Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

THỰC HIỆN QUYỀN BÌNH ĐẲNG VỚI PHỤ NỮ VIỆT NAM THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (645.96 KB, 47 trang )

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

THỰC HIỆN QUYỀN BÌNH ĐẲNG VỚI PHỤ NỮ VIỆT NAM
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Được Đảng và Nhà nước
quan tâm, công tác vận động phụ
nữ, phong trào phụ nữ ngày càng
phát triển; sự đóng góp của phụ
nữ cho sự nghiệp đổi mới, CNH,
HĐH đất nước ngày càng lớn,...
1. Vai trò của phụ nữ, quyền
bình đẳng của phụ nữ được khẳng
định
Bôn ba trong hành trình tìm
đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh đã không chỉ đồng cảm
mà còn đanh thép tố cáo tội ác của
thực dân Pháp đối với phụ nữ xứ
thuộc địa: “Không một chỗ nào người
phụ nữ thoát khỏi những hành động
bạo ngược, ngoài phố, trong nhà,
giữa chợ, hay ở thôn quê, đâu đâu
họ cũng vấp phải những hành động
tàn nhẫn của bọn quan lại cai trị, sĩ
quan, cảnh binh, nhân viên nhà
đoan, nhà ga”. Không chỉ có ách áp
bức thực dân, mà lễ giáo phong kiến
cũng coi người phụ nữ là những
phận người hèn mọn, hạ thấp tột bậc
và không được hưởng chút quyền gì.
Tuy nhiên, rất biện chứng, Hồ
Chí Minh có niềm tin vào phụ nữ, coi


họ là một nửa xã hội, có vai trò quan
trọng trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng độc lập và giải phóng chính
bản thân mình. Trên tinh thần đó,
không chỉ khẳng định: “Nam nữ bình
quyền”, “Đàn bà cũng được tự do,
bất phân nam nữ đều cho bình
quyền”, “Về chính trị: Nam nữ bình
6Created by T hanh An

quyền” đã trở thành một nội dung
quan trọng của Chánh cương vắn tắt
của Đảng (1930) và Mười chính sách
của Việt Minh, Chương trình Việt
Minh (1941), trong quá trình lãnh đạo
nhân dân ta thực hiện cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và giải phóng con người, tư
tưởng của Người về giải phóng phụ
nữ, thực hiện quyền bình đẳng giữa
nam và nữ, cổ vũ người phụ nữ tham
gia và góp sức mình vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tiếp tục
được khẳng định trong các văn bản
pháp luật của Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa: “Tất cả những
người công dân Việt Nam 18 tuổi trở
lên, không phân biệt nam nữ đều có
quyền bầu cử và ứng cử” và “Đàn
bà ngang quyền với đàn ông về mọi

phương diện” (Điều 9, Hiến pháp
năm 1946); “Phụ nữ nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa có quyền bình
đẳng với nam giới về các mặt sinh
hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
và gia đình. Cùng việc làm như nhau,
phụ nữ được hưởng lương ngang với
nam giới. Nhà nước bảo đảm cho
phụ nữ công nhân và phụ nữ viên
chức được nghỉ trước và sau khi đẻ
mà vẫn hưởng nguyên lương. Nhà
nước bảo hộ quyền lợi của người mẹ
và của trẻ em, bảo đảm phát triển
các nhà đỡ đẻ, nhà giữ trẻ và vườn
trẻ. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và
gia đình” (Điều 24, Hiến pháp năm

- 1 -T hanh An
11/16/2015

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012

Page 1

1


Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội
1959), Điều 3; 12; 13; 18 nói về
quyền bình đẳng vợ chồng, và cha

mẹ không được đối xử tàn tệ với con
dâu (Luật Hôn nhân và gia đình),…
2. Hồ Chí Minh với việc giải
phóng phụ nữ, thực hiện quyền
bình đẳng của phụ nữ
Trong tiến trình cách mạng,
được sự quan tâm của Đảng, Chính
phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phụ nữ
Việt Nam không chỉ góp sức mình
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc,
mà còn tự giải phóng bản thân mình.
Trong hai cuộc trường chinh chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
lược, phụ nữ đã không chỉ được giải
phóng, đóng góp sức mình cho sự
nghiệp cách mạng như Người từng
nhấn mạnh: “Non sông gấm vóc Việt
Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già,
ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực
rỡ”, mà còn từng bước chiến thắng
những tập tục, những quan niệm cổ
hủ và tự chiến thắng chính bản thân
mình, để thực sự hướng tới quyền
bình đẳng thực sự, vì đó luôn là “một
cuộc cách mạng to và khó”.
Tuy nhiên cũng theo lời Chủ
tịch Hồ Chí Minh, dù quyền bình
đẳng của phụ nữ đã được ghi rõ
trong các văn bản pháp lý quan
trọng, song giải phóng người phụ nữ

triệt để, thực hiện sự bình quyền, thì
không có nghĩa là chỉ thực hiện một
sự phân công mới, bình đẳng giữa
vợ và chồng trong những công việc
gia đình. Điều căn bản là phải có sự
phân công, sắp xếp lại lao động của
toàn xã hội, đưa phụ nữ tham gia vào
nhiều ngành nghề như nam giới. Cần

2

6Created by Thanh An

tổ chức lại đời sống công nông, cũng
như sinh hoạt gia đình để phụ nữ
giảm nhẹ công việc bếp núc, chăm lo
con cái, có điều kiện học tập nâng
cao trình độ mọi mặt và tham gia
công tác xã hội. Từ đó, chị em mới
có đủ khả năng làm nhiều công việc
chuyên môn và đảm nhiệm được
những chức vụ công tác ngang hàng
với nam giới.
Giải phóng phụ nữ, thực hiện
quyền bình đẳng thật sự của phụ nữ
cũng là cuộc đấu tranh tư tưởng lâu
dài, khó khăn để xóa bỏ những tư
tưởng lạc hậu, bảo thủ đã tồn tại dai
dẳng trong quan niệm của nhân dân
ta: “Vì trọng trai, khinh gái là một thói

quen mấy nghìn năm để lại, vì nó ăn
sâu trong đầu óc mọi người, mọi gia
đình, mọi tầng lớp xã hội”. Cuộc cách
mạng này to và khó, “vì không thể
dùng vũ lực mà tranh đấu... vũ lực
của cuộc cách mạng này là sự tiến
bộ về chính trị, kinh tế, văn hóa, pháp
luật. Phải cách mạng từng người,
từng gia đình đến toàn dân. Dù to và
khó phải nhất định thành công”. Trên
tinh thần đó, muốn biến quyền bình
đẳng giữa nam nữ từ một luật lệ trở
thành hiện thực trong cuộc sống,
biến ý thức tôn trọng phụ nữ thành
nếp sống đạo đức của mọi người, thì
cần phải có sự nỗ lực hết sức to lớn
của toàn dân nói chung và của tất cả
phụ nữ nói riêng.
Điều kiện để thực hiện cuộc
cách mạng này, Hồ Chí Minh chỉ rõ:
Muốn thực hiện tốt quyền bình đẳng
của phụ nữ phải có sự tiến bộ về
kinh tế, chính trị, văn hóa, pháp luật

- 2 -Thanh An
11/16/2015

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012

Page 2



Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội
của nước ta. Vì vậy, trong thời kỳ
miền Bắc xây dựng CNXH và cùng
miền Nam tiến hành cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, đấu tranh
giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ
quốc, Người đã không chỉ quan tâm
đến phụ nữ, mà Người còn luôn nhắc
nhở các cấp ủy Đảng, chính quyền,
các Bộ, các ngành, các cơ quan,
đoàn thể, đơn vị chú ý đào tạo, bồi
dưỡng, tạo điều kiện đưa phụ nữ
tham gia vào công tác quản lý, lãnh
đạo, để thực hiện quyền bình đẳng
thực sự.
Theo lời Người: “Thời kỳ thuộc
Pháp, phụ nữ ta làm gì được tham
gia chính quyền. Nhưng đến nay, số
phụ nữ hiện công tác ở các cơ quan
Trung ương đã có trên 5.000 người,
ở huyện, xã có hơn 16.000 người và
các tỉnh có hơn 330 người, đặc biệt
trong Quốc hội khóa II này có 53 đại
biểu phụ nữ” (1/8/1960), nên để phụ
nữ Việt Nam được giải phóng, được
hưởng quyền bình đẳng thật sự thì
không chỉ làm cách mạng giải phóng
họ, chăm lo đến đời sống vật chất,

tinh thần của họ, mà còn phải bồi
dưỡng, giúp đỡ họ, đưa họ tham gia
vào công tác quản lý, lãnh đạo Đảng
và chính quyền.
Với ý nghĩa đó, thực chất quá
trình thực hiện quyền bình đẳng
không chỉ dừng lại ở việc vận động
phụ nữ, ở công tác cán bộ nữ, mà
còn là phải tạo môi trường pháp lý và
điều kiện hiện thực thuận lợi cho cả
hai giới cùng tham gia vào các hoạt
động xã hội. Song thực hiện bình
đẳng giới, cũng không có nghĩa là
6Created by T hanh An

“cào bằng” trong mọi việc, mà phải
là, ngoài những cơ chế chính sách
chung đối với người lao động, các cơ
quan chức năng cần chú ý “quán triệt
quan điểm giới” khi xây dựng chính
sách, pháp luật đối với người lao
động, nhằm bảo vệ sức khỏe của
phụ nữ, bảo vệ sức khỏe bà mẹ và
trẻ em khỏi những lao động độc hại
và phi đạo đức, đồng thời đảm bảo
phân phối công bằng cho cả hai giới,
khi cùng làm một công việc và cống
hiến như nhau.
Luôn quan tâm đến phụ nữ,
trăn trở về vấn đề giải phóng phụ nữ

và thực hiện quyền bình đẳng thật sự
cho phụ nữ, trước khi đi xa, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã dặn lại trong bản Di
chúc lịch sử: “Đảng và Chính phủ cần
phải có kế hoạch thiết thực bồi
dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày
thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi
công việc kể cả công việc lãnh đạo.
Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng
vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng
đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho
phụ nữ”. Đó không chỉ là tấm lòng,
đó còn là trăn trở của Người về vấn
đề thực hiện quyền bình đẳng thật sự
của phụ nữ với nam giới.
3. Đảng và Nhà nước ta thực
hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về
quyền bình đẳng thật sự đối với
phụ nữ
Thực hiện tư tưởng của Người
và những lời căn dặn trong bản Di
chúc, trong những năm (1969 1985), Đảng đã luôn quan tâm và đề
ra nhiệm vụ về công tác vận động
phụ nữ. Đó là “phải đấu tranh xóa bỏ

