Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Phân tích tình hình lãi suất năm 2011 và dự báo tình hình lãi suất trong năm2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.76 KB, 18 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế hiện đại, chính sách tiền tệ của chính phủ sử dụng lãi
suất như một công cụ quan trọng để tác động vào nền kinh tế, kiểm soát lượng tiền
cung ứng. Lãi suất là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa người cho
vay và người đi vay, giữa cung và cầu về tiện tệ, thực trạng kinh tế của một nước.
Thông qua sự biến động của lãi suất người ta có thể dự đoán nền kinh tế đang phát
triển hay suy thoái.
Lãi suất là một trong những vấn đề trung tâm của nền kinh tế vì nó tác động
đến chi phí đầu tư, do đó nó là yếu tố quyết định tổng mức đầu tư và tổng mức cầu
về tiền tệ. Việt Nam trong công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa, những chính
sách lãi suất được Ngân hàng nhà nước sử dụng đã có tác động mạnh mẽ tới việc
huy động vốn và hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngân hàng Thương mại
các doanh nghiệp. Tuy nhiên trong giai đoạn gần đây do ảnh hưởng của lạm phát
và sự biến động của nền kinh tế thế giới mà tình hình lãi suất của Việt Nam biến
động không ngừng. Điều này khiến cho người đi vay cũng như ngân hàng gặp rất
nhiều khó khăn trong việc dự báo tình hình lãi suất trong thời gian tới.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế đó chúng em đã quyết định chọn đề tài: “
Phân tích tình hình lãi suất năm 2011 và dự báo tình hình lãi suất trong năm
2012”. Trong thời gian làm bài chúng em luôn nhận được sự chỉ bảo tận tình của
cô giáo dạy môn Lý thuyết tài chính Lê Thị Thanh – Giảng viên bộ môn Tiền tệ Ngân hàng. Do hiểu biết của chúng em về lĩnh vực Tài chính – Tiền tệ còn có hạn
nên bài tiểu luận không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Kính mong cô giáo góp ý để
chúng em hoàn thành bài tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

1


CHƯƠNG I: CÁI NHÌN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH LÃI SUẤT TRONG
NĂM 2011
I. Tình hình lãi suất của các ngân hàng trong năm 2011
1) Tình hình lãi suất của các ngân hàng trong 6 tháng đầu năm 2011


Trong nửa đầu năm 2011, Ngân hàng nhà nước (NHNN) đã 4 lần nâng lãi
suất tái cấp vốn từ 9 lên đến 14%/ năm, 3 lần nâng lãi suất tái chiết khấu từ 7% lên
13%/năm, 7 lần điều chỉnh lãi suất thị trường mở OMO từ 10% hồi đầu năm lên
khoảng 15% trong 5 tháng nhằm rút bớt lượng tiền trong lưu thông. Đáng chú ý
nhất là quyết định số 11 của Thủ tướng yêu cầu thắt chặt tín dụng và hạn chế cho
vay phi sản xuất BĐS, chứng khoán...có thể nói thị trường ngân hàng trong 6
tháng đầu năm 2011 không giống bất kỳ kịch bản nào của những năm trước đó.
Ngân hàng vừa phải hút vốn vừa phải chọn mặt cho vay, ngân hàng vốn ít thì tìm
mọi cách để thu hút vốn có lúc báo chí đưa tin có ngân hàng nhỏ nâng vốn vượt
trần lên đến 18% một năm vào thời điểm tháng 4, trước đó vào tháng 3 và tháng 4
NHNN đã rút lượng tiền lớn về thông qua thị trường mở (OMO) đã khiến các
ngân nhàng nhỏ gặp khó khăn. Tuy nhiên phần đông ngân hàng có vốn lớn vẫn giữ
ở mức trần theo qui định NHNN là 14% /năm đối VNĐ. Phó Tổng giám đốc của
một ngân hàng hàng TMCP “6 tháng đầu năm nay thị trường rất phức tạp, không
cho phép bất kỳ một lơ là nào cả hai đầu vào và ra”. Mặc dù lãi suất cao nhưng tỷ
trọng tăng huy động thật sự không cao, theo báo cáo tổng hợp kết quả họat động 6
tháng đầu năm 2011 của NHNN.

nguồn : NHNN
2


Trục đứng: Lãi suất huy động

Trục ngang: Kỳ hạn huy động (đơn vị tháng)

So sánh lãi suất huy động trung bình 6 tháng đầu năm 2010 và 2011 (theo kỳ hạn)
Lãi suất cao nhất 6 tháng đầu năm 2010 là 9.11%, trong khi đó cao nhất
năm 2011 so với cùng kỳ là 13,34%. Đáng chú ý là điểm cao nhất của lãi suất điều
rơi vào tháng 5. Lãi suất cao năm 2011 tập trung vào khu vực ngắn hạn, gửi qua

đêm và gửi tuần cũng được nhiều ngân hàng áp dụng, Đáng chú ý là gửi không kỳ
hạn lên đến 12%/ năm. Dưới đây là lãi suất huy động đồng nội tệ của Việt Nam và
các quốc gia khác trong 6 tháng đầu năm 2011.

