh EU mở rộng nhưng lại chứa quá nhiều mâu thuẫn trong đấy. Họ chủ
trương duy trì một CSĐN chung của EU ở một mức độ nhất định. Như vậy, ý tưởng của
EU với tâm điểm là sự tự nguyện và khả năng là sự hội nhập sâu hơn trong vấn đề CSĐN
trở nên đặc biệt nhạy cảm. Trước khi tạo ra một EU thống nhất trong lĩnh vực đối ngoại, có
thể trao cho CFSP sự linh hoạt cần thiết để thoát ra khỏi bế tắc như hiện nay.
Vì mục tiêu thống nhất và liên kết, điều quan trọng là CFSP phải xác định được vấn đề
ưu tiên và lĩnh vực trọng tâm, ví dụ như chiến lược chung, đặc biệt khi EU mở rộng sẽ rất
khó khăn trong việc ưu tiên đến chính sách đối ngoại. Việc mở rộng có thể sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến sự cân bằng giữa chủ nghĩa liên chính phủ và chủ nghĩa hội nhập khi các quốc
gia nhều hơn sẽ đòi hỏi hội đồng ra quyết định lớn hơn
Thứ năm, trước những diễn biến phức tạp của vấn đề nợ công tại các nước EU, các
nước thành viên cũng đang có những mâu thuẫn trong việc giải quyết tình trạng này.

20


Hệ quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 đã kéo theo cuộc khủng hoảng
nợ công đang diễn ra tại khu vực châu Âu hiện nay. Điển hình nhất là tình trạng nợ công
của Hy Lạp, Ireland, Bồ Đào Nha mà trong số đó, trường hợp của Hy Lạp đang gây ra
những mâu thuẫn trong nội bộ khối EU khi mà các nước thành viên không đưa ra được một
biện pháp chung. Các giải pháp đưa ra chỉ mang tính chất nhất thời, không có có được sự

phối hợp đồng bộ giữa các nước với nhau.
Một sô ý kiến đưa ra muốn loại Hy Lạp khỏi khu vực Eurozone nhưng một số nước lại
phản đối quyết định này. Trên thực tế, nếu loại Hy Lạp ra khỏi khu vực đồng Euro sẽ gây
ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế của không chỉ trong EU mà còn ảnh hưởng
nghiêm trọng đến nền kinh tế thế giới vốn đang rất mẫn cảm sau cuộc đại suy thoái.
Thêm vào đó là sự mâu thuẫn giữa các nước tham gia vào cuộc giải cứu Hy Lạp. Các
nước lớn như Đức, Pháp có thái độ rất quyết liệt trong khi những nước nhỏ hơn lại tỏ ra
khá thờ ơ. Trong khi đó, tình hình trong nước của những quốc gia này cũng rất đáng lo
ngại khi mà các chính sách thắt lưng buộc bụng liên tục được đưa ra, thuế tăng cao, ảnh
hưởng đến chất lượng đời sống người dân. Họ không muốn chính phủ nước mình tiếp tục
trợ giúp một quốc gia không có khả năng trả nợ như Hy Lạp.
Như vây, chính sách đối ngoại luôn luôn là vẫn đề hết sức nhạy cảm, kể từ khi ý tưởng
về một CSĐN chung được đưa ra cho đến sau khi Hiệp ước Lisbon được ký kết. Cùng với
những bất ổn đang ngày càng gia tăng trên thế giới, các nước trong khu vực EU cũng phải
đối mặt với những thách thức trong việc thực thi một chính sách chung, mang tiếng nói
chung của người dân châu Âu về lĩnh vực an ninh, đối ngoại. Tuy nhiên, mặt tích cực của
CSĐN này có được sau Hiệp ước Lisbon là đã có được một người thay mặt cho 27 quốc
gia thành viên nói lên tiếng nói chung của người dân châu Âu. Chính điều này đã làm cho
EU rút ngắn lại khoảng cách, từng bước tiến đến hình thức siêu quốc gia trong lĩnh vực
liên minh về chính trị.
KẾT LUẬN
Tóm lại, trải qua hang chục năm hình thành và phát triển CFSP của EU ít nhiều đã
chứng minh được vai trò của mình và đã đạt được những thành công nhất định trong quá
trình xây dựng một EU thịnh vượng ở châu Âu nói riêng và trên thế giới nói chung. Tính
tới thời điểm hiện nay, chưa có một tổ chức hay liên minh nào có thể đạt tới sự liên kết cao

