Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ TRONG CÔNG CUỘC PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.96 KB, 30 trang )

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ TRONG
CÔNG CUỘC PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
MỤC LỤC
A. MỘT SỐ NHẬN THỨC VÀ TÌNH HÌNH VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRÊN
THẾ GIỚI NGÀY NAY
I. XU THẾ BÌNH ĐẲNG GIỚI: VAI TRÒ NGÀY CÀNG TĂNG CỦA PHỤ

NỮ TRONG TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN

1. Các mặt bình đẳng giới
1.1. Trong lĩnh vực chính trị
1.2. Trong lĩnh vực kinh tế
1.3. Trong lĩnh vực giáo dục và y tế
2- Vai trò của phụ nữ trong xã hội hiện đại
B. PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ TRONG CÔNG CUỘC PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
I. SỰ THAM GIA VÀ VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ TRONG CÔNG CUỘC PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG

1. Trong lĩnh vực chính trị
2. Trong lĩnh vực kinh tế
3. Trong nghiên cứu khoa học
4. Trong cuộc sống gia đình
II. MỘT SỐ HẠN CHẾ ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ PHỤ NỮ
III. TRÁCH NHIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC TÁC NHÂN TRONG XÃ HỘI
ĐỐI VỚI SỰ TIẾN BỘ CỦA PHỤ NỮ

1. Trách nhiệm và vai trò của nhà nước
2. Vai trò và trách nhiệm của các cấp Hội phụ nữ
3. Vai trò và trách nhiệm của nam giới
4. Trách nhiệm của bản thân người phụ nữ


CIEM- Trung tâm Thông tin – Tư liệu

1


A. MỘT SỐ NHẬN THỨC VÀ TÌNH HÌNH VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
TRÊN THẾ GIỚI NGÀY NAY
I. XU THẾ BÌNH ĐẲNG GIỚI: VAI TRÒ NGÀY CÀNG TĂNG CỦA PHỤ
NỮ TRONG TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN

Trong những năm qua, nhất là trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21, thế
giới đã đạt được những tiến bộ đáng kể về bình đẳng giới. Tuy nhiên, sự phân
biệt về giới vẫn phổ biến trong mọi mặt của cuộc sống. Theo một nhận định
của Ngân hàng Thế giới, cho đến nay, không một khu vực nào của các nước
đang phát triển, phụ nữ lại có quyền bình đẳng với nam giới về luật pháp, xã
hội và kinh tế. Khoảng cách về giới vẫn còn rất sâu rộng trong việc tiếp cận và
kiểm soát các nguồn lực, trong các cơ hội kinh tế, quyền lực và tiếng nói
chính trị. Chính vì những lý do đó, nên bình đẳng giới đã trở thành vấn đề
trung tâm của sự phát triển.
Có thể thấy rằng, bình đẳng giới- bản thân nó đã là một mục tiêu phát triển,
đồng thời cũng là một yếu tố để nâng cao khả năng tăng trưởng của một quốc
gia. Vì vậy, hầu hết các nước trên thế giới đã coi việc nâng cao bình đẳng giới
là một phần quan trọng trong chiến lược phát triển nhằm cho phép tất cả mọi
người thoát khỏi cảnh đói nghèo và cải thiện các điều kiện sống. Thực tế cho
thấy, bất bình đẳng giới làm chậm bước tiến trình phát triển- do đó, nâng cao
bình đẳng giới cần trở thành một phần của bất cứ chiến lược nào về phát triển
bền vững. Những bất bình đẳng về quyền hạn, nguồn lực và tiếng nói chính trị
thường gây bất lợi cho phụ nữ, mặc dù chúng cũng tác động xấu tới các đối
tượng khác trong xã hội và cản trở sự phát triển. Theo nhận định của Ngân
hàng Thế giới, ngay cả các chính sách phát triển trung tính về giới (hiểu theo

nghĩa không có sự phân biệt giới) vẫn có thể tạo ra những kết cục phân biệt về
giới. Bởi vì những yếu tố như chuẩn mực và định kiến xã hội, cách thức phân
công lao động trong gia đình, tiếp cận nguồn lực khác nhau đã cản trở phụ nữ
và nam giới, khiến họ không thể tận dụng các cơ hội kinh tế như nhau, cũng
như không thể khắc phục các rủi ro kinh tế giống nhau. Nếu các chính phủ
không nhận thức được sự khác biệt về giới khi thiết kế các chính sách thì có
thể có hại cho hiệu lực của chính sách đó, xét cả trên khía cạnh công bằng và
hiệu quả.
Trong chuyên đề này, khái niệm bình đẳng giới được hiểu theo nghĩa bình
đẳng về luật pháp, về cơ hội- bao gồm sự bình đẳng trong việc tiếp cận nguồn
CIEM- Trung tâm Thông tin – Tư liệu

2


nhân lực, vốn và các nguồn lực sản xuất khác, bình đẳng trong việc được trả
lương- và trong tiếng nói. Cụ thể, phụ nữ và nam giới có vị thế bình đẳng như
nhau và cùng: có điều kiện bình đẳng để phát huy hết khả năng và thực hiện
các nguyện vọng của mình; có cơ hội bình đẳng để tham gia, đóng góp và thụ
hưởng các nguồn lực xã hội và thành quả phát triển; và được bình đẳng trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
1. Các mặt bình đẳng giới
1.1. Trong lĩnh vực chính trị
Trong bình đẳng giới, quyền bình đẳng về chính trị là một vấn đề then
chốt. Cụ thể là cần phải tăng cường tiếng nói và sự tham gia hoạt động chính
trị của phụ nữ. Sự thay đổi về thể chế nhằm tạo ra sự bình đẳng giới trong các
quyền cơ bản là nền tảng để đảm bảo sự bình đẳng giới lớn hơn trong tiếng
nói và sự tham gia hoạt động chính trị. Thực tế cho thấy rằng, các chính sách
và chương trình nâng cao sự bình đẳng về giáo dục và tiếp cận thông tin có
thể củng cố các tổ chức đại diện của phụ nữ và do đó, tăng cường năng lực

tham gia vào diễn đàn chính trị của phụ nữ. Phụ nữ trong thế kỷ 20 đã giành
được quyền bầu cử ở hầu hết tất cả các nước. Khoảng cách giới trong bầu cử
đã giảm xuống, nhất là ở những nước có tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu cao.
Ngoài những nỗ lực để thúc đẩy tiếng nói của phụ nữ trong việc hoạch
định chính sách ở cấp chính quyền trung ương, việc lập kế hoạch phát triển
với sự tham gia của quần chúng được khuyến khích như một phần trong
những nỗ lực phân quyền trong các chính phủ ở Ấn Độ, Phillipines, Bolivia,...
Ở Kerala, Ấn Độ, người ta đang cố gắng để trao cho phụ nữ nghèo quyền
được theo dõi việc lựa chọn đối tượng thụ hưởng cho các chương trình xóa
đói giảm nghèo và tăng cường sự tham gia của họ trong việc lập ra những kế
hoạch đầu tư hàng năm của chính quyền địa phương. Vào đầu thế kỷ 20, các
nước Bắc Âu đã mở rộng quyền bầu cử của phụ nữ bình đẳng với nam giới.
Tại Trung Quốc, Luật Hôn nhân của chính phủ đã tạo ra các tiêu chuẩn về
quyền bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới trong vấn đề kết hôn, ly hôn và sinh
con. Tại Ai Cập, vào đầu năm 2000, một liên minh tạm thời giữa các nhà lãnh
đạo cao nhất của chính phủ với các tổ chức xã hội dân sự đã mở rộng các
quyền của phụ nữ trong luật gia đình.

CIEM- Trung tâm Thông tin – Tư liệu

3


Tuy nhiên, thực tế cho thấy, phụ nữ vẫn ít có khả năng tham gia bàn luận
chính trị hơn nam giới, nhất là trong nhóm người lớn tuổi và nhóm có trình độ
học vấn thấp. Phụ nữ vẫn còn đại diện rất ít trong các cơ quan dân cử, và phân
biệt giới vẫn còn tiếp tục tồn tại trong các hội đồng địa phương và quốc gia.
Bên cạnh đó, phụ nữ vẫn có rất ít đại diện trong bộ máy điều hành chính phủ.
Ở Trung Đông và Bắc Phi, phụ nữ chỉ chiếm 2% trong nội các chính phủ,
trong khi ở Đông Á và Thái Bình Dương, con số đó là 4%. Ở Châu Mỹ

Latinh, Đông Âu và Trung Á, phụ nữ chiếm 7-8% số ghế bộ trưởng. Theo Báo
cáo của Ngân hàng thế giới, kinh nghiệm gần đây của hơn 30 quốc gia, bao
gồm Argentina, Ấn Độ, và Philippines cho thấy việc “dành ghế” cho phụ nữ
trong các tổ chức chính trị có thể chỉ là cách hữu hiệu để tăng mức độ tham
gia và đại diện về mặt chính trị của phụ nữ trong các hội đồng địa phương và
quốc gia trong những khoảng thời gian tương đối ngắn. Từ thập kỷ 80 cho đến
đầu những năm 90, bình đẳng giới về quyền chính trị và luật pháp dường như
đã được cải thiện chút ít ở hầu hết các khu vực, trừ châu Âu và Trung Á là bị
suy giảm, và ở Nam Á là nơi dường như không có sự thay đổi gì.
1.2. Trong lĩnh vực kinh tế
Phát triển kinh tế mở rộng các cơ hội việc làm và tăng năng suất trong thị
trường lao động, đồng thời dẫn đến sự hình thành các thị trường lao động mới,
tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia vào các hoạt động kinh tế. Nhiều nước trên
thế giới đã sửa đổi luật lao động để quy định sự đối xử bình đẳng- và cơ hội
bình đẳng- giữa nam và nữ trong vấn đề việc làm. Tại Colombia và Coxta
Rica, vào những năm 80, các biện pháp cải cách ruộng đất nhằm công khai
giải quyết các bất bình đẳng giới trong tập quán thừa kế đã mở rộng đáng kể
quyền sở hữu đất đai cho phụ nữ
Tăng trưởng kinh tế thường đi kèm với việc đầu tư nhiều hơn vào hạ tầng
cơ sở. Các khoản đầu tư này cùng với việc phát triển thị trường cho các lao
động thay thế có thể làm giảm nhẹ các công việc phi thị trường của phụ nữ và
đem lại cho họ nhiều cơ hội làm công ăn lương cũng như thời gian rảnh rỗi,
tạo điều kiện phá bỏ sự phân công lao động cứng nhắc. Cùng với đó, việc
giảm nhẹ gánh nặng công việc gia đình cũng có thể đem lại những lợi ích tiềm
tàng cho sức khoẻ của người phụ nữ, cho thu nhập của hộ gia đình, và cho
việc học tập của trẻ em gái.

