Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Giải pháp đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ HTX dịch vụ nông nghiệp trong nền kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.34 KB, 36 trang )

Giải pháp đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ
HTX dịch vụ nông nghiệp trong nền kinh tế thị trường
PHẦN 1

LỜI MỞ ĐẦU
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân
(sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp
sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã
viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản
xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước.
Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân,
tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn
tích luỹ và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật.
Phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng đang là chủ trương lớn
của Đảng và Nhà nước, là ý nguyện của đông đảo quần chúng nhân dân lao động
trong xã hội nước ta, đặc biệt là khu vực nông thôn, nơi đang có đa số người dân
lao động nghèo, sản xuất nông nghiệp ít vốn không đủ khả năng tự thành lập các
doanh nghiệp riêng để tham gia kinh doanh trên thị trường, vì vậy thường bị thua
thiệt trong việc tiếp cận với sự phát triển và việc hưởng các lợi ích mang lại từ nền
kinh tế thị trường.
Những năm qua kinh tế tập thể ở khu vực nông thôn đã đạt được nhiều thành
tựu đáng kể góp phần đem lại sự thay đổi toàn diện, sâu sắc cho kinh tế nông thôn.
Sức lao động và đất đai đã được giải phóng, đời sống nhân dân được cải thiện rõ
rệt; kinh tế nông nghiệp đóng vai trò quan trong trong tổng sản phẩm kinh tế quốc
dân; bộ mặt nông thôn từng bước chuyển biến rút ngắn khoảng cách giữa thành thị
và nông thôn. Bên cạnh đó kinh tế nông thôn vẫn còn nhiều tồn tại và thách thức to
lớn, đó là: cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch chậm, sản xuất chưa theo sát với
yêu cầu của thị trường, đa số sản phẩm làm ra có chất lượng thấp, giá thành cao nên
tiêu thụ rất khó


i


Xác định được vai trò ấy, Đảng và Nhà nước đã tiến hành đổi mới và phát
triển HTX nông nghiệp nhằm khắc phục được những tồn tại yếu kém trong nông
nghiệp nông thôn. Tuy nhiên trong bản thân cơ cấu hoạt động của HTX nông
nghiệp vẫn còn tồn tại nhiều bất cập trong đó vấn đề về trình độ của đội ngũ cán bộ
HTX dịch vụ nông nghiệp hiện đang là vấn đề khá nổi cộm. Đội ngũ này còn nhiều
hạn chế về kỹ năng tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất kinh doanh cũng như việc
tiếp cận với bà con xã viên, với sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế thị trường.
Đặc biệt độ tuổi của các cán bộ quản lý HTX nhìn chung khá lớn với phương thức
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX nông nghiệp theo phương thức cũ đã không còn
phù hợp với nền kinh tế thị trường. Nhu cầu về việc sử dụng cán bộ HTX nông
nghiệp sau khi được đào tạo, bồi dưỡng chưa thực sự hiệu quả và phù hợp với khả
năng vốn có của chính họ. Đáp ứng được nguyện vọng được đào tạo, bồi dưỡng để
nâng cao kiến thức, kỹ năng về quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh nhằm góp
phần thúc đẩy kinh tế hộ nông dân cũng như được sắp xếp, sử dụng hợp lý của đội
ngũ cán bộ HTX dịch vụ nông nghiệp là việc làm hết sức cần thiết. Công tác đào
tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ HTX dịch vụ nông nghiệp là một giải pháp quan
trọng nhằm nâng cao hiệu quả nguồn lực lâu dài cho kinh tế nông nghiệp nói chung
và HTX nông nghiệp nói riêng.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Giải
pháp đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ HTX dịch vụ nông nghiệp
trong nền kinh tế thị trường”.

PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp
2.1.1.1 Khái niệm

Dịch vụ là hoạt động cung ứng lao động, khoa học kỹ thuật, nghệ thuật, các
hoạt động của ngân hàng, tín dụng, cầm đồ, bảo hiểm. Theo quan điểm của kinh tế
học hiện đại, dịch vụ được hiểu là toàn bộ các ngành, các hoạt động có tạo ra tổng
ii


sản phẩm quốc nội (GDP) hay tổng sản phẩm quốc dân (GNP) trừ các ngành sản
xuất các sản phẩm vật chất như công nghiệp, nông nghiệp.
Dịch vụ nông nghiệp được hiểu là điều kiện, yếu tố cần thiết cần có trong quá
trình sản xuất kinh doanh một loại sản phẩm nào đó trong nông nghiệp mà người
sản xuất không có sẵn, không làm được hoặc làm không có hiệu quả và họ phải tiếp
nhận các điều kiện, cá yếu tố từ bên ngoài bằng các cách thức khác nhau: mua, bán,
trao đổi, thuê, nhờ…
Hoạt động dịch vụ nông nghiệp là hoạt động nhằm cung cấp, trao đổi, tiếp
nhận và sử dụng các dịch vụ giữa người sản xuất nông nghiệp và người cung cấp
dịch vụ nông nghiệp theo một phương thức nhất định nào đó.
Dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp là hoạt động dịch vụ có tính chất bao cấp đối với
người sản xuất nông nghiệp ở một chừng mực nhất định.
• Dịch vụ nông nghiệp có những đặc điểm:
-

Tính chất thời vụ: do sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ.

-

Được cung ứng từ nhiều nguồn khác nhau và mang tính cạnh tranh cao.

-

Tính có thể tự dịch vụ.


-

Dịch vụ nông nghiệp chỉ có hiệu quả cao khi được thực hiện đồng thời và

trên phạm vi rộng lớn.
-

Nhiều loại dịch vụ khó định lượng.

• Dịch vụ nông nghiệp có thể phân theo 2 cách sau:
 Theo quá trình sản xuất:
- Dịch vụ trước sản xuất: cung ứng vật tư, vốn, nguyên liệu, chuyển giao
KHKT, cung cấp thông tin đào tạo..
- Dịch vụ trong sản xuất: bảo vệ thực vật, bảo vệ đồng điền, thủy lợi..
- Dịch vụ sau sản xuất: bảo quản, chế biến, vận chuyển, tiêu thụ
 Theo tính chất kỹ thuật:
- Dịch vụ tài chính: cung ứng vốn, tín dụng
- Dịch vụ thương mại: cung ứng vật tư, nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm..
- Dịch vụ kỹ thuật: tưới tiêu, làm đát, bảo vệ thực vật, chế biến, bảo quản…
- Dịch vụ khuyến nông: chuyển giao KHKT, đào tạo, huấn luyện…

iii


Các dịch vụ chủ yếu mà các HTX thực hiện gồm: dịch vụ thủy nông, dịch vụ bảo
vệ thực vât, thú y, khuyến nông, cung ứng giống, điện sinh hoạt. Một số dịch vụ tuy
có thực hiện nhưng không phổ biến gồm các dịch vụ như: dịch vụ làm đất, cung
ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm, bảo quản chế biến…
2.1.1.2 Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HTX