- 3 -T hanh An
11/16/2015

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012


Page 3

3


Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội
những quan điểm phong kiến và tư
sản trong việc đánh giá lực lượng và
khả năng của phụ nữ, trong việc đào
tạo, bồi dưỡng và sử dụng lao động
nữ, cán bộ nữ, trong việc giải quyết
những vấn đề cụ thể về đời sống của
phụ nữ và trẻ em” và Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam phải ra sức giáo
dục, động viên phụ nữ phát huy
quyền làm chủ tập thể, cống hiến
nhiều hơn nữa cho Tổ quốc; tiếp tục
đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng
phụ nữ và xây dựng người phụ nữ
mới XHCN…
Tuy nhiên, những chủ trương
đúng đắn của Đảng nói trên đã không
được thực hiện một cách đầy đủ.
Nhiều cấp ủy Đảng và lãnh đạo các
ngành còn buông lỏng việc chỉ đạo
thực hiện, đối xử thiếu công bằng với
phụ nữ trong việc sử dụng đào tạo,
đề bạt, kỷ luật. Mặt khác, một số phụ
nữ thiếu ý thức vươn lên, bị cản trở
bởi những định kiến xã hội và gánh

nặng gia đình. Chưa thể vượt lên
những cản trở, chưa thể tự mình
khẳng định, việc tham gia công tác
quản lý của phụ nữ bị hạn chế tỷ lệ
nữ tham gia Quốc hội (khóa 1971 1976) là 32%, giảm xuống còn 27%
(khoá 1976 - 1981) và 22% (khóa
1981 - 1987).
Trước thực tế trên, Ban Bí thư
ra Chỉ thị 44/CT-TW ngày 7/6/1984
về một số vấn đề cấp bách trong
công tác cán bộ nữ. Nhằm cụ thể hóa
Chỉ thị của Ban Bí thư, ngày
24/12/1984, Hội đồng Bộ trưởng (nay
là Chính phủ) đã ra Nghị quyết số
176a - HĐBT về việc phát huy vai trò

4

6Created by Thanh An

và năng lực của phụ nữ trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
XHCN. Nghị quyết khẳng định vai trò
to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp
xây dựng đất nước và đề ra các chủ
trương, biện pháp khá toàn diện về
chủ trương, chính sách, biện pháp
của Nhà nước đối với phụ nữ. Kết
quả là, sau bốn năm (1984 - 1988),
thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư và

Nghị quyết của HĐBT, trong số 25/40
tỉnh, 24/90 bộ, ngành Trung ương
(những đơn vị có báo cáo) đã có
hàng ngàn cán bộ nữ được bố trí,
sắp xếp vào cương vị lãnh đạo, quản
lý từ Trung ương đến cơ sở…
Bước vào thời kỳ đổi mới,
Đảng xác định: “Cần làm cho đường
lối vận động phụ nữ của Đảng được
thấu suốt trong cả hệ thống chuyên
chính vô sản, được cụ thể hóa thành
chính sách, luật pháp. Các cơ quan
Nhà nước với sự phối hợp của các
đoàn thể cần có biện pháp thiết thực
tạo thêm việc làm, đào tạo và bồi
dưỡng cán bộ nữ, chăm sóc sức
khỏe bà mẹ trẻ em, thực hiện đúng
Luật Hôn nhân gia đình. Tạo điều
kiện cho phụ nữ kết hợp được nghĩa
vụ công dân với chức năng làm mẹ,
xây dựng gia đình hạnh phúc”.
Xuất phát từ yêu cầu của thực
tiễn, nhằm tạo điều kiện cho các cấp
Hội phụ nữ tham gia quản lý Nhà
nước,
Quyết
định
163/HĐBT
(19/10/1988) đã quy định trách nhiệm
của các cấp chính quyền trong việc

bảo đảm cho các cấp Hội Liên hiệp
phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý
Nhà nước, thể chế hóa vai trò của

- 4 -Thanh An
11/16/2015

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012

Page 4


Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đại
diện quyền làm chủ của phụ nữ tham
gia quản lý Nhà nước, thể chế hóa
mối quan hệ hợp tác và phối hợp
giữa các cấp chính quyền và các cấp
Hội phụ nữ.
Tiếp tục thực hiện sự giải
phóng phụ nữ và thực hiện quyền
bình đẳng thực sự, trong những năm
90 của thế kỷ XX và những năm đầu
của thế kỷ XXI, để thực hiện thắng
lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và cải cách nền
hành chính Nhà nước, công tác phụ
nữ càng được Đảng, Nhà nước quan
tâm chu đáo (quyền bình đẳng nam
nữ được ghi trong các Hiến pháp

năm 1946, 1959, 1980, được bổ
sung: “Nghiêm cấm mọi hành vi phân
biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm
nhân phẩm phụ nữ… Nhà nước và
xã hội tạo điều kiện để phụ nữ nâng
cao trình độ mọi mặt, không ngừng
phát huy vai trò của mình trong xã
hội” (chương V, Hiến pháp 1992).
Tiếp đó, Nghị quyết số 04/NQTW (12/7/1993), Chỉ thị số 28 CT-TW
(19/9/1993),
Chỉ
thị
37/CT
(16/5/1994), Chỉ thị 54/CT-TW
(22/5/2000), Chỉ thị 07/CT-TW (Ngày
25/1/2002),... về công tác phụ nữ và
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ X (2006) chỉ rõ: “Nâng cao
trình độ mọi mặt về đời sống vật
chất, tinh thần, thực hiện bình đẳng
giới. Tạo điều kiện để phụ nữ thực
hiện tốt vai trò người công dân,
người lao động, người mẹ, người
thầy đầu tiên của con người. Bồi
dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia
6Created by T hanh An

ngày càng nhiều vào các hoạt động
xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản
lý ở các cấp”. Triển khai Nghị quyết

Đại hội Đảng X, ngày 27/4/2007 Bộ
Chính trị ra Nghị quyết số 11-NQ/TW
về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước và Chính phủ
đã ban hành Nghị định số
19/2003/NĐ-CP (7/3/2003) và Luật
Bình đẳng giới được Quốc hội thông
qua tháng 11/2006 đã tạo điều kiện
cho Hội phụ nữ cùng cấp tham gia
các hoạt động quản lý Nhà nước liên
quan đến quyền và lợi ích của phụ
nữ.
Cùng với sự phát triển của sự
nghiệp cách mạng và những thành
tựu về mọi mặt về chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội của Nhà nước XHCN
của dân, do dân, vì dân, quyền bình
đẳng đối với phụ nữ đã đạt được
nhiều tiến bộ rõ nét, thể hiện ở các
mặt sau đây:
- Các cấp ủy Đảng, chính
quyền đã có sự chuyển biến nhất
định trong nhận thức, trong tư tưởng
và thực hiện quyền bình đẳng đối với
phụ nữ. Người phụ nữ đã được đánh
giá cao, và vai trò của cán bộ nữ nói
riêng cũng đã được ghi nhận. Trong
những điều kiện cụ thể, công tác cán
bộ nữ đã là một trong những nhiệm
vụ quan trọng của địa phương, của

ngành, có sự chỉ đạo, kiểm tra, đôn
đốc thực hiện.
- Nhà nước đã ban hành nhiều
chính sách quốc gia, tạo điều kiện để
phụ nữ được chăm lo về sức khỏe và
quyền lợi, được giải quyết việc làm,
từng bước giảm tỷ lệ đói nghèo cho

- 5 -T hanh An
11/16/2015

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012

Page 5

5


Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội
phụ nữ. Ngoài việc thụ hưởng các
chương trình chung của Quốc gia,
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã
đẩy mạnh chương trình tạo việc làm,
xóa đói giảm nghèo cho phụ nữ cả
nước. Đã có trên 1.900 tỷ đồng dành
cho phụ nữ và trên 2 triệu lượt phụ
nữ (trong đó trên 60% là phụ nữ
nghèo, phụ nữ dân tộc, tôn giáo, đơn
thân, tàn tật, phụ nữ trong diện chính
sách, phụ nữ chủ doanh nghiệp mới

thành lập) được vay để sản xuất,
kinh doanh, phát triển trang trại, mở
mang nghề nghiệp, phát triển nghề
truyền thống…
- Các cấp, các ngành đã quan
tâm giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất,
năng lực, nâng cao trình độ về mọi
mặt cho phụ nữ. Hội LHPN các cấp
đã chủ động phối hợp với các ngành
chức năng xây dựng chương trình,
kế hoạch cụ thể, tổ chức các hoạt
động đào tạo, nâng cao năng lực cho
phụ nữ từ Trung ương đến cơ sở,
tạo điều kiện cho phụ nữ nhận thức
sâu sắc hơn quyền lợi và nghĩa vụ
của mình đối với gia đình, xã hội và
đối với chính bản thân mình.
- Do sự chuyển biến trong
nhận thức và đánh giá đúng vai trò,
khả năng của phụ nữ trong sự nghiệp
đổi mới, công tác cán bộ nữ cũng đã

được các cấp ủy Đảng, các ngành,
các cấp, thực hiện theo một lộ trình
phù hợp. Vì vậy, đội ngũ cán bộ nữ
phát triển nhanh về số lượng và chất
lượng, tỷ lệ nữ tham gia, trúng trong
các cấp ủy Đảng, Quốc hội, HĐND,
các ngành, các cấp ngày càng tăng.
Có thể nói rằng, được Đảng và

Nhà nước quan tâm, cho nên sự
nghiệp giải phóng phụ nữ, thực hiện
quyền bình đẳng thực sự cho phụ nữ
đã được thực hiện, dù trong thực tế
vẫn còn tồn tại những bất cập. Với
những chủ trương, chính sách phù
hợp, công tác vận động phụ nữ,
phong trào phụ nữ ngày càng phát
triển; sự đóng góp của phụ nữ cho
sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất
nước ngày càng lớn; quyền bình
đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa,...
giữa nam và nữ ngày càng thể hiện
rõ nét trong mọi mặt của đời sống xã
hội. Đó là sự tham gia của phụ nữ
trong công tác quản lý, lãnh đạo ở tất
cả các cấp ủy Đảng, các cơ quan
Nhà nước, các ngành, các doanh
nghiệp, các hợp tác xã…, và đó cũng
chính là sự khẳng định, sự cố gắng
vươn lên của bản thân mỗi người
phụ nữ Việt Nam trong vị thế quốc
gia và trên trường quốc tế.