CIEM- Trung tâm Thông tin – Tư liệu

4



Hộp 1: Phụ nữ và việc sử dụng máy tính trong công việc
Hai thập kỷ qua đã chứng kiến sự tăng trưởng chưa từng có trong việc ứng dụng
máy tính vào công việc. Tại Mỹ, số lượng phụ nữ sử dụng máy vi tính trong
công việc nhiều hơn nam giới. Ví dụ, từ năm 1993 tại Mỹ, phụ nữ có xu hướng
sử dụng máy vi tính nhiều hơn nam giới 33%. Tại các nước đang phát triển, phụ
nữ vẫn đang còn là nhóm thiểu số trong số những người dùng máy vi tính với tỷ
lệ từ 35-37% ở Trung Quốc và Braxin và chỉ là 6% tại Trung Đông. Và mặc dù
tỷ lệ phụ nữ sử dụng công nghệ thông tin ngày càng tăng lên, song điều đó
không nhất thiết là phụ nữ đang vươn tới việc tham gia một cách ngang bằng với
nam giới trong thị trường lao động. Ở Ấn độ và Malaysia, mặc dù công nghệ
thông tin đã làm tăng tỷ lệ đi làm cho phụ nữ, một phần lớn trong số những lao
động mới này đảm nhận các vị trí công chức đòi hỏi kỹ năng thấp. Như vậy, với
việc ngày càng nhiều người sử dụng công nghệ máy vi tính, sự khác biệt trong
việc ứng dụng công nghệ, chứ không phải là tỷ lệ sử dụng, sẽ xác định phụ nữ
hay nam giới là người hưởng lợi từ cuộc cách mạng công nghệ này.

Tuy vậy, từ trước tới nay, nam giới có tỷ lệ tham gia lực lượng lao động
cao hơn phụ nữ- và hình thái này vẫn đang tiếp diễn. Bên cạnh đó, phụ nữ vẫn
tiếp tục nhận được mức thù lao thấp hơn của nam giới. Những nghiên cứu
thực tiễn gần đây từ 71 nước đã cho thấy rằng, tính trung bình ở các nước phát
triển, phụ nữ chỉ nhận được bằng 77% tiền lương của nam giới, và ở các
nước đang phát triển thì con số này chỉ là 73%.

Bảng 1: Thu nhập tương đối của nữ so với nam

Tỷ số thu nhập
CIEM- Trung tâm Thông tin – Tư liệu


Khoảng cách giới

Phần khoảng cách
5


của nữ so với nam

không giải thích
được (%)

Các nước phát
triển (n= 19)

0,77

0,23

80,4

Các nước đang
phát triển (n=42)

0,73

0,27

82,2

Ghi chú: Khác giới về thu nhập là tỷ lệ chênh lệch giữa mức lương trung bình

của nữ và nam (1 trừ đi tỷ số thu nhập giữa nữ và nam). Phần khoảng cách
không giải thích được trong thu nhập và phần không giải thích được bằng các
đặc điểm cá nhân như trình độ học vấn, kinh nghiệm công tác và đặc tính nghề
nghiệp.
Nguồn: Ngân hàng Thế giới

1.3. Trong lĩnh vực giáo dục và y tế
Giáo dục là vấn đề cốt lõi để mỗi người có khả năng phản ứng lại trước
những cơ hội mà sự phát triển đem lại. Giáo dục cơ sở là nền tảng để phát
triển các kỹ năng linh hoạt vốn rất cần thiết, nhất là khi thế giới đang chuyển
sang thời đại thông tin và các sản phẩm có hàm lượng chất xám cao. Những ai
không có điều kiện tiếp cận đến giáo dục cơ sở có nguy cơ bị loại khỏi những
cơ hội mới, và ở những nơi mà khoảng cách về giới vẫn còn rộng và tồn tại
dai dẳng trong giáo dục thì phụ nữ sẽ có nguy cơ ngày càng cao là bị tụt hậu
đằng sau nam giới trong khả năng tham gia vào quá trình phát triển. Ở Ấn Độ,
các nhà nghiên cứu đã quan sát 5 thế hệ liên tiếp của một gia tộc và khám phá
ra giáo dục đã thay đổi đời sống của người phụ nữ. Kết quả là họ kết hôn
muộn hơn, có ít con hơn, kiến thức của họ về sự chăm sóc sức khoẻ con cái
dồi dào, kể cả những phương thức ngừa thai. Giáo dục cũng gia tăng vị trí và
tiếng nói của người phụ nữ trong một gia đình. Phụ nữ có cắp sách tới trường
khoảng từ 6 tới 10 năm có 47 % cơ hội được quyết định mọi việc trong nhà
hơn là phụ nữ ít hay không được đi học.
Từ đó có thể thấy rằng, một trong những điểm tiến bộ trong bình đẳng giới
là việc tham gia vào các hoạt động giáo dục ngày càng tăng ở hầu hết các
nước trên thế giới. Trong những năm gần đây, tỷ lệ số nữ sinh tiểu học và
trung học đã tăng lên theo thời gian. Ở nhiều nơi trên thế giới, tỷ lệ tiểu học
ổn định ở mức cao- như khu vực Đông Á và Thái Bình Dương, châu Mỹ

CIEM- Trung tâm Thông tin – Tư liệu


6


Latinh và vùng Caribe, Châu Âu và Trung Á. Ở những vùng này, tỷ lệ tổng nữ
sinh tiểu học đạt hoặc gần đạt 100%. Theo khảo sát của Ngân hàng Thế giới,
Đông Á, châu Mỹ Latinh, châu Âu và Trung Á đạt mức độ bình đẳng giới cao
nhất trong giáo dục. Ở các vùng này, tỷ lệ nữ sinh trung học bình quân hiện
nay đã cao hơn của nam giới, và xét trung bình, số năm đi học của phụ nữ đã
bằng khoảng 90% của nam giới. Tại các nước Arap, trong vòng 20 năm qua,
tỷ lệ phụ nữ được xóa mù chữ đã tăng 68%. Nhìn chung, hoàn cảnh của phụ
nữ đã được cải thiện rất nhiều trong phần lớn các nước này, như: ở cấp đại
học, cứ 3 sinh viên thì có 2 sinh viên nữ, trong khi cách đây 20 năm, 3 sinh
viên nam mới có 1 sinh viên nữ. Có tới 32 quốc gia có số sinh viên nữ nhiều
hơn sinh viên nam. Tỷ lệ thoát nạn mù chữ của phụ nữ tại 3 nước: Urugoay,
Jamaica và Nicaragoa cao hơn so với nam giới. Không những tỷ lệ xóa nạn
mù chữ trong nữ giới đã tăng, mà nhiều người trong số họ còn đạt được những
học vị cao hơn trước kia.
Về y tế, sức khoẻ tốt là điều kiện thiết yếu đối với phúc lợi, và cũng như
giáo dục, là một nguồn lực quan trọng cho phép người dân tham gia và hưởng
thụ thành quả của quá trình phát triển. Ở những nước đang phát triển như
SriLanka, tỷ lệ theo giới tính (nam so nữ) đã giảm mạnh trong vòng ba thập
kỷ qua, nhờ việc nhà nước cung cấp dịch vụ y tế, và thực phẩm. Tuy nhiên, ở
Trung Quốc, do nhà nước giảm bao cấp cho ngành y tế và chính sách chỉ có
một con, đã khiến các bậc cha mẹ, vốn thích có con trai hơn, quyết định bỏ rơi
hoặc chọn các hình thức phá thai khi biết sẽ sinh con gái. Ở Ấn Độ, sự khác
biệt giới trong chế độ ăn uống của trẻ em là một nguyên nhân gây ra tỷ lệ tử
vong cao ở phụ nữ. Một ví dụ là, tình trạng ít được chăm sóc sức khoẻ hơnnhất là với những bé gái là con thứ trong gia đình hay được sinh ra trong các
gia đình nông thôn- là một nguyên nhân khác giải thích tại sao sinh mạng giới
nữ bị đe doạ. Theo Ngân hàng thế giới, xét trên toàn cầu, số sinh mạng phụ nữ
mất đi sẽ tăng nếu xu thế hiện nay trong tỷ lệ tử vong cao quá mức ở phụ nữnhất là ở Trung Quốc- vẫn còn tiếp tục. Như vậy, có thể thấy rằng sự khác

biệt giới cả trong tuổi thọ bình quân lẫn gánh nặng bệnh tật một phần phản
ánh sự khác biệt sinh học. Nhưng rõ ràng rằng, chúng cũng đồng thời phản
ánh sự khác biệt trong vai trò theo giới và trong cách đối xử của xã hội đối với
phụ nữ và nam giới.