Nguồn: www.deposits.org
Khi đầu vào cao thì đầu ra chắc chắn không thể thấp cộng thêm xiết chặt tín dụng
khiến các doanh nghiệp gặp vô vàng khó khăn khi tiếp cận vốn theo báo chí lãi
suất cho vay lên đến 21%/năm thậm chí 24%/năm

3


2/ Tình hình lãi suất của các ngân hàng trong 6 tháng cuối năm 2011
Tình hình lãi suất từ đầu năm tới hết quý III đã có chuyển biến rất nhiều và
diễn biến khá phức tạp qua các thời kỳ. Đây là bối cảnh đã được dự báo trước
ngay từ đầu năm 2011. Tuy nhiên, diễn biến thực tế của nó thì vô cùng phức tạp
bởi nó không có một sự thống nhất nào của các ngân hàng trong hệ thống ngân
hàng, và ngay cả các chính sách điều chỉnh lãi suất và chính sách quản lý của
NHNN cũng chưa thể bám sát hay quản lý một cách triệt để được cục diện biến
động lãi suất cho vay và lãi suất huy động của các ngân hàng. Tuy nhiên theo các
chuyên gia kinh tế thì trong bối cảnh từ nay đến cuối năm lãi suất huy động khó có
thể giảm sâu. Lạm phát tăng cao tác động đến xu hướng tăng mạnh của lãi suất
huy động và cho vay trên thị trường. Trước tình hình đó, NHNN đã ban hành
thông tư 02/2011/TT-NHNN quy định mức lãi suất huy động vốn tối đa bằng đồng
Việt Nam không vượt quá 14%/năm, nhằm tránh một cuộc đua lãi suất không lành
mạnh giữa các ngân hàng, gây bất ổn cho hệ thống. Tuy nhiên, với trần lãi suất
14%/năm, cùng với việc tỷ lệ lạm phát so với cùng kỳ đã lên đến 20,82%, lãi suất
huy động và cho vay thực đang ở mức âm. Vì thế, trong thời gian này các ngân
hàng thương mại đã “xé rào” lãi suất huy động cả VND và USD, huy động vốn
với mức lãi suất bình quân khoảng 17-18%/năm, lãi suất cho vay VND bình quân

thực tế khoảng 18,74%/năm, trong đó lãi suất cho vay lĩnh vực phi sản xuất đã lên
đến 22-25%/năm, lãi suất huy động USD với mức 3-3,5%/năm, cao hơn mức quy
định là 2%. Cuộc chạy đua lãi suất giữa các ngân hàng nếu không được ngăn chặn
triệt để sẽ có thể đem lại những hệ lụy lớn cho nền kinh tế và hệ thống ngân hàng,
đây là một áp lực lớn đối với cơ quan điều hành CSTT và hệ thống ngân hàng
trong thời gian tới.

4


Tình hình diễn biến CPI, lãi suất huy động, cho vay (bình quân)
danh nghĩa và thực tế 6 tháng đầu năm 2011
Bước sang tháng 9/2011, đây chính là thời gian mà lãi suất trên thị trường
bắt đầu có những chuyển biến tích cực hơn rất nhiều theo đúng lộ trình lãi suất mà
NHNN đã đưa ra. Ngày 06/10/2011, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) ban
hành quyết định số 2210/QĐ-NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cho vay qua
đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong
thanh toán bù trừ của NHNN VN đối với các ngân hàng. Theo đó, NHNN điều
chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn từ 14%/năm lên 15%/năm; lãi suất cho vay qua đêm
trong thanh toán điện tử liên ngân hàng từ 14%/năm lên 16%/năm áp dụng từ ngày
10/10/2011. Cùng ngày, NHNN ban hành Quyết định số 2209/QĐ-NHNN về việc
giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ của các
TCTD tại NHNN từ 0,1%/năm xuống 0,05%/năm, áp dụng từ kỳ dự trữ bắt buộc
tháng 10/2011; giảm lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ và Kho bạc Nhà nước tại
NHNN từ 0,1%/năm xuống 0,05%/năm, áp dụng từ ngày 10/10/2011. Mục đích
của việc điều chỉnh các mức lãi suất nêu trên chủ yếu để đảm bảo tính hợp lý trong
mối quan hệ giữa các mức lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước và vai trò
Ngân hàng Nhà nước là người cho vay cuối cùng nhằm nâng cao hiệu quả điều
hành chính sách tiền tệ và điều tiết lãi suất thị trường.