Ths. Văn Thị Thanh Hương
(www.gdtd.vn – Ngày 06/3/2011)

6

6Created by Thanh An


- 6 -Thanh An
11/16/2015

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012

Page 6


Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

BÌNH ĐẲNG GIỚI - ĐIỂM SÁNG VỀ NHÂN QUYỀN Ở VIỆT NAM
Dự thảo Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần
thứ XI diễn ra ở Hà Nội (tháng 3/2012) đã nêu: Việt Nam là một trong những
quốc gia đạt thành tựu cao về thực hiện bình đẳng giới, được Liên hợp
quốc đánh giá là điểm sáng trong thực hiện các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Kết
quả đó là thực tiễn sinh động minh chứng sự quan tâm của Đảng và Nhà
nước ta đối với phụ nữ, cao hơn là trong việc bảo đảm nhân quyền.
Vấn đề bình đẳng giới ở Việt Nam có sự chi phối từ những nguyên nhân
của lịch sử và ở từng giai đoạn lịch sử khác nhau, cũng có những biểu hiện khác
nhau. Đáng chú ý là, trong nhiều thế kỷ, dân tộc Việt Nam chịu sự đô hộ của
phong kiến phương Bắc; nhất là khi đạo Khổng được truyền bá vào Việt Nam, thì
vai trò của người phụ nữ trong xã hội trở nên hết sức thấp kém. Theo đó, sự bất
bình đẳng giới cũng diễn ra phổ biến; các quyền cơ bản của phụ nữ không được
bảo đảm, thậm chí bị tước đoạt một cách vô lý.
Nhận rõ tầm quan trọng và thể hiện trọng trách trước nhân dân và cộng
đồng quốc tế, ngay trong Cương lĩnh 1930 của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam
xác định: Nam, nữ bình quyền là một trong mười nhiệm vụ cốt yếu của cách
mạng Việt Nam. Điều đó cũng được ghi nhận trong Hiến pháp đầu tiên (năm
1946) của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và được khẳng định rõ ở Điều 63,

Hiến pháp sửa đổi (năm 1992) của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Cho tới
nay, Việt Nam đã tham gia nhiều công ước quốc tế, trong đó có: Công ước về
Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW, năm 1981), Công
ước Quyền trẻ em (CRC, năm 1990) và tích cực thực hiện Cương lĩnh Hành
động Bắc Kinh (năm 1995) vì bình đẳng, hòa bình và phát triển. Bên cạnh đó,
nhiều luật pháp, chính sách đã được ban hành, sửa đổi, bổ sung, tạo điều kiện
thuận lợi cho thực hiện bình đẳng giới và bảo vệ quyền phụ nữ. Nổi bật là: Chiến
lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, nhằm nâng cao chất lượng
cuộc sống (cả về vật chất và tinh thần) của phụ nữ, cũng như tạo điều kiện cần
thiết để phụ nữ được hưởng quyền cơ bản của mình, tham gia và hưởng thụ một
cách bình đẳng, đầy đủ trong mọi khía cạnh của đời sống chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội. Bộ luật Lao động (năm 2002) đã sửa đổi, bổ sung những nội dung
liên quan đến chính sách đối với lao động nữ, bao gồm: Bảo hiểm xã hội, tiền
lương, bảo hộ lao động, đào tạo nghề. Ngoài ra, Việt Nam đã ký các hiệp định
tương trợ tư pháp và pháp lý với 12 nước, trong đó có Lào, Trung Quốc và
Cam-pu-chia; đã tham gia các thỏa thuận và tuyên bố quốc tế về phòng, chống
mua bán người, đồng thời là thành viên tích cực của các diễn đàn đa phương,
như: Tiến trình Tư vấn khu vực châu Á - Thái Bình Dương; Tiến trình Ba-li về
phòng, chống mua bán người và tội phạm xuyên quốc gia; Tuyên bố chung
ASEAN về phòng, chống mua bán người;… Cùng với những chủ trương, chính
6Created by T hanh An

- 7 -T hanh An
11/16/2015

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012

Page 7

7



Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội
sách về các lĩnh vực cơ bản nhất, Nhà nước ta cũng quan tâm tới các lĩnh vực
đặc thù, như: Ban hành Pháp lệnh về phòng, chống mại dâm (năm 2003);
Chương trình hành động, phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em;
đồng thời, xử lý nghiêm tội phạm và có những biện pháp hỗ trợ các nạn nhân.
Nhà nước ta cũng đã ban hành Luật Bình đẳng giới (2006), Luật Phòng, chống
bạo lực gia đình (2007); đặc biệt là, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa X) đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW về
Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước (2007); Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới (2011 - 2020),…
Quốc hội thường xuyên thực hiện tốt công tác giám sát về bình đẳng giới. Hằng
năm, Chính phủ đều có báo cáo kết quả thực hiện pháp luật về bình đẳng giới,…
Những nỗ lực trong việc hoạch định chủ trương, chính sách mang tính chiến
lược lâu dài của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã tạo bước chuyển mạnh mẽ
trong thực hiện bình đẳng giới, bảo đảm tốt các quyền bình đẳng giữa nam và
nữ; quyền được làm việc, được hưởng lương như nhau; quyền sở hữu, thừa kế
và quyền lựa chọn bạn đời khi kết hôn hoặc ly hôn,… đều được pháp luật bảo
vệ.
Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình, Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam luôn tỏ rõ vai trò nòng cốt, tiên phong trong các hoạt động bình
đẳng giới. Hội đã tập hợp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ Việt Nam, thực hiện tốt
vai trò bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ; đồng thời, bám
sát tình hình thực tiễn và yêu cầu công tác phụ nữ trong từng thời kỳ để không
ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao trong việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới. Với phương châm “ở đâu có
phụ nữ, ở đó có tổ chức Hội”, các cấp hội đã chú trọng gắn kết chặt chẽ công tác
tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, năng lực hoạt động cho phụ nữ với
việc đẩy mạnh các chương trình hành động vì sự phát triển, tiến bộ của phụ nữ;

tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, khu vực. Qua đó, xây dựng mối
quan hệ tình cảm gắn bó mật thiết giữa phụ nữ Việt Nam với phụ nữ các nước
trên thế giới, vì mục tiêu hòa bình, hữu nghị, bình đẳng và phát triển. Hoạt động
hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, góp phần xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng,
tiến bộ, hạnh phúc cũng được các cấp hội hết sức quan tâm; trong đó, chương
trình xóa đói, giảm nghèo, hỗ trợ phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn vươn lên ổn
định cuộc sống,... đã thu hút được sự quan tâm, ủng hộ của các tổ chức chính trị
- xã hội, các doanh nghiệp, các nhà hảo tâm trong và ngoài nước; động viên
được tinh thần hợp tác, tương thân, tương ái của đông đảo chị em phụ nữ trong
cả nước. Đến nay, Hội đã tín chấp và nhận ủy thác được hơn 48 nghìn tỷ đồng,
giúp trên 17 triệu lượt phụ nữ vay vốn để sản xuất, kinh doanh; tạo việc làm, ổn
định cuộc sống, xây dựng gia đình no ấm, hạnh phúc... góp phần nâng cao vị thế
của phụ nữ Việt Nam trên trường quốc tế.

8

6Created by Thanh An

- 8 -Thanh An
11/16/2015

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012

Page 8


Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội
Cùng với những nỗ lực trên, Hội luôn chú trọng thực hiện tốt chức năng
tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước trong xây dựng, ban hành pháp luật và
các chủ trương, chính sách về những vấn đề có ý nghĩa chiến lược thực hiện

bình đẳng giới, như: Luật Bình đẳng giới; Luật Phòng, chống bạo lực gia đình,...
Hội cũng đã tích cực nghiên cứu, xây dựng và tham gia xây dựng các văn bản
quy phạm pháp luật, hướng dẫn thi hành Luật Bình đẳng giới; tăng cường tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục Luật Bình đẳng giới cho các đối tượng; chia sẻ kinh
nghiệm xây dựng Luật Bình đẳng giới trong và ngoài nước;… Sự tham gia tích
cực của Hội đã góp phần tạo cơ sở pháp lý quan trọng để phát huy tốt vai trò,
trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân trong đấu tranh, ngăn chặn các hành vi
phân biệt đối xử về giới, tạo bước chuyển mạnh mẽ trong việc bảo đảm nam, nữ
bình quyền và dân tộc bình đẳng ở Việt Nam.
Trong lĩnh vực kinh tế, mục tiêu bình đẳng giới đã đạt những kết quả thiết
thực và bền vững. Hiện nay, phụ nữ chiếm 50% lực lượng lao động; tỷ lệ nam
giới và nữ giới tham gia hoạt động kinh tế ở mức gần bằng nhau (nữ: 83%, nam:
85%). Lực lượng phụ nữ có vai trò tương đương với nam giới trong việc tham gia
vào quá trình tạo ra của cải vật chất. Hầu hết các ngành nghề đều có sự tham
gia của phụ nữ; nhiều ngành, phụ nữ chiếm tỷ lệ cao hơn nam giới. Vị thế của
phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội đã không ngừng được nâng cao. Theo
đánh giá của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam là một trong những nước dẫn đầu
thế giới về tỷ lệ phụ nữ tham gia các hoạt động kinh tế và là quốc gia đạt được
sự thay đổi nhanh nhất về xóa bỏ khoảng cách giới ở khu vực Đông Á (mục tiêu
thứ 3 trong 8 Mục tiêu Thiên niên kỷ).
Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, tỷ lệ phụ nữ biết đọc, biết viết tăng từ
82,3% (năm 1993) lên 90,5% (năm 2011). Tỷ lệ biết chữ của nam từ 10 tuổi trở
lên chỉ cao hơn nữ 6%. Khoảng cách nhập học của học sinh nam, nữ ở các cấp
học, bậc học trong những năm gần đây đã được thu hẹp gần như tương đương.
Hiện tượng bỏ học sớm của trẻ em gái được cải thiện đáng kể. Tính trung bình
trong các năm học, tỷ lệ tốt nghiệp của học sinh nữ cao hơn nam. 100% trẻ em
gái từ 11 tuổi đến 14 tuổi tốt nghiệp chương trình tiểu học và được vào lớp 6. Kết
quả đó đã tăng tỷ lệ đi học chung của nữ ở cấp trung học cơ sở lên trên 90%,
trung học phổ thông lên trên 50%.
Trong lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khỏe, Việt Nam đã tổ chức thực hiện

có hiệu quả nhiều chính sách khám, chữa bệnh cho các đối tượng; huy động
mạnh mẽ các nguồn lực trong xã hội, góp phần đưa tỷ lệ phụ nữ được tiếp cận
với các dịch vụ y tế lên hơn 90%; đưa tuổi thọ bình quân của người Việt Nam đạt
72,8 tuổi, trong đó phụ nữ đạt 75,6 tuổi và nam giới đạt 70,2 tuổi (nữ tăng 5,5
tuổi, nam tăng 3,7 tuổi so với năm 1999). Tỷ lệ phụ nữ khám thai và được chăm
sóc y tế khi mang thai hằng năm đều tăng. Riêng năm 2007, tỷ lệ phụ nữ được
khám thai từ 03 lần trở lên, tăng 2% so với năm 2005.
6Created by T hanh An