CIEM- Trung tâm Thông tin – Tư liệu

7


Tóm lại, có thể thấy rõ rằng, trên thế giới đã hình thành rõ ràng một xu thế
chung theo hướng vươn tới sự bình đẳng giới về quyền lớn hơn trong hầu hết
các lĩnh vực kể từ thập kỷ 80 cho đến nay. Tuy vậy, phụ nữ vẫn tiếp tục chịu
bất lợi hơn so với nam giới về các quyền cơ bản và địa vị đi kèm - cả trong
luật định lẫn thực tế. Như vậy, những phân biệt giới về quyền này đã hạn chế
rất nhiều khả năng lựa chọn của người phụ nữ trong mọi khía cạnh cuộc sống.
Hiện nay, phụ nữ trên khắp thế giới tham gia ở một khối lượng phù hợp, vào
các hoạt động thị trường để được trả lương, nhưng họ vẫn phải tiếp tục đảm
nhận hầu hết các công việc nhà. Vì vậy, họ bị vắt kiệt về thời gian, phải bỏ
nhiều thời gian để làm việc, cả việc nhà lẫn ngoài thị trường, hơn so với nam
giới. Điều đó dẫn đến những trói buộc rất lớn khả năng của họ trong việc
tham gia vào quá trình phát triển và làm giảm chất lượng cuộc sống của họ
2. Vai trò của phụ nữ trong xã hội hiện đại
Tại Hội nghị thượng đỉnh phụ nữ toàn cầu, Bản Báo cáo đầu tiên về hoàn
cảnh của phụ nữ tại 5 lục địa của Liên Hiệp Quốc cho thấy: sự tiến bộ của xã
hội và kinh tế sẽ mau chóng hơn nếu người ta ưu tiên đầu tư vào phụ nữ. Vấn
đề này không chỉ thể hiện sự công bằng mà còn nhằm đem lại sự quản lý tốt.
Sự tham gia của phụ nữ vào các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội,... sẽ cho
phép xã hội thay đổi cách nhìn và có những lựa chọn hữu ích hơn. Theo Tổng
Thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Mun, đầu tư cho phụ nữ và các em gái sẽ góp

phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển tiến bộ trên thế giới. Ông nêu
rõ: đầu tư cho phụ nữ không chỉ là một hành động đúng đắn, mà còn là một
việc làm thông minh. Đầu tư cho phụ nữ sẽ giúp thế giới đương đầu với các
thách thức của thời đại- đó là tình trạng nghèo đói, thất học, các hiểm họa môi
trường và dịch bệnh.
Trong những năm gần đây, các hội nghị lớn trên thế giới đều nhấn mạnh
cần bảo đảm quyền của phụ nữ, coi đây là một nhân tố trụ cột của phát triển
kinh tế, đồng thời kêu gọi các nước chú trọng đến mục tiêu bình đẳng giới.
Trong cuộc sống gia đình, người phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong việc
chăm sóc sức khỏe và giáo dục con cái. Các nghiên cứu về kinh tế lượng
khẳng định rằng, nâng cao giá trị tương đối của phụ nữ và tăng thêm các lựa
chọn nắm giữ tài sản của họ có ảnh hưởng đến hình thái tiêu dùng trong gia
đình. Khảo sát cho thấy, sức khỏe của trẻ em Braxin được cải thiện khi phụ nữ
nắm trong tay phần thu nhập tăng thêm ngoài lao động. Ở Anh, khi luật pháp
CIEM- Trung tâm Thông tin – Tư liệu

8


quy định rằng, các khoản trợ cấp để hỗ trợ trẻ em được trao trực tiếp cho
người mẹ, thì chi mua sắm quần áo cho con cái có xu hướng tăng lên. Ở
Bănglađesh và Nam Phi, phụ nữ được mang theo nhiều tài sản khi kết hôn làm
tăng chi tiêu của hộ gia đình cho giáo dục của trẻ em.
Hộp 2: Hội nghị thượng đỉnh phụ nữ tại Việt Nam 2008
Từ ngày 5 đến ngày 7/6/2008 tại Việt Nam diễn ra Hội nghị Thượng đỉnh Phụ nữ
toàn cầu 2008 lần thứ 18 với chủ đề: “Phụ nữ và châu Á - động lực của nền kinh
tế toàn cầu”. Tới dự Hội nghị có gần 1.000 đại biểu đến từ hơn 100 quốc gia và
vùng lãnh thổ trên thế giới.
Hội nghị Thượng đỉnh Phụ nữ toàn cầu là một tổ chức phi lợi nhuận do Ủy ban
Hoạch định quốc tế của lãnh đạo nữ trên thế giới đứng đầu. Bà Irene Natividat,

Chủ tịch Hội nghị cho biết: Trải qua gần 20 lần họp hội nghị ở các nước thuộc
các châu lục khác nhau, Hội nghị Thượng đỉnh đã trở thành diễn đàn tốt nhất về
sự tiến bộ về kinh tế và xã hội của phụ nữ toàn cầu.
Năm 2007, Hội nghị Thượng đỉnh Phụ nữ lần thứ 17 đã tổ chức thành công ở
Berlin, CHLB Đức với chủ đề: “Thị trường toàn cầu: cơ hội và thách thức”. Bà
Trương Mỹ Hoa, Phó chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam, Trưởng đoàn đại biểu
phụ nữ Việt Nam tại Hội nghị 17 đã hoan nghênh và đánh giá cao tuyên bố của
Hội nghị chọn Việt Nam là địa điểm họp của Hội nghị Thượng đỉnh 18.
Vì Việt Nam được đánh giá là ngôi sao đang lên ở châu Á, nên các nội dung
thảo luận chính tại Hội nghị Thượng đỉnh năm nay tập trung vào các chủ đề,
như: Việt Nam - nền kinh tế đang trỗi dậy mạnh mẽ; phát triển doanh nghiệp ở
châu Á, đối thoại với doanh nhân nữ; diễn đàn nữ tổng giám đốc doanh nghiệp cơ hội và thách thức trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Ngoài ra, các đại biểu sẽ tập trung vào một số chủ đề khác: vấn đề chống buôn
bán phụ nữ và trẻ em; vấn đề cân bằng giữa cuộc sống và công việc; hệ quả của
thành công tác động đến sức khỏe phụ nữ; trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp năng lượng và tác động đến môi trường...
Nguồn: Tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau

Ngày nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã nhận thấy sự đóng góp vô
cùng quan trọng của phụ nữ trong đời sống xã hội. Dù đó là sự kiện phụ nữ
ở Afganistan đi bỏ phiếu bầu cử tổng thống hay việc phụ nữ bắt đầu mở
những cơ sở kinh doanh siêu nhỏ tại Etiopia, thì xu thế hướng tới quyền
bình đẳng hơn nữa của phụ nữ trên toàn thế giới đã trở nên rõ ràng. Theo
thống kê, từ khi có giải Nobel năm 1901 đến nay, đã có 4,4% giải Nobel
CIEM- Trung tâm Thông tin – Tư liệu

9


về hòa bình được trao cho phụ nữ. Nếu tính tất cả các lĩnh vực, số phụ nữ
đoạt giải Nobel lên đến 28 người. Trong 192 đại diện thường trực ở Liên

Hiệp Quốc có 14 phụ nữ. 11% nhân viên cấp cao tại cơ quan của Liên Hiệp
Quốc là phụ nữ. Có 50% phụ nữ trong Chính phủ Thụy Điển- Đây là chính
phủ đầu tiên trên thế giới đạt được sự cân bằng giữa nam và nữ. Kỷ lục thế
giới về phụ nữ là dân biểu thuộc về Phần Lan với 39%. Tiếp theo là NaUy
35%, Thụy Điển 34%. Hiện có 12 quốc gia trong đó phụ nữ là tổng thống
hay thủ tướng. 10 quốc gia đứng đầu về số phụ nữ tham gia vào các lĩnh
vực kinh tế và chính trị được Liên Hiệp Quốc bình chọn là: Thụy Điển,
Nauy, Phần Lan, Đan Mạch, NiuDilan, Hà Lan, Mỹ, Áo và Italia.
B. PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ TRONG CÔNG CUỘC
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
Trong quá trình phát triển của Việt Nam, vấn đề giải phóng phụ nữ,
bảo đảm bình đẳng, bình quyền giữa phụ nữ và nam giới, luôn được Đảng
và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Ngay từ Hiến pháp năm 1946, Nhà nước
ta đã khẳng định: “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi
phương diện chính trị, kinh tế và văn hóa” (Điều 6) và “đàn bà ngang
quyền với đàn ông về mọi phương diện” (Điều 9).
Những thập kỷ vừa qua, Việt Nam đã đạt được thành tựu nổi bật về cải
cách điều kiện sống của nhân dân và giảm chênh lệch giới. Điều đó đã
phản ánh nỗ lực đáng kể của Việt Nam trong xóa đói giảm nghèo và cam
kết của Chính phủ tiến tới bình đẳng giới. Khuôn khổ chính sách và luật
pháp do Việt Nam ban hành đã trở thành công cụ trong việc trao quyền cho
phụ nữ Việt Nam và giảm khoảng cách giới. Theo quan điểm của Ngân
hàng Phát triển châu Á (ADB), phụ nữ Việt Nam đã được trao một hệ
thống các quyền, bao gồm các chính sách thúc đẩy quyền được tham gia
vào chính trị, quyền về tài sản, các quyền lợi cho phụ nữ mang thai,... Báo
cáo đánh giá tình hình giới ở Việt Nam của Ngân hàng Thế giới nhận xét:
“Việt Nam là một trong những nước dẫn đầu thế giới về tỷ lệ nữ tham gia
vào các hoạt động kinh tế, là một trong những nước tiến bộ hàng đầu về
bình đẳng giới,...”.
Chính phủ Việt Nam là một trong những nước đầu tiên ký vào năm 1980