II. Phân tích hiệu quả của chính sách lãi suất
5


Chính sách trần lãi suất huy động bước đầu làm giảm lãi suất cho vay vào
thời điểm cuối năm 2011. Mặc dù chính sách trần lãi suất được khởi động từ tháng
03/2011 cùng với sự cam kết và quyết tâm của các nhà lãnh đạo của NHNN và
Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, các quy định về trần lãi suất của NHNN vẫn chưa
chấm dứt hẳn các cuộc chạy đua lãi suất huy động ngầm. Mục đích của các quy
định này nhằm tạo ra sức ép giảm lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp, tuy
nhiên, chính sách này cho đến nay vẫn tỏ ra chưa thật sự hiệu quả. Theo tính toán
của Công ty Stoxplus, lãi suất huy động và cho vay vẫn liên tục tăng, mức lãi suất
cho vay trung bình đã tăng đáng kể từ mức 14,5% vào tháng 03/2010 (khi bắt đầu
thỏa thuận về trần lãi suất giữa NHNN và Hiệp hội Ngân hàng) lên đến mức
18,5% vào tháng 06/2011 và 18,73% vào tháng 08/2011. Theo báo cáo của
NHNN, mức lãi suất cho vay đối với lĩnh vực phi sản xuất bao gồm bất động sản,
chứng khoán hay tiêu dùng còn cao hơn mức lãi suất trung bình từ 3 - 5%. Tuy
nhiên, kể từ khi NHNN có những động thái kiên quyết trong việc thực hiện chính
sách trần lãi suất huy động trong tháng 11 và tháng 12/2011, lãi suất cho vay cũng
đã có những tín hiệu tích cực. Các NHTM lớn đã có những công bố về hạ mức lãi
suất cho vay xuống 17,5% - 18% đối với doanh nghiệp. Chính sách trần lãi suất tỏ
ra không có hiệu lực và khó kiểm soát trong 10 tháng đầu năm, nhưng nhanh
chóng có những chuyển biến tích cực trong các tháng cuối năm. Từ tháng 3/2011,
NHNN đã ban hành Thông tư 03 ngày 03/3/2011 với yêu cầu bắt buộc thực hiện
chính sách trần lãi suất huy động đối với các NHTM. Tuy nhiên, quy định này vẫn
thường xuyên bị xem nhẹ và bị các NHTM tìm cách “lách luật”. Đến tháng
9/2011, đích thân Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình phải công bố các hình
thức xử lý nếu như phát hiện các NHTM vi phạm quy định về trần lãi suất huy
động. Tuy nhiên, một lần nữa, một số NHTM lại tìm được các khe hở trong quy
định về trần lãi suất huy động của NHNN để đối phó với quy định này. Từ đây,

NHNN đã có những xem xét một cách dài hạn trong chính sách quản lý lãi suất,
tránh tình trạng chính sách đi sau thực tế. NHNN cũng đã xây dựng chiến lược tái
cấu trúc hệ thống ngân hàng với các lộ trình cụ thể. Một số NHTM nhỏ đang gặp
6


khó khăn về thanh khoản đã có những động thái tự nguyện và tích cực trong việc
ủng hộ chiến lược tái cấu trúc hệ thống của NHNN. Điển hình là quyết định đầu
tiên về hợp nhất ba ngân hàng: Đệ Nhất (Ficombank), Việt Nam Tín Nghĩa
(TinNghiaBank) và Sài Gòn (SCB) trong tháng 12/2011 đã không làm xáo động
đến hệ thống ngân hàng cũng như tâm lý khách hàng của những ngân hàng này.
Việc giải quyết những khó khăn cơ bản của các NHTM nhỏ là biện pháp hữu hiệu
trong việc kiểm soát lãi suất và góp phần làm cho lãi suất ngân hàng những tháng
cuối năm 2011 trở nên ổn định và giảm dần.Cuộc đua lãi suất huy động đã tạo ra
sự chuyển dịch vốn huy động từ các NHTM lớn sang các NHTM nhỏ.
Thực tế cho thấy, các NHTM lớn như Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Ngân hàng TMCP Công thương, Ngân hàng TMCP Ngoại
thương,... đã có sự giảm sút đáng kể trong nguồn vốn huy động, trong khi đó, các
NHTM nhỏ đã có sự gia tăng mạnh vốn huy động kể từ khi chính sách trần lãi suất
huy động 14% có hiệu lực từ ngày 03/3/2011. Các chuyên gia ngân hàng đều cho
rằng, chính sách trần lãi suất huy động, về cơ bản, là một chính sách có tác động
tích cực nhằm làm giảm chi phí vốn cho cả ngân hàng và doanh nghiệp, tuy nhiên,
chính sách này cũng tạo ra nhiều tác động đến nhiều lĩnh vực. Để đảm bảo sự
thành công của chính sách này, NHNN cần có các biện pháp mạnh và nghiêm
khắc đối với các NHTM nhỏ khi không tuân thủ quy định của NHNN. Đặc biệt,
trong thời gian qua, vấn đề thanh khoản của các ngân hàng đã được cải thiện
đáng kể khi NHNN đã mua khoảng 5 - 7 triệu USD trong những tháng vừa qua và
cung cấp các khoản cho vay tái chiết khấu đối với các NHTM nhỏ nhằm giúp các
ngân hàng này giải quyết vấn đề thanh khoản của mình.
III. Một số hạn chế

