Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Xử lý nợ xấu trong hệ thống Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.37 KB, 17 trang )

Lời nói đầu
Sau 20 năm đổi mới, chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nước ta đã có những bước chuyển đáng kể. Hiện nay nền
kinh tế Việt Nam được đánh giá là có tốc độ tăng trưởng cao, ổn định, có môi trường đầu
tư an toàn trong khu vực và trên thế giới. Đóng góp vào sự thành công đó phải kể đến là
ngành Ngân hàng. Với sự chỉ đạo của Ngân hàng Trung ương cũng như sự phát triển và
hoạt động có hiệu của các ngân hàng thương mại mà đã huy động được một lượng vốn
lớn, đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước, cũng như cung cấp các dịch vụ, tiện
ích về Ngân hàng - Tài chính cho khách hàng góp phần đưa đất nước phát triển theo
hướng hiện đại, theo kịp với trình độ của thế giới.
Tuy nhiên do sự chuyển đổi cơ chế còn chậm, trình độ còn kém nên ngành Ngân hàng
cũng đã gặp nhiều khó khăn trong chính sách cũng như quản lý và hoạt động, đặc biệt là
vấn đề "nợ xấu" gây ảnh hưởng tới sự phát triển của ngành, làm cho tình hình tài chính
của các ngân hàng thương mại trở nên yếu kém, khả năng cạnh tranh giảm sút. Nhất là
hiện nay khi chúng ta trở thành thành viên chính thức của WTO thì vấn đề này đã gây ra
nhiều thách thức trong việc cạnh tranh với nước ngoài, tăng rủi ro trong hoạt động ngân
hàng, giảm lòng tin khách hàng và tất nhiên ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của đất
nước.
Với lí do trên, các thành viên nhóm 4 xin đưa ra vài ý kiến về đề tài: "Xử lý nợ xấu
trong hệ thống Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng tại Việt Nam". Hy vọng
rằng nó sẽ giúp giải thích phần nào nguyên nhân, thực trạng và giải pháp về vấn đề này.


Chương 1.Lý thuyết về nợ xấu.
1.1.Các khái niệm cơ bản
1.1.1.Rủi ro tín dụng
Cũng như bất kỳ ngành kinh doanh nào khác, ngân hàng cũng có thể gặp rủi ro.
Trên thế giới, người ta phân ra nhiều loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng, tiêu biểu nhất
là rủi ro trong hoạt động tín dụng.
Tín dụng là quan hệ vay mượn dưới dạng tiền tệ có hoàn trả gốc và lãi giữa người
có vốn (NH) và người thiếu vốn (DN).


Rủi ro trong hoạt động tín dụng là tình trạng người đi vay không có khả năng hoàn
trả được vay lãi vay gốc hay cả …
Người ta cho rằng rủi ro chính mà ngân hàng phải đối mặt là rủi ro trong hoạt
động tín dụng, hoạt động này đòi hỏi ngân hàng phải tìm mọi cách để kiểm soát được khả
năng hoàn trả nợ ở ngân hàng, ít nhất là dự tính, phán đoán khả năng này.
1.1.2.Nợ xấu
Nợ xấu hay nợ khó đòi là các khoản nợ dưới chuẩn, có thể quá hạn và bị nghi ngờ
về khả năng trả nợ lẫn khả năng thu hồi vốn của chủ nợ, điều này thường xảy ra khi các
con nợ đã tuyên bố phá sản hoặc đã tẩu tán tài sản. Nợ xấu gồm các khoản nợ quá hạn trả
lãi hoặc gốc trên thường quá ba tháng căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng để hạch
toán các khoản vay vào các nhóm thích hợp.
Bản chất của nợ xấu là một khoản tiền cho vay mà chủ nợ xác định không thể thu
hồi lại được và bị xóa sổ khỏi danh sách các khoản nợ phải thu của chủ nợ. Đối với các
ngân hàng, nợ xấu tức là các khoản tiền cho khách hàng vay, thường là các doanh nghiệp,
mà không thể thu hồi lại được do doanh nghiệp đó làm ăn thua lỗ hoặc phá sản,.... Nhìn
chung, một doanh nghiệp luôn phải ước tính trước những khoản nợ xấu trong chu kỳ kinh
doanh hiện tại dựa vào những số liệu nợ xấu ở kì trước.
1.2.Phân loại nợ.
Việc phân loại nợ theo khách hàng để phân tích và đánh giá rủi ro tín dụng là hoạt
động mà các ngân hàng hiện đang làm. Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày
22/4/2005 phân loại nợ 5 loại theo2 phương pháp định tính và định lượng.


* Phương pháp định lượng
- Nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn bao gồm nợ trung hạn được đánh giá có khả năng thu
hồi đủ gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh trong tương lai như các
khoản bảo lãnh cam kết cho vay, chấp nhận thanh toán.
- Nhóm 2 nợ cần chú ý bao gồm nợ quá hạn < 90 ngày và nợ có cấu lại thời hạn
nợ.
- Nhóm 3 nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ quá hạn từ 90 -180 ngày người nợ cơ

cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn < 90 ngày.
- Nhóm 4: nợ nghi ngờ, bao gồm nợ quá hạn từ 180 - 360 ngày.
- Nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn bao gồm nợ quá hạn > 360 ngày và nợ cơ cấu
thời hạn trả nợ > 180 ngày người nợ khoanh chờ chi phí xử lý.
* Phương pháp định tính
Nợ cũng được phân thành 5 nhóm tương ứng như phương pháp định lượng,
nhưng không nhất thiết căn cứ vào số ngày quá hạn chưa thanh toán nợ mà căn cứ trên hệ
thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chính sách dự phòng ruiro và tổ chức tín dụng được
ngân hàng nhà nước chấp nhận.
- Nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy
đủ gốc và lãi đúng hạn.
- Nhóm 2: nợ cần chú, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ
gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ.
- Nhóm 3 nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là không có khả năng thu
hồi gốc và lãi cho đến khi đến hạn.
- Nhóm 4: nợ nghi ngờ, bao gồm nợ được đánh là có khả năng tổn thất cao
- Nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ được đánh giá là không có khả
năng thu hồi, mất vốn.
Trong đó nợ từ nhóm 3 -5 là nợ xấu với các khoản nợ xấu này là yếu tố chủ yếu
gây ra rủi ro tín dụng.
Có nhiều tiêu chí đánh giá rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại thông qua nợ
xấu.


- Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ.
- Tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu
- Tỷ lệ nợ xấu trên quỹ dự phòng tổn thất
- Nợ đáng nghi nợ có khả năng chuyển thành nợ xấu cao
- Nợ không có tài sản bảo đảm.
1.3.Sự cần thiết phải xử lý nợ xấu

1.3.1. Ảnh hưởng của "nợ xấu" tới hoạt động của các Ngân hàng thương mại và tổ
chức tín dụng.
Nếu các khoản nợ xấu này lớn, tức là khả năng thu hồi các khoản nợ khách hàng
của ngân hàng thấp. Do đó ngân hàng phải dùng vốn để trang trải cho các khoản thất
thoát này thì đến một chừng mực nào đó sẽ không thể thực hiện việc "xóa sổ" những
khoản thất thoát này, ngân hàng có thể bị lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán cho
người gửi tiền.
Ngân hàng là ngành kinh tế nhạy cảm, phụ thuộc vào những lòng tin, do đó khi
thông tin khả năng trả nợ ngân hàng là không chắc chắn, người gửi tiền sẽ đổ xô đi rút
tiền làm ngân hàng lâm vào tình trạng phá sản.
Ngoài ra ngân hàng Trung ương của bất kì quốc gia nào cũng đều có nhiệm vụ bảo
đảm hệ thống ngân hàng hoạt động một cách an toàn và ổn định. Vì nếu có sự thất thoát
trong hoạt động tín dụng nào đó dù chỉ là 1 ngân hàng và ở 1 mức độ nhất định nào đó
cũng sẽ đe doạ tới sự tan toàn và ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng.
1.3.2. Xu thế hội nhập hiện nay
Thế giới hiện nay là thế giới của toàn cầu hoá và hội nhập hoá Việt Nam cũng
không nằm ngoài quy luật này.Ngày 11/06 Việt Nam chính thức gia nhập WTO - Tổ
chức thương mại thế giới, đánh dấu bước ngoặt lớn của nền kinh tế Việt Nam khi bước
vào một sân chơi mới đồng thời đặt ra nhiều cơ hội nhưng cũng đầu thách thức. Cải
cách khu vực ngân hàng thương mại là một trong những chủ trương cải cách khu vực
Ngân hàng thương mại là một trong những chủ trương cải cách hàng đầu mà Chính phủ
luôn theo đuổi với mục tiêu từng bước hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng. Bởi
vậy vấn đề nợ xấu lớn trong các Ngân hàng thương mại là một thách thức trên con đường
hội nhập. Có xử lí được vấn đề này, năng lực đấu tranh của các Ngân hàng thương mại
mới được cải thiện. Sau năm 2010, các hạn chế, phân biệt giữa ngân hàng trong và ngoài


nước bị xoá bỏ, chấm dứt sự bảo hộ ở nhà nước, các Ngân hàng thương mại sẽ thực sự
đứng trước sự cạnh tranh khốc liệt. Do đó, ngay từ bây giờ, giải quyết những tồn tại, hạn
chế trong hệ thống Ngân hàng thương mại là rất cần thiết, đặc biệt là vấn đề xử lý nợ xấu