và thông qua vào năm 1982 Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử

CIEM- Trung tâm Thông tin – Tư liệu

10


đối với phụ nữ. Trước khi tham gia Công ước này, Việt Nam đã đưa vấn đề
bình đẳng giữa nam và nữ vào Hiến pháp, và vấn đề này càng được chú ý
trong thời gian gần đây bằng việc Quốc hội đã thông qua Luật Bình đẳng giới
năm 2006. Có thể thấy rằng, Luật Bình đẳng giới là đòn bẩy để giải quyết các
vấn đề ưu tiên về giới. Luật này đã sửa đổi những lỗ hổng về giới trong các
luật hiện hành, kêu gọi lồng ghép vấn đề giới vào quản lý hành chính công,
đưa các biện pháp tạm thời vào luật pháp, ví dụ như mục tiêu và chỉ tiêu cho
việc tham gia của phụ nữ vào quá trình ra quyết định. Cùng với đó là Kế
hoạch phát triển kinh tế- xã hội 2006-2010 đã áp dụng cách tiếp cận xây dựng
kế hoạch với việc kết hợp các mối quan tâm và các chỉ số về bình đẳng giới
vào kế hoạch của các ngành như nông nghiệp, việc làm, quản lý môi trường,
sức khỏe, giáo dục. Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ tới năm
2010 do Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ soạn thảo và được Thủ
tướng phê chuẩn, được cụ thể hóa bằng Kế hoạch hành động 5 năm xác định
các ưu tiên liên quan đến bình đẳng giới ở Việt Nam... Đây chính là những
nền tảng pháp lý quan trọng tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia và phát huy vai
trò trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước.
I. SỰ THAM GIA VÀ VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ TRONG CÔNG CUỘC PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG

Việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 11/NQ-TW “Về công tác phụ
nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước”, trong đó có
một trong những điểm lớn là về xây dựng, phát triển vững chắc đội ngũ cán

bộ, tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ, coi đó là tất yếu khách quan, là
nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ của Đảng, đã tạo định
hướng chính trị rõ ràng, cụ thể cho các cấp các ngành thực hiện công tác cán
bộ nữ trong những năm tới. Theo nhận định của Ban Bí thư trung ương Đảng,
điểm nổi bật của đội ngũ cán bộ nữ là “không ngừng phấn đấu vươn lên, hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao, có nhiều đóng góp cho sự phát triển chung của
đất nước và cho sự bình đẳng giới. Ở bất kỳ vị trí công tác nào, cán bộ nữ
cũng thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, trung thực, thẳng thắn, khiêm tốn,
biết lắng nghe, dân chủ trong lãnh đạo và quản lý, có khả năng thuyết phục,
tác phong sâu sát, liêm khiết, tiết kiệm, ít tham nhũng, nên được xã hội tin
cậy.
1. Trong lĩnh vực chính trị
CIEM- Trung tâm Thông tin – Tư liệu

11


Theo điều tra của ADB, trong số các quốc gia Đông Á và Thái Bình
Dương, Việt Nam có tỷ lệ nữ giới tham gia vào nghị trường đông nhất. Trên
thế giới, Việt Nam cũng đứng ở thứ hạng cao, xếp thứ 18 về số đại biểu quốc
hội là nữ. Hiện nay, phụ nữ tham gia hoạt động chính trị và tham gia quản lý
nhà nước các cấp từ trung ương đến cơ sở chiếm 20%. Trong cơ quan quản lý
nhà nước, tính đến tháng 12- 2007, có 01 phó chủ tịch nước là nữ; số cán bộ
nữ giữ chức vụ bộ trưởng là 4,55%, tương đương bộ trưởng chiếm 11,43%,
thứ trưởng là 2,75%, tương đương thứ trưởng là 9,21%, vụ trưởng và tương
đương chiếm 9,87%, vụ phó và tương đương chiếm 20,74%. Tuy nhiên, tỷ lệ
nữ tham gia các cấp ủy Đảng nhiệm kỳ 2005-2010, chỉ đạt 13,5%, trong khi
đó, theo Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ 2006, mục tiêu đặt ra trong
Kế hoạch hoạt động vì sự tiến bộ của Phụ nữ là 15%. Theo một số khảo sát,
trong các cơ quan Quốc hội, phụ nữ thường có mặt nhiều ở các ủy ban tập

trung vào các vấn đề chính trị “mềm”, ví dụ như các ủy ban về các vấn đề xã
hội, Ủy ban văn hóa, giáo dục và thanh niên có 40% là phụ nữ. Tương tự như
vậy, Ủy ban dân tộc thiểu số có 44% là nữ giới. Ngược lại với điều này, các
ủy ban mang tính chiến lược lại có rất ít phụ nữ. Theo số liệu của ADB, ở Ủy
ban ngân sách và kinh tế tỷ lệ phụ nữ chỉ là 13%, hay 0% ở Ủy ban quốc
phòng và an ninh.
Sự tham gia của phụ nữ vào chính quyền địa phương các cấp gồm tỉnh,
huyện, và xã đã có sự tăng lên đáng kể. Tuy vậy ở cấp hành chính công trung
ương, có rất ít phụ nữ nắm các chức vụ lãnh đạo. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, ở cấp trung ương, trong năm 2005, người đứng đầu hoặc cấp phó các sở,
ban, ngành là nữ chỉ chiếm tương ứng là 6% và 14%. Ở các cấp địa phương,
đa số các sở và ở hầu hết các lĩnh vực hầu như không có phụ nữ nắm giữ các
vị trí lãnh đạo. Bên cạnh đó, một điều đáng lo lắng là ở một số lĩnh vực có sự
giảm sút của đại diện nữ giới trong những năm qua, ví dụ như số cán bộ nữ
trong ngành tư pháp cấp huyện đã giảm mạnh với tỷ lệ khoảng 10% trong
những năm qua.
2. Trong lĩnh vực kinh tế
Theo Báo cáo tại Hội nghị thượng đỉnh phụ nữ năm 2008 diễn ra tại Hà
Nội, vai trò của người phụ nữ Việt Nam trong tiến trình phát triển kinh tế

CIEM- Trung tâm Thông tin – Tư liệu

12


được đánh giá cao. Báo cáo nêu rõ: “Nói về Việt nam, chúng tôi thấy rằng
phụ nữ Việt Nam gần như đã đạt được tỷ lệ ngang bằng với nam giới trong
lực lượng lao động. Về giáo dục, càng ngày càng có nhiều phụ nữ được đào
tạo bài bản. Phụ nữ Việt Nam ngày nay tự tin coi mình là một lực lượng lao
động chính trong xã hội, trong gia đình và khi kinh tế được cải thiện, chỉ số

tiêu dùng của họ cũng gia tăng”. Nhận thức được rằng, bình đẳng trong lĩnh
vực lao động, việc làm sẽ tạo điều kiện và giải quyết tốt các quan hệ liên quan
đến bảo vệ phụ nữ và thế hệ tương lai, cho nên Chiến lược quốc gia Vì sự tiến
bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010, đã xác định mục tiêu số 1 là thực hiện
các quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực lao động, việc làm, với các chỉ
tiêu cụ thể: i- hàng năm, trong tổng số việc làm mới, tỷ lệ nữ tăng dần để đạt
50% vào năm 2010; ii- tăng tỷ lệ sử dụng lao động nữ ở khu vực nông thôn
lên 80% vào năm 2010; iii- giảm tỷ lệ thất nghiệp của lao động nữ ở khu vực
thành thị xuống dưới 5% vào năm 2010; iv- đạt tỷ lệ 80% số hộ nghèo do phụ
nữ làm chủ hộ được vay vốn từ chương trình xóa đói, giảm nghèo. Bên cạnh
đó, Nhà nước đã ban hành các chính sách pháp luật liên quan đến quyền lợi
của lao động và đối tượng nữ. Các văn bản hướng dẫn triển khai thực hiện các
điều khoản của Bộ luật Lao động đã có nhiều quy định có lợi hơn cho lao
động nữ trên các lĩnh vực như: nghiên cứu chính sách hỗ trợ giải quyết việc
làm cho lao động nữ; lao động nữ được tạm hoãn đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động, kéo dài thời hiệu xem xét kỷ luật lao động trong thời gian có
thai, nghỉ thai sản, nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi. Về chính sách bảo hiểm
xã hội, theo quy định của Bộ Luật Lao động, một số chính sách bảo hiểm xã
hội được thay đổi theo hướng có lợi đối với lao động nữ. Thêm vào đó, Quỹ
Bảo hiểm xã hội thực hiện chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe đối với lao
động nữ sau sinh con mà sức khỏe còn yếu.
Những chính sách này cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế trong thời gian
qua đã tiếp tục làm thay đổi các cơ hội kinh tế của người dân, đặc biệt là nữ
giới. Theo số liệu của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, hiện phụ nữ chiếm trên
50% lực lượng lao động của cả nước. Phụ nữ có mặt trong mọi lĩnh vực hoạt
động của đời sống xã hội. Chiếm trên 46% trong tổng số công nhân viên chức,
đội ngũ nữ công nhân viên chức trong các cơ quan nhà nước luôn chủ động,
sáng tạo trong công việc và gương mẫu trong mọi hoạt động. Đối với các
doanh nghiệp nhà nước, số cán bộ nữ trực tiếp làm công tác lãnh đạo, quản lý
CIEM- Trung tâm Thông tin – Tư liệu


