Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Thực trạng điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thời gian qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.03 KB, 63 trang )

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1.Tính cấp thiết của đề tài cần nghiên cứu
Hiện nay, nước ta đang ngày càng hội nhập vào thị trường tài chính khu vực cũng
như thế giới, điều đó mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức với nền kinh tế.
Việc áp dụng một chính sách tiền tệ hợp lí, hiệu quả sẽ giúp chúng ta tận dụng những điều
kiện thuận lợi do hội nhâp mang lại để phát triển kinh tế. Trong nhiệm vụ xây dựng và điều
hành chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã rất chú trọng đến việc đổi mới
các công cụ điều tiết như hạn mức tín dụng, dự trữ bắt buộc, tỷ giá...nhưng quan trọng nhất
vẫn là công cụ lãi suất. Lãi suất có tác động to lớn đến việc điều tiết mức cung tiền tăng hay
giảm khối lượng tiền lưu thông,mở rộng hay thu hẹp đầu tư, khuyến khích hay hạn chế huy
động vốn, từ đó tác động đến tăng trưởng kinh tế, giá trị đồng nội tệ thu hẹp hay mở rộng tín
dụng tạo thuận lợi hay khó khăn cho hoạt động ngân hàng. Một chính sách lãi suất đúng đắn
sẽ có tác dụng thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hoá, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ngược
lại khi chính sách lãi suất thiếu chuẩn xác sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế. Vai
trò của lãi suất ngày càng trở nên quan trọng trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường,
đặc biệt trong giai đoạn đất nước ta tiến hành công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Vì vậy, việc học tập,nghiên cứu chính sách lãi suất và kinh nghiệm quản lý, điều
hành chính sách lãi suất của các nước phát triển để từ đó đưa ra những giải pháp để xây
dựng một chính sách lãi suất đúng đắn ở nước ta có một ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
Điều này không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình xây dựng và điều hành một
chính sách lãi suất phù hợp mà còn rất quan trọng đối với quá trình hình thành và hoạt động
một cách có hiệu quả của hệ thống thị trường tài chính ở Việt Nam, đảm bảo sự thắng lợi
cho công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
1.2 Xác lập và tuyên bố vấn đề trong đề tài
Tuy nhiên để có một chính sánh lãi suất phù hợp với nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam thời gian tới, làm "hạt nhân" thúc đẩy thị trường tài chính phát triển còn là vấn đề
đáng được quan tâm và nghiên cứu. Đề tài:
“Thực trạng điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thời gian
qua” nghiên cứu và tìm kiếm một cơ chế điều hành lãi suất phù hợp với điều kiện nước ta
hiện nay.


1

GVHD:


1.3 Các mục tiêu nghiên cứu đề tài
+ Về lý luận:
Hệ thống hóa lý luận về lãi suất và cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam
+ Về thực tiễn:
Phân tích rõ thực trạng điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong
thời gian qua, từ đó tìm ra ưu điểm, hạn chế còn tồn tại cần khắc phục.
Từ những phân tích trên, đưa ra một số những kiến nghị, giải pháp giúp cho sự điều hành
lãi suất của Ngân hàng Nhà nước hiệu quả hơn.
1.4 Các câu hỏi đặt ra trong nghiên cứu
- Chính sách lãi suất có tác động như thế nào đến nền kinh tế nước ta?
- Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có những tồn tại nào? Giải
pháp?
- Quá trình thực thi điều hành lãi suất gặp phải những khó khăn nào? Giải pháp khắc phục
những khó khăn đó?
1.5 Phạm vi nghiên cứu đề tài
- Nghiên cứu đi sâu vào tìm hiểu và hệ thống hóa lý luận lãi suất và cơ chế điều hành lãi
suất ở Việt Nam.
- Phân tích hoạt động điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thời gian
từ năm 2007 đến nay.
1.6 Ý nghĩa của việc nghiên cứu
Trong giai đoạn hiện nay xu hướng hội nhập vào thị trường tài chính khu vực cũng
như quốc tế hiện nay đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước phải xây dựng và thực thi một chính
sách lãi suất tín dụng ngân hàng phù hợp lí trên cơ sở đảm bảo sự kiểm soát của Nhà nước
với thị trường, phù hợp với những mục tiêu kinh tế vĩ mô.Chinh vì vậy việc học tâp nghiên

cứu vấn đề điều hành lãi suất có ý nghĩa rất lớn.
Việc nghiên cứu đề tài giúp sinh viên trau dồi thêm kiến thức, kinh nghiệm học tập,
phương pháp nghiên cứu vấn đề.
1.7 Kết cấu báo cáo nghiên cứu
Ngoài phần tóm lược, kết luận, mục lục, danh mục bảng biểu, đề tài nghiên cứu gồm
có 4 chương:
2

GVHD:


Chương 1: Tổng quan nghiên cứu đề tài
Chương 2: Những vấn đề lý luận về lãi suất và cơ chế điều hành lãi suất của
ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Chương 3: Thực trang điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước trong thời gian qua.
Chương 4: Các kết luận, thảo luận và đề xuất cơ chế điều hành lãi suất phù hợp.
CHƯƠNG 2
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ LÃI SUẤT VÀ CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
2.1. Lãi suất
2.1.1 Khái niệm lãi suất
John Maynard Keynes lập luận rằng lãi suất là một hiện tượng tiền tệ phản ánh mối
quan hệ cung và cầu tiền. Cung tiền được xác định một cách ngoại sinh còn cầu tiền phản
ánh các nhu cầu đầu cơ, phòng ngừa và giao dịch về tiền. Trái với Keynes, các nhà kinh tế
học cổ điển trước đó đã coi lãi suất là một hiện tượng thực tế, được xác định bởi áp lực của
năng suất - cầu về vốn cho mục đích đầu tư và tiết kiệm.
Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng một đơn vị vốn vay trong một đơn vị thời gian
nhất định (ngày, tuần, tháng hay năm) ( theo giáo trình tài chính - tiền tệ ngân hàng do
GS.TS Nguyễn Văn Tiến chủ biên của nhà xuất bản thống kê năm 2009).
Theo nhóm nghiên cứu về thực chất lãi suất là giá của quyền sử dụng vốn trong một thời

gian nhất định,mà người sử dụng vốn phải trả cho người sở hữu vốn(nhưng tạm thời bị mất
quyền sử dụng),thông thường nó được phản ánh bằng tỉ lệ phần trăm trên tổng số tiền cho
vay trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm).
2.1.2 Phân loại lãi suất
Căn cứ vào các loại hình tín dụng (phân loại theo chủ thể tham gia quan hệ tín dụng)
lãi suất được chia thành những loại sau:
Lãi suất tín dụng thương mại : áp dụng cho các doanh nghiệp cho nhau vay dưới
hình thức mua bán chịu hàng hóa. Tùy theo thời hạn mua bán chịu, cung – cầu về mua bán
chịu và mức độ tín nhiệm giữa các doanh nghiệp mà lãi suất tín dụng thương mại có các
mức khác nhau.
3

GVHD:


Lãi suất tín dụng ngân hàng : áp dụng trong quan hệ giữa ngân hàng với công chúng
và doanh nghiệp trong việc thu hút tiền gửi và cho vay, trong hoạt động tái cấp vốn của
NHTƯ cho các ngân hàng và trong quan hệ giữa các ngân hàng với nhau trên thị trường liên
ngân hàng. Nó bao gồm:
+ Lãi suất tiền gửi: là lãi suất trả cho các khoản tiền gửi. Nó được áp dụng để tính tiền
lãi phải trả cho người gửi tiền.
+ Lãi suất tiền vay: là lãi suất người đi vay phải trả cho ngân hàng cho việc sử dụng
vốn vay của ngân hàng. Nó được áp dụng để tính lãi mà khách hàng phải trả cho
ngân hàng.
+ Lãi suất chiết khấu: áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình thức chiết
khấu thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá trị khác chưa đến hạn thanh toán và thỏa
mãn các điều kiện chiết khấu theo quy định. Nó được tính bằng tỉ lệ % trên mệnh giá
của giấy tờ và được khấu trừ ngay khi ngân hàng phát tiền vay cho khách hàng.
+ Lãi suất tái chiết khấu: áp dụng khi NHNN tái cấp vốn cho các ngân hàng dưới hình
thức chiết khấu lại thương phiếu hoặc giấy tờ có giá trị ngắn hạn chưa đến hạn thanh