cần được quan tâm, chú ý hơn.
1.4.Nội dung xử lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại.
Khi xử lí các khoản nợ xấu, Ngân hàng thương mại có 2 sự lựa chọn tổng quan:
khai thác hoặc thanh lí
Khai thác là một quá trình làm việc với người vay cho đến khi khoán cho vay
được trả một phần hay toàn bộ người không dựa vào các công cụ pháp lí để ép buộc thu
ngân thanh lí là ép người vay tuân theo các điều khoản của hợp đồng cho vay, áp dụng và
thực hiện tất cả biện pháp pháp lí để đạt mục tiêu.
Các yếu tố chính ảnh hưởng đến sự lựa chọn mà ngân hàng sẽ theo đuổi để xử lí
những khoản cho vay. Nổi bật nhất là khó khăn trong việc thu ngân và tổn thất có thể xảy
ra đối với khoản cho vay, trong trường hợp này ngân hàng phải áp dụng hình thức thu
ngân bắt buộc theo luật. Bên cạnh đó có các yếu tố như sự thật thà và thái độ của người
vay đối với các khoản nợ, sức mạnh tài chính là khả năng chi trả của người vay, mặc dù
cần thiết thời gian đáng kể, giá trị của người vay đối với ngân hàng, chi phí kèm theo việc
thu ngân hàng khôi phục cho người vay và phương pháp nào sẽ đem lại lợi ích lớn nhất
cho ngân hàng trên số vốn đã và đang bị khó khăn. Một yếu tố cuối cùng cần phải quan
tâm là thái độ của chủ nợ, mà điều này xảy ra rất nhiều. Trong việc xử lí ngoài phạm vi
của toà án, sự sắp xếp các việc phải làm cần được những người liên quan chấp nhận. Một
người phản đối có thể làm cho kế hoạch không được thực hiện phải thuyết phục của chủ
nợ này rằng, họ được lợi bằng cách cộng tác với một kế hoạch được đề nghị hơn là hoạt
động đơn phương.
* Tổ chức khai thác
Khi người vay gặp khó khăn về tài chính, ngân hàng có thể và thường tham gia tổ
chức khai thác, dĩ nhiên phải đặt trong giả thuyết người vay thật thà thái độ của họ đối
với khoản nợ và chi trả là thoả đáng. Điều này đặc biệt đúng, nếu như người vay có vốn
lớn trong doanh nghiệp, một số tài sản cố định có giá trị, một tổ chức có thể tạo lợi nhuận
đủ số lượng để hoàn trả khoản vay đáng nghi vấn, cũng như những khoản cho vay khác
cần cho việc duy trì doanh nghiệp, nếu gnười vay không thể trả nợ theo nghĩa sự vỡ nợ
thì ngân hàng nên thực hiện thanh lí.



Hầu hết các khoản cho vay khó đòi tại ngân hàng thương mại được xử lí bằng
phương pháp khai thác, nghĩa là người vay được phép tự khắc phục khó khăn tài chính và
hoàn trả các khoản nợ ngân hàng càng nhanh càng tốt. Vì tổ chức khai thác không phải là
một công cụ pháp lí,nó có thể có một số hình thức khác nhau giữa những khoản cho vay
các biện pháp có thể bao gồm lời khuyên trên nhiều chủ đề nhằm tác động đến khả năng
tạo ra và thu lợi tức của người vay, gia hạn hoặc điều chỉnh hợp đồng cho vay để giảm
bớt quy mô hoàn trả cấp phát thêm vốn nhằm tạo cho người vay có được vị thế tài chính
mạnh hơn ngân hàng nắm phần chủ động trong hoạt động kinh doanh nó, cho đến khi bảo
đảm rằng, khoản cho vay sẽ được hoàn trả.
Khi bất cứ khoản cho vay nào đến giai đoạn khó khăn, lập tức ngân hàng áp dụng
biện pháp để bảo đảm thế chấp và một thoả thuận bảo đảm trên mọi tích sản khả dụng
của người cho vay.
* Tổ chức thanh lý
Nếu ngân hàng thấy rõ là việc tổ chức khai thác không tiện lợi, sự thanh lí dưới 1
trong vài hình thức có thể được coi là cách hay nhất để xử lí một khoản cho vay đã trở
thành nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn (thuộc nhóm 4 và 5). Khi phương pháp này
được lựa chọn, có nghĩa là ngân hàng đã quyết định sau khi cần nhất tất cả mọi yếu tố kể
trên người nhận thấy rằng khả năng cải thiện tình hình tài chính của người vay là xa vời,
việc gia hạn hợp đồng cho vay hay cấp thêm vốn là mạo hiểm ngân hàng sẽ bớt được một
tỷ lệ% vốn cấp phát, biện pháp thanh lí là tối ưu nhất. Sự thanh lí thường được nhanh
chóng thực hiện trong những trường hợp tư tưởng không sẵn lòng chi trả đã rõ, hành
động lừa đảo hay không thật thà đã bộc lộ, tình trạng vỡ nợ đã hiện ra, tình hình tài chính
của người vay là vô vọng, hay không có ý muốn trả nợ.Có một số biện pháp thực hiện
việc thanh lí
Nếu khoản cho vay được bảo đảm, có thể bán nó đi, thường thì nó không đem lại
mức giá thị trường hợp lí. Trong trường hợp khối lượng nhận được từ việc bán vật thế
chấp không đủ thanh toán nợ, ngân hàng có thể nhận phán quyết của toà án về khoản
chênh lệch phán quyết như thế cho phép ngân hàng quyền thu thêm nếu người vay có các
tích sản.

Nhân việc ngân hàng có thể thực hiện thanh lí với sự giúp đỡ của chuyên gia tư
vấn pháp luật của ngân hàng hay bộ phận liên quan đến những khoản cho vay có vấn đề
và thành viên của bộ phận tham mưu có chuyên môn về lĩnh vực này. Cuối cùng một
nhân viên thanh lí chuyên nghiệp được ngân hàng thuê xử lí việc thanh lí.