13


cấp tổng công ty cũng chiếm tỷ lệ nhất định: tổng giám đốc các công ty 91 là
5%, phó tổng giám đốc 9,7%. Trên địa bàn TP Hồ Chí Minh có 116.017
doanh nghiệp thì gần 37.000 doanh nghiệp có nữ là giám đốc, tổng giám đốc,
chủ tịch hội đồng quản trị. Đội nữ doanh nhân này có mặt trong hầu hết các
lĩnh vực kinh tế- xã hội của thành phố.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, vai trò của người phụ nữ được thể hiện một
cách rõ nét trong bối cảnh Việt Nam là một nước nông nghiệp với 80% dân số
sống ở nông thôn. Người phụ nữ vất vả làm ra hạt gạo và các loại cây lương
thực, thực phẩm khác không chỉ để nuôi sống gia đình mà còn đóng góp tích
cực cho mục tiêu an toàn lương thực quốc gia. Chị em không chỉ chuyên cần
lao động mà còn hǎng hái học tập các tiến bộ kỹ thuật về giống mới, kỹ thuật
thâm canh tǎng nǎng suất, thiết bị công nghệ mới... để nâng cao nǎng suất và
hiệu quả lao động. Trong thành tích to lớn của ngành sản xuất lương thực,
chúng ta không quên công sức của nhiều chị em phụ nữ trong các viện nghiên
cứu như viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Viện cây lương thực, Viện
Nghiên cứu lúa Ômôn, Viện Di truyền... đã ngày đêm nghiên cứu tạo ra các
giống lúa, ngô, khoai mới có nǎng suất, chất lượng cao phục vụ cho sản xuất.
Hộp 3: Vài nét về sự tham gia của phụ nữ vào lực lượng lao động
- Năm 2005, nam giới chiếm 51% và nữ giới chiếm 49% trong lực lượng lao
động, tương đương với 22 triệu nam và 21,1 triệu nữ.
- Nhìn chung, 20 % số phụ nữ làm việc có công việc chính thuộc lĩnh vực làm
công ăn lương, tỷ lệ này ở nam là 41%.
- Phụ nữ tập trung quá nhiều ở các công việc kỹ thuật thấp, đặc biệt trong khu
vực không chính thức. Những phụ nữ làm công ăn lương không có tay nghề, đặc
biệt trong các dây chuyền sản xuất, có ít cơ hội nâng cao tay nghề và tiếp tục
phải làm các công việc được trả lương thấp trong nhà máy.

- Trong giai đoạn 2001-2005, khoảng cách giới trong lực lượng lao động tăng
lên theo hướng có lợi cho nam giới, từ 0,6% năm 2001, lên đến 2,8% năm 2005.
- Phụ nữ chiếm 46,5% trong số các công việc mới hình thành trong lĩnh vực
công và 33 số người tham gia đào tạo nghề trong giai đoạn 2001-2005.
Nguồn: Tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau.

3. Trong nghiên cứu khoa học
CIEM- Trung tâm Thông tin – Tư liệu

14


Cùng với quá trình phát triển của đất nước, đội ngũ trí thức nữ đã có
những đóng góp to lớn vào sự nghiệp cách mạng chung, đặc biệt trong việc
phát huy sức mạnh của nguồn lực trí tuệ Việt Nam. Trong sự đổi mới của đất
nước, các nhà khoa học và chuyên gia nữ đã có nhiều thuận lợi trong hoạt
động khoa học, lao động sáng tạo, cũng như trong việc học tập nâng cao trình
độ chuyên môn. Trong sự đổi mới của đất nước, không khí sinh hoạt dân chủ,
phát huy tự do tư tưởng được mở rộng, hoạt động nghiên cứu khoa học đã có
những khởi sắc mới, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, kỹ thuật, công
nghệ thông tin, công nghệ ứng dụng. Nhiều chị em đã mạnh dạn đi tìm tòi cái
mới, áp dụng cái mới vào hoạt động sản xuất, nghiên cứu.
Cùng với đó, do chính sách mở cửa và hội nhập quốc tế, với sự phát
triển của nền kinh tế dựa vào tri thức, nhiều sách báo, thông tin của thế giới
được giới trí thức tiếp nhận tương đối nhanh chóng và dễ dàng. Đồng thời,
việc trao đổi, tiếp xúc với các chuyên gia quốc tế tại các cuộc hội thảo ở Việt
Nam và các chuyến đi thực tế, khảo sát, học tập ở nước ngoài, đã giúp các trí
thức nữ nâng cao sự hiểu biết và tiếp nhận kịp thời những thông tin bổ ích về
thành tựu khoa học tiên tiến trên thế giới. Ngoài ra, sự giúp đỡ của một số tổ
chức quốc tế và các nước về tài chính, về các phương tiện làm việc, máy móc

hiện đại, đã giúp cho nhiều nhà khoa học nữ làm việc thuận lợi và có hiệu quả
hơn.. Cho đến nay, tài năng và tên tuổi nhiều nhà khoa học nữ nước ta đã và
đang được giới khoa học trong và ngoài nước đánh giá cao. Nhiều nhà khoa
học nữ và tập thể khoa học nữ đã được nhận các giải thưởng như giải
Covalepxcaia trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, kỹ thuật, bằng lao động sáng
tạo của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
4. Trong cuộc sống gia đình
Có thể nói rằng, trong cuộc sống gia đình, người phụ nữ với tư cách là
người vợ, người mẹ có một vị trí đặc biệt. Về mặt tâm lý truyền thống, người
phụ nữ Việt Nam, dù là nhà khoa học hay người lao động bình thường, là
người hết lòng vì gia đình, sẵn sàng hy sinh cho chồng con, đôi khi từ bỏ cả sự
nghiệp để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Đối với công việc nội trợ gia đình, nhiều
kết quả khảo sát cho thấy ở hầu hết công việc này, phụ nữ là người làm chính,
với tỷ lệ cao hơn rất nhiều so với các thành viên khác trong gia đình. Chẳng
hạn, việc đi chợ mua thức ăn, tỷ lệ phụ nữ là 88,6%, nam là 5,5%, việc nấu

CIEM- Trung tâm Thông tin – Tư liệu

15


cơm, tỷ lệ tương ứng là 79,9% và 3,3%, việc giặt giũ, tỷ lệ tương ứng là
77,3% và 2,8%.
Trong gia đình, người phụ nữ cũng tham gia nhiều hơn vào đời sống
học tập của con cái. Khảo sát cho thấy, cả ở khu vực nông thôn và thành thị,
người mẹ đi họp phụ huynh nhiều hơn hẳn người cha với tỷ lệ tương ứng ở
thành thị là 52,8% và 26,5%, còn ở nông thôn là 47,7% và 32,4%. So sánh
nhóm phụ nữ dân tộc Kinh với phụ nữ dân tộc thiểu số, thì có thể thấy tỷ lệ
phụ nữ đi học phụ huynh cho con ở người Kinh cao hơn người dân tộc thiểu
số khá nhiều, tỷ lệ tương ứng là nhiều với tỷ lệ tương ứng là 52,5% và 31,2%.

Đối với việc giúp và nhắc nhở con học ở nhà, đối với nhiều gia đình, là
một công việc được quan tâm rất nhiều, với tỷ lệ thực hiện đạt xấp xỉ 100%.
Tương tự như việc họp phụ huynh, người mẹ thường làm việc này nhiều hơn
người cha. Tuy nhiên, tỷ lệ người cha và mẹ cùng thực hiện công việc này đã
cao hơn nhiều, và sự chênh lệch là không đáng kể giữa thành thị và nông thôn:
37,4% ở thành thị và 38% ở nông thôn.
Bên cạnh đó, việc dạy bảo, đưa con cái vào nề nếp, tuy là công việc không
gắn liền với việc học tập của con cái, nhưng thường có mối liên hệ chặt chẽ và
là tiền đề của việc học tập tốt. Số liệu khảo sát cho thấy, một lần nữa người vợ
thường thực hiện công việc này nhiều hơn người chồng. Tuy nhiên, xu hướng
hiện nay cho thấy, tỷ lệ cả người cha và người mẹ cùng làm những công việc
này đã cao hơn hẳn ở cả vùng nông thôn và thành thị, và đây là một dấu hiệu
tích cực theo hướng gia tăng bình đẳng giới, ít nhất là sự chia sẻ trách nhiệm
đối với việc chăm lo con cái trong gia đình.
Về vấn đề môi trường sinh thái, trong xã hội, phụ nữ là những người tạo
nên các mối liên hệ với môi trường. Họ trực tiếp gắn bó với thiên nhiên, môi
trường trong sinh hoạt hàng ngày. Là người có trách nhiệm về sự hình thành ý
thức và tính cách của trẻ em trong quan hệ với môi trường. Là người nội trợ
chính của gia đình, vừa chăm lo về chất lượng của từng bữa ăn, vừa đảm bảo
vệ sinh thực phẩm và nề nếp sinh hoạt hợp vệ sinh của gia đình. Người phụ
nữ trong bất kỳ hoạt động nào với tư cách là người lao động tại các cơ quan,
nhà máy, cơ sở dịch vụ,... hay là người nội trợ trong gia đình đều có liên quan
đến các vấn đề về môi trường. Ví dụ, tỷ lệ phụ nữ tham gia trong quá trình thu
gom, phân loại, thu mua phế thải chiếm tỷ lệ rất cao. Trong các làng nghề tái
CIEM- Trung tâm Thông tin – Tư liệu