Một là, tự nguyện: mọi cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có đủ điều kiện theo
quy định của Luật HTX, tán thành điều lệ HTX đều có quyền gia nhập HTX, xã
viên có quyền ra HTX theo quy định của Điều lệ HTX.
Hai là, dân chủ, bình đẳng và công khai: xã viên có quyền tham gia quản lý,
kiểm tra, giám sát HTX và có quyền ngang nhau trong biểu quyết, thực hiện công
khai phương hướng sản xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối và những vấn đề
khác quy định trong Điều lệ HTX.
Ba là, tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi: HTX tự chủ và tự chịu
trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, tự quyết định về phân phối
thu nhập.
Bốn là, hợp tác và phát triển cộng đồng: xã viên phải có ý thức phát huy tinh
thần xây dựng tập thể và hợp tác với nhau trong HTX, trong cộng đồng xã hội, hợp tác
giữa các HTX trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
2.1.1.3 Tổ chức hoạt động của bộ máy quản lý HTX DVNN
Luật HTX quy định:
- Đại hội xã viên là cơ quan quyền lực cao nhất trong bộ máy quản lý HTX.
Các HTX DVNN tổ chức Đại hội xã viên mỗi năm 1 lần hoặc tổ chức Đại hội xã
viên bất thường do Ban quản trị hoặc Ban kiểm soát triệu tập. Đại hội thông qua
chủ yếu các báo cáo:
+ Báo cáo kết quả hoạt động hàng năm, phương hướng hoạt động của năm
sau, nhiệm kỳ sau. Báo cáo này do Ban quản trị trình bày.
+ Báo cáo kết quả công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của Ban quản trị, chủ
nhiệm HTX về tình hình thực hiện Luật, điều lệ, nội quy HTX và Nghị quyết Đại
hội xã viên, giải quyết đơn thư khiếu nại của xã viên. Báo cáo này do Ban kiểm
soát trình bày.

iv


+ Báo cáo về tình hình tài chính của HTX trong năm, nhiệm kỳ qua, tình hình

vốn quỹ, công nợ của HTX.
Đại hội có trách nhiệm bầu ra Ban quản trị, chủ nhiệm, ban kiểm soát HTX
khi hết nhiệm kỳ về thủ tục và trình tự Đại hội xã viên được các HTX thực hiện
theo Luật quy định tuy nhiên về thời gian tiến hành có thể bị dao động.
- Ban quản trị HTX là cơ quan điều hành hoạt động của HTX, gồm chủ
nhiệm, phó chủ nhiệm và ủy viên ban quản trị. Tùy theo quy mô và yêu cầu của
thừng HTX mà ban quản trị có từ 2- 3 người, trường hợp đặc biệt có thể chỉ có 1
chủ nhiệm chịu trách nhiệm điều hành các công việc hoạt động chung của cả HTX.
Nhiệm kỳ của ban quản trị từ 3-5 năm.
Hoạt động chính của Ban quản trị HTX DVNN là tổ chức điều hành các hoạt
động dịch vụ theo Luật, điều lệ, nội quy của HTX và nghị quyết của ĐHXV. Chủ
nhiệm là người chịu trách nhiệm trước ĐHXV về các nhiệm vụ, công việc của
mình.
- Ban kiểm soát có chức năng là kiểm tra giám sát các hoạt động của chủ
nhiệm HTX, ý thức chấp hành Luật, điều lệ, nội quy của các xã viên, giải quyết các
đơn thư khiếu nại của xã viên.
- Bộ phận chuyên môn, nghiệp vụ là bộ phận chức năng thực hiện các việc
như kế toán, thủ kho, thủ quỹ, kế hoạch..giúp ban quản trị nắm bắt được các thông
tin kinh tế, tài chính kịp thời để chỉ đạo điều hành các hoạt động dịch vụ tốt hơn.
Sơ đồ 2.1 : Tổ chức hoạt động HTX nông nghiệp
ĐHXV

Ban kiểm soát

Ban quản trị
Chủ nhiệm

v

Phó chủ nhiệm

và ủy viên


Đội 1
Đội 2
Đội 3
XV1… XV2… XV3…

Các bộ phận giúp
việc

Các tổ dịch vụ

Đội tiếp nhận dịch vụ

Thủy
Làm
BVTV
lợi
đất
XV1.2
XV1.2
XV1.2

Vật tư
XV1.2

Kế
toán


Thủ
quỹ

Ghi chú: - Đội tiếp nhận dịch vụ: Đội trưởng do xã viên bầu ra
-

Tổ dịch vụ: tổ trưởng, cán bộ chuyên trách do Ban quản trị phân công.

-

XV1: là xã viên của các đội tiếp nhận dịch vụ

-

XV1.2: là xã viên làm dịch vụ của các tổ dịch vụ

2.1.2 Nền kinh tế thị trường:
Là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động với nhau theo
quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị
trường. Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động sản xuất và trao đổi hàng hóa
giữa người sản xuất và người tiêu dùng được vận hành do sự điều tiết của quan hệ
cung cầu.
Trong nền kinh tế thị trường, nếu lượng cầu hàng hóa cao hơn lượng cung, thì
giá cả hàng hóa sẽ tăng lên, mức lợi nhuận cũng tăng khuyến khích người sản xuất
tăng lượng cung. Người sản xuất nào có cơ chế sản xuất hiệu quả hơn, thì cũng có
tỷ suất lợi nhuận cao hơn cho phép tăng quy mô sản xuất, và do đó các nguồn lực
sản xuất sẽ chảy về phía những người sản xuất hiệu quả. Những người sản xuất có
cơ chế sản xuất kém hiệu quả sẽ có tỷ suất lợi nhuận thấp, khả năng mua nguồn lực
sản xuất thấp, sức cạnh tranh kém sẽ bị đào thải.
Cơ chế phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế thị trường có thể dẫn tới bất bình

đẳng. Đấy là chưa kể vấn đề thông tin không hoàn hảo có thể dẫn tới việc phân bổ
nguồn lực không hiệu quả. Do một số nguyên nhân, giá cả có thể không linh hoạt
trong các khoảng thời gian ngắn hạn khiến cho việc điều chỉnh cung cầu không
suôn sẻ, dẫn tới khoảng cách giữa tổng cung và tổng cầu. Đây là nguyên nhân của
các hiện tượng thất nghiệp, lạm phát.
Đặc trưng cơ bản nhất của cơ chế thị trường là động lực lợi nhuận, nó chỉ huy
hoạt động của các chủ thể. Trong kinh tế thị trường, đặc điểm tự do lựa chọn hình

vi

Thủ
kho


thức sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm: “lãi hưởng lỗ chịu”, chấp nhận cạnh
tranh, là những điều kiện hoạt động của cơ chế thị trường. Sự tuân theo cơ chế thị
trường là điều không thể tránh khỏi đối với các doanh nghiệp, nếu không sẽ bị đào
thải.
Người cán bộ HTX trong nền kinh tế phải nắm bắt được cơ chế hoạt động,
thay đổi phương thức lãnh đạo và quản lý kinh doanh mới lãnh đạo được tập thể
hoạt động đúng hướng và có hiệu quả.
2.1.3 Cán bộ HTX DVNN
2.1.3.1 Khái niệm:
Cán bộ HTX DVNN là những người quản trị do các xã viên HTX bầu ra
nhằm quản lý, điều hành các hoạt động của HTX. Người cán bộ HTX có vai trò đặc
biệt quan trọng, quyết định đến sự thành bại, sự phát triển của doanh nghiệp mình.
Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Mọi việc thành hay bại chủ chốt là do cán bộ”,
Người coi trọng vấn đề cán bộ, đề cao vai trò của họ theo tư tưởng của Người, cán
bộ phải là người vừa “Hồng” vừa “Chuyên”, thể hiện: “có lòng trung thành với
cách mạng; hăng hái thạo việc; liên hệ mật thiết với nhân dân; dám chịu trách