Một hình thức thanh lí khác là tái sở hữu các hàng hoá tiêu dùng lâu bền trong một
số trường hợp tư liệu sản xuất, được bán theo hợp đồng bán có điều kiệnvà mua lại từ
một nhà buôn. Quá trình này được thực hiện bằng cách giữ lại hàng hoá sau đó tiến hành
bán với giá nào đó hy vọng có thể trả hết nợ.
Trong trường hợp ngân hàng quyết định sử dụng biện pháp xử lý để thu hồi số nợ
vaykhông bảo đảm, phán quyết cần phải có từ toà án thích hợp.Phán quyết này cho phép
nắm giữ người bán tài sản của người thiếu nợ với số lượng phù hợp với quyết định của
toà án hay trừ vào lương theo mức được luật pháp cho phép.Nếu ngân hàng là một trong
số các chủ nợ và ai cũng muốn lấy lại tiền và có vị thế mạnh tương ứng như ngân hàng
thì một uỷ ban chủ nợ có thể được thành lập. Cách giải quyết này không áp dụng cho
trường hợp phá sản và cũng có thể áp dụng phương pháp khai thác.
Phá sản có 2 hình thức bồi thường cơ bản cho các chủ nợ, thanh lí và hồi phục.
Phá sản có thể miễn cưỡng hay cố ý. Nó là biện pháp cuối cùng theo quan điểm của các
chủ nợ. Ngân hàng hay bất cứ chủ nợ nào khác bao giờ cũng mong muốn nhận được phần
đáng kể các khoản cho vay từ quá trình thanh lí nhưng thực tế thường không được như
mong muốn.
Trong nhiều trường hợp, nó được áp dụng khi các chủ nợ không thể đạt thoả thuận
hợp lý liên quan đến các biện pháp phải thực hiện để thu hồi được vốn vay, hay khi 1 chủ
nợ nhỏ nào đó từ chối tiến hành một thoả thuận hợp tác hay khi người vay từ chối làm
việc với chủ nợ để cố gắng giải quyết khó khăn tài chính.


Chương 2. Thực trạng nợ xấu của các ngân hàng Thương
mại và tổ chức tín dụng.

2.1.Thực trạng nợ xấu tại các ngân hàng Thương mại và tổ chức tín dụng.
Kể từ năm 2005, Ngân hàng Nhà nước ban hành nhiều quy định mới về quản trị
rủi ro, an toàn hoạt động ngân hàng và quản lý tín dụng, đặc biệt là quy định về phân loại
nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro tiến dần tới các chuẩn mực quốc tế.
Bản chất của nợ xấu ngân hàng là do khách hàng vay vốn sử dụng vốn vay không
hiệu quả, và nó thường phát sinh sau một chu kỳ vay vốn, thậm chí sau một thời gian dài.
Nợ xấu hiện nay của các tổ chức tín dụng (TCTD) được tích lũy từ trước đây do môi
trường kinh doanh xấu đi kể từ năm 2008, khách hàng vay gặp nhiều khó khăn về tài
chính và hoạt động, vì vậy, nợ xấu của hệ thống các TCTD có chiều hướng gia tăng
nhanh trong thời gian gần đây. Trong bối cảnh dư nợ tín dụng không tăng từ đầu năm
2012 trở lại đây cho thấy nợ xấu phát sinh mới chủ yếu là các khoản tín dụng đã được cấp
trước đây, đặc biệt là trong giai đoạn tăng trưởng tín dụng nhanh.
Đến ngày 31/5/2012, nợ xấu theo các TCTD báo cáo là hơn 117 ngàn tỷ đồng,
chiếm 4,47% so với tổng dư nợ tín dụng.
Theo kết quả giám sát của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đối với gần
1,01 triệu khách hàng vay được chọn mẫu của 57 TCTD của Việt Nam chiếm tới 90,1%
tổng dư nợ tín dụng của các TCTD này, đến ngày 31/3/2012 nợ xấu của các TCTD là
hơn 202 ngàn tỷ đồng, chiếm 8,6% tổng dư nợ cấp tín dụng . Nguyên nhân nợ xấu theo
kết quả giám sát cao hơn nợ xấu theo báo cáo của các TCTD tại thời điểm tháng 3/2012
là do:
Thứ nhất, các tiêu chí xác định nợ xấu theo quy định hiện hành có bao gồm tiêu
chí định lượng (như: thời gian quá hạn, số lần cơ cấu lại thời hạn trả nợ,…) và tiêu chí
định tính (chấm điểm, xếp hạng khách hàng, đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng).
Việc bao gồm các tiêu chí định tính và định lượng trong phân loại nợ là phù hợp với
thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, do khoản nợ rủi ro và năng lực quản trị rủi ro của các TCTD
là khác nhau, nên việc sử dụng các tiêu chí định tính trong phân loại nợ dễ dẫn đến sự
thiếu minh bạch trong xác định và ghi nhận nợ xấu của TCTD.
Thứ hai, một số TCTD không thực hiện đúng quy định về phân loại nợ, ghi nhận
nợ xấu thấp hơn thực trạng và quy định để giảm chi phí trích lập DPRR.