- 9 -T hanh An
11/16/2015

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012

Page 9

9


Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội
Trong lĩnh vực chính trị, phụ nữ tham gia công tác trong hệ thống Đảng, cơ
quan quản lý Nhà nước, các doanh nghiệp và các cơ quan dân cử ngày càng
tăng, nhất là ở những vị trí cấp cao, như: Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung
ương Đảng, Phó Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch Quốc hội, bộ trưởng, thứ trưởng
và trong các ủy ban nhân dân, hội đồng nhân dân các cấp,… Trong Quốc hội, tỷ
lệ nữ đại biểu nhiệm kỳ 2007 - 2011 là 25,76%, xếp thứ 31 trên thế giới. Riêng
nhiệm kỳ 2011 - 2016 là 24,4%; tuy có giảm so với nhiệm kỳ trước, nhưng Việt
Nam vẫn là một trong những nước của khu vực châu Á - Thái Bình Dương có tỷ
lệ nữ đại biểu Quốc hội cao.
Trong gia đình, tiếng nói của phụ nữ khi quyết định các vấn đề lớn, quan

niệm về con trai, con gái đã có nhiều thay đổi tích cực. Mức độ sở hữu và kiểm
soát các tài sản quan trọng của phụ nữ Việt Nam hiện nay đã được pháp luật
bảo vệ…
Những kết quả đạt được trong các lĩnh vực trên đây đã góp phần quan
trọng nâng cao chất lượng cuộc sống và chất lượng nguồn nhân lực, đồng thời là
minh chứng thuyết phục nhất khi cho rằng: Việt Nam là một quốc gia tiên phong
trong đấu tranh vì bình đẳng giới và bảo vệ nhân quyền. Tuy nhiên, các thế lực
thù địch vẫn tìm mọi cách để phủ nhận những thành tựu đó, nhằm phục vụ cho
mưu đồ chống phá CNXH của chúng. Song, những thủ đoạn đó cũng không thể
đánh lừa được ai, bởi thực tiễn công cuộc đổi mới nói chung, cũng như những
thành tựu đã đạt được trên lĩnh vực bình đẳng giới của Việt Nam nói riêng, là một
thực tế mà nhân dân ta và nhiều tổ chức trên thế giới thừa nhận, không một thế
lực nào có thể phủ nhận được.
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng sự nghiệp phấn
đấu vì mục tiêu bình đẳng giới và phát triển của phụ nữ ở Việt Nam hiện vẫn còn
nhiều thách thức. Bởi, xuất phát điểm của Việt Nam là một nước nông nghiệp,
trải qua hàng nghìn năm Bắc thuộc, chịu ảnh hưởng của định kiến giới nặng nề,
nên tư tưởng trọng nam, khinh nữ vẫn còn tồn tại khá phổ biến trong các đối
tượng. Ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, phụ nữ còn bị ràng buộc bởi phong tục,
tập quán lạc hậu; tỷ lệ phụ nữ nghèo, mù chữ còn cao; bạo lực gia đình, tệ nạn
mại dâm, buôn bán phụ nữ, trẻ em, lấy chồng người nước ngoài còn diễn biến
phức tạp.
Để khắc phục có hiệu quả tình trạng trên và triển khai thực hiện tốt vấn đề
bình đẳng giới, nhằm phát huy quyền con người trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước ta đang tiếp tục thực hiện những chủ
trương, chính sách, với sự tham gia của cả cộng đồng; trong đó, tập trung đẩy
mạnh và đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức
về giới, bình đẳng giới. Trong thời gian tới, cần coi trọng mở rộng đối tượng
tuyên truyền, từ nam giới đến nữ giới; tăng cường mở các lớp tập huấn về kỹ
năng lồng ghép giới cho cán bộ lãnh đạo, quản lý và đại diện người sử dụng lao


10

6Created by Thanh An

- 10 -T hanh An
11/16/2015

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012

Page 10


Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội
động; đưa vấn đề giới vào kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch cán bộ; nâng
cao chất lượng xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật theo hướng nâng tỷ lệ
nữ tham gia trong các tổ chức, bộ máy của cơ quan, đơn vị nói chung, nâng tỷ lệ
nam trong các hoạt động về giới nói riêng. Các bộ, ban, ngành liên quan, cần có
sự phối hợp chặt chẽ trong công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện
pháp luật về bình đẳng giới và các chính sách liên quan đến lao động nữ; đồng
thời, tranh thủ sự ủng hộ của các tổ chức quốc tế để tăng cường việc học tập,
trao đổi kinh nghiệm với bạn bè quốc tế về các hoạt động bình đẳng giới... Thực
hiện có hiệu quả những nội dung này, sẽ làm cho vấn đề bình đẳng giới và bảo
đảm nhân quyền ở Việt Nam ngày càng tốt hơn.
Ths. Phạm Hạnh Sâm
(tapchiqptd.vn – Ngày 07/3/2012)

THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI TẠI VIỆT NAM:

NHỮNG BƯỚC TIẾN NGOẠN MỤC

“Báo cáo phát triển con người, 2011” do UNDP công bố mới đây cho thấy,
Việt Nam xếp thứ 128 trên 187 quốc gia và vùng lãnh thổ, mức trung bình trên
thế giới về chỉ số phát triển con người (HDI-Human Development Index) nhưng
lại xếp thứ 48 trên thế giới về chỉ số bất bình đẳng giới (thứ hạng càng gần 0
càng thể hiện sự bình đẳng cao). Theo đó, chúng ta đã có những bước tiến vượt
bậc trong việc thực hiện bình đẳng giới.
HDI và GII
Chỉ số HDI được tính toán dựa vào các chỉ báo về triển vọng sống khi sinh
(LEB-Life Expectancy at Birth) hay còn được gọi nôm là tuổi thọ bình quân, chỉ
báo về trình độ học vấn và thu nhập bình quân đầu người. Chỉ số bất bình đẳng
giới (GII-Gender Inequality Index) để đo lường sự bất bình đẳng giữa nam và nữ
trong một quốc gia hay vùng lãnh thổ. Giá trị đo lường được tính trong khoảng từ
0 - 1. GII càng tiệm cận điểm 0 thì mức độ bất bình đẳng càng thấp, tức càng
bình đẳng và càng tiệm cận điểm 1 thì mức độ bất bình đẳng càng cao. GII của
quốc gia nào gần 0 nhất sẽ xếp thứ nhất, tức mức độ mất bình đẳng thấp nhất
hay mức độ bình đẳng cao nhất.
GII được tính toán dựa trên các chỉ báo: Tỷ suất chết mẹ, tỷ suất sinh của
vị thành niên, tỷ lệ phần trăm phụ nữ trong cơ quan lập pháp, trình độ học vấn
tính từ cấp 2 trở lên chia theo giới, tỷ lệ tham gia lao động chia theo giới, các chỉ
báo về sức khỏe sinh sản gồm tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai, tỷ lệ ít nhất
khám thai một lần trong thời kỳ mang thai, tỷ lệ trường hợp sinh có nhân viên y tế
chăm sóc và chỉ số về tổng tỷ suất sinh.
6Created by T hanh An

- 11 -Thanh An
11/16/2015

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012

Page 11


11


Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội
Những biến chuyển ngoạn mục của Việt Nam
“Báo cáo Phát triển con người, 2011” của UNDP cũng cho thấy, xu hướng
GII của Việt Nam là liên tục giảm từ 1995 - 2011. Điều đó cho thấy mức độ bình
đẳng giới của Việt Nam tăng lên rõ rệt trong thời gian qua.

Xu hướng GII Việt Nam 1995 - 2011.
Nguồn: UNDP, Báo cáo Phát triển con người 2011.
So với các nước trong khu vực ASEAN, Việt Nam xếp thứ 7/11 nếu xét về
chỉ số HDI, nhưng nếu xét về chỉ số GII, Việt Nam lại đứng thứ 3, sau Singapore
và Malaysia. Như vậy, có thể nói, mặc dù chỉ số phát triển con người của Việt
Nam còn hạn chế so với các nước trong khu vực nhưng mức độ bình đẳng giới
của Việt Nam luôn thuộc những nước hàng đầu khu vực.