nhiệm, quyết đoán; biết người, biết việc”. Cán bộ HTX:
- Giữ vai trò là người chủ chốt trong các công việc: là người đứng đầu của
HTX hoặc các bộ phận trong HTX, họ có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ đại diện
về mặt pháp luật và các hoạt động xã hội như ký kết hợp đồng, quyết định chi tiêu,
chủ trì các cuộc họp …
- Vai trò chỉ đạo: họ có trách nhiệm làm cho các bộ phận trong HTX thống
nhất với nhau để đạt được mục tiêu chung của HTX với chức năng cụ thể như:
hướng dẫn cấp dưới, hướng dẫn cho xã viên trong quá trình tiến hành sản xuất kinh
doanh …
- Vai trò tập hợp: xây dựng và duy trì những mối quan hệ cá nhân và tập thể
ở bên ngoài cũng như các bộ phận khác nhau ở HTX.
- Vai trò giám sát: người cán bộ quản lý thực hiện vai trò giám sát thông qua
các hoạt động như thường xuyên thu thập thông tin từ các nguồn khác nhau. Các

vii


thông tin này cần phải được phân tích để phát hiện ra những khó khăn và những cơ
hội, từ hiểu rõ được hoàn cảnh bên ngoài cũng như diễn biến bên trong HTX.
- Vai trò truyền đạt thông tin: người cán bộ quản lý HTX thường có nhiều
thông tin hơn cấp dưới cũng như các xã viên. Những thông tin có thể do quá trình
thực tiễn, có thông tin từ cấp trên. Một số thông tin cần truyền đạt xuống cấp dưới
cũng như cho các xã viên sau khi người cán bộ quản lý đã làm rõ và hiệu chỉnh
thông qua những quy định, tiêu chuẩn, chính sách…
- Vai trò là người phát ngôn: người cán bộ quản lý cũng có trách nhiệm
thông báo những vấn đề cần thiết tới người bên ngoài hoặc trong các bộ phận của
HTX.
- Vai trò là người khởi xướng: người cán bộ quản lý HTX như người khởi
xướng và là người thiết kế để khai thác những cơ hội nhằm cải thiện tình hình hiện
tại. Những dự án này bao gồm dự án phát triển sản phẩm, tổ chức các loại hình dịch

vụ …
- Giữ vai trò giải quyết những mâu thuẫn hoặc là những vướng mắc, bao
gồm các sự vụ, những vấn đề phát sinh trong HTX…
- Giữ vai trò là người phân bổ nguồn lực: các nguồn lực này bao gồm các
nguồn lực về tài chính, nhân sự, nguyên vật liệu, đất đai, dịch vụ …Việc phân bổ
những nguồn lực này liên quan đến ra quyết định quản lý, dự thảo ngân sách,…
nhằm phối hợp và thống nhất các hoạt động để đạt được mục tiêu đề ra.
- Giữ vai trò là người thương thuyết như ký kết hợp đồng lao động, thoả
thuận với khách hàng, hợp đồng mua bán…
2.1.3.2 Phân loại cán bộ HTX nông nghiệp
Tuỳ mục đích nghiên cứu và khả năng thu thập thông tin mà sử dụng cách
phân loại cho phù hợp. Sau đây là một số cách phân loại chủ yếu:
• Phân loại theo cấp quản lý
- Quản lý HTX: các cán bộ quản lý HTX chịu trách nhiệm chung cho cả
HTX. Cấp quản lý này gồm Ban quản trị, Ban kiểm soát, cán bộ nghiệp vụ.
- Quản lý đội tổ dịch vụ và sản xuất: nếu các HTX có tổ chức thành các tổ
đội chuyên môn thì sẽ hình thành bộ máy quản lý tổ đội. Ví dụ tổ dịch vụ tưới tiêu,
đội thuỷ nông, tổ bảo vệ đồng ruộng.
viii


• Phân loại theo chức năng quản lý
- Cán bộ chỉ huy điều hành: ban quản trị, quản lý đội tổ
- Cán bộ kiểm soát: ban kiểm soát
- Cán bộ nghiệp vụ: kế toán, kế hoạch...
• Phân loại theo cách bổ nhiệm
- Cán bộ quản lý được bầu cử
- Cán bộ quản lý được thuê
Như vậy bộ máy quản lý bảo đảm 2 khối công việc là điều hành và kiểm
soát, khối điều hành có nhiều công việc hơn nên thường cần nhiều cán bộ hơn.

Người chủ của HTX là toàn bộ xã viên. Đại hội xã viên sẽ quyết định thuê hoặc bầu
chọn cán bộ quản lý. Đa số các HTX trên thế giới đều bầu cán bộ quản lý từ các xã
viên nhưng cũng có một số nước không bầu mà thuê cán bộ quản lý từ bên ngoài ví
dụ Tây Ban Nha. Việt Nam quy định cán bộ quản lý HTX nông nghiệp phải là xã
viên và gồm các chức danh sau:
Ban quản trị quản lý và điều hành mọi hoạt động của HTX. Đại hội xã viên
bầu trực tiếp ban quản trị và chủ nhiệm. Ban quản trị và chủ nhiệm bầu phó chủ
nhiệm, chọn cử kế toán trưởng, quyết định cơ cấu tổ chức trong HTX. Trưởng các
bộ phận hoặc tổ đội do ban quản trị bổ nhiệm.
Ban kiểm soát giám sát mọi hoạt động của HTX theo điều lệ HTX và theo
pháp luật. Đại hội xã viên bầu trực tiếp ban kiểm soát. Ban kiểm soát bầu trưởng
ban kiểm soát.
Các cách phân loại trên hoàn toàn có thể áp dụng với các cán bộ quản lý HTX
của Việt Nam.
2.1.3.3 Nhiệm vụ và trách nhiệm của cán bộ HTX
- Hướng dẫn: người quản lý có trách nhiệm theo dõi, hướng dẫn nhằm nâng
cao kết quả thực hiện công việc của cấp dưới và của các xã viên bằng việc phân
tích những điểm mạnh và điểm yếu của cấp dưới, sau đó đào tạo, phát triển kỹ
năng, xây dựng kế hoạch và đặt ra mục tiêu cần đạt được của cấp dưới và của các
xã viên.
- Kế hoạch và tổ chức: xây dựng kế hoạch ngắn hạn, thực hiện dự án, xây
dựng dự thảo ngân sách, đánh giá cơ cấu tổ chức để xác định phân bổ, sử dụng tối
ix


ưu các nguồn lực; cụ thể hoá các kế hoạch dài hạn thành những mục tiêu hoạt động
ngắn hạn, đề xuất và xây dựng những chính sách và tiến hành thực hiện nó.
- Ra quyết định: trong những tình huống chưa chắc chắn việc ra những quyết
định kinh doanh, dịch vụ cũng không cho phép chần chừ. Luôn có sự điều chỉnh
những sai lệch để đáp ứng với tình huống mới hoặc tình huống bất thường.