16


chế chất thải, phụ nữ tham gia tích cực trong các hoạt động quản lý và lao

động trực tiếp.
II. MỘT SỐ HẠN CHẾ ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ PHỤ NỮ

Trên thế giới, mặc dù ở nhiều nước, người ta đã đạt được những tiến bộ
quan trọng trong sự nghiệp giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới, song
phụ nữ vẫn chưa được hưởng đầy đủ các quyền và lợi ích được nêu trong pháp
luật quốc gia và quốc tế. Trong lĩnh vực chính trị- xã hội vẫn tồn tại bất bình
đẳng giới làm cho phụ nữ không có hoặc nếu có thì cũng rất ít trong các cơ
quan dân cử như trong Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Theo Báo cáo
của UNDP, phụ nữ vẫn có rất ít đại diện trong bộ máy điều hành chính phủ.
Từ trước cho tới nay, chưa một quốc gia nào trên thế giới được công nhận đạt
được bình đẳng nam nữ. Mặc dù hệ thống luật pháp tuân thủ nguyên tắc bình
đẳng giới và nhà nước cam kết bảo đảm cho người dân các quyền tự do và
bình đẳng, thì phụ nữ vẫn chưa được hưởng đầy đủ các quyền đó.
Tình hình như vậy dẫn đến một thực tế là trong mọi lĩnh vực, sự tham
gia và vai trò của người phụ nữ vẫn còn bị hạn chế rất nhiều. Theo thống kê,
trong lĩnh vực chính trị, tỷ lệ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý các ngành, các cấp
còn thấp, cơ cấu không đều, chưa tương xứng với sự phát triển của lực lượng
lao động nữ. Một số ngành nghề đông nữ vẫn chưa có cán bộ nữ giữ vị trí lãnh
đạo chủ chốt. Nhiều cơ quan quản lý nhà nước có tầm quan trọng như Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, Bộ Nội vụ, Bộ Văn hóa- Thể thao- Du lịch, Bộ Thông tin và
Truyền Thông, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Tài chính, Bộ
Công thương,... đều chưa có cán bộ nữ giữ chức vụ cấp cao.
Trong lĩnh vực lao động- việc làm, một điều dễ nhận thấy, đó là phụ nữ ở
tất cả các độ tuổi đều phải làm việc trong thời gian dài hơn so với nam giới; và
việc phân công lao động giữa nam và nữ vẫn chưa hợp lý. Ngoài giờ đi làm,
kiếm sống như nam giới, phụ nữ còn phải gánh trách nhiệm chính trong công
việc gia đình. Họ thường phải làm việc từ 12-16 giờ trong ngày, trong khi nam
giới chỉ khoảng từ 8- 10 h/ngày. Về tiền lương và thu nhập, mặc dù được nhận
thêm các khoản phụ cấp trong doanh nghiệp, nhưng tổng thu nhập của lao

động nữ chỉ bằng 86% của nam giới. Mức tiền lương cơ bản của lao động nữ
cũng thấp hơn nam giới (chiếm 71% trong tổng thu nhập so với mức 73% của
CIEM- Trung tâm Thông tin – Tư liệu

17


nam giới). Phụ nữ và nam giới có tỷ lệ tương đương trong lực lượng lao động,
nhưng lao động nữ chỉ chiếm 40% tổng số lao động được trả lương. Bên cạnh
đó, nhiều doanh nghiệp tuyển lao động nữ lại đưa thêm quy định ngoài luật
lao động, như quy định về kết hôn và sinh con, hay việc nhiều doanh nghiệp
không thực hiện chế độ lao động nữ làm công việc nặng nhọc khi có thai đến
tháng thứ 7 được chuyển sang làm công việc nhẹ nhàng hơn.
Trong gia đình, người phụ nữ phải làm nhiều công việc nội trợ và
chăm sóc con cái hơn nam giới, và nhiều khi giá trị của các công việc đó
không được thừa nhận một cách hợp lý. Nghiêm trọng hơn, nhiều phụ nữ phải
chịu đựng tình trạng bạo lực gia đình từ phía người chồng. Nghiên cứu của
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam cho thấy, tỷ lệ phụ nữ bị chồng mắng, chửi
tăng từ 11,1% ở hộ gia đình có mức sống khá lên 16,7% ở nhóm hộ trung bình
và tới 30,2% ở nhóm hộ nghèo.
Các nguyên nhân
Những bất cập đối với sự nghiệp phát triển phụ nữ được nêu ở trên
xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Thứ nhất, ở Việt
Nam phụ nữ vẫn phải chịu quá nhiều rào cản từ phía xã hội, gia đình, văn hóa
truyền thống, phong tục, tập quán. Đặc biệt là sự nhận thức, định kiến của xã
hội với tư tưởng trọng nam khinh nữ. Những tàn dư phong kiến phân biệt đối
xử với phụ nữ, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa vẫn còn nặng nề. Nhiều địa
phương, đơn vụ chưa nhận thức đầu đủ quan điểm công tác cán bộ nữ là một
bộ phận quan trọng trong công tác cán bộ của đảng. Vẫn còn biểu hiện hẹp
hòi, thiếu tin tưởng vào khả năng của phụ nữ, như ngại tuyển dụng cán bộ nữ,

đánh giá, sử dụng còn thiếu khách quan. Bên cạnh đó, cơ hội được tham gia
đào tạo để nâng cao trình độ, năng lực đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đối với cán bộ nữ
vẫn khó khăn do cơ chế, chính sách còn có một số bất cập. Ngoài ra, do điều
kiện kinh tế - xã hội của đất nước còn nhiều khó khăn, nên người phụ nữ còn
phải chịu nhiều gánh nặng của công việc gia đình. Nhiều nghiên cứu cho thấy,
ở Việt Nam, phụ nữ chịu trách nhiệm chính trong việc chăm sóc con cái do
quan niệm cho rằng, những việc nhà như nấu nướng, dọn dẹp, chăm sóc con
cái là công việc của phụ nữ. Do vậy, khối lượng không cân bằng là một trong

CIEM- Trung tâm Thông tin – Tư liệu

18


những chỉ số bất lợi cho phụ nữ khi vừa phải thu xếp công việc gia đình, vừa
phải lo toan công việc để kiếm sống và tham gia công tác xã hội.
Bên cạnh những nguyên nhân khách quan kể trên, một nguyên nhân
khác làm ảnh hưởng đến việc phát huy vai trò của người phụ nữ, đó là sự mặc
cảm, tự ti, an phận của chính bản thân người phụ nữ. Một số người không tự
vượt lên khỏi những thành kiến lạc hậu, “tự trói chặt mình” vào trong vai trò
nội trợ, nuôi con, phụ thuộc vào người chồng, mặc dù họ hoàn toàn có khả
năng tham gia vào các hoạt động chính trị, xã hội.
III. TRÁCH NHIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC TÁC NHÂN TRONG XÃ HỘI
ĐỐI VỚI SỰ TIẾN BỘ CỦA PHỤ NỮ

1. Trách nhiệm và vai trò của nhà nước
Công bằng xã hội là một trong những mục tiêu mà chính phủ hầu hết các
nước trên thế giới đang hướng tới. Khi công bằng và bình đẳng được nâng cao
thì xã hội sẽ ổn định hơn và sự đoàn kết trong xã hội được chặt chẽ hơn.

Trong hầu hết các trường hợp, vai trò đầu tiên của nhà nước là tạo ra một “sân
chơi bình đẳng” cho cả nam giới và phụ nữ. Điều này có nghĩa là bảo vệ
những quyền cơ bản cho tất cả mọi người. Để đạt được bình đẳng giới, điều
quan trọng là chính phủ phải thiết lập được sự bình đẳng về các quyền cơ
bản, đặc biệt trong luật gia đình, trong việc bảo vệ phụ nữ trước nạn bạo lực
liên quan đến giới, quyền về tài sản và các quyền về chính trị.
Ở Việt Nam, trong những thập kỷ gần đây, quyền lợi và nghĩa vụ của
người phụ nữ ngày càng được thể chế hóa một cách rõ ràng, cụ thể. Xem xét
lại các quan điểm của Đảng ta, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng như các luật
pháp, chính sách của Nhà nước Việt Nam, chúng ta thấy tư tưởng nhất quán
về con đường đưa phụ nữ đi tới bình đẳng, tự do, phát triển. Điều này đã được
thể hiện trong các văn kiện của Đảng là pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là
việc ban hành Luật Bình đẳng giới năm 2006 nhằm đạt mục tiêu xóa bỏ sự
phân biệt đối xử về giới. Thêm vào đó, Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội đã
đề cập đến các vấn đề ưu tiên thông qua một hệ thống các biện pháp chính
sách như: i- hoàn thiện các quy định và tăng cường sự giám sát việc thực hiện
các chính sách về lao động nữ để đảm bảo hiệu quả và công bằng trong chính
CIEM- Trung tâm Thông tin – Tư liệu