Với những nỗ lực tích cực của NHNN trong việc thiết lập và duy trì cơ chế
trần lãi suất huy động, NHNN đã thực sự “mạnh tay” trong việc xử lý các trường
hợp vi phạm quy định về trần lãi suất huy động. Tính đến tháng 10-2011, đã có 3
ngân hàng bị xử lý vì vi phạm quy định về trần lãi suất theo Chỉ thị 02 về việc
chấn chỉnh các quy định về lãi suất tại Thông tư 02 và Thông tư 14. Tuy nhiên,
7


cùng với việc công bố một chiến lược tái cấu trúc hệ thống ngân hàng và kết quả
khả quan bước đầu trong việc tuyên bố hợp nhất các NHTM nhỏ, NHNN Việt
Nam cần tiếp tục có những giải pháp và lộ trình phù hợp trong thời gian tới bằng
việc tiếp tục nhận diện các vấn đề cần giải quyết của hệ thống NHTM Việt Nam.
Thứ nhất, các NHTM nhỏ thực sự gặp khó khăn về thanh khoản và thiếu
hụt vốn. Đặc biệt, với sự hình thành và liên kết của 12 NHTM lớn cùng với
NHNN, một cuộc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng quy mô lớn có thể xảy ra. Các
NHTM nhỏ buộc phải có những liên kết và thỏa ước nhất định với các NHTM lớn.
Số lượng NHTM tăng lên nhanh chóng trong thời gian qua cũng đang được nhiều
chuyên gia đánh giá là chưa phù hợp, chưa tương xứng với năng lực quản trị, chất
lượng nguồn nhân lực...
Thứ hai, khó khăn từ nguồn tín dụng chính thức của các NHTM có thể là
nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ của các hoạt động tín dụng phi chính thức trong
nền kinh tế. Với sự phát triển nóng của nền kinh tế và của thị trường bất động sản
giai đoạn 2004 - 2007, rất nhiều hoạt động tín dụng phi chính thức đã được hình
thành dưới hình thức các cá nhân, tổ chức tự huy động vốn với lãi suất cao để đầu
tư bất động sản. Trong đó, sự liên kết với các khoản tín dụng chính thức không
phải là ít khi các cá nhân, tổ chức này lại lấy chính các bất động sản họ mua được
để thế chấp vay tiền chính thức của ngân hàng. Với sự thắt chặt của chính sách
tiền tệ và sự khan hiếm tiền của các NHTM, dòng tín dụng chính thức bắt đầu bị
chặn lại trong khi thị trường bất động sản vẫn đang tiếp tục đóng băng đã dẫn đến
sự đổ vỡ của các thương vụ vay mượn phi chính thức. Điều này đang làm ảnh

hưởng khôngnhỏ đến tâm lý và lòng tin của người dân và nhà đầu tư đến khả năng
ổn định của nền kinh tế.
Thứ ba, sự căng thẳng về lãi suất trong việc duy trì trần lãi suất có thể làm
gia tăng nợ xấu của các NHTM. Đặc biệt, các NHTM nhỏ gặp căng thẳng về
thanh khoản nhưng lại không thể huy động được vốn do không có lợi thế cạnh
tranh, các ngân hàng này cũng là những ngân hàng thường có tỷ lệ cho vay bất
động sản lớn. Khi dư nợ tín dụng không tăng thì nợ xấu sẽ gia tăng từ các khoản
8


cho vay bất động sản và sự phá sản của các doanh nghiệp nhỏ và vừa do không
tiếp cận được vốn tín dụng. Theo Stoxplus, thông tin chính thức từ NHNN thì nợ
xấu trong hệ thống NHTM tính đến cuối tháng 6/2011 vẫn dưới mức 3%, tuy
nhiên, con số ước tính của Fitch Rating lại lên đến 13%.
Mặc dù vậy, theo Báo cáo Triển vọng phát triển châu Á 2011, Chính phủ
Việt Nam được dự báo sẽ duy trì chính sách thắt chặt tài chính và tiền tệ cho đến
khi lạm phát sụt giảm, niềm tin vào tiền đồng được củng cố và dự trữ ngoại tệ tiếp
tục được tăng cường. Việc Chính phủ điều chỉnh giảm mục tiêu tăng trưởng kinh
tế năm 2011 xuống còn 6%, so với mục tiêu tăng trưởng trung bình trong Chiến
lược Phát triển kinh tế xã hội 2011 - 2020 là 7% - 8%, càng củng cố đánh giá này.
Chính phủ đã lên kế hoạch cắt giảm thâm hụt tài chính năm tới xuống còn 4,5%
GDP. Chính phủ cũng có thể nới lỏng chính sách tiền tệ nếu lạm phát cơ bản có xu
hướng giảm. Lạm phát được dự đoán là sẽ hạ nhiệt dần do sản xuất lương thực sẽ
tăng khi ngành nông nghiệp được hồi phục sau tác động của thời tiết xấu. Các tác
động của việc thắt chặt chínhsách tiền tệ sẽ giúp đồng tiền được ổn định dần, tăng
trưởng tín dụng chậm lại, chi tiêu dùng và đầu tư chậm lại. Điều này sẽ góp phần
kìm hãm lạm phát. Chất lượng tín dụng ngân hàng suy giảm vẫn đang là một rủi
ro. Việc thắt chặt kinh tế vĩ mô, sau một giai đoạn tăng trưởng tín dụng nhanh,
thường tạo áp lực đối với người vay và ngân hàng. Mức tăng trưởng 23% lượng
tiền vay bằng đôla Mỹ trong sáu tháng đầu năm nay càng làm tăng nguy cơ này.