- Giám sát các chỉ tiêu: giám sát các yếu tố trong và ngoài HTX mà các yếu
tố đó ảnh hưởng tới HTX bao gồm các chỉ tiêu biểu hiện kết quả thực hiện, theo dõi
tình hình tài chính, tài sản, điều kiện thị trường, các điều kiện văn hoá, xã hội và
chính trị.
- Điều hành: xây dựng tiến độ, dự tính chi phí và tiêu hao thời gian cho sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ, theo dõi năng suất, bảo đảm chất lượng sản
phẩm, chất lượng hoặc kết quả dịch vụ, đảm bảo các quyền lợi và nghĩa vụ của xã
viên và phân tích hiệu quả hoạt động.
- Đại diện: trả lời những câu hỏi, giải thích những khiếu nại của người bên
ngoài và bên trong HTX, trao đổi với các đối tác để mở rộng quan hệ, thoả thuận, cam
kết, tiến hành các hoạt động xây dựng và duy trì vị thế của HTX mình…
- Phối hợp: phối hợp hoạt động của các cá nhân, các đơn vị bộ phận trong
HTX mà người quản lý không trực tiếp điều hành nhằm chia sẻ thông tin, phù hợp
với tiến độ đã được xây dựng, giải quyết những khó khăn và nhằm đạt các mục tiêu
đề ra; duy trì mối quan hệ tốt với người ngang cấp; giải quyết những mâu thuẫn và
bất đồng giữa các thành viên chủ chốt.
- Tư vấn: phát triển chuyên môn của mình, giới thiệu những kỹ thuật hoặc
công nghệ mới trong HTX và hoạt động như một tư vấn về chuyên môn, tháo gỡ
những khó khăn cho người quản lý khác, cho xã viên HTX…
- Quản lý hành chính: thực hiện các hoạt động quản lý hành chính cơ bản
như xây dựng cách thu thập thông tin trong HTX, phân tích thông tin, bảo quản lưu
trữ các tài liệu của HTX.

x


* Nhiệm vụ và công việc chính của các chức danh cán bộ trong HTX DVNN
Chức danh
Nhiệm vụ
Công việc chính

1.Ban
Chủ - Xây dựng chiến - Xác định nhu càu của thị trường và xã viên.
nhiệm HTX

lược sản xuất kinh - Xác định được các dự án cụ thể
doanh
- Kế hoạch hóa

- Phân tích các vấn đề.
- Kế hoạch các hoạt động

- Quản lý HTX

- Kế hoạch thực hiện.
- Quản lý tài chính.
- Quản lý công việc và ngồn nhân lực.

- Quản lý và thực hiện các hợp đồng
- Đánh giá và phân - Xác định tiêu chuẩn đánh giá.
tích các hoạt động - Phương pháp phân tích và đánh giá
sxkd
2. Kế toán - Công việc kế toán

- Theo dõi thu chi và chứng từ

trưởng HTX

- Theo dõi tình hình tài chính.
- Tổng hợp các NVKT phát sinh.
- Báo cáo kết quả hoạt - Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh

động sxkd dịch vụ

doanh.

3. Ban kiểm - Giám sát, theo dõi

- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
- Giám sát, theo dõi toàn bộ các hoạt động

soát HTX

của HTX.
- Xây dựng tiêu chuẩn và kế hoạch, giám sát,
theo dõi
- Hệ thống thông tin

- Quan sát thực địa.
- Tổng hợp thông tin.

- Báo cáo

- Phân tích thông tin và ra quyết định.
- Báo cáo các bên liên quan.

- Báo ĐHXV
2.1.4 Khái niệm đào tạo và tác dụng của đào tạo trong sử dụng cán bộ
HTX DVNN
2.1.4.1 Khái niệm về đào tạo và bồi dưỡng

xi



* Đào tạo: theo từ điển tiếng Việt thông dụng Nhà xuất bản Giáo dục 1998:
Đào tạo là quá trình tác động lên một con người làm cho người đó lĩnh hội và nắm
vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó
thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công nhất định của mình
vào sự phát triển xã hội, duy trì và phát triển văn minh của loài người.
Hoặc: đào tạo là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức, nhằm hình
thành và phát triển có hệ thống các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ…để hoàn
thiện nhân cách cho mỗi cá nhân, để tạo tiền đề cho họ có thể vào đời hành nghề
một cách có năng suất và hiệu quả.
Từ những khái niệm trên có thể hiểu: “Đào tạo là quá trình trang bị kiến thức
về chuyên môn, nghiệp vụ để sau khi được đào tạo họ có thể đảm nhận được một
công việc nhất định, đáp ứng với yêu cầu phát triển của tổ chức nói riêng và xã hội
nói chung”.
Đào tạo đề cập đến việc dạy các kỹ năng thực hành, nghề nghiệp hay kiến
thức liên quan đến một lĩnh vực cụ thể, để người học lĩnh hội và nắm vững những
tri thức, kỹ năng, nghề nghiệp một cách có hệ thống để chuẩn bị cho người đó thích
nghi với cuộc sống và khả năng đảm nhiệm được một công việc nhất định.
Khái niệm đào tạo thường có nghĩa hẹp hơn khái niệm giáo dục, thường đào
tạo đề cập đến giai đoạn sau, khi một người đạt đến một độ tuổi nhất định, có một
trình độ nhất định.
* Bồi dưỡng: là bổ túc thêm một số kiến thức cần thiết không thành hệ thống
để nâng cao thêm hiểu biết sau khi được đào tạo cơ bản, cung cấp những khiến thức
chuyên ngành mang tính ứng dụng.
Trong hoạt động của các tổ chức đều áp dụng cả đào tạo và bồi dưỡng, vì rất
nhiều vấn đề thực tiễn nảy sinh mà trong quá trình đào tạo cơ bản chưa cập nhật
được, đối với mỗi cán bộ vấn đề bồi dưỡng trở nên ngày càng thường xuyên hơn do
yêu cầu công tác đòi hỏi.


xii


2.1.4.2 Đối tượng của đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong HTX
Quyết định số 88/2005/NĐ-CP ngày 17/02/2005 của Thủ tướng chính phủ
về một số chính sách hỗ trợ khuyến khích phát triển HTX đã chỉ rõ các đối tượng
cán bộ trong HTX được đào tạo, bồi dưỡng gồm:
a) Các chức danh trong Ban Quản trị, Ban Chủ nhiệm, Ban Kiểm soát, kế toán
trưởng;
b) Xã viên đang làm công việc chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ của hợp tác
xã.
2.1.4.3 Tác dụng của đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX DVNN
Trong thực tế hiện nay, mọi tổ chức đều rất quan tâm, chú ý đến vấn đề đào
tạo cán bộ HTX DVNN để họ có thể hoạt động tốt hơn, giúp nâng cao hiệu quả của
HTX DVNN góp phần thúc đẩy kinh tế nông nghiệp nông thôn. Sử dụng cán bộ
HTX được đào tạo mang lại các lợi ích sau:
- Nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả thực hiện công việc.
Nâng cao tính ổn định và năng động, duy trì và nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực.
- Tạo điều kiện cho áp dụng các tiến bộ KHKT trong công tác quản lý tạo sự
gắn bó giữa cán bộ HTX NN với các tổ chức trên địa bàn. Tạo sự thích nghi của
cán bộ HTX với công việc hiện tại và tương lai. Đáp ứng được nhu cầu và nguyện
vọng của cán bộ HTX.
- Tạo điều kiện cho cán bộ HTX có cách nhìn nhận, cách tư duy mới trong
công việc và cương vị mà họ đảm nhận. Đây là cơ sở để cán bộ HTX phát huy tính
sáng tạo của mình trong công việc.
- Thông qua đào tạo sẽ nâng cao chất lượng cho cán bộ HTX, cụ thể:
+ Nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ quản lý cho cán
bộ HTX, nhờ đó góp phần nâng cao hiệu suất công tác. Khi được đào tạo, cán bộ
HTX sẽ có kiến thức tổng hợp, có điều kiện trở thành người cán bộ giỏi.