Bảng so sánh thứ hạng HDI và GII của Việt Nam và
các nước ASEAN, 2011.
Nguồn: UNDP, Báo cáo phát triển con người, 2011.
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn coi trọng và phát huy bình đẳng
giới
Ngay từ ngày đầu mới lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong phần
mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí

12

6Created by Thanh An


- 12 -T hanh An
11/16/2015

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012

Page 12


Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội
Minh tuyên bố: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho
họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hiến pháp
1946, đã ghi nhận “Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt
Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” (Điều 1).
“Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” (Điều 9).
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn dành suối nguồn nghĩa tình sâu nặng, trân quý các thế hệ phụ nữ Việt Nam.
Tại lễ kỷ niệm lần thứ 20 ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Người
đã ôn lại truyền thống yêu nước đầy tự hào của người phụ nữ Việt Nam với hình
ảnh Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, đánh giặc, cứu dân thủa trước “cho đến
nay mỗi khi nước nhà gặp nguy nan thì phụ nữ ta đều hăng hái đứng lên, góp
phần xứng đáng của mình vào sự nghiệp giải phóng dân tộc”. Tại Đại hội liên
hoan phụ nữ “Năm Tốt” vào ngày 30/4/1964, Người đã khẳng định “Ngay từ lúc
đầu, Đảng và Nhà nước ta đã thi hành chính sách đối với phụ nữ cũng được bình
quyền, bình đẳng với đàn ông”. Trong cuộc Tuyển cử phổ thông đầu phiếu ngày
6/1/1946, Người vui sướng nói "Phụ nữ là tầng lớp đi bỏ phiếu hăng hái nhất”.
Trong bản di chúc viết tháng 5 năm 1968, Người đã căn dặn: "Trong sự nghiệp
chống Mỹ, cứu nước, phụ nữ đảm đang ta đã góp phần xứng đáng trong chiến
đấu và trong sản xuất, Ðảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi

dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc
kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Ðó là một
cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”.
Kế thừa những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và thực hiện những lời
di huấn của Bác, Đảng và Nhà nước ta luôn chăm lo và thực hiện bình đẳng giới,
nhiều văn bản chính sách đã được ban hành như: Nghị quyết số 152-NQ/TW
ngày 10/01/1967 “Về một số vấn đề về tổ chức công tác phụ vận”, trong đó nhấn
mạnh một số nhiệm vụ như “phân bố, sử dụng hợp lý sức lao động phụ nữ trong
nông nghiệp, hướng dẫn thực hiện quyết định của Chính phủ về sử dụng lao
động phụ nữ trong công nghiệp”; “Tăng cường việc tổ chức đời sống, bảo vệ sức
khỏe cho phụ nữ và trẻ em”. Nghị quyết số 153-NQ/TW ngày 10/01/1967 về
“Công tác cán bộ nữ”; Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 07/6/1984 “Về một số vấn đề
cấp bách trong công tác cán bộ nữ"; Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 về
“Đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới"; Chỉ thị
số 37-CT/TW ngày 29/9/1993 về “Một số vấn đề về công tác cán bộ nữ trong tình
hình mới”; Nghị quyết 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về "Công tác
phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước"… Một trong những văn bản
quan trọng không thể không nhắc đến, đó là Hiến pháp 1992 đã quy định: “Công
dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
6Created by T hanh An

- 13 -Thanh An
11/16/2015

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012

Page 13

13



Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội
hội và gia đình; Nghiêm cấm hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân
phẩm phụ nữ” (Điều 63). Trong thời gian qua, hàng loạt các văn bản pháp luật
của Nhà nước đã được ban hành nhằm nâng cao vị thế của phụ nữ trong xã hội
và thực hiện bình đẳng giới như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Hôn
nhân và Gia đình, Pháp lệnh Dân số... và không thể không nhắc đến là Luật
Phòng chống bạo lực gia đình, Luật Bình đẳng giới.
Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị
“Báo cáo phát triển con người năm 2011” cho biết tỷ lệ phụ nữ trong cơ
quan lập pháp của Việt Nam là 25,8%. Theo Tổ chức Liên minh Nghị viện thế
giới (Inter-Parliamentary Union) thì Việt Nam đứng thứ 40 trong tổng số 188
nước trên thế giới về tỷ lệ phụ nữ trong cơ quan lập pháp (số liệu tính đến ngày
30/11/2011 trên cơ sở báo cáo của cơ quan lập pháp các nước). So với các
nước trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam xếp thứ 3, sau Timor Leste và Lào.
Trang tin Nhóm Nữ nghị sỹ Việt Nam (thuộc Ủy ban Các vấn đề xã hội của
Quốc hội) và website Quốc hội cho biết, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội ở nước ta liên
tục tăng lên trong thời gian qua và duy trì ở mức cao. Tỷ lệ này đã tăng từ 3%
(Quốc hội khóa I từ 1946 - 1960) đến trên 24% Quốc hội khóa XIII (2011 2016).

Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội từ Khóa I - XIII.
Nguồn: Quốc hội Việt Nam, www.na.gov.vn.
Không chỉ chiếm tỷ lệ cao trong cơ quan lập pháp, phụ nữ Việt Nam còn
tham gia, nắm giữ những vị trí quan trọng và đóng góp tích cực trong các cơ
quan hành pháp, tư pháp, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức
chính trị xã hội nghề nghiệp… Phụ nữ Việt Nam cũng có một tổ chức chính trị
riêng của mình đó là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam được ra đời (ngày
20/10/1930) từ trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945 hoạt động vì sự bình đẳng,
phát triển của phụ nữ, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ. Tổ
chức này với hàng chục triệu hội viên hoạt động rộng khắp trên cả nước từ Trung

ương đến địa phương và tận các thôn, buôn, sóc, bản, làng.
Bình đẳng giới trong các lĩnh vực xã hội

14

6Created by Thanh An

- 14 -T hanh An
11/16/2015

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012

Page 14


Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội
Kế thừa những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và thực hiện những lời
di huấn của Bác, Đảng và Nhà nước ta luôn chăm lo và thực hiện bình đẳng giới,
nhiều văn bản chính sách đã được ban hành…
Theo “Báo cáo phát triển con người, 2011” của UNDP, trình độ học vấn
của phụ nữ Việt Nam (từ 25 tuổi trở lên) đã hoàn thành chương trình giáo dục
cấp 2 trở lên là 24,7% so với 28% là của nam giới. Như vậy, mức độ chênh lệch
giữa nam và nữ về giáo dục ở nước ta không nhiều. Theo Kết quả chủ yếu của
Điều tra Dân số-KHHGĐ 1/4/2011 của Tổng cục Thống kê (TCTK) thì tỷ lệ biết
chữ của nam giới là 96,2% và của nữ giới là 92,2% (từ 15 tuổi trở lên). Trang
Wikipedia dẫn nguồn từ website Quốc hội thì tại Việt Nam, cứ 100 cử nhân có 36
nữ, 100 thạc sĩ có 34 nữ, 100 tiến sĩ có 24 nữ. Để tôn vinh các nhà khoa học nữ,
25 năm qua, giải thưởng Kovalevskaia đã trở thành một giải uy tín lớn trong giới
khoa học Việt Nam được trao cho hàng chục cá nhân, tập thể. Từ năm 2002,
Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thành lập Quỹ “Giải thưởng Phụ nữ Việt

Nam” nhằm khuyến khích và tôn vinh phụ nữ Việt Nam trong các lĩnh vực.
Khi phụ nữ có học vấn, học vấn cao sẽ mở ra các cơ hội cho họ về việc
làm, thu nhập, cơ hội tiếp cận về y tế, kế hoạch hóa gia đình hay tham gia lĩnh
vực chính trị. Chính vì thế, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai. Mở cánh
cửa giáo dục là mở ra các cơ hội mới.
Theo UNDP, tỷ lệ nữ tham gia lao động của Việt Nam là 68% và nam giới
là 76%. Theo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009 của TCTK thì tỷ lệ nữ
tham gia lao động là 46,6% trong tổng số lao động. Như vậy, tỷ lệ nữ Việt Nam
tham gia lao động gần bằng nam giới. Đáng chú ý là báo cáo “Bình đẳng giới và
Phát triển” (Gender equality and Development) của World bank được công bố
mới đây thì tỷ lệ phụ nữ (30%) tham gia lao động trong lĩnh vực dịch vụ lại cao
hơn nam giới (26%). Có trên 20% tổng số doanh nghiệp ở Việt Nam do phụ nữ
làm chủ, chủ yếu thuộc về khu vực thương mại, dịch vụ, sản xuất, chế biến nông
sản, thủy sản. Nhiều tấm gương phụ nữ trẻ làm kinh tế giỏi không những chỉ làm
giàu cho bản thân mà còn đóng góp được nhiều cho xã hội. Theo UNDP thì tại
Việt Nam nếu nam giới kiếm được 1$ thì nữ giới sẽ kiếm được 0,69$ (số liệu
năm 2007). Điều này khác xa so với nhiều nước trên thế giới. Khi phụ nữ có việc
làm, họ sẽ có thu nhập và mang đến sự tự chủ về kinh tế, sự chia sẻ các quyết
định trong gia đình và các cơ hội bình đẳng hơn đối với phụ nữ.
Điều tra Dân số-KHHGĐ 1/4/2011 của TCTK cho thấy tỷ lệ sử dụng các
biện pháp tránh thai của phụ nữ 15 - 49 tuổi năm 2011 là 78,2%, trong đó các
biện pháp tránh thai hiện đại là 68,6%; tổng tỷ suất sinh là 1,99 con. Tỷ lệ các bà
mẹ khám thai từ 3 lần trở lên trong thời kỳ mang thai là 76%. Nếu theo tiêu chí
của UNDP (ít nhất 1 lần khám thai) thì tỷ lệ này của Việt Nam là 93,8%. Thành
công của chương trình DS-KHHGĐ trong thời gian qua đã mang đến nhiều cơ
hội lớn cho phụ nữ trong việc tiếp cận và thụ hưởng các quyền, dịch vụ về y tế 6Created by T hanh An

- 15 -Thanh An
11/16/2015


Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012

Page 15

15


Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội
dân số - KHHGĐ. Cũng theo TCTK, tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi năm 2011 của
Việt Nam là 15%o.
Theo WHO và UNDP thì tỷ suất chết bà mẹ của Việt Nam là 56 (trên
100,000 trẻ sinh ra sống). Số trường hợp sinh có sự giúp đỡ của cán bộ y tế là
88%. Mức chết giảm cùng với việc ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật trong
lĩnh vực y tế và điều kiện kinh tế xã hội của đất nước tốt hơn đã làm tuổi thọ của
người dân ngày một tăng, trong đó, tuổi thọ của phụ nữ luôn cao hơn nam giới.
Theo 2011 World population data sheet thì tuổi thọ của phụ nữ Việt Nam hiện
nay là 76 và nam giới là 70 tuổi.
Với truyền thống đạo lý dân tộc Việt, với những phẩm chất ưu việt của phụ
nữ Việt Nam, sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, cộng đồng và thiết thân hơn cả
là sự vươn lên mạnh mẽ của mỗi cá nhân, phụ nữ Việt Nam đã, đang và ngày
càng khẳng định được vị thế của mình trên mọi mặt của đời sống xã hội, góp
phần quan trọng vào việc thực hiện thành công Chiến lược Quốc gia về bình
đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020, đạt được các Mục tiêu Thiên niên kỷ về bình
đẳng giới và nâng cao vị thế người phụ nữ.
Ths. Lương Quang Đảng
(giadinh.net.vn - Ngày 01/02/2012)