Thứ ba, do thiếu thông tin về phân loại nợ của khách hàng tại các TCTD, nên dẫn
đến có sự khác nhau về nhóm nợ của 1 khách hàng quan hệ tại nhiều TCTD.
Do các nguyên nhân trên, nợ xấu do TCTD báo cáo thường thấp hơn nợ xấu theo
kết quả giám sát TCTD và còn thấp hơn nữa so với nợ xấu theo kết quả thanh tra tại chỗ
của NHNN. Kết quả thanh tra tại chỗ vừa qua đối với một số NHTMCP yếu kém thuộc
diện phải cơ cấu lại cho thấy nợ xấu thực tế của các TCTD cao hơn nhiều số hiện báo cáo
của TCTD.
Phân loại nợ khác nhau, kết quả nợ xấu không giống nhau
Mặc dù, quy định hiện hành của Việt Nam về phân loại nợ về cơ bản là phù hợp với
nguyên tắc phân loại nợ của nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, một số
tổ chức quốc tế đánh giá nợ xấu của Việt Nam trên 10% tổng dư nợ tín dụng. Chẳng hạn,
Tổ chức xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings cho rằng nợ xấu của các TCTD Việt Nam là
khoảng 13% tổng dư nợ tín dụng. Các tổ chức quốc tế đưa ra kết quả ước đoán nợ xấu
toàn hệ thống TCTD có thể dựa vào hệ thống tiêu chí phân loại nợ riêng có hoặc trên kết
quả đánh giá của một số ngân hàng được chọn mẫu hoặc ngoại suy có tính đến xếp loại
tín nhiệm quốc gia.
Trên thực tế không có chuẩn mực quốc tế về phân loại nợ. Việc sử dụng các hệ
thống tiêu chí phân loại nợ khác nhau sẽ cho kết quả nợ xấu không giống nhau. Do có sự
khác biệt giữa các hệ thống phân loại nợ và trích lập DPRR, vì vậy khi xác định, đo
lường, phân tích, đánh giá nợ xấu phải xem xét, hiểu được hệ thống phân loại nợ và trích
lập DPRR được sử dụng. Việc so sánh số liệu nợ xấu dựa trên các tiêu chí phân loại nợ
khác nhau không có nhiều ý nghĩa và có thể dẫn đến nhận định không hợp lý. Mọi sự so
sánh nợ xấu phải bảo đảm tính đồng nhất về hệ thống tiêu chí phân loại nợ. Sự khác nhau
về phương pháp phân loại nợ và trích lập DPRR làm cho việc so sánh mức độ yếu kém
hay mức độ lành mạnh giữa các ngân hàng hay các hệ thống ngân hàng trở lên khó khăn
hơn.
Do không có chuẩn mực quốc tế về phân loại nợ và trích lập DPRR, vì vậy các cơ
quan quản lý, cơ quan quản lý, giám sát ngân hàng thường ban hành quy định khung về
phân loại nợ và trích lập DPRR phù hợp với đặc điểm cụ thể của quốc gia.

Tình trạng tồn tại nhiều con số về nợ xấu không phải là vấn đề riêng có ở Việt
Nam vì những nguyên nhân nói trên. Tuy nhiên, số liệu nợ xấu chính thức của toàn hệ
thống ngân hàng do cơ quan quản lý, giám sát ngân hàng công bố và được chấp nhận do
được giải thích rõ ràng và pháp luật quy định cụ thể về phương pháp phân loại nợ.


Để các TCTD thực hiện đúng quy định phân loại nợ và báo cáo cho NHNN số liệu
nợ xấu chính xác hơn, hiện nay NHNN đang triển khai các giải pháp tăng cường hiệu quả
công tác thanh tra, giám sát hoạt động cấp tín dụng và phát triển mạnh cơ sở dữ liệu
chung về khách hàng có quan hệ tín dụng với các TCTD, đồng thời có biện pháp yêu cầu
TCTD điều chỉnh số liệu nợ xấu phù hợp với số liệu nợ xấu và bằng chứng qua thanh tra,
giám sát.
Tỷ lệ nợ xấu Việt Nam thấp hơn một số nước trong khu vực tại thời điểm Chính
phủ phải xử lý
So với tổng dư nợ cấp tín dụng cho nền kinh tế Việt Nam, tỷ lệ nợ xấu hiện nay ở
mức 4,47% theo báo cáo của TCTD hay 8,6% theo kết quả giám sát vẫn thấp hơn so với
tỷ lệ nợ xấu của một số nước trong khu vực tại thời điểm Chính phủ phải đứng ra xử lý
nợ xấu, cụ thể: Hàn Quốc 17% (tháng 3/1998), Thái Lan 47,7% (tháng 5/1999), Malaysia
11,4% (tháng 9/1998), Indonesia trên 50% (năm 1999).
- Một số yếu tố giảm thiểu rủi ro tín dụng cho các TCTD
Mặc dù các TCTD Việt Nam có tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ tín dụng khá lớn (8,6%
theo kết quả giám sát) và đang có chiều hướng tăng nhưng vẫn còn thấp hơn so với nhiều
nước (Albania: 18,8%; Latvia: 17,5%; Lithuania: 16,4%; Montenegro: 15,5%; Romania:
14,1%; Serbia: 18,8%; Kazakhstan: 30,8%; Tajikistan: 14,9%; Ukraine: 14,7%; Pakistan:
16,2%). Bản chất nợ xấu hiện nay của các TCTD có nhiều yếu tố góp phần làm giảm
thiểu tổn thất, cụ thể:
Thứ nhất, đến cuối tháng 5/2012 các TCTD đã trích lập DPRR được 67,3 ngàn tỷ
đồng, chiếm 57,18% nợ xấu.
Thứ hai, phần lớn nợ xấu được bảo đảm bằng tài sản, nhờ đó TCTD có thể thu hồi
được một phần hoặc toàn bộ khoản nợ xấu từ việc bán/ xử lý tài sản bảo đảm (tuy nhiên

việc xử lý tài sản đảm bảo, thu hồi nợ trong thực tiễn là không dễ dàng và cần một thời
gian dài).
Tính đến cuối tháng 3/2012, trong tổng nợ xấu của các TCTD có 84,16% được
bảo đảm bằng tài sản và 15,84% không được bảo đảm bằng tài sản. Tổng giá trị tài sản
bảo đảm bằng 134,8% tổng nợ xấu.
Tỷ lệ nợ xấu là một chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng và an toàn hoạt động tín
dụng. Điều quan trọng nhất là nợ xấu phải được phân loại, ghi nhận và trích lập DPRR
đầy đủ theo mức độ rủi ro, đồng thời có biện pháp bảo đảm tiền vay (tài sản cầm cố, thế
chấp, bảo lãnh,…). Không nên tuyệt đối hoá tỷ lệ nợ xấu cao hay thấp hoặc chỉ dựa vào