+ Nâng cao ý thức tổ chức và kỷ luật, tính chủ động trong công việc, đảm bảo
sự phối hợp nhịp nhàng, ăn khớp giữa các công việc của cá nhân và các đơn vị bộ
phận trong HTX.

xiii


+ Đào tạo và bố trí hợp lý nguồn lực quản lý sẽ làm cho HTX ổn định và phát
triển, không gây ra tình trạng thiếu hụt cán bộ HTX hoặc cán bộ HTX không đủ
năng lực hoàn thành tốt công việc đảm nhiệm.
2.1.4.4 Các phương thức đào tạo để đạt được yêu cầu đối với cán bộ HTX
• Đào tạo tập trung dài hạn
Là loại hình đào tạo tập trung chính quy. Học viên phải được tập trung học
tập tại trường. Loại hình này có ưu điểm là thời gian học dài, học tập trung theo
chương trình quy định của Bộ GD&ĐT, có bằng cấp. Đào tạo theo hệ thống, học
viên có học vấn, chất lượng đào tạo tốt. Nhược điểm, hạn chế là tốn kém về thời
gian, không phù hợp với người đang đi làm, nhất là đối với cán bộ HTX. Loại hình
này nên áp dụng cho đối tượng là học sinh phổ thông mới ra trường, số cán bộ trẻ
và những người có điều kiện.
• Đào tạo ngắn hạn.
Hình thức đào tạo tập trung ngắn hạn là phương thức đào tạo tập trung học
viên tại trường, thời gian ngắn. Phương thức này chương trình thường phải cô đọng
gồm những nội dung chủ yếu, có thể theo từng chuyên đề, trọng tâm về đường lối
chính sách phát triển kinh tế xã hội, phát triển văn hóa…Chương trình tinh giảm và
rút ngắn thời gian đào tạo, người đào tạo có thể hành nghề đạt kết quả chấp nhận
được. Học theo chuyên đề, có giấy chứng nhận, không có bằng cấp. Phương tức
đào tạo tập trung ngắn hạn đáp ứng được nhu cầu cấp bách của thực tiễn ở cơ sở,
bổ sung thêm kiến thức cho công tác nhằm giải quyết khó khăn trước mắt. Nhược
điểm là không có bằng cấp, chỉ có giấy chứng nhận. khi xét tuyển dụng lao động,
xét lương rất hạn chế, về lâu dài phải đào tạo lại.

• Đào tạo hệ tại chức:
Là phương thức đào tạo bán tập trung dài hạn theo định kỳ với quỹ thời gian
không thay đổi nhưng được chia làm nhiều giai đoạn khác nhau. Đây là phương
thức khá phổ biến trong thời gian vừa qua, cũng có thể áp dụng trong một thời gian
nữa, khi điều kiện phát triển của chúng ta còn ở mức độ giứoi hạn. Hình thức này
có ưu điểm là học viên vừa học vừa làm, có bằng cấp hoặc chứng chỉ. Vừa đi học
vừa tham gia công tác ở địa phương không ảnh hưởng nhiều đến thời gian làm việc,

xiv


sinh hoạt, nhiều người theo học, vận dụng ngay được vào thực tế. Hạn chế là thời
gian học không liên tục, tính hệ thống, chất lượng thấp nếu không tổ chức tốt.
• Đào tạo ngắn hạn vừa học vừa làm:
Là loại hình đào tạo ngắn hạn bán tập trung, sau khi đi học đợc cấp chứng chỉ,
bằng cấp, vừa có kiến thức cơ bản, vừa bổ sung kịp thời các kiến thức đang cấn
trong công việc, được nhiều người tham gia, không phải tốn thời gian đi lại, giảm
bớt khó khăn trong sinh hoạt. Nhược điểm của phương thức này là nội dung
chương trình ngắn gọn, sự hiểu biết sâu rộng có giới hạn, tốn kém kinh phí, đôi khi
còn mang tính hình thức, chất lượng không cao nếu không tổ chức tốt.
Với mỗi đối tượng có thể áp dụng các hình thức đào tạo khác nhau. Đối với
cán bộ HTX NN thường áp dụng hình thức đào tạo ngắn hạn do đặc thù của đội
ngũ cán bộ HTX.
2.1.4.5 Mục tiêu đào tạo cán bộ HTX
Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX là một trong những công tác quan
trọng nhằm thực hiện đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế
khu vực HTX. Từ nay đến 2015, cần tập trung đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý
và chuyên môn nghiệp vụ cho các đối tượng sau:
- Đào tạo cán bộ chủ chốt: trong những năm tới cần tập trung ưu tiên đào tạo
bồi dưỡng cho số cán bộ chủ chốt thuộc 3 chức danh: Chủ nhiệm, Kế toán trưởng

và Trưởng kiểm soát HTX. Nội dung đào tạo là những kiến thức cơ bản về pháp
luật, cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước, kiến thức quản lý điều hành hoạt
động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa và những kiến thức chuyên môn nghiệp vụ mang tính đặc thù của khu vực
kinh tế HTX.
- Đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ chuyên môn nghiệp vụ HTX
Để đáp ứng nhu cầu nâng cao năng lực, trình độ cán bộ HTX, trong những
năm tới cần phải đa dạng hoá các loại hình đào tạo, kết hợp giữa đào tạo chính quy
với bồi dưỡng tại chức, ngắn hạn cho từng đối tượng theo chương trình phù hợp với
nhu cầu thực tiễn của các HTX.
Với mục tiêu lâu dài nhằm từng bước hoàn thiện công tác tiêu chuẩn hoá đội
ngũ cán bộ HTX, Liên minh HTX Việt Nam cần xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào
xv


tạo, bồi dưỡng về số lượng, trình độ, ngành nghề đội ngũ cán bộ HTX. Xác định
nhu cầu đào tạo dài hạn, kiến nghị các biện pháp phân công trong đào tạo, cơ chế
tuyển sinh và sử dụng sau khi tốt nghiệp để phục vụ HTX; xây dựng cơ chế cử
tuyển, các chế độ chính sách ưu tiên đối với cán bộ và xã viên HTX đi học về làm
việc lâu dài cho HTX.
Đối tượng là những cán bộ, xã viên tuổi còn trẻ, có sức khoẻ và trình độ văn
hoá đủ tiêu chuẩn đi học tại các cơ sở thuộc hệ thống đào tạo của Nhà nước và hệ
thống đào tạo của Liên minh HTX. Đồng thời tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng
bằng các hình thức thích hợp như tập huấn, hội thảo, chuyên đề, tham quan khảo
sát, học tập kinh nghiệm về các mô hình sản xuất mới cho cán bộ và xã viên HTX.
2.1.4.6 Nội dung đào tạo, bồi dưỡng
- Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng trang bị kiến thức cho cán bộ nghiệp vụ, bao
gồm: trình độ văn hóa, trình độ lý luận và trình độ chuyên môn nghiệp vụ trong
HTX.
- Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng trang bị kiến thức về luật HTX, kỹ năng

