Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (658.78 KB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

---------***---------

VŨ THU HƯƠNG

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ HẢI QUAN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành : KTTG&QHKTQT
Mã số
: 60.31.07

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS, TS. VŨ CHÍ LỘC

HÀ NỘI - 2011


i

MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT.................................................................
LỜI CẢM ƠN..............................................................................................
LỜI NÓI ĐẦU



ii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AFTA

: Asean Free Trade Asea- Khu vực mậu dịch tự do ASEAN

ASEAN

: Association of Southeast Asia Nations- Hiệp hội các Quốc
gia Đông Nam Á

APEC

: Asia Pacific Economic Cooperation-Diễn đàn Kinh tế
Châu Á Thái Bình Dương

CEPT

: Common Effective Preferential Tariff Scheme -Uu đãi
thuế quan có hiệu lực chung giữa các nước Asean

ĐTNN

: Đầu tư nước ngoài

GATT

: General Agreement on Tariffs and Trade - Hiệp định
chung về thuế quan và thương mại


GATS

: General Agreement on Trade in Services -Hiệp định chung
về thương mại và dịch vụ

GTT22

: Chương trình quản lý giá tính thuế.

H/S

: Harmonized System- Hệ thống điều hoà mô tả và mã hoá
hàng hoá

ODA

: Official Development Assistant - Hỗ trợ phát triển
chính thức

TSCĐ

: Tài sản cố định

NKD

: Nhập kinh doanh.

NĐT-NT


: Nhập đầu tư nộp thuế

SLXNK

: Số liệu Xuất nhập khẩu.

TRIMS

: Trade Related Investment Measures- Hiệp định về các
biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại

TRIPS

: Trade Related Aspects of Intellectual Property rights- Hiệp
định các khía cạnh thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ

WCO

: World Customs Organization -Tổ chức Hải quan thế giới .

WTO

: World Trade Organization-Tổ chức thương mại thế giới


iii

LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo
Trường Đại học Ngoại Thương, đặc biệt là các thầy cô trong Ban Giám hiệu

và Khoa Sau đại học, đã luôn giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi trong quá trình
học tập bậc cao học tại Nhà trường.
Tôi xin trân trọng cảm ơn PGS,TS. Vũ Chí Lộc, người hướng dẫn khoa
học đã nhiệt tâm và tận tình hướng dẫn tôi hoàn thiện luận văn thạc sỹ này.
Cuối cùng, tôi cảm ơn gia đình, bạn bè đã luôn động viên, cổ vũ và tạo
điều kiện về thời gian cho tác giả trong suốt quá trình viết luận văn.
Mặc dù đã hết sức cố gắng từ việc nghiên cứu, sưu tầm tài liệu, tổng
hợp các ý kiến của các chuyên gia trong nước về lĩnh vực này, song luận văn
vẫn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tôi rất mong nhận được sự
chỉ bảo, góp ý của quí thầy cô và các bạn.
Hà nội, ngày 30 tháng 12 năm 2011
Tác giả luận văn

Vũ Thu Hương


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Luật Đầu tư (hiệu lực từ 1/7/2006), Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu (hiệu lực từ 1/1/2006) và các Nghị định của Chính phủ, Thông tư
hướng dẫn của các Bộ, ngành đã cởi bỏ được nhiều rào cản trong thủ tục
hành chính đối với việc đăng ký thủ tục cấp chứng nhận đầu tư; đăng ký
miễn thuế; thủ tục hải quan đối với máy móc thiết vị, phương tiện vận tải,
phụ tùng, linh kiện đi kèm, vật tư thiết bị,... tạo tài sản cố định. Ngoài ra,
công cuộc hiện đại hoá, cải cách thủ tục hành chính, sự đổi mới, phát triển
về công nghệ thông tin trong các cơ quan hành chính, công quyền nói
chung cũng như cơ quan hải quan nói riêng cùng với ý thức, tư tưởng của
những người quản lý cũng đã góp phần hết sức quan trọng, tạo thuận lợi,