Đồng Việt Nam có thể chịu áp lực giảm giá khi mà những khoản vay, phần lớn là
ngắn hạn này, đến kỳ thanh toán. Dữ liệu được tính toán từ các báo cáo hàng tháng
của NHNN với các giá trị được tính trung bình. Dữ liệu thực tế có thể thay đổi tùy
theo từng ngân hàng và từng khoản vốn với kì hạn và mục đích vay khác nhau.
Khoản vay đối với lĩnh vực phi sản xuất như bất động sản, chứng khoán hay tiêu
dùng thông thường có mức lãi suất cao hơn trung bình từ 3 - 5%.

CHƯƠNG II: DỰ BÁO TÌNH HÌNH LÃI SUẤT NĂM 2012.
9


I. Những dự báo về triển vọng kinh tế trong năm 2012.
1. Năm 2011 điểm sáng hiếm hoi: Châu Á
Năm 2011 kết thúc trong bối cảnh kinh tế châu Âu đứng bên bờ vực thẳm,
kinh tế Mỹ le lói phục hồi và một số nước trong khối Các nền kinh tế mới nổi
(BRICS) như Braxin, Nga cũng phải đối mặt với nguy cơ suy thoái thì tốc độ tăng
trưởng (dù có giảm so với dự báo) của khu vực châu Á, nhất là khu vực Đông Á,
được đánh giá là những điểm sáng hiếm hoi trong bức tranh kinh tế đầy u ám của
thế giới. Trong báo cáo của Ngân hàng phát triển châu Á(ADB), tăng trưởng kinh
tế trong năm nay tại khu vực châu Á sẽ đạt mức 7,5% do những vấn đề nợ công tại
châu Âu và nguy cơ suy thoái kinh tế tại Mỹ. Trong một báo cáo mới đây của
Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), thương mại giữa các nước trong khu vực
châu Á cùng xu hướng tiêu dùng nội địa do tầng lớp trung lưu xuất hiện ngày càng
nhiều sẽ giúp châu Á tránh khỏi hậu quả tồi tệ nhất của cuộc suy thoái kinh tế toàn
cầu.
Nền kinh tế Nhật Bản đã có nhiều dấu hiệu phục hồi nhẹ sau khi trải qua
giai đoạn suy thoái từ động đất và sóng thần hồi tháng 3 khi các chuỗi cung cấp
được khôi phục. Tuy nhiên, do đồng yên mạnh nên ảnh hưởng đến xuất khẩu trong
khi nhu cầu trong nước tiếp tục ở mức không cao. ADB dự báo kinh tế Nhật Bản
sẽ giảm 0,5% trong năm nay. Trong khi đó, tăng trưởng của Trung Quốc cũng

giảm nhẹ từ mức 10,4% trong năm trước xuống mức 9,2% trong năm nay.
2. Triển vọng thế giới năm 2012.
Tăng trưởng GDP của thế giới tiếp tục giảm xuống mức gần 4% trong khi
của các nước phát triển là 1,9% và thậm chí một số nước tăng trưởng âm (như
Italia dự kiến tăng trưởng âm 1,6%). Kinh tế Mỹ và châu Âu tăng trưởng lần lượt
là 1,8 % và 1,1%. Các nước trong nhóm BRICS cũng suy giảm, cụ thể Trung
Quốc có thể chỉ đạt 8%, Ấn Độ 7,5%, Braxin 3,6%, Nga 4,1% và Nam Phi là
3,6%. Các nước thuộc khu vực Trung Đông - Bắc Phi tăng trưởng khoảng 4%,
thấp hơn mức 5% của năm 2011.

10


Trong phát biểu Washington (Mỹ) ngày 15/12, Giám đốc IMF Christine
Lagarde cho biết, triển vọng kinh tế thế giới năm 2012 vẫn ảm đạm và tất cả các
nước, bắt đầu từ châu Âu, cần phải ngăn chặn một cuộc khủng hoảng với những
rủi ro dẫn tới một cuộc suy thoái toàn cầu. Bà Lagarde cũng nhấn mạnh vấn đề
này đòi hỏi những nỗ lực, điều chỉnh và phải bắt đầu giải quyết từ trung tâm của
cuộc khủng hoảng.
Trong khi đó, ADB cũng giảm dự báo tăng trưởng kinh tế của châu Á
xuống mức 7,2%. Các nền kinh tế mới nổi ở Đông Á, trong đó có Trung Quốc và
Nhật Bản, do tác động từ tình trạng nợ nần ở Eurozone và sự ì ạch của kinh tế Mỹ
đang đe dọa đẩy nền kinh tế toàn cầu rơi vào vòng xoáy khủng hoảng mới, nên sẽ
giảm tốc độ tăng trưởng xuống còn 4,2% (thấp hơn mức 5,4% trong báo cáo trước
đó của ADB). Báo cáo của ADB cũng dự đoán rằng nền kinh tế Eurozone sẽ tăng
trưởng 0,5% trong năm tới, trong khi nền kinh tế Mỹ sẽ tăng trưởng 2,1%.
Trong những phát biểu gần đây, nhiều nhà lãnh đạo của các nước và các tổ
chức tài chính lớn của thế giới đều nhất trí rằng, các nước cần ít nhất 10 năm để
khôi phục khủng hoảng và buộc phải tái cơ cấu nền kinh tế để thích nghi với tình
hình. Tuy nhiên, tái cơ cấu cần một quá trình dài hơi chứ không phải một sớm một