toán cho các ngân hàng. Nó được tính bằng tỉ lệ % trên mệnh giá của giấy tờ có giá
trị cũng được khấu trừ ngay khi NHNN cấp vốn tiền vay cho các ngân hàng.
+ Lãi suất liên ngân hàng: là lãi suất mà ngân hàng áp dụng cho nhau vay trên thị
trường liên ngân hàng. Lãi suất liên ngân hàng được ấn định hàng ngày vào.
+ Lãi suất cơ bản: là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ổn định mức
lãi suất kinh doanh của mình. Lãi suất cơ bản được hình thành khác nhau tùy từng
nước, nó có thể do NHNN ấn định, hoặc có thể do bản thân các ngân hàng tự định
dựa trên tình hình hoạt động cụ thể của mình.
Lãi suất tín dụng nhà nước: áp dụng khi nhà nước đi vay các chủ thể khác nhau
trong xã hội dưới hình thức phát hành tín phiếu hoặc trái phiếu.
Lãi suất tín dụng tiêu dùng: áp dụng khi doanh nghiệp cho người lao động vay phục
vụ nhu cầu tiêu dùng cá nhân.
2.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất.
Có rất nhiều cách tiếp cận tìm hiểu về những biến đổi về lãi suất, trong đó có một
cách được sử dụng nhiều trong nghiên cứu về lãi suất, đó là dựa vào lý thuyết quỹ cho vay.
Theo phương thức này người ta tìm cách giải thích những thay đổi của lãi suất bằng cách
xem xét sự tổng hợp cung cầu của doanh nghiệp, hộ gia đình và các khu vực Nhà nước. Lý
4

GVHD:


thuyết quỹ cho vay cho rằng: lãi suất biểu hiện giá cả khoản tiền mà người cho vay đòi hỏi
khi tạm thời trao quyền sử dụng khoản tiền của mình cho người khác. Người đi vay coi lãi
suất như khoản chi phí phải trả cho nhu cầu sử dụng tạm thời tiền vốn của người khác. Như
vậy điều không thể tránh khỏi là lãi suất hàm chứa một mâu thuẫn: người cho vay muốn có
lãi suất càng cao càng tốt, trong khi người đi vay muốn có lãi suất càng thấp càng tốt. Vì
vậy lãi suất chủ yếu được xác định bởi hoạt động của cơ chế cung và cầu.
2.1.3.1 Cung-Cầu quỹ cho vay.
Cầu quỹ cho vay là nhu cầu vay vốn phục vự sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng của

các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Nó bao gồm:
+ Cầu của doanh nghiệp: Khu vực doanh nghiệp là khách hàngg chính tạo nên cầu
quỹ cho vay cầu vay vốn của doanh nghiệp chủ yếu là để mua sắm các tài sản thực như nhà
máy, thiết bị. Cầu của Nhà nước: khu vực chủ yếu khác tạo nên cầu quỹ cho vay trong thị
trường tài chính là chính quyền địa phương và Trung ương. Nhu cầu về vốn của cơ quan địa
phương chủ yếu phát sinh vào việc xây dựng tiện ích cho giáo dục và các dịch vụ công
quyền khác. Nhu cầu này phụ thuộc vào: tỉ lệ gia tăng dân số, sự tăng tuổi thọ và dân số…
Còn đối với trung ương thì cầu phát sinh từ thu nhập và chi tiêu ngân sách quốc gia.
+ Cầu của người tiêu dùng: chủ yếu là các cá nhân, hộ gia đình cần tiền mua sắm
hàng tiêu dùng lâu bền như xe ô tô, xe máy, nhà cửa và các xa xỉ phẩm…còn những mặt
hàng nhu yếu phẩm như thực phẩm, quần áo thì phần lớn không nhạy cảm với lãi suất.
Trong các thành phần của cầu quỹ cho vay thì cầu cuả doanh nghiệp và của Nhà nước là
nguồn nhu cầu ròng chính yếu của quỹ cho vay.

5

GVHD:


lãi
suất

I2
D

I
1
Q1

Q2


quỹ cho vay

Đồ thị 1 .Mối quan hệ giữa lãi suất và cầu quỹ đầu tư
Đường cầu quỹ cho vay nghiêng xuống dưới biểu hiện lượng cầu và lãi suất có mối
tương quan nghich đảo. Ứng với lãi suất I1 lượng cầu quỹ cho vay là Q2. Nếu lãi suất là I1
nhỏ hơn I2 thì Q2 sẽ lớn hơn Q1. Như vậy lượng cầu thay đổi do sự thay đổi lãi suất chúng
ta sẽ có một biến đổi dọc theo đường cầu. Nhưng nếu lượng cầu thay đổi do một yếu tố
khác ngoài lãi suất thì sẽ xuất hiện sự dịch chuyển đường cầu.
● Các nhân tố làm dịch chuyển đường cầu
-

Lợi tức dự tính của các cơ hội đầu tư: trong giai đoạn tăng trưởng của nền kinh tế,
có rất nhiều cơ hội đầu tư được trông đợi là sinh lời, làm tăng nhu cầu vay vốn để tài
trợ các dụ án đầu tư của các doanh nghiệp. Lượng cầu quỹ cho vay tăng lên ở mọi
mức lãi suất và đường cầu quỹ cho vay dịch chuyển sang phải. Ngược lại , trong giai
đoạn suy thoái của nền kinh sự giảm sút của các cơ hội đầu tư có khả năng sinh lợi
làm lượng cầu quỹ cho vay giảm, đường cầy quỹ cho vay dịch chuyển sang trái làm

-

lãi suất giảm.
Lạm phát dự tính: sự tăng lên của lạm phát dự tính làm cho chi phí thực dự tính của
việc vay tiền ở mọi mức lãi suất cho trước giảm xuống. Người vay vốn được lợi.
Điều này làm tăng nhu cầu vay vốn của các chủ thể kinh tế, lượng cầu quỹ cho vay
tăng ở mọi mức lãi suất và đường cầu quỹ dịch chuyển sang phải. Ngược lại sự giảm
xuống của lạm phát dự tính làm cho cầu quỹ cho vay dịch chuyển sang trái.
6

GVHD:



-

Tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước: khi mức bội chi ngân sách Nhà nước tăng,
nhu cầu vay vốn tài trợ thiếu hụt ngân sách của Nhà nước tăng ở mức lãi suất làm
tăng lượng cầu quỹ cho vay, đường cầu quỹ cho vay dịch chuyển sang phải. Ngoài ra
hành vi phát hành công cụ nợ để huy động vốn tài trợ nhu cầu thâm hụt ngân sách
địa phương của chính quyền địa phương hoặc huy động vốn của các cơ quan Chính
phủ khác cũng có thể tác động đến lượng cầu quỹ cho vay theo chiều tăng lên và sự
dịch chuyển sang phải của đường cầu quỹ cho vay.

● Cung quỹ cho vay.
Cung quỹ cho vay là khối lượng vốn dùng để cho vay kiếm lời của các chủ thể khác
nhau trong xã hội. Nó được tạo bởi các nguồn sau:
-

Tiết kiệm của các các nhân, hộ gia đình: đây chính là thành phần cung cấp nguồn tiết
kiệm chủ yếu, nó phụ thuộc và thu nhập hiện có, dự tính trong tương lai, việc dự trù
của cải di cá nhân nắm giữ, mức lãi suất, dự tính về tỷ lệ lạm phát trong tương lai và

-

các biến số khác.
Nguồn thặng dư của ngân sách Nhà nước.
Dòng tiết kiệm nước ngoài: khi thị trường tài chính trở thành toàn cầu hóa và nhu
cầu về quỹ trong nước vượt quá cung quỹ trong nước thì các chu chuyển tiền từ nước
ngoài trở nên rất quan trọng. Các chu chuyển tiền này đến từ những quốc gia có tỷ lệ
tiết kiệm cao và lãi suất tương đối thấp. Ngoài ra tỉ giá hối đoái cũng có thể tác động
mạnh mẽ lên dòng tiết kiệm nước ngoài.


7

GVHD:


lãi
suất
S

I2
I
1

Q1

Q2

quỹ cho vay

Đồ thị 2:Mối quan hệ giữa lãi suất và cung quỹ cho vay
Hình ảnh minh họa cho thấy tương quan giữa lãi suất khác nhau và số lượng quỹ cho
vay được cung cấp. Số lượng quỹ cho vay được cung cấp có chiều hướng lên cao khi có sự
gia tăng về lãi suất. Nghĩa là lượng cung và lãi suất có mối quan hệ thuận chiều ứng với sự
thay đổi lãi suất là sự thay đổi của cung quỹ cho vay biến đổi dọc đường cung. Nhưng nếu
lãi suất không đổi, đường biểu diễn cung của quỹ cho vay sẽ dịch chuyển khi có một trong
các nhân tố cơ bản của chúng thay đổi.
Điểm cân bằng lãi suất được tạo nên tại điểm phản ánh sự phù hợp giữa cung và cầu quỹ
cho vay.