19


sách về đào tạo nghề, bảo hiểm xã hội và hưu trí; ii- đảm bảo phụ nữ tham gia
và hưởng lợi một cách bình đẳng trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội
bằng việc hoàn thiện các luật và văn bản pháp lý để thực hiện và bảo vệ quyền
lợi của phụ nữ; iii- xây dựng các trung tâm đào tạo nghề cho phụ nữ. Xây
dựng cơ sở dữ liệu về lao động và đào tạo nghề với số liệu tách biệt theo giới
tính; iv- dần dần giảm nặng gánh nặng việc nhà đối với phụ nữ bằng việc đầu
tư cho công nghệ quy mô nhỏ phục vụ gia đình, các dự án nước sạch và cấp
điện ở nông thôn; và v- cải thiện quyền phụ nữ trong giấy chứng nhận quyền

sử dụng đất. Gần đây nhất là Nghị quyết số 11/NQ/TW của Bộ Chính trị ngày
17/4/2007 về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Các văn kiện này đã xác định rõ đường lối, chính sách của Đảng là
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của phụ nữ; củng cố, tăng cường vị trí,
vai trò thúc đẩy và đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ trong xã hội.
Hộp 4 : Sự quan tâm đối với phụ nữ trong các chính sách liên quan đến
công vụ, công chức
Trải qua nhiều giai đoạn phát triển của đất nước, trong hoạt động công vụ, công
chức, vấn đề bình đẳng giới thường xuyên được Đảng và Nhà nước quan tâm chỉ
đạo, đã đạt được nhiều kết quả to lớn. Điều đó được thể hiện ở các nội dung như:
về cơ bản các quy định về quyền và nghĩa vụ của công chức nam và công chức
nữ là như nhau trong hoạt động công vụ; các quy định về đánh giá, khen thưởng,
kỷ luật không phân biệt nam và nữ; việc áp dụng các hình thức kỷ luật khi công
chức nữ vi phạm kỷ luật vẫn tính đến giai đoạn mang thai, nuôi con nhỏ; tuổi thi
thuyển công chức đối với cả nam và nữ hiệu nay là như nhau: từ đủ 18 tuổi đến
40 tuổi; quy chế bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, từ chức, miễn nhiệm cán
bộ, công chức lãnh đạo, tuổi bổ nhiệm lần đầu cho các vị trí lãnh đạo từ cấp
trưởng, phó phòng cấp huyện và tương đương trở lên cho cả nam và nữ là như
nhau. Khi thực hiện miễn thi ngoại ngữ trong các kỳ thi hoặc xét nâng ngạch
công chức, viên chức thì cán bộ, công chức nữ được giảm 5 tuổi so với nam giới.
Điều kiện, tiêu chuẩn đăng ký dự tuyển cán bộ, công chức do Nhà nước ban
hành không cho phép phân biệt giới tính trong tuyển dụng. Chính sách tiền
lương và các chế độ phụ cấp chi trả không phân biệt công chức nam và công
chức nữ. Về công tác quy hoạch công chức nữ làm việc trong các cơ quan nhà
nước: phụ nữ đã được các cấp chính quyền tạo điều kiện tham gia các hoạt động
xã hội và phát huy tốt vai trò tham gia quản lý nhà nước.

CIEM- Trung tâm Thông tin – Tư liệu

20



Nguồn: Trần Anh Tuấn, Tạp chí Tổ chức Nhà nước 8/2008

Ngoài các chính sách thúc đẩy sự phát triển của phụ nữ thông qua các chủ
trương của Đảng và văn bản pháp luật của Nhà nước, Đảng và Nhà nước còn
thể hiện sự quan tâm đối với công tác phụ nữ trên nhiều bình diện khác nhau.
Việc tổ chức Hội nghị thượng đỉnh phụ nữ toàn cầu 2008 tại Việt Nam là một
minh chứng rõ ràng. Tuy một số nội dung thảo luận nêu trong chương trình
nghị sự còn có vẻ mới mẻ, nhưng nhiều nội dung đã quen thuộc và là các mối
quan tâm chính của phụ nữ và Chính phủ Việt Nam.
Bên cạnh việc thúc đẩy bình đẳng giới, bảo đảm hội nhập quốc tế và sự
phát triển đầy đủ của phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong
những năm gần đây, Chính phủ Việt Nam đã tập trung chỉ đạo Bộ Công an và
các bộ, ngành liên quan thực hiện “Chương trình phòng chống tội phạm buôn
bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2004 đến 2010”, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh
mẽ về nhận thức và hành động của toàn xã hội trong công tác phòng chống
buôn bán phụ nữ, trẻ em. Việt Nam đặc biệt tăng cường công tác hợp tác quốc
tế đấu tranh phòng chống loại tội phạm này. Đến nay Việt Nam đã tham gia
hầu hết các điều ước quốc tế có liên quan đến bảo vệ quyền, lợi ích của phụ
nữ và trẻ em cũng như chống mua bán phụ nữ, trẻ em, như: Công ước về loại
trừ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, năm 1979; Công ước về
quyền trẻ em, năm 1990; Công ước số 100, năm 1996 về trả công bình đẳng
giữa lao động nam và lao động nữ cho một công việc có giá trị ngang nhau;
Công ước số 182 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về cấm và hành động
ngay lập tức để xóa bỏ các hình thức bóc lột sức lao động trẻ em (Việt Nam
phê chuẩn năm 2000). Chính phủ Việt Nam đã ký kết hàng chục Hiệp định
tương trợ tư pháp về hình sự và dân sự với các nước Cuba, Lào, Trung Quốc,
Nga, Pháp, Ukraina, Mông Cổ, Belarus, Hàn Quốc và các nước ASEAN... đối
với những hành vi mà theo pháp luật của cả hai bên đều coi là tội phạm, trong

đó có tội mua bán phụ nữ và trẻ em. Riêng Bộ Công an Việt Nam đã ký kết
hơn 40 điều ước và thỏa thuận quốc tế với các đối tác nước ngoài về hợp tác
phòng, chống các loại tội phạm, trong đó có tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ
em. Đây chính là cơ sở pháp lý thuận lợi cho các cơ quan bảo vệ pháp luật
Việt Nam trong hợp tác quốc tế tổ chức đấu tranh phòng, chống tội phạm
buôn bán phụ nữ và trẻ em.
CIEM- Trung tâm Thông tin – Tư liệu

21


Những chủ trương, chính sách và các văn bản pháp luật của Đảng và Nhà
nước ta đã tạo ra một bước chuyển biến mới cả về lượng và chất trong việc
bảo đảm quyền lợi của người phụ nữ trong mọi lĩnh vực, tạo cơ sở pháp lý cho
việc thực thi quyền bình đẳng nam, nữ trên thực tế. Trong thời gian tới, để duy
trì và phát huy hơn nữa những thành quả nói trên, về phía các cơ quan Đảng
và Nhà nước cần có sự nỗ lực hơn nữa nhằm tạo ra sự chuyển biến sâu sắc
trong nhận thức về bình đẳng giới đối với toàn xã hội, tập trung trước tiên vào
việc nâng cao nhận thức cho các cấp ủy, lãnh đạo, đảng viên, chống tư tưởng
coi thường phụ nữ, các hành vi phân biệt đối xử giới. Đồng thời, thông qua cơ
chế, chính sách có lồng ghép yếu tố giới, bảo đảm quyền lợi chính đáng cho
phụ nữ, tạo cơ hội và điều kiện cho phụ nữ tiến bộ; điều chỉnh các văn bản
luật pháp chính sách cản trở thực hiện bình đẳng giới như tuổi đào tạo, tuổi
quy hoạch, tuổi bổ nhiệm cán bộ nữ, ...
2. Vai trò và trách nhiệm của các cấp Hội phụ nữ
Sự đóng góp của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đối với công tác cán bộ
nữ là một động lực quan trọng thúc đẩy chất lượng công tác cán bộ nữ phát
triển cả về số lượng và chất lượng. Hội đã tiến hành nhiều hoạt động thiết thực
có tác động tích cực nhằm nâng cao quyền năng và sự tham gia lãnh đạo, quản
lý, ra quyết định của phụ nữ. Hội chủ động, tích cực tham mưu với cấp ủy các

cấp, Quốc hội, hội đồng nhân dân về cơ cấu, tỷ lệ nữ, tăng cường đến các tỉnh
thành có nhiều khó khăn về nhân sự để đề xuất phương án bố trí. Để giúp phụ
nữ tự tin khi tham gia các cơ quan lãnh đạo, Hội chủ động phối với với Uỷ
ban quốc gia, Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ các địa phương tổ chức tập huấn
nâng cao nhận thức giới và kỹ năng lãnh đạo cho nữ ứng cử viên đại biểu
Quốc hội, hội đồng nhân dân; tổ chức tuyên truyền trên các phương tiện thông
tin đại chúng về bình đẳng giới. Đặc biệt, Hội đã chủ động đề xuất với Ban Bí
thư Trung ương Đảng tổ chức tổng kết Chỉ thị 37/CT-TW về công tác cán bộ
nữ, tham mưu với Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 11/NQ-TW về công
tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hội
cũng đóng vai trò là cơ quan chủ trì soạn thảo Luật Bình đẳng giới đã được
thông qua vào năm 2006.
Hộp 6: Luật Bình đẳng giới

CIEM- Trung tâm Thông tin – Tư liệu

22


Luật Bình đẳng giới được Quốc hội thông qua tháng 11 năm 2006 bao gồm các
lĩnh vực sau:
- Chính trường: quyền bình đẳng được lựa chọn vào Quốc hội hoặc các Hội đồng
nhân dân, cùng tiêu chuẩn và độ tuổi cho cả nam và nữ trong đề bạt cũng như
các vị trí quản lý và lãnh đạo.
- Cơ hội kinh tế: tiếp cận bình đẳng với các nguồn lực.
- Lao động: cùng tiêu chuẩn và độ tuổi trong việc làm và nhiệm vụ được giao, an
toàn lao động, lương, thưởng và bảo hiểm xã hội.
- Giáo dục và đào tạo: tuổi đào tạo cần như nhau; tiếp cận bình đẳng với đào tạo.
- Khoa học và kỹ thuật: tiếp cận bình đẳng với khoa học và công nghệ, bình đẳng
trong đào tạo khoa học và công nghệ.