chiều nên tình hình kinh tế thế giới năm 2012 vẫn mịt mù, u ám chứ chưa thể lạc
quan.
II. Dự báo về tình hình lãi suất Việt Nam năm 2012.
1. Biến động lãi suất hai tháng đầu năm 2012 của các Ngân hàng
thương mại.
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) vừa có quyết định giảm
lãi suất cho vay, song lãi suất huy động lại tăng lên khá mạnh. Từ ngày
16/2/2012, Vietcombank thông báo hạ lãi suất cho vay, mức lãi suất cho vay thấp
nhất chỉ còn 14,5%/năm.
Cụ thể, đối với đối tượng khách hàng xuất khẩu thanh toán qua
Vietcombank được áp dụng mức lãi suất ưu đãi 14,5%/năm. Các đối tượng khách
hàng thuộc lĩnh vực công nghiệp phụ trợ, vốn lưu động cho doanh nghiệp nhỏ và
11


vừa, sản xuất, xuất khẩu, nông nghiệp (bao gồm hộ gia đình), Vietcombank áp
dụng mức lãi suất 15%/năm. Riêng các khách hàng thuộc lĩnh vực công nghiệp
phụ trợ, vốn lưu động cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, sản xuất, xuất khẩu, nông
nghiệp (bao gồm hộ gia đình) hoạt động tại địa bàn Tp.HCM, Vietcombank áp
dụng mức lãi suất cho vay 14,5%/năm.
Cùng với thông báo trên, biểu lãi suất huy động niêm yết của Vietconbank
cũng có điều chỉnh đáng chú ý.
Cụ thể, lãi suất tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn bằng VND của ngân hàng
này đã tăng khá mạnh ở các kỳ hạn dài. Trước đó, Vietcombank áp mức lãi suất
huy động 14%/năm cho các kỳ hạn từ 1-12 tháng; các kỳ hạn 24, 36, 48, 60 tháng
là 12%/năm. Song hiện mức 14%/năm đã được kéo thẳng ở tất cả các kỳ hạn từ 160 tháng. Việc đẩy lãi suất các kỳ hạn dài như vậy lên 14%/năm có thể xem là để
kích thích và thu hút các nguồn tiền gửi dài hạn, tăng thêm sự chủ động vốn cho
ngân hàng. Điều này phù hợp với dự tính của lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước đưa
ra vừa qua là với triển vọng kiềm chế lạm phát dưới một con số thì cuối năm 2012
lãi suất huy động có thể ở mức 10%/năm. Ngược lại, nếu theo triển vọng trên thì

ngân hàng có thể chịu rủi ro chi phí với mức lãi suất huy động ở các kỳ hạn dài
như vậy. Qua sự điều chỉnh trên của Vietcombank, cũng như trên biểu niêm yết
của một số ngân hàng khác thời gian qua, lãi suất huy động tiếp tục kẻ thẳng một
đường 14%/năm qua tất cả các kỳ hạn, bất kể dài hay ngắn, ngoại trừ dưới 1 tháng
tối đa 6%/năm mà Ngân hàng Nhà nước đã quy định.
Ngân hàng Công thương Việt Nam (VietinBank) vừa thông báo giảm lãi
suất cho vay đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh và các lĩnh vực được khuyến
khích.
Thông báo cho biết, thực hiện chủ trương giảm dần lãi suất cho vay theo
Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 3/1/2012 của Chính phủ, cùng chia sẻ với cộng đồng
doanh nghiệp, người dân để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh, trong thời gian qua
VietinBank đã nhiều lần thực hiện giảm lãi suất cho vay đối với khách hàng. Tiếp
tục thực hiện nghị quyết trên và Chỉ thị 01/CT-NHNN ngày 13/2/2012 của Ngân
12


hàng Nhà nước, VietinBank tiếp tục hạ mặt bằng lãi suất cho vay đối với lĩnh vực
sản xuất kinh doanh và các lĩnh vực được khuyến khích. Cụ thể, với cho vay sản
xuất kinh doanh, VietinBank áp dụng lãi suất 16,5%/năm với VND, 6%/năm với
USD; cho vay tiêu dùng là 17%/năm; cho vay doanh nghiệp xuất khẩu với VND là
15,8%/năm, với USD là 5,2%/năm; cho vay nông nghiệp nông thôn và công
nghiệp hỗ trợ là 16%/năm; cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ là 16,5%/năm; cho
vay các chương trình tín dụng quốc tế là 15,5%/năm.
2. Những dự báo của chuyên gia về biến động lãi suất trong năm 2012.
2.1.Nhận định chung: Lãi suất giảm, tỉ giá còn phức tạp.
Dự báo tình hình lãi suất năm 2012, ông Phạm Hồng Hải - GĐ bộ phận kinh
doanh vốn và thị trường tiền tệ HSBC VN cho rằng sẽ tùy theo tình hình kinh tế
của VN nhưng chắc chắn lãi suất sẽ giảm. Mức giảm nhanh hay chậm sẽ tùy thuộc
vào sức khỏe của cả nền kinh tế. Ông Hải cũng đưa ra kịch bản với tình huống là
trong thời gian tới có nhiều DN không thể tiếp tục chịu đựng được mà phá sản thì