8

GVHD:


lãi
suất
S

I2
I
1

Q1

Q2

quỹ cho vay

Đồ thị 3: Cung - cầu quỹ cho vay quyết định lãi suất thị trường

● Những nhân tố làm dịch chuyển đường cung quỹ cho vay:
- Tài sản và thu nhập: khi nền kinh tế tăng trưởng thì tài sản và thu nhập của chủ thể
nền kinh tế tăng lên làm cho khả năng cung ứng vốn ở mọi mức lãi suất tăng lên.
Cung quỹ cho vay vì vậy mà tăng lên và đường cung dịch chuyển sang phải. Ngược
lại trong giai đoạn suy thoái kinh tế, lượng cung quỹ cho vay giảm ở mọi mức lãi
-

suất, đường cung dịch chuyển sang trái.
Tỷ suất lợi tức dự tính của các công cụ nợ : trong trường hợp lãi suất thị trường có xu

hướng tăng lên trong tương lai, giá thị trường của các công cụ nợ dài hạn bị giảm đi,
tỷ suất lợi tức dự tính của nó theo đó giảm. Công cụ nợ hiện tại trở nên kém hấp dẫn,
làm giảm nhu cầu mua của các chủ thể kinh tế, cung quỹ cho vay giảm và đường
cung quỹ dịch chuyển sang trái. Trường hợp ngược lại cung quỹ cho vay sẽ tăng và
đường cung quỹ dịch chuyển sang phải. Tỷ lệ lạm phát dự tính cũng ảnh hưởng đến

-

tỷ suất lợi tức dự tính của các công cụ nợ như lãi suất.
Rủi ro: khi mức độ rủi ro của các công cụ nợ tăng lên (do giá cả công cụ nợ bất ổn
định, rủi ro vỡ nợ của các công cụ nợ tăng lên (do giá cả công cụ nợ bất ổn định, rủi
ro vỡ nợ…) so với công cụ đầu tư khác sẽ làm nhu cầu mua công cụ nợ giảm đi làm
cung quỹ cho vay giảm, đường cung quỹ cho vay dịch chuyển sang trái. Trường hợp
9

GVHD:


ngược lại, làm cung quỹ cho vay tăng, đường cung quỹ cho vay dịch chuyển sang
-

phải.
Tính lỏng của các công cụ đầu tư: nếu tính lỏng của công cụ nợ trở lên cao hơn tính
lỏng của các công cụ đầu tư khác sẽ làm tăng tính hấp dẫn của công cụ nợ, làm cầu
công cụ đầu tư khác sẽ làm tăng tính hấp dẫn của công cụ nợ, làm cầu công cụ nợ
tăng lên. Lượng cung quỹ cho vay vì thế mà tăng lên. Đường cung quỹ cho vay dịch
chuyển sang phải.

2.1.3.2 Cung – cầu tiền.
● Cầu tiền là lượng tiền mà các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân muốn nắm giữ

để đáp ứng nhu vầu tiêu dùng hiện tại và tương lai với giá cả và các biến số kinh tế khác
cho trước. Lượng cầu tiền biến động ngược chiều với lãi suất, đường cầu tiền là đường dốc
xuống.
●Cung tiền: bao gồm tiền mặt lưu thông ngoài ngân hàng và tiền gửi không kỳ hạn
có phát séc. Vì mức cung tiền do NHNN đưa ra làm mục tiêu cố định với mọi mức lãi suất,
nên đường biểu diễn mối quan hệ giữa lượng cung tiền và lãi suất là đường thẳng đứng.
Đường cung và cầu tiền cắt nhau tại một điểm cân bằng hình thành lên mức lãi suất thị
trường. Ứng với mỗi một mức cung cầu tiền sẽ xác định được một lãi suất cân bằng tương
ứng. Cho nên có thể nói những nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu tiền tệ trên thị
trường cũng sẽ ảnh hưởng đến sự biến động của lãi suất trên thị trường.

lãi
suất

S

i
D

M*

lượng tiền(M)

Đồ thị 4:Cung cầu tiền quyết định lãi suất thi trường
10

GVHD:


Để phân tích ảnh hưởng của cung cầu tiền tệ tới mức lãi suất cân bằng, mô hình “khuôn

mẫu ưa thích tiền mặt” ở hình trên được sử dụng. Khuôn mẫu ưa thích tiền mặt cho thấy lãi
suât cân bằng thay đổi khi các đường cung, cầu tiền tệ dịch chuyển.
● Nhóm nhân tố làm dịch chuyển đường cầu tiền:
-

Thu nhập: thu nhập tăng lên sẽ làm tăng nhu cầu nắm giư tiền để giao dịch và là nơi

-

cất giữ giá trị, do đó làm cho lượng cầu tiền tăng lên và ngược lại.
Mức giá: những thay đổi của mức giá sẽ làm cầu về tiền thực tế thay đổi nếu cầu tiền
danh nghĩa chưa thay đổi. Do nền kinh tế có xu hướng cầu một lượng tiền thực tế
không đổi ứng với một mức lãi suất và thu nhập nhất định nên cầu tiền danh nghĩa sẽ
phải thay đổi theo mức giá để đảm bảo ổn định cầu tiền thực tế. Kết quả là một sự
gia tăng lên của mức giá sẽ làm lượng cầu tiền tăng lên.
● Nhóm nhân tố làm dịch chuyển đường cung tiền.
Cung tiền trong nền kinh tế hiện nay phần lớn chịu sự tác động của chính sách tiền

tệ của NHNN. Cung tiền thay đổi, ngoài những hoạt động nhằm thực thi mục tiêu của chính
sách tiền tệ ra, còn chịu ảnh hưởng bởi mức độ phụ thuộc của NHNN vào Chính phủ và chế
độ tỷ giá hối đoái của nước đó. Nếu sự phụ thuộc của NHNN vào Chính phủ cao thì tình
trạng thâm hụt ngân sách kéo dài có thể sẽ tạo sức ép khiến NHNN phải in thêm tiền mua
các chứng khoán Chính phủ vào để tài trợ cho thâm hụt ngân sách, dẫn đến tăng cung tiền.
Thêm vào đó, một chế độ tỷ giá hói đoái cố định đòi hỏi sự can thiệp của NHNN vào thị
trường ngoại hối thông qua hoạt động mua bán ngoại tệ, và do vậy cũng sẽ ảnh hưởng đến
cung tiền.
2.1.4 Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế
2.1.4.1 Lãi suất là công cụ điều tiết vĩ mô của NHNN
Lãi suất là một trong những công cụ của chính sách tiền tệ, tác dụng của nó được thể
hiện:

- Trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát, NHNN có thể tăng lãi suất tiền gửi để rút
bớt tiền từ lưu thông về làm giảm tỷ lệ lạm phát, tạo điều kiện để sức mua ổn định,
đảm bảo cho sản suất và lưu thông hàng hóa phát triển. Ngược lại, khi nền kinh tế
-

suy thoái, NHNN thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ giảm lãi suất xuống.
Thông qua lãi suất tái chiết khấu để điều chỉnh khối lượng cho vay đối với các
NHTM, nghĩa là điều chỉnh khối lượng cung ứng tiền vào lưu thông. Từ đó mở rộng
hay thu hẹp sản suất, tăng hay giảm công ăn việc làm.