BÌNH ĐẲNG GIỚI – THÀNH CÔNG VÀ THÁCH THỨC
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Non sông gấm vóc Việt Nam ta do
phụ nữ ta, trẻ cũng như già ra sức dệt thêu mà tốt đẹp, rực rỡ, trong lịch sử hàng

nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, từ tổ tiên đến con
cháu ngày nay, phụ nữ Việt Nam luôn đóng vai trò quan trọng, có những cống
hiến to lớn, góp phần xây dựng nên truyền thống vẻ vang của dân tộc, đồng thời
tạo nên truyền thống, phẩm giá cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam được đúc
kết bằng tám chữ vàng anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 10/1930
đã xác định: Nam nữ bình quyền là một trong 10 nhiệm vụ cốt yếu của cách
mạng Việt Nam. Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, bình đẳng
giới là quyền hiến định được thể hiện rõ ràng, thống nhất qua các bản Hiến pháp
và qua việc thực hiện các cam kết quốc tế như Công ước CEDAW, Cương lĩnh
hành động Bắc Kinh, các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ.
Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn về tăng cường bình đẳng
giới và nâng cao vị thế của phụ nữ. Các đạo luật và pháp lệnh được Quốc hội
(QH) và Ủy ban thường vụ QH ban hành đã thể chế hóa các quy định của Hiến
pháp, bảo đảm các quyền con người của phụ nữ theo hướng quyền phụ nữ

16

6Created by Thanh An

- 16 -T hanh An
11/16/2015

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012

Page 16


Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội
được đặt trong mối quan hệ với các quyền công dân, quyền con người nhưng có

chú ý tới các quyền mang tính đặc thù bởi chức năng sinh sản của phụ nữ, phụ
nữ là người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Những quy định của pháp
luật nói chung, đặc biệt là những quy định riêng đối với phụ nữ có tính khả thi
cao, phát huy tác dụng trong thực tế cuộc sống và cải thiện điều kiện về mọi mặt
cho phụ nữ vươn lên. Các văn bản pháp luật do QH ban hành vừa tạo điều kiện
thuận lợi để phụ nữ phấn đấu vươn lên, vừa đặt ra yêu cầu đối với phụ nữ phải
không ngừng năng động sáng tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề, kỹ
năng để tham gia ngày càng nhiều hơn vào các hoạt động và có đóng góp ngày
càng tăng cho sự phát triển chung của đất nước và mỗi gia đình.
Qua 30 năm thực hiện Công ước CEDAW và 12 năm thực hiện các Mục
Tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs) cho thấy, Việt Nam hiện là quốc gia thuộc
nhóm nước đang phát triển đạt kết quả cao về chỉ số phát triển giới so với nhiều
nước có cùng trình độ phát triển trong khu vực Đông Nam Á và châu Á - Thái
Bình Dương. Các báo cáo quốc gia của Việt Nam về tình hình thực hiện CEDAW
tại Việt Nam từ lần thứ nhất (năm 1984), lần thứ hai, ba, bốn (năm 2001) đến lần
thứ năm và sáu (năm 2007) cho thấy, QH nước ta không chỉ sửa đổi, bổ sung
đưa vấn đề giới vào nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh nhằm bảo đảm quyền bình
đẳng và tạo cơ hội cho phụ nữ trên mọi lĩnh vực giáo dục, lao động - việc làm,
kinh tế, dân sự, chăm sóc sức khỏe, hôn nhân - gia đình, tham chính... mà còn
xây dựng những đạo luật mới trực tiếp điều chỉnh về vấn đề này. Luật Bình đẳng
giới được QH Khóa XI thông qua năm 2006 đã thể hiện một thông điệp rõ ràng,
minh bạch về việc nội luật hóa các nguyên tắc, quy định của Công ước CEDAW
vào hệ thống pháp luật Việt Nam như đã cam kết với cộng đồng quốc tế. Mục
tiêu của Luật Bình đẳng giới là tạo bước chuyển biến cơ bản đối với việc xóa bỏ
mọi sự phân biệt đối xử về giới, góp phần tạo cơ hội bình đẳng cho cả nam giới
và phụ nữ trong mọi phương diện để tiến tới bình đẳng giới thực chất. Để thúc
đẩy việc thực hiện bình đẳng giới một cách có hiệu quả, Việt Nam đã có một cơ
quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới là Bộ Lao động, Thương binh và Xã
hội, một Ủy ban của QH phụ trách lĩnh vực bình đẳng giới là Ủy ban Về các vấn
đề xã hội, một tổ chức của phụ nữ Việt Nam là Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam

đại diện cho quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của phụ nữ. Hai nhiệm kỳ QH
liên tiếp (Khóa XII và Khóa XIII), QH đã thành lập Nhóm Nữ ĐBQH để thúc đẩy
bình đẳng giới trong các hoạt động QH bên cạnh trách nhiệm thực hiện bình
đẳng giới của các cơ quan, tổ chức được Nhà nước giao.
Mặc dù tỷ lệ tham gia QH của phụ nữ còn khá khiêm tốn, có sự tăng giảm
trong 13 nhiệm kỳ, nhưng từ chỗ chỉ có 10 nữ đại biểu trong QH Khóa I thì đến
QH Khóa XIII đã có 122 nữ đại biểu, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội (ĐBQH) trong 4
khóa gần đây luôn đạt trên 24%, bình đẳng giới của Việt Nam được Liên hợp
quốc đánh giá là điểm sáng trong thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ. Nữ ĐBQH
6Created by T hanh An

- 17 -Thanh An
11/16/2015

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012

Page 17

17


Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội
đã thể hiện rất rõ vai trò, trách nhiệm của mình trong từng nhiệm kỳ. Số lượng,
chất lượng các nữ ĐBQH ngày càng được nâng lên. Tỷ lệ ĐBQH nữ có trình độ
đại học, trên đại học ngày càng tăng. Kỹ năng lập pháp, kỹ năng giám sát, tiếp
xúc cử tri được nâng cao. Nhiều nữ ĐBQH là lãnh đạo Hội đồng Dân tộc, các Ủy
ban của QH, là ĐBQH chuyên trách. Nhiều nữ ĐBQH là chính trị gia, các nhà
khoa học, là người giữ những cương vị chủ chốt trong bộ máy Nhà nước, là nhà
quản lý, những doanh nhân giỏi, những người tiêu biểu ở các ngành, các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Với sứ mệnh và trọng trách cử tri giao phó, những nữ

ĐBQH đang đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước thực hiện tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Xây dựng Nhà nước Việt
Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
Các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ sẽ được hoàn thành vào năm 2015.
Nhiều khuyến nghị của các tổ chức quốc tế và chuyên gia cũng cho thấy vấn đề
giới cần được thực hiện xuyên suốt trong tất cả 8 Mục tiêu Thiên niên kỷ và trong
việc thiết kế các chương trình, chính sách, pháp luật. Phát triển kinh tế là không
đủ để xóa bỏ mọi tình trạng bất bình đẳng giới mà phải có những chính sách bổ
sung chú trọng vào giải quyết những vấn đề bất bình đẳng giới tồn tại dai dẳng.
Việc thực hiện các chính sách, pháp luật có tính đến yếu tố giới sẽ giúp nâng cao
chất lượng và đẩy nhanh lộ trình đạt được các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ.
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: Nâng cao trình độ mọi mặt và đời
sống vật chất tinh thần của phụ nữ. Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện các luật
pháp, chính sách đối với lao động nữ, tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai
trò của mình, tăng tỷ lệ phụ nữ tham gia vào cấp ủy và bộ máy quản lý Nhà
nước. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và các hành vi bạo lực, buôn
bán, xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ. Nghị quyết số 11 của Bộ Chính trị
(Khóa X) đã đề ra mục tiêu: Phấn đấu đến năm 2020, phụ nữ được nâng cao
trình độ về mọi mặt, có trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; có việc làm, được
cải thiện rõ rệt về đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần; tham gia ngày càng nhiều
hơn vào công việc xã hội, bình đẳng trên mọi lĩnh vực; đóng góp ngày càng lớn
hơn cho xã hội và gia đình. Phấn đấu để nước ta là một trong các quốc gia có
thành tựu bình đẳng giới tiến bộ nhất của khu vực.
Ngày 24/12/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia
về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 với 7 mục tiêu và 22 chỉ tiêu cụ thể về
bình đẳng giới trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Mục tiêu tổng quát của
Chiến lược hướng đến là đến năm 2020, về cơ bản, bảo đảm bình đẳng thực
chất giữa nam và nữ về cơ hội, sự tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực chính

trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của
đất nước. Chiến lược quy định một số chỉ tiêu như: Tỷ lệ nữ tham gia các cấp ủy

18

6Created by Thanh An

- 18 -T hanh An
11/16/2015

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012

Page 18


Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội
Đảng nhiệm kỳ 2016 - 2020 đạt từ 25% trở lên; tỷ lệ nữ ĐBQH, đại biểu HĐND
các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2015 đạt từ 30% trở lên và nhiệm kỳ 2016 - 2020 đạt
trên 35%; đến năm 2015 đạt 80% và đến năm 2020 đạt trên 95% bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ;
tỷ lệ lao động nữ nông thôn dưới 45 tuổi được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ
thuật đạt 25% vào năm 2015 và 50% vào năm 2020; đến năm 2015 có 80% và
đến năm 2020 có 100% dự thảo văn bản quy phạm pháp luật được xác định có
nội dung liên quan đến bình đẳng giới hoặc có vấn đề bất bình đẳng giới, phân
biệt đối xử về giới được lồng ghép vấn đề bình đẳng giới...
Tuy nhiên, giữa mong muốn, mục tiêu đề ra với thực tế thực hiện bình
đẳng giới còn nhiều khoảng cách, con đường tiến tới bình đẳng giới thực chất
vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Tỷ lệ phụ nữ trong các cơ quan có thẩm
quyền ra quyết định còn thấp. Kết quả bầu cử ĐBQH Khóa XIII, tỷ lệ nữ đại biểu
chỉ đạt 24,4%, giảm 1,36% so với nhiệm kỳ QH Khóa XII (25,76%), đứng thứ 2

trong khu vực Đông Nam Á (sau Đông Timor: 29,2% và Lào: 25%), thứ 5 ở khu
vực châu Á - Thái Bình Dương (sau Nêpal: 33,2%; Đông Timor: 29,2%;
Afghanistan: 27,7%; Lào: 25%), thứ 43 trong tổng số 143 quốc gia (theo thống kê
của IPU ngày 31/12/2011).
Các kết quả nghiên cứu và kết quả thực hiện chính sách, pháp luật về bình
đẳng giới của QH, Chính phủ cũng cho thấy, trong xã hội vẫn tồn tại vấn đề định
kiến giới thể hiện trong nhận thức, hành động, trong các lĩnh vực do sự phân biệt
mang tính chất truyền thống về vai trò của phụ nữ và nam giới.
Trong thực tế, nhận thức về bình đẳng giới có chuyển biến nhưng còn
chậm, chưa sâu sắc và toàn diện, phần lớn mới chỉ tập trung vào một số đối
tượng. Công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục về giới, bình đẳng giới chưa
thật phù hợp với từng nhóm đối tượng, từng địa bàn. Việc nâng cao năng lực tổ
chức thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến, vận động, giáo dục về giới, pháp
luật về bình đẳng giới còn hạn chế. Công tác thống kê, phân tách dữ liệu giới
chưa được thực hiện tốt và kịp thời cũng như chưa đáp ứng được yêu cầu. Số
liệu thống kê không được phân tách theo giới một cách đầy đủ trong nhiều lĩnh
vực nên chưa thể phân tích giới, lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong quy trình
xây dựng, ban hành pháp luật, trong việc lập kế hoạch và hoạch định chính sách
phát triển cũng như đánh giá đầy đủ hiệu quả của việc thực hiện các mục tiêu
bình đẳng giới.
Lồng ghép bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
bước đầu đã được quan tâm chỉ đạo thực hiện nhưng chất lượng còn hạn chế.
Việc thực hiện còn lúng túng và mang tính hình thức do kiến thức về giới, lồng
ghép giới của các thành viên tổ biên tập, ban soạn thảo còn hạn chế. Mặt khác,
việc xác định vấn đề giới trong lĩnh vực mà văn bản quy phạm pháp luật điều
chỉnh là vấn đề mới, khó và trừu tượng. Trong quá trình soạn thảo, xây dựng các
6Created by T hanh An