khả năng lãi suất giảm nhanh hơn. “Nhưng hiện nay mức lãi suất mà NHNN đang
nhắm tới thì lãi suất cho vay năm 2012 sẽ ở mức 15-17%/năm. Còn nếu giảm quá
nhanh thì sẽ dẫn tới tình trạng là chưa chữa xong bệnh mà đã ra gió thì khả năng
sẽ ốm nặng hơn và khó chữa hơn nhiều. Bởi nếu bây giờ chúng ta giảm lãi suất
quá nhanh, sẽ có hiện tượng các DN có khả năng vay vốn tốt mà lại làm ăn không
hiệu quả thì họ sẽ quay lại vay vốn ào ào đầu tư theo kiểu dàn trải để kiếm lợi
nhuận. Và như vậy kịch bản 2008 và 2010 sẽ quay lại” - ông Phạm Hồng Hải
khẳng định.
Bổ sung vào dự báo lãi suất, tỉ giá năm 2012, TS Lê Đăng Doanh lưu nói:
“VND đã mất giá tại thị trường nội địa trong năm 2011 gần 19% nhưng mất giá so
với USD khoảng gần 12%. Điều này có nghĩa là so với USD, tỉ giá thực của VND
đang được đánh giá cao chứ không phải thấp; nên với viễn cảnh còn có biến động
thì tôi tin lạm phát của VN có thể giảm và lãi suất cũng có thể giảm nhưng còn tỉ
giá còn khả năng còn biến động nhiều mặc dù các nỗ lực rất đáng hoan nghênh
của thống đốc mới”
13


Tiến sĩ Võ Trí Thành - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý
Kinh tế TW chia sẻ cùng các nhà đầu tư tham dự hội thảo “Nhận diện cơ hội và
rủi ro trong năm 2012 - Từ vĩ mô, chính sách đến thị trường chứng khoán” diễn ra
sáng ngày 17/12 tại TPHCM, do Vietstock Communications tổ chức.
Khu vực Đông Nam Á, theo dự báo của ANZ, phần lớn các nước về cơ bản
thì lãi suất ở quanh mức như hiện nay, còn lại chỉ có thể dựa vào chính sách tài
khóa là chủ yếu. Điều này thuận lợi hơn Việt Nam rất nhiều bởi chính sách tài
khóa của các nước tương đối cân bằng và có thặng dư. Ngoài ra, khu vực này còn
thừa vốn và dự trữ ngoại tệ còn tới 6,500 tỷ USD. Theo đó, khả năng chống đỡ của
họ có thể thực hiện được, kể cả trường hợp suy thoái kinh tế toàn cầu, nhờ gói
kích thích kinh tế. Và chắc chắn tác động ấy sẽ đến Việt Nam. Tiến sĩ nhấn
mạnh: “2012 là năm của những cải cách rất quyết liệt, nghệ thuật điều hành vĩ

mô phải hết sức khôn ngoan. Dùng từ chặt chẽ, thận trọng nhưng năm nay Chính
phủ sẽ cố gắng linh hoạt, uyển chuyển nhất đối với chính sách tiền tệ để có thể hỗ
trợ cho doanh nghiệp”.
Vấn đề linh hoạt được thể hiện khi mức tín dụng có thể tăng 15-17% so với
mức 13% của năm nay như Thống đốc Nguyễn Văn Bình đã nói. Cụ thể, NHNN
sẽ ko áp trần tín dụng như nhau đối với mọi ngân hàng, tùy vào quy mô và độ rủi
ro sẽ cấp hạn mức tín dụng hợp lý cho từng ngân hàng. Linh hoạt nữa là trong lĩnh
vực tín dụng, NHNN khuyến khích các ngân hàng hỗ trợ doanh nghiệp phục vụ
xuất khẩu, nông nghiệp, chế biến… sẽ có những biện pháp kỹ thuật kể cả hỗ trợ
thanh khoản. Đồng thời, một số chính sách tín dụng bất động sản cũng được
chuyển hướng tại một số phân khúc như dự án cho người thu nhập thấp
Về tỷ giá, NHNN đã phát đi thông điệp điều hành theo tín hiệu thị trường,
linh hoạt, nhưng sẽ không có những cú sốc trong phá giá 9.5% như tháng 2/2011.
Tổ chức nước ngoài dự báo tỷ giá năm 2012 ở mức 4-4.5%, nửa cuối quý 2/2012
lãi suất sẽ giảm và có ý nghĩa nếu lạm phát giảm đáng kể. Theo Tiến sĩ Thành, dự
báo này sẽ không còn xa.