nghiệp vụ, các kỹ năng về quản lý, kiến thức về thông tin thị trường, hội nhập kinh
tế quốc tế cho đội ngũ chủ nhiệm HTX.
- Tổ chức đào tạo bồi dưỡng trang bị các kiến thức về chuyển giao KHKT,
các tiến bộ mới trong nông nghiệp cho cán bộ chủ chốt, cán bộ kỹ thuật trong HTX.
- Đào tạo các kiến thức về tin học cho đối tượng cán bộ chủ nhiệm và kế toán
HTX, đặc biệt quan tâm đối với các HTX hoạt động mạnh để đảy mạnh hơn nữ vai
trò của các HTX này trong địa phương.
- Đào tạo, bồi dưỡng về đạo đức cán bộ HTX, xây dựng tinh thần sống và làm
việc theo pháp luật, thái độ tôn trọng dân, phục vụ nhân dân.
2.1.4.7 Nguyên tắc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX
- Coi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là một phần quan trọng trọng việc phát triển
hình thức kinh tế tập thể, cần sự quan tâm đúng mức của lãnh đạo địa phương, các
ban ngành có liên quan.
- Tiến hành đồng bộ, phối hợp giữa các cấp các ngành trong đào tạo, bồi
dưỡng tránh tình trạng chồng chéo về nội dung, hình thứ và thời gian đào tạo.
- Đào tạo, bồi dưỡng mang tính chất đồng bộ với các đối tượng cần đào tạo.

xvi


- Một chương trình đào tạo, bồi dưỡng muốn thành công và mang lại hiệu quả
cao phải xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn và nhu cầu của tổ chức, có sự định
hướng lâu dài. Quan tâm sát tới nhu cầu của đối tượng cần bồi dưỡng, đào tạo.
- Đối tượng được đào tạo, bồi dưỡng có quyền và trách nhiệm trau dồi kiến
thức trong quá trình học tập và khi kết thúc đào tạo.
2.1.4.8 Chu trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Quá trình đào tạo gồm 4 yếu tố chính: xác định nhu cầu đào tạo; xây dựng kế
hoạch; thực hiện đào tạo; đánh giá đào tạo.
1. Xác định nhu cầu đào tạo:
• Khái niệm nhu cầu đào tạo: là sự mong muốn giảm sự khác biệt giữa thực

tế với điều kiện nên có. Sự khác biệt này có thể về: kiến thức và kỹ năng, quan
điểm của học viên cần có để làm việc một cách tốt hơn.
• Xác định nhu cầu đào tạo: là quá trình tìm ra sự thiếu hụt cái đã có và cái
cần có về kiến thức và kỹ năng, quan điểm của học viên. Xác định nhu cầu đào tạo
chỉ ra điều mà đào tạo cần hướng vào, là căn cứ để xây dựng được mục tiêu và lựa
chọn được nội dung đào tạo.
• Các bước xác định nhu cầu đào tạo
 Tìm hiểu nhu cầu phát triển nhân lực của các bên liên quan:
Vì sao phải xác định nhu cầu đào tạo của các bên liên quan? Vấn đề đào tạo/
phát triển nguồn nhân lực thường có nhiều tổ chức quan tâm; các bên liên quan này
có cách nhìn khác nhau khi phát triển nguồn nhân lực; các bên liên quan này có thể
ảnh hưởng khác nhau đến việc thực hiện một kế hoạch đào tạo.
Nội dung xác định nhu cầu đào tạo của các bên liên quan: các bên liên quan
là ai; họ phải đảm đương công việc gì; họ cần đào tạo gì, các bên này có ảnh hưởng
như thế nào trong việc thực hiện kế hoạch đào tạo.
 Xác định nhóm đối tượng ưu tiên đào tạo:
Vì sao phải xác định nhóm đối tượng cần được đào tạo? Để thực hiện công
việc của mình, một tổ chức có nhiều nhóm làm các việc khác nhau nhưng có liên
quan chặt chẽ với nhau; trong các nhóm lao động đó có một số nhóm giữ vị trí
trọng yếu; phải xác định nhóm đối tượng cần được đào tạo còn do hạn chế về
nguồn lực (kinh phí, thời gian) và năng lực; không thể thoả mãn hết nhu cầu đào
tạo cho một công việc.
xvii


 Phân tích đặc điểm học viên:
Vì sao phải phân tích đặc điểm của học viên? Để nắm bắt được đặc điểm của
học viên; xác định nội dung cần đào tạo; xác định mức độ của từng nội dung đào
tạo và phương pháp đào tạo thích hợp.
Nội dung phân tích đặc điểm học viên: học viên sẽ là ai; họ đang làm gì; họ đã biết

những kiến thức gì, những kỹ năng gì; họ gặp phải khó khăn gì; họ cần những kiến
thức gì, kỹ năng gì.
 Phân tích vị trí công tác và nhiệm vụ chính được giao:
Vì sao phải phân tích vị trí công tác và nhiệm vụ được giao? Để nắm được
đặc điểm của học viên; mỗi người thường đảm nhận nhiều việc khác nhau nên phải
xác định được nhiệm vụ chính; để hiểu thêm nhiệm vụ chính làm cơ sở đánh giá
đúng nhu cầu đào tạo.


Xác định sự thiếu hụt kiến thức và nhu cầu đào tạo: để nắm bắt

được đặc điểm của học viên; xác định chủ đề, nội dung và mức độ nông sâu của nội
dung đào tạo; đề xuất các kháo đào tạo, hình thức đào tạo.
2. Xây dựng kế hoạch của quá trình đào tạo: là nhận biết hay đánh giá nhu
cầu đào tạo của học viên. Sau đó xác định mục tiêu, nội dung và phương pháp đào
tạo. Lựa chọn và sử dụng những kỹ thuật, những phương pháp, những chiến lược,
những trợ giúp, sắp xếp phòng học và đánh giá kết quả khoá học.
3. Thực hiện quá trình đào tạo: là thực hiện và quản lý thực sự một khoá
học bao gồm những hoạt động và thực hiện của từng ngày của lớp học. Nó cũng
bao gồm những hạch toán chi phí cho khoá học.
4. Đánh giá trong quá trình đào tạo: là lấy ý kiến phản hồi để xem các mục
tiêu của khoá học đã được hoàn thành hay chưa, để nhận biết những điểm mạnh và
điểm yếu, để xác định giá trị nhận được của chương trình đào tạo và để cải tiến
những chương trình đào tạo tiếp theo.

xviii


Đánh giá nhu cầu đào tạo
Phân tích công

việc/nghề nghiệp

Phân tích học viên

Bước 1

Xác định mục tiêu đào tạo

Phát triển chương trình khoá học
Lựa chọn kỹ thuật, phương pháp, trợ giúp
đào tạo

Bước 2

Kế hoạch bài giảng
Đánh giá kế hoạch

Thực hiện và quản lý đào tạo
Bước 3
Tính toán chi phí

Xem xét điều chỉnh
Sơ đồ 2.2: Quá trình đào tạo

xix

Bước 4


Theo quá trình đào tạo này, một chu trình đào khi xây dựng cần chú ý 5 bước

cơ bản sau:

Phân tính
tình hình

Kiểm tra
đánh giá

Xác định
mục tiêu
Sự tham gia

Tiến hành
giảng dạy

Phát triển
mục tiêu

Sơ đồ 2.3: Chu trình đào tạo
Bước 1: phân tích tình hình người học bao gồm môi trường chính sách, công việc,
điều kiện làm việc và điều tra, đánh giá nhu cầu đào tạo.
Bước 2: xác định mục tiêu bao gồm nêu lý do, mục đích và các mục tiêu cụ thể cần
đạt được.
Bước 3: phát triển chương trình bao gồm việc thiết kế khoá đào tạo, phát triển tài
liệu, vật liệu giảng dạy, phương pháp giảng dạy.
Bước 4: tiến hành giảng dạy là các hoạt động giao tiếp và thúc đẩy trực tiếp giữa
giáo viên và học viên.
Bước 5: kiểm tra và đánh giá là các hoạt động theo dõi, giám sát và xem xét toàn
bộ quá trình dạy học.
2.1.5 Sử dụng cán bộ HTX

Là việc bố trí số lượng cán bộ vào những vị trí, công việc sao cho phù hợp với
trình độ chuyên môn và khả năng tiếp nhận công việc của mỗi người, phát huy
được cao nhất hiệu quả công việc.
Chỉ tiêu để đánh giá tình hình sử dụng cán bộ HTX dựa trên 2 loại chỉ tiêu sau:

xx


(i) Sử dụng về số lượng;
(ii) Sử dụng chất lượng (bao gồm giới tính, lứa tuổi, trình độ văn hóa, trình độ
chuyên môn, trình độ lý luận chính trị, qua các chỉ tiêu này có thể đánh giá hiệu
quả sử dụng cán bộ của địa phương).
2.1.6 Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước có liên quan đến đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ và lao động trong HTX
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành TW Đảng khoá IX số
13/NĐ/TƯ ngày 18 tháng 3 năm 2002, về tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả
kinh tế tập thể và tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều
kiện phát triển kinh tế tư nhân. Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX là góp phần
giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh
của khu vực kinh tế HTX.
- Luật HTX đã được Quốc hội thông qua ngày 20 tháng 3 năm 1996 và Luật
HTX sữa đổi ban hành ngày 26 tháng 11 năm 2003. Chính phủ căn cứ yêu cầu phát
triển HTX và đặc điểm của từng ngành, từng địa bàn cụ thể để có chính sách ưu đãi
và các biện pháp hỗ trợ HTX phát triển; trong đó có công tác đào tạo bỗi dưỡng cán
bộ, xã viên HTX.
- Quyết định số 94/2002/QĐ-TTg ngày 17 tháng 7 năm 2002 của Thủ tướng
Chính phủ về chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết hội nghị
lần thứ 5 Ban chấp hành TW Đảng khoá IX, Chính phủ giao cho Bộ Kế hoạch và
Đầu tư chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng đề án đào tạo, bỗi
dưỡng cán bộ cho HTX.

- Thông tư số 22/2004/TT-BTC ngày 24 tháng 3 năm 2004 của Bộ tài chính
hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí đào tạo bồi dưỡng cán bộ HTX giai đoạn
2004 – 2005.
- Nghị định số 88/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005 của Chính phủ về
một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển HTX, trong đó có quy định về
việc khuyến khích đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và xã viên HTX.
- Thông tư số 02/2006/TT-BKH ngày 13 tháng 2 năm 2006 của Bộ Kế hoạch
và Đầu tư hướng dẫn thực hiện một số điều tại Nghị điịnh số 88/2005/NĐ-CP ngày

xxi


11 tháng 7 năm 2005 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích
phát triển hợp tác xã.
- Thông tư số 66/2006/TT-BTC ngày 17 tháng 7 năm 2006 của Bộ tài chính
về hướng dẫn thực hiện Nghị định số 88/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005
của Chính phủ về chế độ tài chính hỗ trợ các sáng lập viên HTX chuẩn bị thành lập,
các đối tượng đào tạo, bồi dưỡng của HTX.
- Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5 tháng 8 năm 2008 Hội nghị lần thứ bảy
Ban Chấp hành Trung ương khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn .
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Một số kinh nghiệm về đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ HTX
nông nghiệp một số nước trên thế giới
2.2.1.1 Kinh nghiệm của Nhật Bản
Nhật Bản là nước công nghiệp phát triển, tuy kinh tế nông nghiệp chiếm tỷ
trọng nhỏ nhưng lại là một nền nông nghiệp hàng hoá cao nên HTX nông nghiệp đã
phát triển mạnh mẽ và rất có tác dụng trong nông nghiệp. Các kinh nghiệm phát
triển HTX nông nghiệp của Nhật Bản bao gồm nhiều khía cạnh trong đó có khía
cạnh đào tạo cán bộ được coi là có tầm quan trọng đặc biệt, nhất là ở giai đoạn đầu
của việc hình thành các HTX kiểu mới như Việt Nam hiện nay. Một số kinh

nghiệm chủ yếu trong đào tạo gồm:
- Hoạt động giáo dục đào tạo trong HTX là cần thiết và phải được thể chế
hoá. Kinh nghiệm này là việc vận dụng nguyên tắc của JICA, Luật HTX nông
nghiệp Nhật Bản… Đào tạo cho HTX gồm đào tạo cho lãnh đạo, đào tạo cho cán
bộ HTX và đào tạo cho xã viên.
- Nội dung đào tạo gồm 4 nhóm đào tạo các tri thức kỹ thuật, đào tạo cách
duy trì và phát triển HTX, đào tạo các nghiệp vụ chuyên môn, đào tạo các kinh
nghiệm và thâm niên công tác.
- Phương pháp tổ chức đào tạo có đào tạo tại chỗ thông qua các hoạt động
hàng ngày và đào tạo tập trung thông qua các trường lớp. Trong đào tạo tập trung đã
có sự chuyển đổi mạnh mẽ từ việc chú trọng vào giáo trình, dạy trên lớp và giáo viên
sang việc áp dụng các phương tiện nghe nhìn và thảo luận.
- Có sự khác nhau trong đào tạo các loại cán bộ:
xxii


Đào tạo lãnh đạo HTX: những lãnh đạo cao nhất của HTX phải được tổ chức ngoài
HTX theo trường lớp. Trang bị cho họ các kiến thức về nông nghiệp và HTX, kiến
thức và kinh nghiệm kinh doanh. Yêu cầu với người được đào tạo là họ phải tự giác
tham gia.
Đào tạo cán bộ nghiệp vụ: hàng năm phải tập huấn cho họ vài lần theo các chuyên đề
theo loại cán bộ. Riêng các cán bộ mới sẽ được tổ chức tập huấn riêng.
Đào tạo xã viên: nội dung và nơi học phải phù hợp với đối tượng học, có tập
huấn cho cá nhân và tập huấn theo nhóm. Ngoài ra còn tổ chức các hình thức
truyền bá kiến thức, khuyến nông và tuyên truyền ý thức về HTX....
2.2.1.2 Kinh nghiệm của Tây Ban Nha
- Phải có chiến lược đào tạo cán bộ cho HTX nông nghiệp phù hợp điều kiện
của từng quốc gia. Chiến lược đào tạo cho HTX phải bao gồm cho cả số cán bộ
hiện tại, cán bộ nguồn và cả xã viên của HTX. Có chiến lược đào tạo quốc gia và
chiến lược đào tạo cấp tỉnh.