11

GVHD:


-

Tăng hay giảm lãi suất tín dụng, sẽ ảnh hưởng đến tăng hay giảm cung, cầu ngoại tệ
trong nước. Vì vậy ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu ngoại tệ, dẫn đến sự thay đổi tỷ
giá do đó ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu hàng hóa trong từng thời kỳ.
Khả năng điều tiết kinh tế vĩ mô đã làm cho lãi suất trở thành công cụ quan trọng để

thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường cũng như thị
trường tài chính chưa phát triển, lãi suất được sử dụng làm một công cụ trực tiếp để tác
động tới các mục tiêu trung gian và qua đó tới mục tiêu cuối cùng. Trong điều kiện thị
trường tài chính phát triển, NHNN sử dụng công cụ lãi suất gián tiếp như lãi suất tái chiết
khấu, lãi suất cho vay cầm cố để tác động gián tiếp tới lãi suất thị trường.
2.1.4.2 Lãi suất ảnh hưởng rất lớn tới huy động tiết kiệm
Thông thường khi có một khoản tiền tiết kiệm, dân chúng thường nghĩ đến việc sinh
lời trên khoản tiền đó như: đầu tư chứng khoán, bất động sản, mua vàng, gửi tiền vào tài

khoản ở ngân hàng và các TCTD khác v.v…một trong những hình thức đầu tư an toán rất
cao là gửi tiết kiệm ngân hàng. Lãi suất cao khuyến khích người ta hy sinh tiêu dùng hiện
tại, tiết kiệm nhiều hơn để có được khoản tiêu dùng cao hơn trong tương lai và ngược lại.
Trong nền kinh tế có thị trường tài chính phát triển mạnh, các khoản tiết kiệm được thu hút
triệt để qua các kênh tài chính trực tiếp và gián tiếp để tạo nên quỹ cho vay đáp ứng nhu cầu
vốn của nền kinh tế.
2.1.4.3 Lãi suất là công cụ phân phối vốn, kích thích sử dụng vốn có hiệu quả và điều chỉnh
các hoạt động đầu tư
Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất tín dụng được coi là công cụ quan trọng để
phân phối vốn hợp lý và phù hợp với đường lối phát triển kinh tế từng thời kỳ. Chính sách
lãi suất, nếu tạo ra được mức lãi suất cho vay thấp hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân sẽ có tác
dụng thúc đẩy các doanh nghiệp tăng nhu cầu đầu tư, mở rộng sản suất, đổi mới thiết bị,
trang bị công nghệ sản xuất hiện đại bằng nguồn vốn vay ngân hàng. Hiệu quả cuối cùng
làm tổng thu nhập quốc dân tăng lên. Mặt khác, lãi suất là căn cứ để các chủ thể kinh tế lựa
chọn cơ hội đầu tư. Doanh nghiệp chỉ kinh doanh khi tỷ suất lợi nhuận cao hơn lãi suất tín
dụng. Cá nhân chỉ gửi tiết kiệm khi lãi suất đem lại cao hơn món đầu tư khác và cao hơn tỷ
lệ lạm phát. Như vậy, lãi suất tín dụng làm thay đổi tỷ lệ giữa tích lũy và tiêu dùng của
doanh nghiệp và các nhân, đồng nghĩa với việc là họ mở rộng hay thu hẹp đầu tư.
2.1.4.4 Lãi suất là công cụ đo lường “tình trạng sức khỏe” của nền kinh tế
12

GVHD:


Mỗi một sự biến động, dù là nhỏ nhất của lãi suất cũng ảnh hưởng đến hoạt động của
mỗi cá nhân, tổ chức và của cả nền kinh tế. Ở các nước kinh tế phát triển, giá chứng khoán
và lãi suất được yết giá hàng ngày. Người ta có thể căn cứ vào sự biến động của lãi suất để
dự báo các yếu tố khác của nền kinh tế như: tính sinh lời của các cơ hội đầu tư, mức lạm
phát dự tính, mức thiếu hụt ngân sách. Các yếu tố này hợp thành chỉ tiêu “ sức khỏe” của
nền kinh tế. Người ta có thể dựa vào lãi suất trong một thời kỳ để dự báo tình hình kinh tế

trong tương lai. Trên cơ sở đó các doanh nghiệp lập kế hoạch chi tiêu trong tương lai của
họ, trong khi đó ngân hàng và các nhà đầu tư cần dự báo lãi suất để quyết định xem chọn
mua tài sản nào.
2.2 Cơ chế lãi suất của NHNN
2.2.1. Khái niệm cơ chế lãi suất
Để nghiên cứu cơ chế điều hàn lãi suất, trước hết chúng ta tìm hiểu về chính sách lãi
suất.
Chính sách lãi suất là một phần trong tổng thể hện thống chính sách quản lý kinh tế
vĩ mô của Nhà nước nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế – xã hội trong từng thời kì nhất
định. Ở mỗi giai đoạn phát triển của nền kinh tế, từng chính sách quản lý kinh tế vĩ mô đều
phải có mục tiêu của mình. Mục tiêu của chính sách lãi suất là đạt được các mức lãi suất
hợp lý làm cơ sở để nền kinh tế phát triển hài hòa vững chắc. Mục tiêu của chính sách lãi
suất không cố định mà thay đổi cùng sự biến đổi của các điều kiện kinh tế xã hội. Như vậy
chính sách lãi suất là chủ trương kế hoạch thực hiên nhằm đạt được các mức lãi suất hợp lý
tạo nên sự phát triển hài hòa, vững chắc cho kinh tế.
Để thực hiện chính sách lãi suất thì các nhà điều hành lãi suất phải đề ra các biện
pháp thực hiện cụ thể . Những biện pháp này tạo nên cơ chế điều hành lãi suất trong nền
kinh tế theo mục tiêu của chính sách lãi suất , đòng thời chúng thể hiện mối tương quan
giữa các chủ thể, khách thể trong việc điều hành, thực thi lãi suất. Đó chính là cơ chế lãi
suất hay nói đầy đủ hơn là cơ chế điều hành lãi suất. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là
tổng thể những chủ trương chính sáh và giải pháp cụ thể của NHNN , nhằm kiểm soát và
điều tiết lãi suất trên TTTT trong từng thời kỳ nhất định .
Cơ chế lãi suất thường xuyên thay đổi theo từng thời kỳ . Nó là một trong những
công ụ chính của CSTT .Tùy thuộc vào mục tiêu của CSTT mà NHNN áp dụng cơ chế điều

13

GVHD:



hành lãi suất phù hợp , nhằm ổn định và phát triển TTTT, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
đông ngân hàng và sự phân bố có hiệu quả các nguồn vốn trong nền kinh tế.
2.2.2 Mục tiêu của cơ chế lãi suất
Cơ chế lãi suất mà theo đó cơ cấu lãi suất định hình và tác động tới môi trường hoạt
động, phát triển của hệ thống tài chính mỗi quốc gia với 3 mục tiêu chính:
Một là, ổn định thị trường tài chính tiền tệ, kiềm chế lạm phát.
Hai là, khuyến khích việc tiết kiệm và sự phát triển của các trung gian tài chính, phát
triển chiều sâu thị trường tài chính , hướng các nguồn lực tài chính vào các lĩnh vực hoạt
động có tỷ suất lợi tức các lĩnh vực có hiệu quả kinh tế cao nhất .
Ba là, mang lại mức chênh lệch đủ để các định chế tài chính trang trải các chi phí
hoạt động, chi phí vốn, chi phí chấp nhận rủi ro và lợi nhuận trên vốn tự có.
2.3 Điều hành lãi suất của NHNN
2.3.1 Điều hành trực tiếp
Thông qua các hình thức quản lý lãi suất của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh
tế, như quy định các mức lãi suất cụ thể về tiền gửi, cho vay, khung lãi suất, trần lãi suất
cho vay, biên độ chênh lệch lãi suất bình quân ....Thực chất là NHNN quy định mức lãi suất
cho vay tối đa hoặ tiền gửi tối thiểu của các TCTD đối với nền kinh tế. Trong phạm vi lãi
suất được phép, các TCTD được quyền ấn định mức lãi suất kinh doanh phù hợp. Khi có
các thay đổi về kinh tế vĩ mô, NHNN có thể xem xét điều chỉnh giới hạn lãi suất tối đa ở
mức hợp lý.
Ưu điểm của các hình thức điều hành này là NHNN dễ dàng quản lý hệ thống nhất
NHTW

Lãi suất thị trường

lãi suất đối với nền kinh tế, vì vậy cơ chế lãi suất này chỉ thích hợp và được áp dụng phổ
biến ở các nước có hệ thống tài chính chưa phát triển.
Nhược điểm của việc điều hành này là kiểm soát lãi suất tỏ ra kém hiệu quả do dễ bị
các TCTD lẩn tránh, khả năng cạnh tranh thấp, dẫn đến suy giảm chức năng tài chính cuả
hệ thống ngân hàng. Nguồn tiết kiệm và tích lũy sẽ chảy ra thị trường tài chính phi tổ chức

và không bị quản lý chúng biểu hiện dưới dạng cho vay qua thị trường không chính thức.
Việc kiểm soát lãi suất sẽ giảm hiệu quả của việc kiểm soát tiền tệ, bởi vì sự gia tăng và mở
rộng của các thị trường ngoài tầm kiểm soát. Các NHTM cố gắng tìm cách tránh sự kiểm
soát của NHNN bằng cách tạo ra các sản phẩm mới hoặc các kỹ thuật tài trợ mà nằm ngoài
tầm kiểm soát hoặc phạm vi quy định trần lãi suất.
14