14


2.2. Câu trả lời cho bài toán lãi suất: Thời điểm nào lãi suất sẽ hạ.
Tình trạng vượt trần lãi suất đang tái diễn khiến những hoài nghi về
tuyên bố giảm lãi suất xuống 10% cuối năm nay tăng lên. Dù vậy, nhiều
chuyên gia kinh tế cho rằng, nếu xử lý được vấn đề thanh khoản, thì lãi suất
kỳ vọng hoàn toàn có thể bị ép xuống.
Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết 03/NQ-CP, tiếp tục chỉ đạo Ngân hàng
Nhà nước (NHNN) hạ lãi suất ở thời điểm thích hợp. Đây là mong muốn của toàn
xã hội. Tuy nhiên, đà giảm của lãi suất đang bị cản, bởi thanh khoản của hệ thống
ngân hàng vẫn căng thẳng.
Với tình hình thanh khoản của hệ thống hiện nay, TS. Nguyễn Trí Hiếu,

chuyên gia tài chính, ngân hàng cũng nhận định: “Rất khó dự báo thời điểm nào
lãi suất sẽ hạ, bởi ngay cả khi lãi suất đang ở mức cao như hiện nay, nhiều ngân
hàng vẫn trong tình trạng căng thẳng thanh khoản”.
Standard Chartered kỳ vọng lạm phát sẽ tiếp tục giảm từ tháng 2/2012,
sau dịp nghỉ Tết và sẽ trở về còn 1 chữ số vào cuối Quý 2/2012. Tuy nhiên, việc
này sẽ phụ thuộc rất nhiều vào sự ổn định giá cả hàng hóa thế giới và độ ổn định
của tiền Đồng. Khả năng giá điện tăng có thể làm tăng nguy cơ lạm phát cao trở
lại vào năm 2012. Với tỷ lệ lạm phát đang có chiều hướng giảm và tình trạng lạm
phát đình đốn đang được đẩy lùi, có thể kỳ vọng vào các chính sách giảm lãi suất
trong năm 2012. Cũng theo bản báo cáo, Standard Chartered nhận định: “ ông
Nguyễn Văn Bình, Thống đốc NHNN, đã phát biểu gần đây: “Ngân hàng Trung
ương sẽ điều chỉnh các chính sách tỷ giá về mức hợp lý hơn nhằm giúp giảm lãi
suất trung bình trên thị trường”. Chúng tôi kỳ vọng NHNN sẽ điều chỉnh tỷ giá tái
cho vay từ 15% xuống 12% vào cuối Quý 2 và 11% vào Quý 3”.
TS. Cấn Văn Lực, Cố vấn cao cấp HĐQT Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam (BIDV) cho rằng, muốn giảm lãi suất, cần giảm lạm phát và giải
quyết căng thẳng thanh khoản của hệ thống. Theo đó, để giải quyết thanh khoản,
NHNN nên tiếp tục tái cấp vốn trên thị trường mở (OMO) và sớm tiến hành sáp
nhập các ngân hàng yếu kém, điều trị dứt điểm, không để lây lan thanh khoản cho
15


toàn hệ thống. Trong khi đó, NHNN dù không đưa ra những tuyên bố trực tiếp nào
về xử lý tình hình trên, song qua việc hạn chế bơm tiền trên thị trường mở và tiếp
tục duy trì trần lãi suất, có thể thấy đơn vị này đang tiếp tục tạo sức ép về thanh
khoản cho các ngân hàng gặp khó khăn để các ngân hàng này buộc phải tự tái cấu
trúc.
Có thể “ép” được lãi suất?
Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình khẳng định, nếu mục tiêu lạm phát
ở mức 9-9,5% đạt được vào cuối năm 2012, cùng với xử lý tốt vấn đề thanh

khoản, lãi suất huy động có thể giảm xuống 10%/năm vào cuối năm.
Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư, TS. Nguyễn Đức Kiên, Phó chủ
nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội khẳng định: “Lãi suất thời gian tới tất nhiên
sẽ phải hạ. Giống lạm phát kỳ vọng, chúng ta cũng có thể ép lãi suất kỳ vọng
xuống”.Về vấn đề thanh khoản, TS. Nguyễn Đức Kiên cho rằng, Thống đốc
NHNN đã xác định được các nhiệm vụ trọng tâm năm 2012 là: đảm bảo tính thanh
khoản, giữ giá trị VND và hạ lãi suất cho vay.
Trên thực tế, một số ngân hàng lớn như BIDV, Vietcombank… đã bắt đầu
giảm lãi suất xuống 1-2%/năm cho một số khách hàng. Theo đó, mức lãi suất cho
vay thấp nhất là 14,5-16%/năm. Agribank cũng áp dụng lãi suất cho vay 14%/năm
với một số doanh nghiệp xuất khẩu nông sản. Tuy nhiên, rất hiếm doanh nghiệp
đủ điều kiện tiếp cận vốn với mức lãi suất này. Nhiều chuyên gia kinh tế cũng tán
thành với cách làm của NHNN là để các ngân hàng yếu kém đuối sức rồi mới xử
lý. Tuy nhiên, không nên để tình trạng yếu thanh khoản kéo dài, lây lan cả hệ
thống và khiến nền kinh tế sẽ ngày càng đình trệ. Trong một diễn biến khác, nhiều
ngân hàng nước ngoài như ANZ, HSBC cũng cảnh báo Việt Nam không nên vội
vàng hạ lãi suất, nới lỏng tiền tệ, vì điều này có thể làm thị trường méo mó, đẩy
lạm phát quay lại.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
/> /> /> /> /> /> />Tiến sỹ: Nguyễn Thị Minh Huệ - Tạp chí Ngân hàng số 24-2011 - Bài viết: “Phân
tích hiệu quả của chính sách lãi suất 2011 ở Việt Nam”

17


MỤC LỤC


18



×