- 19 -Thanh An
11/16/2015


Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012

Page 19

19


Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội
văn bản pháp luật, vẫn còn nhận thức bình đẳng giới là những vấn đề liên quan
đến chính sách đối với phụ nữ, nên nếu dự thảo văn bản quy phạm pháp luật có
đề cập đến chính sách đối với phụ nữ thì được hiểu là đã thực hiện lồng ghép
bình đẳng giới mà chưa quan tâm đầy đủ đến việc thực hiện quy trình, thủ tục,
nội dung lồng ghép giới và sự phối hợp trong việc lồng ghép vấn đề bình đẳng
giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật theo quy định.
Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao
động, giáo dục và đào tạo và tại các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn triển khai thực hiện
còn hạn chế.
Nguồn tài chính cho hoạt động bình đẳng giới của các địa phương chủ yếu
trông chờ vào ngân sách Trung ương. Hàng năm, UBND các tỉnh, thành phố đều
bố trí nguồn kinh phí sự nghiệp thực hiện công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ
phụ nữ nhưng chỉ ở mức độ khiêm tốn.
Để giải quyết được những khó khăn, thách thức trên đòi hỏi phải có những
giải pháp đồng bộ. Trước hết, đó là sự quan tâm chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính
quyền, đây là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu giúp cho việc thực
hiện thành công Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới. Thực tế cho thấy, nơi
nào cấp ủy Đảng, người đứng đầu cơ quan chính quyền có nhận thức đúng đắn
về bình đẳng giới, thì nơi đó triển khai và thực hiện tốt các mục tiêu bình đẳng
giới. Vì vậy, cần tăng cường nâng cao nhận thức của các cấp lãnh đạo chính

quyền về bình đẳng giới.
Hai là, việc triển khai từng mục tiêu của Chiến lược quốc gia về bình đẳng
giới giai đoạn 2011 - 2020 thông qua Chương trình quốc gia về bình đẳng giới
giai đoạn 2011 - 2015 cần gắn với việc thực hiện các giải pháp tương ứng của
mỗi mục tiêu trong Chiến lược. Các chỉ tiêu, mục tiêu, giải pháp của Chiến lược
phải được lồng ghép vào các hoạt động chuyên môn của bộ, ngành và kế hoạch
phát triển KT - XH của địa phương.
Ba là, có sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành trong việc thực hiện các
mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.
Bốn là, các bộ, ngành được giao chủ trì và phối hợp thực hiện các biện
pháp bảo đảm bình đẳng giới phải nỗ lực, tích cực hơn để hoàn thành các nhiệm
vụ được giao theo Nghị định số 48/2009/NĐ-CP ngày 19/5/2009 của Chính phủ
quy định về các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới.
Năm là, tăng cường vai trò và trách nhiệm chủ trì giúp Chính phủ quản lý
Nhà nước về bình đẳng giới của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, làm cơ sở
cho việc phối hợp trách nhiệm với các bộ, ngành liên quan tạo nên sức mạnh
tổng hợp của cả hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước trong việc thực hiện mục
tiêu bình đẳng giới.

20

6Created by Thanh An

- 20 -T hanh An
11/16/2015

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012

Page 20



Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội
Sáu là, cần xác định rõ nguyên tắc lồng ghép bình đẳng giới là xuyên suốt
trong toàn bộ quá trình xây dựng và thực thi không chỉ là văn bản quy phạm pháp
luật mà bao gồm cả hoạt động của cơ quan, tổ chức; xác định rõ vị trí, vai trò,
trách nhiệm của từng chủ thể trong thực hiện các mục tiêu về bình đẳng giới và
mối quan hệ giữa các chủ thể trong quá trình thực hiện vai trò và trách nhiệm của
mình.
Nguyễn Hồng Ngọc
(www.daibieunhandan.vn – Ngày 09/3/2012)


PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ VIỆT
NAM TRONG THỜI KỲ PHÁT TRIỂN MỚI
“Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cùng già, ra sức dệt
thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”... ''Nhân dân ta anh hùng là nhờ có các bà
mẹ Việt Nam anh hùng"... "Dân tộc ta và Đảng ta đời đời biết ơn các bà mẹ
Việt Nam đã sinh ra và cống hiến những người ưu tú, đã và đang chiến đấu
anh dũng tuyệt vời bảo vệ non sông gấm vóc do tổ tiên ta để lại". Đó là
những lời đánh giá ngắn gọn, đầy đủ nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vị
trí, vai trò và sự đóng góp của phụ nữ trong quá trình phát triển của lịch sử
dân tộc Việt Nam.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta
luôn coi trọng công tác vận động phụ nữ, xác định phụ nữ có vai trò to lớn trong
việc tập hợp, xây dựng lực lượng của cách mạng. Đây là tầm nhìn chiến lược
của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mục tiêu cơ bản của cách mạng Việt
Nam là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, tạo điều
kiện cho mọi người, trong đó có phụ nữ có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
có điều kiện để phát triển toàn diện.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: Nói đến phụ nữ là nói đến phần nửa

xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người,
nếu không giải phóng phụ nữ thì việc xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa…
Nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập dân tộc
chẳng có nghĩa lý gì. Đây không chỉ là hoài bão, lý tưởng của Đảng và Bác Hồ
mà nó là con đường hết sức đúng đắn để đưa dân tộc ta đi tới mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Trong đó, giải phóng phụ nữ
là một mục tiêu cụ thể cần thực hiện “chúng ta làm cách mạng để giành lấy tự
do, độc lập, dân chủ, bình đẳng trai gái đều ngang quyền nhau”.
Việt Nam là quốc gia ở châu Á, chịu ảnh hưởng và tác động nhiều của tư
tưởng Nho giáo, ý thức hệ phong kiến, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã để lại
6Created by T hanh An

- 21 -Thanh An
11/16/2015

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012

Page 21

21


Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội
dấu ấn đậm nét và hậu quả nặng nề trong ý thức và đời sống xã hội. Đây là một
trong những rào cản lớn trong tiến trình giải phóng và phát triển xã hội. Chủ tịch
Hồ Chí Minh nêu rõ: Chúng ta làm cách mạng là để giành lấy tự do, độc lập, dân
chủ, bình đẳng trai gái đều ngang quyền nhau. Đàn ông phải kính trọng phụ nữ.
Đây là nội dung mang tính nhân văn, tính cách mạng trong đường lối cách mạng
của Đảng ta. Thấm nhuần quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong
suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta thực hiện nhất quán đường lối, quan

điểm về giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình quyền, đặt sự nghiệp giải
phóng phụ nữ gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và
giải phóng con người.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như trong xây dựng chủ nghĩa xã
hội, giải phóng và phát triển toàn diện phụ nữ là một trong những mục tiêu của
cách mạng Việt Nam, có ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài đến sự phát triển của đất
nước. Sự nghiệp giải phóng phụ nữ không chỉ dừng lại ở quan điểm, tư tưởng
mà quan trọng hơn là Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những chủ trương, chính
sách với những nhiệm vụ và giải pháp cụ thể, tạo điều kiện để phụ nữ tham gia
ngày càng nhiều vào mọi mặt của đời sống xã hội. Bộ luật Lao động của nước ta
khẳng định: Nhà nước bảo đảm quyền làm việc của phụ nữ bình đẳng về mọi
mặt với nam giới; tạo mọi điều kiện để lao động nữ phát huy khả năng của mình,
bảo hộ các chế độ làm việc, sử dụng lao động nữ và chế độ liên quan đến thai
sản trong quá trình lao động… Đây là văn bản pháp lý bảo đảm quyền của lao
động nữ, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, tạo điều kiện để phụ nữ phát huy vai
trò của mình trong đời sống xã hội. Địa vị chính trị, kinh tế, xã hội của phụ nữ
được bảo đảm, có ý nghĩa quyết định cho quyền bình đẳng và giải phóng phụ nữ
trong thực tế. Với những quan điểm và chủ trương, chính sách đúng đắn của
Đảng và Nhà nước cùng với sự phấn đấu vươn lên của phụ nữ cả nước nói
chung, vị trí, vai trò của phụ nữ đã ngày càng được khẳng định trong thực tế xã
hội.
Trong nhiều năm qua, Việt Nam luôn có nữ Phó Chủ tịch nước, nữ bộ
trưởng, thứ trưởng, vụ trưởng, chủ tịch hội, phó chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố, đô thị loại 1... Trong số 500 đại biểu Quốc hội khóa XIII hiện nay có
122 đại biểu là nữ, tỷ lệ nữ trong Quốc hội nước ta cao hơn so với nhiều nghị
viện khác trên thế giới. Ngày 3/3 vừa qua, tại Lễ trao giải thưởng Kovalevskaia
được tổ chức tại Hà Nội, Đảng và Nhà nước đã trao tặng giải thưởng vinh dự
trên cho hai nhà khoa học nữ. Một là, PGS.TS Vũ Thị Thu Hà, Phó viện trưởng
Viện Hóa học công nghiệp Việt Nam, người đã có nhiều đóng góp trong việc xây
dựng và phát triển ngành Công nghệ xúc tác, lọc, hóa dầu. Chị là cán bộ khoa

học đầu tiên và hiện nay là người duy nhất của Viện Hóa học công nghiệp Việt
Nam đã đi sâu vào nghiên cứu các công nghệ xúc tác trong sản xuất các sản
phẩm thân thiện với môi trường. Hai là, PGS.TS Lê Thị Thanh Nhàn, Phó Hiệu