mức DPRR đã trích lập trong quá trình đánh giá chất lượng tín dụng và xác định khả
năng tổn thất tín dụng. Tỷ lệ nợ xấu thấp nhưng không được trích lập DPRR đầy đủ và
thiếu tài sản bảo đảm thì có thể nguy hiểm hơn là tỷ lệ nợ xấu cao hơn nhưng được trích
lập DPRR và có tài sản bảo đảm đầy đủ.
Tình hình "nợ xấu" trong thời gian gần đây đã được đề cập đến nhiều nhưng hầu
như bài toán hóc búa này chưa có lời giải cuối cùng và sự gia tăng các món nợ xấu trong
các ngân hàng vẫn đang tiếp diễn. Cho đến tháng12/2006, thì nước ta đã hình thành một
hệ thống ngân hàng rộng khắp cả nước với NHTM nhà nước chiếm thị phần 80%, trong
tổng vốn tự có chỉ trên 1 tỷ USD, chưa đạt hệ số an toàn vốn tối thiểu (8%) khả năng tăng
vốn và xử lý nợ xấu yếu, 37 NHTM cổ phần, 5 ngân hàng liên doanh, 31 chi nhánh ngân
hàng nước ngoài, 46 văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài, 6 công ty tài chính, 10
công ty cho thuê tài chính và hơn 900 quỹ tín dụng nhân dân.
Tính theo tiêu chuẩn trong nước thì tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại
qua các năm là: 13,7% năm 1999; 7,6 năm 2002; 5,8% năm 2003. Tỷ lệ nợ quá hạn ở các
ngân hàng trung ương Việt Nam cao gấp 4 lần vốn tự có (vốn chủ sở hữu của ngân hàng).
2.2.Nguyên nhân của nhưng thực trạng trên.
Kể từ cuối năm 2008, nền kinh tế chịu tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, sau đó là vấn đề lạm phát cao và hiện nay là suy giảm
tốc độ tăng trưởng kinh tế trong nước, do đó môi trường kinh doanh và hoạt động ngân

hàng gặp nhiều khó khăn làm cho chất lượng tín dụng suy giảm và nợ xấu tăng nhanh
hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng. Trong giai đoạn 2008-2011, tốc độ tăng trưởng dư nợ tín
dụng bình quân 26,56% nhưng tốc độ tăng trưởng nợ xấu bình quân 51%. Tốc độ tăng
trưởng dư nợ tín dụng từ năm 2011 chậm lại đáng kể, đặc biệt là 5 tháng đầu năm 2012
dư nợ tín dụng không tăng nhưng nợ xấu tăng tới 45,5% do tình hình kinh doanh và tài
chính của các doanh nghiệp suy giảm mạnh.
* Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế và tổng cầu chậm lại từ năm 2011: Năm 2011, tăng
trưởng kinh tế 5,89%. Trong 6 tháng đầu năm 2012, tăng trưởng kinh tế ước chỉ đạt
4,38% so với cùng kỳ năm 2011 (cùng kỳ năm 2011 tăng 5,57%).
- Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng chậm, thấp hơn so với cùng kỳ các năm trước:
Chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2011 tăng 6,8% so với năm 2010. Tính chung 06 tháng
đầu năm 2012, chỉ số sản xuất công nghiệp chỉ tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước, chỉ
bằng 45% mức tăng 6 tháng đầu năm 2011 (9,7%). Giá trị sản xuất xây dựng trong 6


tháng đầu năm 2012 theo giá so sánh năm 1994 chỉ bằng 99,6% so với cùng kỳ năm
2011. Ngành xây dựng gặp nhiều khó khăn do hoạt động đầu tư tăng chậm, thị trường bất
động sản trầm lắng kéo dài. Nhiều công trình, dự án xây dựng giãn tiến độ hoặc dừng
khởi công làm cho nhu cầu nguyên vật liệu xây dựng không tăng cao, nhiều sản phẩm
tiêu thụ khó khăn (như xi măng, sắt thép,…).
- Chỉ số tiêu thụ của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng thấp: Chỉ số tiêu
thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo năm 2011 tăng 6,2% so với năm 2010. Trong 5
tháng đầu năm 2012, chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chỉ tăng 3,6%
so với cùng kỳ năm trước.
- Tiêu dùng cá nhân tăng chậm: Tổng mức hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ
năm 2011 tăng 24,2% so với năm 2010 và chỉ tăng 4,7% nếu loại trừ đi yếu tố giá. Tính
chung 06 tháng đầu năm 2012, tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
ước tính tăng 19,5% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá thì chỉ tăng 6,5%,
thấp hơn nhiều so với cùng kỳ các năm trước.