GVHD:


Trong các nền kinh tế phát triển, lãi suất ngày càng được tự do hóa, xu hướng chung
là ngày càng giảm dần sự điều hành lãi suất mang tính trực tiếp.
2.3.2. Điều hành gián tiếp
Thông qua cơ chế tái cấp vốn (chiết khấu, tái triết khấu, cho vay cầm cố chứng từ có
giá …) của NHNN đối với các TCTD, NHNN thực hiện quản lý gián tiếp lãi suất cho vay
của các NHTM đối với nền kinh tế.
Hình thức điều hành gián tiếp này được thực hiện theo 2 nguyên tắc: NHNN chỉ
công bố các mức lãi suất áp dụng đối với các khoản cho vay tái triết khấu hoặc cho vay cầm
cố các chứng từ có giá của mình đối với các TCTD. Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ
thể theo từng kỳ hạn, từng đối tượng của các TCTD đối với nền kinh tế do TCTD tự ấn
định, dựa trên cơ sở cung – cầu về vốn và có sự cạnh tranh trên thị trường, từ đó mà hình
thành nên các mức lãi suất phản ánh đúng yêu cầu của thị trường. Khi muốn điều chỉnh lãi
suất kinh doanh của các TCTD đối với nên kinh tế, phù hợp với các mục tiêu của CSTT
từng giai đoạn, NHTƯ thực hiện thông qua điều chỉnh lãi suất tái triết khấu của mình đối
với các TCTD, từ đó tác động đến lãi suất kinh doanh của các TCTD đối với các chủ thể
trong nền kinh tế.

NHNN

Công cụ gián tiếp


lãi suất TTLNH

Lãi suất thị trường

Hình thức điều hành lãi suất này được áp dụng phổ biến đối với các nền kinh tế có hệ
thống tài chính phát triển. Việc điều hành lãi suất cũng trở nên linh hoạt hơn khi bên cạnh
các loại lãi suất trên, NHNN chấp nhận lãi suất do thị trường hình thành và tác động vào lãi
suất này để duy trì ở mức mong muốn như lãi suất Repo của ngân hàng Anh, ngân hàng
Liên Bang Đức, NHNN Châu Âu; lãi suất tiền gửi liên bang của cục dự trữ liên bang Mỹ …
Ưu điểm của điều hành lãi suất gián tiếp là không có sự can thiệp trực tiếp của
NHNN vào lãi suất TTTT, lãi suất trên thị trường được hình thành và vận động linh hoạt
hoàn toàn phụ thuộc vào cung cầu về vốn, mà không mang tính chủ quan, áp đặt của Nhà
nước. Vai trò điều hành lãi suất của NHNN chỉ mang tính định hướng cho TTTT theo mục
tiêu của CSTT từng giai đoạn.

15

GVHD:


Tuy vậy nó cũng tồn tại nhược điểm, đó là khi thực hiện cơ chế này, các tác động
gián tiếp có lúc có hiệu quả thấp, thời gian ảnh hưởng chậm hơn là việc điều hành trực tiếp,
nhất là đối với các nền kinh tế có hệ thống tài chính chưa phát triển.
2.3.3 Cơ chế truyền dẫn tác động của điều hành lãi suất của NHNN
Việc điều hành lãi suất có thể được NHNN sử dụng nhằm tác động trực tiếp hoặc
gián tiếp tới mức cung cầu tiền đề đạt được các mục tiêu đề ra .
2.3.3.1 Tác động trực tiếp: là tác động thông qua công cụ lãi suất tiền gửi và lãi suất cho
vay
- Ấn định lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay : nếu lãi suất tiền gửi qui định cao, sẽ

thu hút được nhiều tiền gửi, làm gia tăng nguồn vốn cho vay, giảm tỷ lệ lạm phát. Nếu lãi
suất tiền gửi thấp, sẽ làm giảm tiền gửi, giảm khả năng mở rộng tín dụng. Nếu lãi suất cho
vay quy định thấp, các doanh nghiệp có cơ hội vay được nhiều vốn cho sản xuất kinh doanh
và ngược lại nhược điểm của biện pháp điều tiết này là làm cho các NHTM mất đi tính linh
hoạt và quyền tự chủ trong kinh doanh, nó dễ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn trong ngân
hàng nhưng lại thiếu vốn đầu tư hoặc khuyến khích dân cư dùng tiền vào dự trữ ngoại tệ,
bất động sản trong khi ngân hàng hụt hẫng về tiền măt cũng như nguồn vốn cho vay.
- Ấn định khung lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay: NHNN có thể ấn định khung lãi
suất được nhiều hình thức như lãi suất sàn, lãi suất trần và mức chênh lệch giữa lãi suất cho
vay bình quân với mức lãi suất tiền gửi bình quân, lãi suất trần, lãi suất cơ bản ….và bắt
buộc các NHTM phải xây dựng biểu lãi suất kinh doanh nằm trong khung lãi suất. Biện
pháp điều tiết này có ưu điểm là các NHTM được phép xây dựng mức lãi suất linh hoạt hơn
và bước đầu có quyền tự chủ quy định mức lãi suất kinh doanh. Đồng thời giúp cho các
NHTM lựa chọn dự án kinh tế tối ưu để cho vay, loại bỏ những dự án kém hiệu quả. Nhìn
chung việc ấn định khung lãi suất tiền gửi và cho vay ngày càng ít được áp dụng ở các nước
cơ chế thị trường. Bởi vì trong cơ chế thị trường, lãi suất rất nhạy cảm với vốn đầu tư, nó
phải được vận dụng theo quan hệ cung cầu vốn trên thị trường.
2.3.3.2 Tác đông gián tiếp: là tác đông thông qua công cụ lãi suất tái triết khấu, tái cấp
vốn.
Lãi suất tái cấp vốn: lãi suất được sử dụng trong trường hợp NHNN cung ứng vốn
ngắn hạn và các phương tiện thanh toán cho các ngân hàng.

16

GVHD:


Lãi suất tái chiết khấu: là lãi suất cho vay ngắn hạn cuả NHNN đối với các NHTM
và tổ chức tín dụng dưới hình thức tái chiết khấu các chứng từ có giá chưa đến thời hạn
thanh toán.

Với việc ấn định lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu, NHNN có thể tác động điều
chỉnh lãi suất trên TTLNH từ đó ảnh hưởng đến khả năng vay của NHTM và do đó làm cho
cung cầu tiền tệ tăng lên hay giảm đi. Khi các mức lãi suất này tăng lên, các NHTM sẽ bất
lợi trong việc vay vốn của NHTW. Trong điều kiện đó, các NHTM không có khả năng mở
rộng tín dụng. Ngược lại , lãi suất này giảm, các NHTM có khả năng mở rộng cho vay đối
với khách hàng. Do đó, sự thay đổi lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu được coi như dấu hiệu
của định hướng chính sách tiền tệ của NHNN.
2.4. Những nghiên cứu có liên quan
Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản-giải pháp phù hợp với nền kinh tế nước ta hiện nay
TS. Nguyễn Ngọc Bảo – Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ – Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam.
Rủi ro trong quá trình tự do hóa thị trường tài chính và trình tự cải cách: Kinh
nghiệm quốc tế và các bài học cho Việt Nam. Chủ nhiệm đề tài: ThS. Trịnh Quang Long,
Nghiên cứu viên ban Nghiên cứu Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Lãi suất là giá cả của vốn tín dụng nên nó được xác định trên cơ sở quan hệ cung cầu
vốn vay trên TTTT. Đồng thời, lãi suất cũng chịu tác động bởi quan hệ cung cầu tiền tệ.
Các thay đổi của lãi suất thực ảnh hưởng đến quyết định tiêu dùng của từng cá nhân vá các
quyết định đầu tư của doanh nghiệp. Câu hỏi cụ thể mà doanh nghiệp gặp phải là “với lãi
suất như hiện nay thì có nên vay ngân hàng để mua dây chuyền sản xuất không?”. Do đó,
điều hành lãi suất ổn định là điều kiện là điều kiện quan trọng để kích thích đầu tư cho tăng
trưởng kinh tế. Mọi sự điều tiết cắt giảm lượng cung tiền hoặc bơm thêm tiền vào lưu thông
của NHTƯ sẽ tác động đến lãi suất trên TTTT.
Cơ chế của NHNN có thể được thực hiện theo hai hướng đo là can thiệp trực tiếp
hoặc tự do hóa lãi suất. Tuy vậy, trong mọi trường hợp, NHNN vẫn có những can thiệp cần
thiết khi lãi suất trên TTTT biến động mạnh, nhằm quản lý nền kinh tế theo mục tiêu tăng
trưởng ổn định. Cơ chế lãi suất thấp luôn là động lực quan trọng kích thích nền kinh tế hồi
phục sau giai đoạn suy thoái.
17