21


như Liên minh Châu Âu. Bên cạnh đó, ở cục diện và bối cảnh thế giới còn nhiều biến động

như hiện nay, CFSP đã, đang và sẽ gặp nhiều thách thức. Nhưng đó là điều dễ hiểu bởi
không một quốc gia nào là không có những khó khăn cần giải quyết và đặc biệt là một
“cường quốc” như EU. Và để hoàn thiện và thực thi CFSP EU cần thống nhất ý chí các
quốc gia thành viên và nâng cao vị thế về mọi mặt trên trường quốc tế.
Đánh giá về triển vọng của chính sách đối ngoại và an ninh chung của Liên minh
Châu Âu, nhóm tác giả xin được đưa ra một cái nhìn tích cực. Trong quá trình phát triển
của chính sách an ninh và đối ngoại chung, Liên minh Châu Âu đã mất tới 47 năm để biến
một ý tưởng (trong kế hoạch Pleven) thành một văn bản có tính pháp lý ( trong hiệp ước
Maastricht) và mất tiếp 17 năm tiếp theo ( từ hiệp ước Maastricht đến hiệp ước Lisbon) để
bổ sung điểu chỉnh. Như vậy tính tới thời điểm hiện nay, hiệp ước Lisbon mới chỉ đưa vào
thực hiện có 2 năm. Đó là một khoảng thời gian quá ngắn để có thể nói lên bất kì kết luận
nào về tương lai của chính sách đối ngoại và an ninh chung của Liên minh Châu Âu. Tuy
nhiên, những khó khăn không phải bây giờ mới tồn tại. Và đối mặt với những khó khăn đã
có, Liên minh Châu Âu EU đã luôn chọn cách đối đầu và vượt qua thay vì từ bỏ. Thêm vào
đó, EU luôn luôn thể hiện tham vọng không bao giở tắt của mình về một bản chính sách
đối ngoại và an ninh chung từ khi ra đời cho tới nay. Chính vì vậy, nếu nhận định tích cực
về tương lai của CFSP là một điều hoàn toàn có tính cơ sở và đáng để mong đợi trong
tương lai.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách và tạp chí:
1, Đào Huy Ngọc (chủ biên), Liên minh châu Âu, Học viên quan hệ quốc tế, Hà Nội,
1995.

22


2, Bùi Hồng Hạnh, “Chính sách đối ngoại và an ninh chung của Liên minh Châu Âu
(CFSP)-Một số vấn đề và khả năng thực thi”, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 1(312),
2010, trang 16

3, Dương Thanh Bình, “Những thách thức đối với Liên minh Châu Âu trong giai đoạn
hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 36,2000, trang 63-64.
4, Đào Huy Ngọc (chủ biên), Liên minh châu Âu, học viên quan hệ quốc tế, Hà Nội,
1995.
5, Đào Huy Ngọ, Liên minh châu Âu, Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội, 1995.
6, Reinmund Seidelmann, Problems and Prospects of the Common Foreign and Security
Policy (CFSP) and European Security and Defence Policy (CESDP): A German View.
7, Chistos Kollias , Burden sharing aspects of European Union Common Defense
Policy
8, Speech of High Representative Catherine Ashton on main aspects and basic choices
of the Common Foreign and Security Policy and the Common Security and Defence
policy.
9, The Treat of Lisbon : an impact assessment, volume I: report, The Authority of
the House of Lords, 2008
10, Annual report from the High Representative of the Union for Foreign Affairs and
Security Policy to the European Parliament on the main aspects and basic choices of the
CFSP, 2009

Các trang web:
1, Nguyễn Diệu Hương, “Thành lập lực lượng phản ứng nhanh EU: Hệ quả tất yếu của
cuộc chiến Kosovo?”


23


2, />3, />4, />mode=print#7IiVVvH0zRrw
5, />6, />
24




×