- Chỉ số tồn kho tăng mạnh và ở mức cao so với cùng kỳ các năm trước. Cuối năm
2011, chỉ số tồn kho của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 23% so với cùng kỳ
năm 2010. Tại thời điểm 01/6/2012, chỉ số hàng tồn kho của ngành công nghiệp chế biến
tăng 26% so với cùng kỳ năm trước. Điều này phản ánh khả năng tiêu thụ sản phẩm cũng
như sức cầu tiêu dùng của nền kinh tế đang ở mức rất yếu dẫn đến đọng vốn trong sản
xuất kinh doanh và làm tăng nợ xấu của các TCTD.
* Về phía doanh nghiệp
- Nguyên nhân khách quan: Doanh nghiệp vay vốn gặp rủi ro trong hoạt động kinh
doanh của mình: thiên tai, hoả hoạn, chiến tranh,… do vậy việc sử dụng vốn vay không
đạt hiệu quả, có thể mất hoàn toàn vốn. Hoặc sự biến động và sức ép cạnh tranh ngày
càng tăng của thị trường, hoặc môi trường kinh doanh, làm cho doanh nghiệp không có
khả năng thích ứng kịp thời, kinh doanh khó khăn dẫn đến mất khả năng thanh toán.
Trong điều kiện hội nhập và cạnh tranh quốc tế hiện nay cần chú ý tới các tác nhân: sự
biến động của tỷ giá, giá xăng dầu, nguyên liệu.
- Nguyên nhân chủ quan: doanh nghiệp quản lý sản xuất kinh doanh kém hiệu quả,
sử dụng vốn vay không đúng mục đích, tiền vay về không có tác dụng thúc đẩy hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, dẫn đến doanh nghiệp vay vốn làm ăn kém hiệu quả, nợ
ngân hàng tăng. Hoặc bản thân doanh nghiệp thiếu ý thức trong vấn đề sử dụng vốn vay,
hoặc thiếu ý thức trong vấn đề trả nợ, không lo lắng, không quan tâm đến nợ ngân hàng,
mặc dù khả năng tài chính của doanh nghiệp có. Hay bản thân doanh nghiệp cũng cho


vay, mà số vốn đó bị các doanh nghiệp khác chiếm dụng quá mức, dẫn tói khả năng
không thể trả được nợ cho ngân hàng.
* Về phía ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng.
Hầu hết các TCTD theo đuổi chiến lược tăng trưởng tín dụng nhanh trong khi
năng lực quản trị rủi ro của TCTD còn nhiều hạn chế và chậm được cải thiện, đặc biệt là
các NHTMCP chuyển đổi từ nông thôn lên đô thị dẫn đến nợ xấu tăng nhanh hơn dư nợ
tín dụng. Một bộ phận không nhỏ vốn tín dụng và nhiều TCTD tập trung đầu tư vào các
lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro, chẳng hạn bất động sản. Khi các lĩnh vực này, đặc biệt là

thị trường bất động sản đóng băng và giá bất động sản giảm sâu kéo theo nợ xấu cho vay
lĩnh vực này tăng nhanh.
Ngoài ra, công tác thanh tra, giám sát ngân hàng trong một thời gian dài chưa phát
huy hiệu quả cao trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các vi phạm, rủi ro
trong hoạt động cấp tín dụng của các TCTD, nhất là các vi phạm quy định hạn chế cấp tín
dụng và đầu tư quá mức vào một số lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao.
-Một nguyên nhân lớn cần phải đề cập đó là: cho đến nay ngân hàng thương mại
nhà nước vẫn là người cho các doanh nghiệp nhà nước vay nhiều nhất. Trong khi ngân
hàng thương mại quốc doanh chiếm đến 80% thị phần, trong đó khoảng 50-60% danh
mục cho vay dành cho các DNNN. Xuất phát từ mối quan hệ truyền thống giữa ngân
hàng thương mại nhà nước và doanh nghiệp nhà nước cùng với nhu cầu cho vay lớn và
khả năng cho vay lớn (mà ngân hàng thương mại cổ phần khó đáp ứng), nếu có chuyện gì
thì cùng nhà nước quản lí


Chương 3.
Giải pháp xử lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
3.1.Giải pháp từ phía nhà nước.
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo hành lang pháp lý có hiệu lực,
đảm bảo sự bình đẳng, an toàn cho mọi tổ chức hoạt động dịch vụ ngân hàng và tài chính
trên lãnh thổ Việt Nam, gây sức ép phải đổi mới và tăng hiệu quả hoạt động lên ngân
hàng thương mại Việt Nam như: nâng cao chất lượng dịch vụ, đồng thời phải đổi mới cơ
cấu tổ chức, nhiệm vụ, chức năng của hệ thống ngân hàng nhà nước nhằm nâng cao vai
trò và hiệu quả điều hành vĩ mô ở ngân hàng nhà nước, nhất là trong việc thiết lập, điều
hành chính sách tiền tệ quốc gia trong quản lý giám sát hoạt động của các tổ chức tài
chính trung gian.
Thứ hai, thực hiện tái cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thông qua đề án được Chính
phủ phê duyệt, phù hợp với các cam kết của các tổ chức tài chính quốc tế nhằm tạo ra các
ngân hàng có quy mô lớn, hoạt động an toàn, hiệu quả và đủ sức cạnh tranh.
Về cơ cấu lại tổ chức: tách hoàn toàn hoạt động cho vay theo chính sách ra khỏi