22

6Created by Thanh An

- 22 -T hanh An
11/16/2015

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012

Page 22


Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội
trưởng Trường Đại học Khoa học - Đại học Thái Nguyên, chị đã có 16 công trình
được công bố trên những tạp chí toán quốc tế uy tín được ISI xếp hạng, trong đó
có 13 công trình trên Tạp chí SCI và 3 công trình trên Tạp chí SCIE. Đặc biệt, chị
có 5 công trình trên Journal of Algebra - Tạp chí quốc tế uy tín trong chuyên
ngành Đại số, trong đó có những công trình được nhiều nhà toán học trên thế
giới quan tâm trích dẫn. Với những thành tích xuất sắc đó, chị trở thành phó giáo
sư trẻ nhất được phong chức danh năm 2005.
Thêm vào đó, trong các lĩnh vực của đời sống xã hội chị em phụ nữ đã tích
cực tham gia và có đóng góp quan trọng vào các phong trào: “Giỏi việc nước,
đảm việc nhà”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Xóa đói, giảm nghèo”, phụ nữ giúp nhau
phát triển kinh tế gia đình, cần kiệm xây dựng đất nước; Phong trào nuôi con
khỏe, dạy con ngoan, vì an ninh Tổ quốc… Trong các phong trào thi đua yêu
nước, xuất hiện nhiều tài năng, điển hình tiên tiến trong thời kỳ phát triển mới: Có

19 nữ anh hùng và 225 nữ chiến sỹ thi đua toàn quốc trong thời đổi mới. Các chị
là những tấm gương tiêu biểu của phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới.
Thực tế cho thấy, việc thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối,
chủ trương, chính sách hết sức đúng đắn của Đảng và Nhà nước về công tác
vận động, giải phóng phụ nữ đã tạo điều kiện để phụ nữ phát huy khả năng vươn
lên có những đóng góp tích cực cho sự phát triển xã hội, góp phần vào thắng lợi
to lớn của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, bên cạnh
những kết quả đã đạt được, cũng còn những hạn chế như việc thực hiện chính
sách, pháp luật về bình đẳng giới, tình trạng bạo lực gia đình ở Việt Nam khá phổ
biến. Có 7,4% số người được hỏi cho biết từng chứng kiến bạo lực thể chất tại
cộng đồng, 25% số gia đình từng xảy ra tình trạng bạo lực tình dục…, trong
nhiều gia đình vẫn còn tư tưởng coi nặng con trai, nhẹ con gái. Những năm gần
đây xuất hiện tình trạng trẻ sơ sinh nam nhiều hơn nữ làm mất cân bằng giới tính
đến mức báo động. Ở nhiều địa phương cũng như một số ngành chưa tạo điều
kiện để phụ nữ vươn lên đóng góp cho sự phát triển. Đây là những tồn tại cần
được khắc phục.
Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ
nghĩa trong điều kiện có những thuận lợi, cơ hội lớn nhưng thách thức, khó khăn
cũng hết sức gay gắt. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi chúng ta cần phát huy sức
mạnh toàn dân tộc. Thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy và phát huy
sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất
nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của cách
mạng do Đảng đề ra. Tiếp tục thực hiện mục tiêu giải phóng phụ nữ, vận động
phụ nữ tham gia thực hiện đường lối đổi mới, nghị quyết Đại hội XI của Đảng ta
khẳng định: “Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ
6Created by T hanh An

- 23 -Thanh An

11/16/2015

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012

Page 23

23


Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội
nữ. Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện các luật pháp, chính sách đối với lao
động nữ, tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò của mình; tăng tỷ lệ phụ nữ
tham gia vào cấp ủy và bộ máy quản lý Nhà nước. Kiên quyết đấu tranh chống
các tệ nạn xã hội và các hành vi bạo lực, buôn bán, xâm hại và xúc phạm nhân
phẩm phụ nữ”. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện vai trò của mình là công dân,
người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người; bồi dưỡng, đào
tạo để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan
lãnh đạo và quản lý ở các cấp; chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, bà mẹ, trẻ em; bổ
sung và hoàn chỉnh các chính sách về bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, thai
sản, chế độ đối với lao động nữ…
Để đáp ứng yêu cầu của sự phát triển của đất nước, trong công cuộc giải
phóng phụ nữ hiện nay cần tập trung giải quyết tốt những nội dung sau:
Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị và toàn
xã hội về công tác phụ nữ và vấn đề bình đẳng giới. Các cấp, các ngành cần
khẩn trương thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác phụ
nữ và công tác cán bộ nữ trong tình hình mới; lồng ghép vấn đề giới trong quá
trình xây dựng và thực hiện các chương trình, kế hoạch chung. Coi trọng các
chính sách xã hội, các chính sách về giới để giảm nhẹ lao động nặng nhọc cho
phụ nữ. Tạo điều kiện nâng cao trình độ học vấn và kỹ năng nghề nghiệp cho
phụ nữ… để chị em phát huy vai trò của mình, tham gia ngày càng nhiều vào các

hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý các cấp.
Thứ hai, bản thân phụ nữ cần tự mình nỗ lực phấn đấu, vươn lên nhằm
đáp ứng các yêu cầu của xã hội và nhiệm vụ của cách mạng. Bên cạnh những
thách thức của thời đại, phụ nữ Việt Nam còn cần vượt qua thách thức “trọng
nam khinh nữ” từ ngàn xưa để lại, khắc phục tư tưởng tự ti, an phận, cam chịu
và thụ động. Đây là hạn chế lớn đòi hỏi phụ nữ phải vượt qua. Mặt khác, phụ nữ
cũng cần khắc phục tư tưởng ỷ lại và trông chờ vào Đảng và Nhà nước và xã hội
đem lại quyền lợi cho chính mình. Phụ nữ cần tăng cường đoàn kết, giúp đỡ lẫn
nhau, thông qua các tổ chức Hội phụ nữ các cấp, khắc phục khó khăn, phát huy
nội lực để hoàn thành nhiệm vụ. Đồng thời, chị em cũng cần nêu cao tinh thần tự
lực, tự cường, mạnh dạn đấu tranh để bảo vệ quyền lợi của mình.
Thứ ba, phát huy vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và tổ chức
Hội Phụ nữ các cấp nhất là ở cơ sở thực hiện quyền làm chủ của mình, đấu
tranh bảo vệ những quyền lợi hợp pháp và chính đáng của mình. Hội Phụ nữ các
cấp phải trở thành trường học rộng lớn trong sự nghiệp bồi dưỡng, giáo dục, rèn
luyện, tổ chức phụ nữ để giúp họ thực hiện sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Giải
phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng về giới là nguyện vọng thiết tha của phụ nữ
nhưng mỗi người phụ nữ không thể đứng ra tự giải quyết cho mình mà cần có
một tổ chức đại diện. Vì vậy, Hội Phụ nữ các cấp cần chủ động phối hợp với các

24

6Created by Thanh An

- 24 -T hanh An
11/16/2015

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012

Page 24



Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội
ngành tham mưu cho Đảng và Nhà nước ban hành những chủ trương, chính
sách tạo điều kiện cho công tác phụ vận được thực hiện tốt.
Vượt lên mọi khó khăn, thách thức, phát huy truyền thống anh hùng, bất
khuất, trung hậu, đảm đang, phụ nữ Việt Nam đã, đang và sẽ góp phần quan
trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ phát triển mới.
Ngọc Anh
(www.tapchicongsan.org.vn – Ngày 7/3/2012)
Vấn nạn xâm hại phụ nữ và trẻ em

THÚC ĐẨY THỰC HIỆN QUYỀN PHỤ NỮ VÀ TRẺ
EM TẠI VIỆT NAM
Bạo lực gia đình là một vấn đề nhức nhối của xã hội, đi ngược lại với
quyền con người, với truyền thống văn hóa của nhiều dân tộc và diễn ra trên
khắp mọi nơi trên thế giới. Phụ nữ là nạn nhân đầu tiên và trước nhất của vấn
nạn trên. Bạo lực gia đình cũng trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến trẻ em,
gây ra những hậu quả về thể chất, tinh thần của phụ nữ và trẻ em, ảnh hưởng tới
năng suất lao động của các thành viên trong gia đình và sự tăng trưởng kinh tế
của mỗi quốc gia. Nhằm thúc đẩy việc thực hiện quyền phụ nữ và trẻ em tại Việt
Nam, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Tổ chức Phụ nữ Liên hợp quốc,
Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn đã tổ chức “Hội thảo Tham vấn của Ủy
ban thúc đẩy thực hiện quyền phụ nữ và trẻ em ASEAN – (ACWC)” tại Hải
Phòng trong các ngày 20 - 21/12/2011. Thứ trưởng thường trực Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Nguyễn Thanh Hòa đã tham dự Hội thảo.
Tại Hội thảo, các đại biểu đến từ Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn
(UNHCR), Tổ chức Phụ nữ Liên hợp quốc (UNW), Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO), Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), Ủy ban thúc đẩy thực hiện quyền
phụ nữ và trẻ em Asean (ACWC), Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội, Vụ
Bình đẳng giới (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội), Trung ương Hội Liên

hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Bảo vệ quyền trẻ em... đã cập nhật các thông tin về
sự tiến bộ về bình đẳng giới, quyền phụ nữ, trẻ em và những thách thức ở cấp
khu vực và toàn cầu; Các cơ chế nhân quyền quốc tế và trong ASEAN liên quan
tới phụ nữ và trẻ em; Sự tiến bộ và những thách thức về bình đẳng giới và quyền
trẻ em tại Việt Nam; Vai trò của gia đình trong việc thực hiện các quyền của phụ
nữ và trẻ em; Kinh nghiệm trong việc thực hiện quyền phụ nữ và trẻ em; Thông
tin về kết quả một số cuộc điều tra về lao động trẻ em; Các mạng lưới và hoạt
động vì quyền phụ nữ và trẻ em Asean.
6Created by T hanh An

- 25 -Thanh An
11/16/2015

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012

Page 25

25


×