GVHD:


CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC TRONG
THỜI GIAN QUA
3.1 Khái quát tình hình kinh tế Việt Nam trong thời gian vừa qua.
3.1.1. Tình hình Việt Nam năm 2007
Nền kinh tế Việt nam trong năm 2007 có sự tăng trưởng toàn diện hầu hết các lĩnh
vực . Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2007 đạt 8,48% là mức cao nhất trong
vòng 10 năm qua. Khối lượng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2007 theo giá thực tế
đạt 461,9 nghìn tỉ đồng, bằng 40,4% GDP (đạt kế hoạch đề ra) và tăng 15,8% so với năm
2006 .
Giá trị sản xuất của khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản năm 2007 theo giá so sánh
năm 1994 đạt gần 200 nghìn tỉ đồng, tăng 4,6% so với năm 2006, trong đó nông nghiệp
tăng 2,9%; lâm nghiệp tăng 1% và thủy sản tăng 11%.
Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2007 tăng 17,1% so với năm 2006. Giá trị hàng
hóa xuất khẩu năm 2007 gần 48,4 tỉ USD, tăng 21,5% so với năm 2006, trong đó tất cả các
mặt hàng chủ yếu đều tăng.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tực tăng khá đạt 20,3 tỉ USD , tăng 69,3% so
với năm 2006 và vượt 56,3% kế hoạch cả năm, trong đó nguồn vốn cấp phép mới là 17,86 tỉ
USD.
Giá trị hàng hóa xuất khẩu năm 2007 đạt gần 48,4 tỉ USD, tăng 21,5 % so với năm
2006, trong đó tất cả cá mặt hàng chủ yếu đều tăng. Giá trị hàng hóa nhập khâu năm 2007
đạt 60,8 tỉ USD, tăng 35,5% so với năm trước. Vì thế, nhập siêu trong năm ở mức 12,4 tỉ
USD, bằng 25,7% giá trị xuất khẩu hàng hóa và gấp gần 2,5 lần mức nhập siêu của năm
trước.
Tuy còn một số tồn tại về vấn đề nhập siêu, giá cả hàng hóa tăng cao lạm phát ở mức
12,63% song nên kinh tế Việt Nam đã vượt qua nhiều khó khăn thách thức. Quan hệ tương
tác giữa cải cách trong nước, đặc biệt là cải cách thể chế kinh tế, với tiến trình hội nhập, gia

nhập WTO đã trở nên chặt chẽ hơn. Vị thế trên trường quốc tế của Việt Nam năm 2007

18

GVHD:


được nâng cao đáng kể, niềm tin vào tiềm năng phát triển và tiến trình cải cách kinh tế của
Việt Nam ngày càng được củng c .
3.1.2 Tình hình kinh tế Việt Nam năm 2008
Kinh tế Việt Nam năm 2008 sẽ đi vào lịch sử như 1 năm có nhiều biến động gay go
nhưng cuối cùng đã “hạ cánh mềm”.
Tổng sản phẩm trong nước tăng 6,23% so với năm 2007, trong đó khu vực nông lâm
thủy sản tăng 3,79%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,33%; khu vực dịch vụ tăng
7,2%.
Giá trị sản xuất nông lâm thủy sản năm 2008 tăng 5,6% so với năm 2007, bao gồm
giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 5,4% lâm nghiệp tăng 2,2% thủy sản tăng 6,7%.
Tuy gặp nhiều khó khăn do giá cả đầu vào tăng nhanh, đặc biệt giá đầu vào không ổn
định, giá trị sản xuất công nghiệp năm 2008 vẫn tăng 14,6% so với năm 2007, bao gồm khu
vực kinh tế nhằ nước tăng 45 khu vực kinh tế ngoài nhà nước tăng 18,8% khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài tăng 18,6%, trong đó dầu khí giảm 4,3%.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục tăng cao, cả nước đã thu hút được 64 tỷ USD
vốn đăng ký, gấp gần 3 lần năm 2007.
Cán cân thương mại được cải thiện vào những tháng cuối năm. Kim ngạch hàng hóa
xuất khẩu năm 2008 đạt 62,9 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007. Kim ngạch hàng hóa
nhập khẩu năm 2008 đạt 80,4 tỉ USD tăng 28,3% so với năm 2007. Tổng nhập siêu năm
2008 là 17,5 tỉ USD, bằng 27,8% trị giá xuất khẩu.
Nhờ xác định rõ các nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến tình trạng lạm
phát liên tục tăng cao trong mấy tháng đầu năm 2008. Đảng và Chính phủ đã điều chỉnh cơ
chế lãi suất tỷ giá tiết kiệm chi tiêu ngân sách, sắp xếp lại kế hoạch đầu tư, cắt giảm các dự

án kém hiệu quả; điều chỉnh thuế quan, khuyến khích xuất khẩu và tăng cường qurn lý nhập
khẩu giảm nhập siêu; chỉ đạo thực hiện nhiều biện pháp giảm chi phí sản xuất chống đầu cơ
tăng cường quản lý thị trường giá cả tiếp tục thực hiện các biện pháp hộ trợ để đẩy mạnh
sản xuất kinh doanh cân đối cung cầu… Nhờ vậy, tình hình thị trường đang từng bước ổn
định trở lại, lạm phát kiềm chế ở mức 19,89% thấp hơn nhiều so với dự kiến.
3.1.3 Tình hình kinh tế Việt Nam năm 2009
Năm 2009, trước tình hình khủng hoảng tài chính suy thoái kinh tế thế giới Việt Nam
đã chuyển sang mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế và giữ ổn định kinh tế vĩ mô. Kinh tế
19

GVHD:


Việt Nam năm 2009 bên cạnh những điểm sáng thể hiện thành tựu đạt được vẫn còn bộc lộ
nhiều hạn chế và thách thức.
Tổng sản phẩm trong nước GDP cả năm tăng 5,2% vượt chỉ tiêu Quốc hội đề ra là
5% bao gồm: khu vực nông lâm thủy sản tăng 1,83% khu vực công nghiệp và xây dựng
tăng 5,52%; khu vực dịch vự tăng 6.63%. Tuy tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp trong vòng 10
năm gần đây, nhưng Việt Nam vẫn được thế giới đánh giá là 1 trong những nước có tốc độ
tăng trưởng cao trong khu vực Châu Á (sau Trung Quốc).
Tổng chi ngân sách nhà nước cả năm đạt 104% dự đoán cả năm, trong đó chi đầu tư
phát triển tăng 8%; chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội quốc phòng an ninh; quản lý
nhà nước, Đảng, đoàn thể tăng 5%, chi trả nợ và viện trợ tăng 3%.
Giá cả ổn định nhưng sức mua tăng chậm. Tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ năm
2009 tăng 18%. Tốc độ này thấp hơn các năm trước, trong đó kinh doanh thương nghiệp
tăng 19,1% khách sạn nhà hàng tăng 18,8%, dịch vụ tăng 20,2% và du lịch tăng 1,3% so với
năm 2008. Thị trường trầm lẵng và sưc mua tăng chậm, nhất là khu vực nông thôn. Lạm
phát giảm sơ với năm 2008 chỉ còn 6,88%.
Nhập siêu cả năm là 12 tỉ USD, giảm 33% so với năm 2008 (18 tỉ USD), nguyên
nhân giảm nhập siêu, một mặt do lượng hàng hóa nhập khẩu giảm hoặc tăng chậm; mặt

khác chủ yếu do giá giả. Tỷ lệ nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu cả năm là 16,39%
(năm 2008 là 29%) . Tính bền vững của thị trường xuất nhập khẩu năm 2009 vẫn chưa được
ổn định, nhập khẩu giảm mạnh nhưng mức nhập siêu cẫn cao là điều đáng nghĩ.
Tóm lại, kinh tế nước ta năm 2009 về cơ bản đã phục hồi và tăng trưởng hợp lý, nhất
là nhứng tháng cuối năm. Trong bối cảnh tác động tiêu cực của khung hoảng và suy thoái
kinh tế toàn cầu, những kết quả đạt được là rất đáng ghi nhận. Tình hình kinh tế Việt Nam
năm 2009.
3.1.4 Tình hình kinh tế Việt Nam năm 2010
Năm 2010, kinh tế của Việt Nam tiếp tục có sự phục hồi nhanh chóng sau tác động
của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Hình 1 cho thấy có cải thiện tốc độ tăng GDP theo các
quý trong năm 2010. Tốc độ tăng GDP quý I đạt 5,83%, quý II là 6,4%, quý III tăng lên
7,14% và dự đoán quý IV sẽ đạt 7,41%. Uớc tính GDP cả năm 2010 có thể tăng 6,7%, cao
hơn nhiệm vụ kế hoạch (6,5%). Trong bối cảnh kinh tế thế giới vẫn phục hồi chậm chạp và
trong nước gặp phải nhiều khó khăn, kinh tế Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng tương
20