hoạt động kinh doanh thương mại của các ngân hàng, thực hiện tốt chức năng kinh doanh
theo nguyên tắc thị trường.
Về cơ cấu lại tài chính: Tăng vốn điều lệ và xử lí dứt điểm nợ tồn đọng ở các ngân
hàng thương mại nhằm lành mạnh hoá tài chính, nâng cao khả năng cạnh tranh, chống
chịu rủi ro. Đối với ngân hàng thương mại nhà nước, cần bổ sung vốn điều lệ nhằm đạt
tối tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8%, xử lí hết nợ tồn đọng, lành mạnh và minh bạch tài
chính. Đối với ngân hàng thương mại cổ phần tăng vốn điều lệ thonog qua sáp nhập và
hợp nhất, phát hành bổ sung cổ phiếu, đối với những ngân hàng thương mại cổ phần hoạt
động quá yếu kém, không thể tăng vốn điều lệ và không thể khắc phục được những yếu
kém về tài chính có thể thu hồi giấy phép hoạt động.
3.2.Giải pháp từ phía các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng.
Để từng bước xử lý nợ xấu một cách bền vững, hạn chế nợ xấu gia tăng nhằm khơi
thông dòng vốn trong hệ thống các TCTD, bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng, thúc
đẩy tăng trưởng tín dụng và hỗ trợ vốn tích cực cho nền kinh tế, một số giải pháp sau đây
cần được triển khai:
- TCTD chủ động phối hợp với khách hàng vay để cơ cấu lại nợ, giãn thời gian trả
nợ và xem xét giảm lãi suất một cách hợp lý cho khách hàng có khó khăn tài chính tạm


thời, có chiều hướng cải thiện sản xuất kinh doanh tích cực, được đánh giá có khả năng
trả nợ theo thời gian cơ cấu lại nợ.
- TCTD tăng cường trích lập, sử dụng DPRR để xử lý nợ xấu theo quy định của
pháp luật. Đẩy nhanh tiến độ bán, xử lý các tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu để thu
hồi vốn.
- NHNN rà soát, hoàn thiện các quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng
DPRR phù hợp hơn với thông lệ quốc tế và điều kiện thực tiễn của Việt Nam, đồng thời
nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định về cấp tín dụng và an toàn hoạt động ngân
hàng.
- Tăng cường hiệu quả, hiệu lực công tác thanh tra, giám sát ngân hàng để bảo
đảm các TCTD tuân thủ đúng các quy định về hoạt động ngân hàng, đặc biệt là quy định

về cấp tín dụng, phân loại nợ, trích lập DPRR và quy định về an toàn hoạt động tín dụng.
- Thúc đẩy thị trường mua bán nợ phát triển thông qua ban hành và triển khai có
hiệu quả các quy định, chính sách về mua bán nợ.
- Một số giải pháp hỗ trợ khác cần triển khai bao gồm:
+ Các Bộ, ngành triển khai đồng bộ các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất
kinh doanh, hỗ trợ thị trường theo Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 10/5/2012 của Chính
phủ, trong đó bên cạnh các giải pháp miễn, giảm thuế, giãn thời hạn nộp thuế cần có giải
pháp hữu hiệu đẩy nhanh việc tiêu thụ hàng hóa, giảm lượng hàng tồn kho và kích thích
đầu tư, tiêu dùng trong nước. NHNN tích cực phối hợp với các Bộ, ngành phân tích, đánh
giá hoạt động của các ngành, lĩnh vực để xây dựng, triển khai các chương trình tín dụng
phù hợp, nhờ đó đẩy nhanh tiến độ giải phóng hàng tồn kho, tháo gỡ khó khăn cho hoạt
động sản xuất kinh doanh.
+ Bộ Tài chính chủ trì tổ chức triển khai có hiệu quả Quyết định số 03/2011/QĐTTg ngày 10/1/2011 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế bảo lãnh cho doanh
nghiệp nhỏ và vừa vay vốn NHTM; Trường hợp cần thiết, xem xét, đề xuất với Thủ
tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung các điều kiện, thủ tục bảo lãnh theo Quyết định số
03/2011/QĐ-TTg để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa vay vốn
ngân hàng.
+ Tích cực triển khai đồng bộ các giải pháp sắp xếp, đổi mới và cơ cấu lại các
doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước gắn với việc xử lý nợ
xấu của các doanh nghiệp này.


+ Các Bộ, ngành và địa phương có giải pháp khẩn trương hỗ trợ thị trường bất
động sản phục hồi nhanh, quản lý chặt chẽ và bảo đảm thị trường này phát triển lành
mạnh.

Kết luận
Cần phải khẳng định lại rằng cải cách khu vực ngân hàng thương mại là một trong
những chủ trương cải cách hàng đầu mà chính phủ luôn đuổi với mục tiêu là từng bước



hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng. Mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức cần
phải xử lí như vốn, trình độ công nghiệp, năng lực đội ngũ cán bộ…. nhưng vấn đề nợ
xấulà vấn đề cấp bách bên trong cần xử lí khi gia nhập WTO. Hy vọng một số thực trạng
trên đã cho thấy phần nào về tình hình nợ xấu ở hệ thống ngân hàng thương mại và một
số giải pháp khắc phục. Và cần phải nhìn nhận lại nguyên nhân của nợ xấu khi mà tận
gốc của nó không giải quyết được triệt để thì tình trạng nợ xấu vẫn còn tồn tại và luôn là
tình trạng chung của nhiều vấn đề hiện nay ở Việt Nam. Mong rằng khi hội nhập, chúng
ta còn xem xét lại bản chất của vấn đề cần xem xét, đểnền kinh tế của chúng ta ngày càng
tăng trưởng cao và bền vững.



×