- Văn hóa, thông tin và thể thao: nam nữ bình đẳng; bình đẳng về văn hóa và tiếp
cận thông tin.
- Sức khỏe: cơ hội bình đẳng trong tiếp cận với kiến thức và đào tạo về chăm sóc
sức khỏe, sức khỏe sinh sản và tiếp cận các dịch vụ.
- Gia đình: vợ chồng có quyền và nghĩa vụ bình đẳng trong sở hữu tài sản chung,
sử dụng thu nhập; có trách nhiệm như nhau trong kế hoạch hóa gia định và nghỉ
phép chăm sóc con cái; con trai và con gái bình đẳng trong chăm sóc sức khỏe,
học tập và phát triển; mỗi thành viên gia đình đều có trách nhiệm với việc nhà.
Luật Bình đẳng giới cũng đưa ra các biện pháp đảm bảo bình đẳng giới như đặt
ra tỷ lệ tham gia, giảm thuế cho các công ty tuyển dụng nhiều nữ. Luật cũng
tuyên bố việc giáo dục về giới và bình đẳng giới sẽ được tiến hành qua các
phương tiện thông tin đại chúng, chương trình giảng dạy trong nhà trường và các
hoạt động của cơ quan cũng như cộng đồng. Có các điều khoản về việc lồng
ghép vấn đề giới vào quy trình xây dựng chính sách và luật pháp, lồng ghép giới
trong các tổ chức cũng như trong các hoạt động của các cơ quan tổ chức. Trách
nhiệm được xác định cho: Chính phủ, cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng
giới, các bộ và các cơ quan ngang bộ, UBND, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội
LHPNVN, gia đình và công dân. Cuối cùng, Luật đề ra trách nhiệm của cơ quan
quản lý nhà nước về bình đẳng giới trong việc tiến hành thanh tra về bình đẳng
CIEM- Trung tâm Thông tin – Tư liệu

23


giới và xác định các hành vi vi phạm bình đẳng giới trong các lĩnh vực khác
nhau.

Để hỗ trợ phụ nữ tham gia vào các hoạt động kinh tế, trong những năm
qua, Hội đã tích cực tiến hành nhiều hoạt động thiết thực nhằm củng cố, phát
triển và tăng cường vị trí, vai trò của đội ngũ doanh nhân nữ cả về lượng và

chất thông qua các hình thức như: i- tác động, tạo môi trường chính sách, luật
pháp thuận lợi cho hoạt động và phát triển của doanh nghiệp do doanh nhân
nữ quản lý; ii- hỗ trợ cho doanh nghiệp do doanh nhân nữ quản lý tiếp cận tài
chính tín dụng; iii- nâng cao kiến thức và kỹ năng quản lý cho doanh nhân nữ;
và iv- phát triển mạng lưới doanh nhân nữ. Đặc biệt, để làm hài hòa, cân bằng
công việc doanh nghiệp và gia đình cho nữ doanh nhân, Hội Liên hiệp Phụ nữ
các cấp đã tổ chức hướng dẫn phụ nữ kiến thức, kỹ năng tổ chức cuộc sống
gia đình, vận động phụ nữ và cộng đồng xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng,
tiến bộ, hạnh phúc; tuyên truyền, nâng cao nhận thức về bình đẳng giới, vai
trò và trách nhiệm của nam giới trong gia đình. Các cuộc hội thảo, tọa đàm
liên quan đến các chủ đề này đã được Hội tổ chức ở nhiều nơi,... đã góp phần
không nhỏ nâng cao nhận thức, trách nhiệm và ý thức chia sẻ trách nhiệm của
gia đình, xã hội đối với công việc và đời sống của nữ doanh nhân.
Hộp 7: Vai trò của Hội Phụ nữ tỉnh Cà Mau trong việc hỗ trợ chị em phát
triển kinh tế gia đình
Thực hiện phong trào xóa đói giảm nghèo, trong năm qua, Hội Phụ nữ tỉnh Cà
Mau luôn phát huy tốt các phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng
tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”. Trong sản xuất kinh doanh, lực lượng lao
động nữ từ thành thị đến nông thôn tích cực tham gia thực hiện chuyển dịch cơ
cấu kinh tế. Mạnh dạn áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, ngày
càng khẳng định vai trò của mình trong xã hội, góp phần nâng cao đời sống bản
thân, gia đình và phong trào xóa đói giảm nghèo của địa phương.
Hỗ trợ phụ nữ xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế gia đình, xây dựng gia đình
hạnh phúc, cải thiện đời sống vật chất tinh thần luôn được các cấp hội quan tâm,
xem đây là nhiệm vụ trọng tâm. Để tạo nguồn vốn cho chị em phụ nữ phát triển
kinh tế, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Cà Mau đã kết hợp với Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn tín chấp cho 14.974 hộ vay, với số vốn 71 tỷ 477
triệu đồng. Phát huy mô hình huy động vốn nội lực, trong năm, các cấp hội vận
động, huy động qua nhiều hình thức được 11 tỷ 618 triệu đồng, giúp 8.300 lượt
hộ phụ nữ nghèo phát triển kinh tế. Ngoài ra, các tổ, chi hội phụ nữ ở nông thôn

CIEM- Trung tâm Thông tin – Tư liệu

24


còn thực hiện phương thức góp vốn tiết kiệm trong nhóm, tổ một cách thường
xuyên, lâu dần trở thành nguồn vốn tự có. Sau khi có nguồn vốn cố định, lại tiếp
tục hỗ trợ cho các chị em trong tổ bằng cách cho mượn xoay vòng để làm vốn
phát triển kinh doanh sản xuất. Cách làm này rất được chị em đồng tình ủng hộ,
khơi dậy tinh thần tương thân tương ái, đoàn kết giúp đỡ nhau trong hội viên.
Chị Lâm Thị Tuyết Thu - Chủ tịch Hội Phụ nữ Phường 1 cho biết, cũng chính
nhờ nguồn vốn huy động nội lực trong cán bộ hội viên hội phụ nữ mà nhiều chị
em đã thoát nghèo, có cơ sở làm ăn. Điển hình là mô hình cho vay trả chậm hằng
ngày đã phát huy tác dụng, không chỉ giúp chị em có công ăn việc làm mà còn
hoàn trả được nợ. Cùng với việc hỗ trợ vốn, công tác tập huấn nâng cao kiến
thức giúp phụ nữ chăn nuôi, sản xuất có hiệu quả cũng được các cấp hội kết hợp
thực hiện. Tỉnh hội kết hợp với Trung tâm Khuyến nông mở những lớp tập huấn
về kỹ thuật nuôi cá và trồng rau màu cho các hội viên ở U Minh, Thới Bình,
Trần Văn Thời và Tp.Cà Mau. Đến nay, phong trào trồng rau màu trong phụ nữ
khá phát triển, có thu nhập ổn định, nhiều hộ thoát nghèo. Các ngành nghề
truyền thống cũng được phụ nữ ở nông thôn phát huy có hiệu quả. Phụ nữ nông
thôn hôm nay không chỉ gìn giữ phát huy nghề truyền thống có từ lâu đời như
dệt chiếu, đan đát tre mà còn phát triển thêm những ngành nghề đan đát khác,
nhằm tạo ra những sản phẩm, hàng thủ công mỹ nghệ có chất lượng.
Bên cạnh hỗ trợ, duy trì phát triển các mô hình sản xuất, các cấp hội còn chú
trọng giải quyết, đào tạo việc làm cho một bộ phận lao động nhàn rỗi ở nông
thôn và vùng ven biển. Thành lập các mô hình, các tổ như tổ làm chổi bông sậy,
tổ vá lưới... góp phần từng bước xóa đói giảm nghèo ở địa phương. Với sự chỉ
đạo của Hội Phụ nữ tỉnh, đến nay đã thành lập được 11 câu lạc bộ doanh nghiệp
nữ. Nhằm góp phần tạo nguồn nhân lực cho tỉnh, hoạt động dạy nghề năm 2007

được định hướng và mở rộng địa bàn đào tạo cho lao động thuộc các vùng dự án
điều động dân cư, vùng đã chuyển đổi cơ cấu sản xuất có số đông lao động nữ
nhàn rỗi. Tỉnh Hội còn kết hợp với hội phụ nữ địa phương mở các lớp đào tạo
nghề đến tận cơ sở, tạo điều kiện cho lao động là phụ nữ nghèo, con gia đình
chính sách khó khăn tiếp cận nghề nghiệp phù hợp để có công ăn việc làm, giúp
đỡ gia đình. Điều đáng mừng là lực lượng lao độngï nữ nhàn rỗi ở các vùng ven
biển còn khó khăn, bên cạnh sự quan tâm của hội phụ nữ các cấp còn được các
ngành đoàn thể khác đặc biệt quan tâm. Nhiều địa phương đã biết vận dụng tình
hình thực tế và mở ra những hướng đào tạo nghề cho lao động nữ một cách căn
cơ, mang lại kết quả cao. Qua đào tạo nghề, các cấp Hội còn chủ động giới thiệu
việc làm cho các công ty ngoài tỉnh, nhằm góp phần giảm tỷ lệ lao động thất
nghiệp tại các địa phương.
Để từng bước đưa công tác xóa đói giảm nghèo ở các địa phương ngày càng
hiệu quả, Tỉnh Hội cũng đã định hướng những vấn đề cần làm như: chú trọng
nâng cao chất lượng đào tạo; phát huy vốn nội lực, kếp hợp hướng dẫn kiến thức
chăn nuôi, trồng trọt giúp phụ nữ nghèo cải thiện cuộc sống; tăng cường khai
CIEM- Trung tâm Thông tin – Tư liệu

25


×