GVHD:


đối cao như trên là một thành công. Với kết quả này tốc độ tăng trưởng GDP cả giai đoạn
2006-2010 đạt bình quân 7%/năm và thu nhập quốc dân bình quân đầu người năm 2010
ước đạt 1.160 USD.
Các chỉ số tăng trưởng cho các ngành cũng thể hiện một xu hướng phục hồi rõ rệt.
Công nghiệp tiếp tục là đầu tàu của tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Giá trị sản xuất công
nghiệp 9 tháng đầu năm tăng 13,8% so với cùng kỳ năm 2009 và năm 2010 ước tăng 14%
so với năm 2009. So với khu vực công nghiệp thì khu vực dịch vụ cũng có sự phục hồi sau
khủng hoảng kinh tế thế giới những ở mức độ thấp hơn. Tốc độ tăng trưởng trong 9 tháng
đầu năm là 7,24% và triển vọng tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ cả năm 2010 có thể đạt
7,5%. Đối với lĩnh vực nông nghiệp, năm 2010 gặp nhiều khó khăn: đầu năm hạn hán
nghiêm trọng, giữa năm nắng nóng gay gắt, cuối năm mưa lũ lớn kéo dài ở miền Trung và

Tây Nguyên. Những khó khăn này đã gây thiệt hại nặng nề cho sản xuất vụ mùa, nuôi trồng
thuỷ sản và chăn nuôi. Tuy nhiên, do thực hiện nhiều chính sách và giải pháp hỗ trợ hộ
nông dân và các doanh nghiệp về vốn, vật tư, tiêu thụ kịp thời, giá trị sản xuất nông, lâm
nghiệp và thuỷ sản 9 tháng đầu năm đã tăng 2,89% so với cùng kỳ năm 2009, và ước cả
năm 2010 tăng khoảng 2,8%.
3.2. Thực trang cơ chế lãi suất của NHNN Việt Namtừ năm 2007 đến nay
3.2.1 Cơ chế lãi suất thỏa thuận từ năm 2002 đến tháng 5-2008
Từ tháng 6-2002, NHNN đã thực hiện tự do hóa lãi suất theo đó các NHTM có thể
chủ động hơn trong việc giải quyết lãi suất huy động và cho vay của mình. NHNN vẫn đưa
ra các mức lãi suất chủ đạo cùng với lãi suất tiền gửi DTBB và các nghiệp vụ thị trường
mở, mua bán ngoại tệ để tác động tới sự thay đổi lãi suất huy động và cho vay của các
NHTM.
Việc ban hành cơ chế lãi suất thỏa thuận đã chứng tỏ chính sách quản lý lãi suất của
NHNN ngày càng cởi mở hơn, hạn chế dần và đi tới xóa bỏ việc điều hành lãi suất của nền
kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính, tiến dần tới tự do hóa theo nguyên tắc thị trường.
Việc “nới lỏng” này đã tạo khả năng cho thị trường tài chính phát triển theo chiều
sâu. Đồng thời sự thay đổi của chính sách lãi suất là phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô,
nhưng cũng yêu cầu phát triển nền kinh tế, tiền tệ hóa các mối qun hệ kinh tế và hình thành
các nhân tố kinh tế thị trường đã buộc chính sách lãi suất phải có sự “ nới lỏng ” để chuyển
dần sang cơ chế lãi suất thỏa thuận nhằm tạo điều kiện cho sự huy động tối đa nguồn lực
21

GVHD:


trong nước phục vụ cho đầu tư phát triển đồng bộ với tổng thể chính sách kinh tế - tài
chính-đối ngoại.
Việc “nới lỏng ” cơ chế lãi suất, làm cho lãi suất tự điều chỉnh linh hoạt và phù hợp
hơn với quan hệ cung – cầu vốn thị trường, luồng vốn được lưu chuyển đến nơi có lợi
nhuận cao với mức rủi ro thấp, nâng cao hiệu quả đầu tư thúc đẩy việc các NHTM phát

triển nhanh chóng mạng lưới chi nhánh ở thành thị, nông thôn, đưa ra các mức lãi suất, sản
phẩm dịch vụ cho các khách hàng.
3.2.2 Cơ chế lãi suất cơ bản từ 5/2008
Sau nhiều năm liên tục đạt mức tăng trưởng kinh tế cao từ 7% - 8% năm 2007 đạt
8,4%, nhưng chỉ số giá tiêu dùng đã tăng 2 chữ số 12,63% do nới lỏng CSTT, chính sách tài
khóa và đầu tư công kém hiệu quả. Bước sang năm 2008, nền kinh tế Việt Nam không phải
đối mặt với những diến biến khó lường của nền kinh tế thế giới, mà còn phải đối mặt với
nhiều khó khăn nội tại như lạm phát tăng mạnh, thâm hụt cán cân thương mại cũng đạt mức
kỷ lục (hơn 14% GDP), thị trường chứng khoán liên tục sụt giảm. Trước bối cảnh trên, để
giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, tạo nền tảng tăng trưởng bền vững. Chính phủ đã điều
chỉnh mục tiêu tăng trương cao sang mục tiêu kiềm chế lạm phát là ưu tiên hàng đầu và tăng
trưởng duy trì ở mức đọ hợp lý. Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, NHNN đã chủ động triển
khai đồng bộ các giải pháp nhằm kiềm chế có hiệu quả lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.
Khi các tác động bằng lãi suất chủ đạo không có hiệu quả ngày 27/02/2008 NHNN đã quy
định trực tiếp mức lãi suất trần huy động là 12%. Như vậy, sau 6 năm áp dụng chính sách
lãi suất thỏa thuận hay cơ chế điều hành gián tiếp đến nay NHNN lại áp dụng biện pháp
kiểm soát trực tiếp khi mà các công cụ gián tiếp không thực sự có hiệu quả.
Việc duy trì mức lãi suất trần 12% kéo dài trong gần 3 tháng (từ 27/02/2008 đến
19/5/2008) với mục đích hạn chế cuộc chạy đua lãi suất của các NHTM. Việc quy định lãi
suất trần như vậy đã làm chấm dức ngay các cuộc đua lãi suất, tạo sự ổn định cho lãi suất
tiền gửi của các cá nhân và tổ chức kinh doanh, không còn hình ảnh người dân chạy xô rút
tiền từ ngân hàng có lãi suất huy động thấp sang ngân hàng có lãi suất huy độn cao hơn. Dù
vậy, lạm phát vẫn cao hơn mức lãi suất mà các ngân hàng huy động nên người gửi tiền vẫn
phải chịu lãi suất thực âm, nếu vẫn tiếp tục sẽ khó kiềm chế lạm phát.
Vào ngày 15/05/2008, NHNN ra quyết định số 6/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều
hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam, NHNH sử dụng các công cụ điều tiết là các lãi
22