- Về mức độ đào tạo có cả các mức cao thấp khác nhau từ trên đại học, đến
đại học và tập huấn ngắn hạn.
- Nội dung và hình thức đào tạo cũng cần phân biệt rõ.
Với cán bộ nguồn cho tương lai cần được đào tạo dài hoặc trung hạn ở các
trường lớp với các nội dung như học lý thuyết, nghiên cứu tình huống, nghiên cứu cách
làm việc ở HTX và quan hệ với các cơ quan liên quan như trung tâm khuyến nông, hiệp
hội các HTX, tham gia đào tạo cán bộ HTX, trình bày một kế hoạch quản lý...
Với số cán bộ quản lý hiện tại được đào tạo trung hoặc ngắn hạn với các nội
dung như lựa chọn 1 HTX thực tế làm đối tượng cho nghiên cứu tình huống, xác định
những vấn đề quan trọng nhất trong quản lý HTX làm trọng tâm cho khoá học, trình bày
một kế hoạch hoạt động cho 1 HTX dưới dạng điều hành, so sánh các vấn đề đã học với
kế hoạch quản lý đã trình bày, tìm kiếm các giải pháp bằng cách phân tích các đặc điểm
riêng, đề xuất kế hoạch quản lý cuối cùng, tham quan...
Với các xã viên được tập huấn để hiểu về HTX, xã viên làm thế nào để hiểu
về hoạt động của HTX với các ngôn ngữ kinh tế có tính chất HTX.
- Trình tự đào tạo cần đi từ việc đề xuất những vấn đề cần đào tạo sau đó đào
tạo cho các đào tạo viên và cuối cùng mới đào tạo cho người được đào tạo.

xxiii


- Kinh nghiệm phát huy vai trò của đào tạo: đào tạo theo địa chỉ và đơn đặt
hàng của các HTX, đào tạo từ kinh phí của HTX sẽ gắn kết với quyền lợi của HTX
hơn.
2.2.1.3 Kinh nghiệm của một số nước khác:
Nhiều nước trên thế giới đều chú ý đào tạo cán bộ cho HTX. Có những nước
như Thái Lan, Đan Mạch có trường đào tạo cho HTX. Đức có phương pháp đào tạo
theo tình huống. Pháp cũng có cách thức riêng đào tạo cho HTX.
2.2.2 Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ HTX ở Việt
Nam trong thời gian qua

2.2.2.1 Hệ thống trường
- Hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX gồm có 2 trường thuộc Liên
minh HTX Việt Nam, trường CBQLNN&PTNT thuộc Bộ nông nghiệp và phát
triển nông thôn và một số trường, trung tâm đào tạo, bồi dưỡng của địa phương như
các trường của thành phố Hải Phòng, Thanh Hoá, Nghệ An, Đà Nẵng, Cần Thơ và
47 trung tâm đào tạo, bồi dưỡng thuộc các tỉnh và thành phố. Quy mô đào tạo mỗi
năm khoảng 4000 học viên và với 300 giáo viên chuyên trách. Năng lực đào tạo
của các trường còn hạn chế, nội dung chương trình đào tạo chưa được quy chuẩn
hoá, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, lạc hậu; đội ngũ giáo viên thiếu, kinh phí hoạt
động hẹp.
- Các trường đào tạo, bồi dưỡng công chức của các Bộ, ngành, Hội nông dân
Việt Nam và các trường địa phương cùng một số dự án nước ngoài cũng có tổ chức
các khoá bồi dưỡng ngắn hạn về chuyên môn nghiệp vụ thuộc các chuyên ngành
cho cán bộ, xã viên HTX, nhưng số lượng không nhiều.
- Hiện nay các trường đào tạo chính quy trong hệ thống giáo dục quốc dân
thuộc quản lý Nhà nước của Bộ giáo dục và đào tạo; Các trường đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức của các Bộ, ngành và địa phương chưa có chương trình đào tạo,
bồi dưỡng riêng cho cán bộ HTX và chưa có quy định trách nhiệm rõ ràng. Nên
việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX thực hiện theo chương trình đào tạo, bồi
dưỡng của ngành trên cơ sở phương pháp giảng dạy và điều kiện cơ sở vật chất
hiện có của trường.

xxiv


- Thời gian qua các trường thuộc hệ thống đào tạo của Nhà nước và hệ thống
Liên minh HTX Việt Nam tuy đã có quan tâm đến công tác đào tạo cán bộ cho HTX;
Nhưng chưa được vào quy hoạch, kế hoạch để đáp ứng nhu cầu đào tạo phát triển nguồn
nhân lực cho khu vực kinh tế HTX. Mặt khác HTX cũng chưa thực sự quan tâm đến
công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng nghề

cho đội ngũ cán bộ và người lao động HTX.
2.2.2.2 Kết quả đào tạo cán bộ HTX trong thời gian qua
- Thời gian qua các trường thuộc liên minh HTX Việt Nam, cơ sở đào tạo
của các Bộ, ngành và địa phương đã đào tạo - bồi dưỡng được hơn 900 người có
trình độ trung cấp nghiệp vụ và 19700 người được bồi dưỡng về kiến thức quản lý
HTX.
- Số người được đào tạo, bồi dưỡng trong thời gian qua là cán bộ hoặc con
em xã viên HTX, nên sau khi học xong phần lớn đều trở về làm việc cho HTX và
đã phát huy tác dụng tốt trong công tác điều hành và quản lý kinh tế HTX.
- Mặc dù những năm qua Nhà nước đã quan tâm đến công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ và người lao động trong HTX, nhưng việc quy hoạch, kế hoạch đào
tạo nguồn nhân lực cho khu vực này chưa được thực hiện đầy đủ; cơ chế chính
sách, môi trường làm việc chưa thực sự hấp dẫn để cán bộ và xã viên HTX sẵn
sàng đi học để làm việc lâu dài cho HTX.
- Một nguyên nhân cơ bản là các cấp, các ngành chưa thực sự quan tâm đầy
đủ đến công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho HTX; mặc dù Chính phủ
đã có các Nghị định 02/CP và Nghị định 15/CP từ năm 1997 nhưng đến nay vẫn
chưa có các văn bản hướng dẫn cụ thể cho các HTX và các trường thực hiện.
- Trước năm 1996 cả nước có gần 14000 HTX nông nghiệp theo kiểu cũ
nhưng do thực hiện Luật HTX nên đến cuối năm 1999 còn lại. Trong số này 75,6%
đã tổ chức lại, trong đó 58% được cấp giấy phép đăng ký kinh doanh và 1319 HTX
mới thành lập. Về nguyên tắc đây là các HTX kiểu mới theo thông lệ quốc tế và
thực tiễn Việt Nam. Số HTX kiểu mới này ngày càng tăng, năm 2000 có 6411, năm
2001 có 7171, năm 2002 có 7527 và đến năm 2006 là 8505 HTX nông nghiệp,
chiếm 46,6% số HTX trong cả nước (Liên minh HTX Việt Nam, năm 2006).

xxv



×