GVHD:



suất chủ chốt như lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, quyết định có
hiệu lực từ ngày 19/05/2008. Theo cơ chế này, các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh bao
gồm lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay bằng VNĐ theo nguyên tắc lãi suất kinh
doanh không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố áp dụng cho từng thời
kỳ. Điều này phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 476 Bộ luật Dân sự năm 2005, lãi suất
vay trong các hợp đồng vay tài sản, bao gồm cả các hợp đồng tín dụng do các bên thỏa
thuận nhưng không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại cho
vay tương ứng. Định kỳ hàng tháng, NHNN sẽ công bố lãi suất cơ bản. Như vậy tại thời
điểm 19/05/2008, lãi suất cho vay của các NHTM không được vượt quá 18%/năm.
Trong thời gian này, thanh toán của các NHTM gặp nhiều khó khăn. Về mặt nguyên
tắc tất cả các NHTM phải đảm bảo duy trì DTBB bình quân. Tuy nhiên, trong một số thời
điểm tại một số NHTM cổ phần, mức này không được duy trì và phải bù đắp vào những
ngày cuối tháng, diễn biến này càng làm tăng thêm nhu cầu vốn trên thị trường liên ngân
hàng. Từ đó làm cho lãi suất trên thị trường liên ngân hàng liên tục tăng nhanh và tăng cao.
Trước tình hình này, thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 1849/QĐ-NHNN. Theo
đó, từ ngày 19/8/2008, các tổ chức tín dụng trên thị trường liên ngân hàng không vượt quá
150% của lãi suất cơ bản do NHNN Việt Nam công bố để áp dụng trong từng thời kỳ. Đồng
thời mức lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù
đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù từ được điều chỉnh từ mức 0.03%/ngày (10.8%/năm)
lên 0.0417%/ngày (15%/năm).
Ngay từ khi công bố, cơ chế lãi suất mới đã thể hiện được vai trò, tác dụng rất lớn:
Một là, việc áp dụng kịp thời cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đã ngăn chặn được
nguy cơ xáo trộn TTTT và mất khả năng thanh toán của các NHTM trong những tháng đầu
năm 2008, an toàn hệ thống ngân hàng được đảm bảo, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư,
doanh nghiệp và người dân đối với hệ thống ngân hàng. Khắc phục được tình trạng cạnh
tranh không lành mạnh trong huy động vốn giữa các NHTM bằng cách đẩy lãi suất lên cao.
Cùng với diễn biến lạm phát có xu hướng giảm, kinh tế vĩ mô ổn định và hoạt động của các
NHTM đảm bảo khả năng thanh toán, làm cho TTTT và lãi suất trong những tháng đầu năm
2009 tương đối ổn định.

Hai là, co chế truyền dẫn của các biện pháp điều hành lãi suất đã có hiệu lực và hiệu
quả đối với hoạt đọng kinh doanh của NHTM và lãi suất thị trường, lãi suất huy động và
23

GVHD:


cho vay của các NHTM biến động tăng, giảm theo sẹ tahy đổi của các mức lãi suất điều
hành của NHNN, đã tác động làm thu hẹp hoặc mở rộng tín dụng. Năm 2008 và những
tháng đầu năm 2009, tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng phù hợp với chủ
trương thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng.
Ba là, cơ chế này giúp phát huy vai trò của lãi suất cơ bản, vừa là công cụ điều tiết
thị trường, vừa là động thái phát tisnn hiệu về chủ trương của Chính phủ và giải pháp điều
hành chính sách tiền tệ của NHNN là “thắt chặt” hay “nới lỏng” tiền tệ, đã và đang trở
thành một chỉ số kinh tế quan trọng trên thị trường tài chính, tiền tệ, được các doanh nghiệp,
người dân, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, các NHTM quan tâm, theo dõi, dự báo và có
phản ứng khá nhanh nhạy, tích cực về hoạt động đầu tư, tiết kiệm và tiêu dùng. Kết quả này
có ỹ nghĩa rất quan trọng, thể hiện được vai trò và những tác động tích cực của chính sách
tiền tệ đối với việc kiềm chế lạm phát và điều tiết kinh tế vĩ mô.
Bốn là, cơ chế điều hành lãi suất cơ bản phù hợp với quy định của Luật NHNN và
Bộ luật Dân sự (khoản 1 Điều 476), mục tiêu của chính sách tiền tệ thời kỳ này là kiểm soát
lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức cao và bền vững.
3.2.3 Từng bước thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận
Vượt qua năm 2008 với đầu khó khăn và thách thức, nền kinh tế nước ta về cơ bản
đã ổn định và có dấu hiệu phục hồi. NHNN đã chuyển dần từ chính sách tiền tệ thắt chặt
kiềm chế lạm phát sang nới lỏng thận trọng giúp phục hồi kinh tế. Chính vì vậy cơ chế lãi
suất cũng từng bước có sự thay đổi.
3.2.3.1 Cơ chế lãi suất thỏa thuận đối với cho vay phục vụ nhu cầu đời sống thông qua
nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng
Sang năm 2009, NHNN vẫn duy trì cơ chế lãi suất như trong năm 2008. Đồng thời

NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ theo hướng nới lỏng thận trọng, hỗ trợ thanh khoản,
tạo điều kiện cho các TCTD mở rộng tín dụng hiệu quả.
Ngày 23/01/2009, NHNN ban hành Thông tư số 01/2009/TT-NHNN hướng dẫn về
lãi suất thỏa thuận của TCTD đối với cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, cho vay
thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng. Theo thông tư này tổ chức tín dụng
thực hiện lãi suất thỏa thuận đối với cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, cho vay
thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, TCTD cho vay đối với khách hàng
trên cơ sở cung, cầu vốn thị trường, mứcđộ tín nhiệm của khách hàng vay.
24

GVHD:


NHNN còn tiếp tục ban hành Thông tư hướng dẫn (số 02/2009/TT-NHNN ngày
03/02/2009) và chỉ đạo các tổ chức tín dụng triển khai có chế cho vay hỗ trợ lãi suất theo
Quyết định 131/2009/QĐ-TT ngày 23/01/2009 của Thủ tướng Chính phủ. Theo cơ chế này,
các khoản vay thuộc đối tượng hỗ trợ lãi suất sẽ được ngân sách Nhà nước hỗ trợ 4% lãi
suất vay, đưa mức lãi suất cho vay các đối tượng này xuống còn 4-6%/năm. Với gói hỗ trợ
lãi suất vay vốn tín dụng khoảng 17 nghìn tỷ, NHNN đã tổ chức chỉ đạo triển khai hỗ trợ
4% cho các khoản vay vốn lưu động của các doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh
tế với thời gian hỗ trợ không quá 8thasng và trước 31/12/2009.
Như vậy, sau khi nền kinh tế nước ta bước qua thời kỳ khó khăn nhất, cơ chế lãi suất
đã dần được “mềm hóa”. Thông tư số 01/2009/TT-NHNN được ban hành nhằm thực hiện
Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ về những giải pháp cấp
bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội
và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 627.VPCP-KTTH của Văn phòng Chính
phủ về áp dụng lãi suất cho vay thỏa thuận của các tổ chức tín dụng được. Nó hiểu như là
một bước đệm để quay lại cơ chế lãi suất thỏa thuận sáu năm trước, đồng thời còn là một
hướng đi giúp các NHTM tháo gỡ khó khăn để phát triển các sản phẩm tín dụng tiêu dùng
vốn bị thắt chặt trong suốt thời gian qua.

Tuy nhiên trong vài tháng cuối năm, các NHTM lại bắt đầu tăng lãi suất, một phần là
do khan vốn vì gói hỗ trợ lãi suất được các doanh nghiệp vay nhiều. Thứ hai là do lãi suất
cho vay tiêu dùng được thỏa thuận đẩy lên cao, các NHTM có thể tăng lãi suất huy động để
cạnh tranh nguồn vốn nhàn rỗi. Ngày 02/12/2009, NHNN đã phải ban hành quyết định số
9484NHNN. Theo văn bản này, để tạo sự ổn định mặt bằng lãi suất chung, các NHTM áp
dụng lãi suất huy động VNĐ cao nhất dước 10.5%/năm. Những trường hợp tăng lãi suất
huy động từ mức 10.5%/năm trở lên, phá vỡ mặt bằng huy động trên thị trường, thanh tra
NHNN sẽ tiến hành xem xét toàn diện hoạt động của tổ chức tín dụng đó. Cũng trong thời
gian này, Chính phủ đã ngừng chương trình hỗ trợ lãi suất ngắn hạn vào tháng 12/2009.
3.2.3.2 Cơ chế lãi suất thỏa thuận với khách hàng vay trung, dài hạn đáp ứng nhu cầu kinh
doanh và cơ chế trần đối với lãi suất tiền gửi USD
Thông tư số 03/2010/TT-NHNN ngày 10/02/2010:
Đầu năm 2010, tình trạng thanh khoản của đồng USD trở lên căng thẳng. Thực tế đã
xuất hiện tình trạng đầu cơ găm giữ ngoại tệ, người dân và doanh nghiệp có ngoại tệ chỉ
25

GVHD:


×