rút ngắn thời gian làm thủ tục, giảm chi phí cho các nhà đầu tư trong các
thủ tục hành chính, tạo tiếng nói “đồng thuận” giữa các cơ quan quản lý và
nhà đầu tư.
Tuy nhiên, bên cạnh đó còn không ít những tồn tại cả chủ quan lẫn
khách quan của nhà quản lý, nhà đầu tư và bất cập trong chính sách quản
lý, đó là: Nhiều chính sách đầu tư, chế độ ưu đãi miễn thuế còn chưa rõ
ràng, cụ thể và đồng bộ dẫn đến có nhiều cách hiểu khác nhau, thậm chí
còn thiếu qui phạm, bất cập, chồng chéo giữa các ngành quản lý với nhau
dẫn đến việc xử lý thiếu công bằng, thiếu minh bạch cho các doanh nghiệp
gây khiếu kiện, khiếu nại kéo dài, ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động đầu
tư nhất là đầu tư nước ngoài; không ít doanh nghiệp lợi dụng chính sách ưu
đãi miễn thuế để nhập khẩu máy móc, thiết bị, hàng hoá miễn thuế bán ra
thị trường kiếm lời, thu lợi bất chính; một bộ phận không nhỏ cán bộ công
chức làm công tác quản lý có thái độ gây sách nhiễu, phiền hà trong các thủ
tục hành chính (thủ tục cấp chứng nhận đầu tư, thủ tục hải quan, thủ tục
miễn thuế,...) để trục lợi cá nhân; việc nghiên cứu, hệ thống hoá pháp luật


2
đầu tư, nhất là pháp luật về thủ tục hải quan, thủ tục ưu đãi miễn thuế đối
với hàng hoá nhập khẩu tạo tài sản cố định của dự án đầu tư chưa được
nhiều các cấp, ngành chú trọng đầu tư một cách bài bản, khoa học.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đối với một
quốc gia đang phát triển như nước ta hiện nay, thì việc thu hút đầu tư nhất
là đầu tư nước ngoài nhằm tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã
hội, giải quyết việc làm, ổn định đời sống chính trị - xã hội đang là vấn đề
được Đảng, Nhà nước hết sức quan tâm. Trong đó đối với ngành Hải quan,
việc yêu cầu đơn giản và hài hòa hóa thủ tục hải quan đang là vấn đề cấp
thiết. Để có được những giải pháp khoa học, hợp lý nhằm vừa đảm bảo
quản lý chặt chẽ các hoạt động đầu tư, đặc biệt là lĩnh vực ưu đãi về thuế,

vừa tạo điều kiện thuận lợi, giảm chi phí cho các nhà đầu tư , đòi hỏi phải
nhận thức đúng đắn về lý luận và đánh giá đúng thực tiễn hoạt động đầu tư
trong từng thời điểm và từng địa bàn đầu tư cụ thể, từ đó có những giải
pháp thiết thực nâng cao hiệu quả quản lý đầu tư, trong đó có quản lý về ưu
đãi thuế đối với hoá nhập khẩu tạo tài sản cố định, quản lý hải quan đối với
hàng hoá nhập khẩu để gia công hàng xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm cải thiện môi trường đầu tư, thu hút đầu
tư và tránh thất thu cho ngân sách nhà nước.
Xuất phát từ những lý luận trên và thực tiễn quản lý hải quan về đầu
tư trực tiếp nước ngoài, tác giả chọn đề tài “Giải pháp hoàn thiện công tác
quản lý Nhà nước về hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu
Đây là một lĩnh vực mới mẻ nhưng cũng đã được một số tác giả
nghiên cứu với cả công trình dưới cấp độ luận văn, luận án khoa học nghiên
cứu, sách chuyên khảo..., chẳng hạn:


3
- Đề tài luận văn thạc sỹ “ Chế độ quản lý nhà nước về hải quan đối
với hoạt động đầu tư” của tác giả Trần Lương Bắc, năm 1998 ;
- Đề tài luận văn thạc sỹ “Hải quan Việt Nam trong tiến trình hội
nhập ” của tác giả Lê Xuân Hải, Tổng cục Hải quan, năm 2001 ;
- Đề tài luận văn “Hoàn thiện thủ tục hải quan Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay” của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng ;
- Sách chuyên khảo “Kỹ thuật nghiệp vụ hải quan và xuất nhập
khẩu : Lý luận và tình huống ứng dụng” của tác giả Nguyễn Thị Thương
Huyền, Học viện Tài chính, năm 2008 ;
- Đề tài luận văn thạc sỹ “Hội nhập quốc tế về hải quan ở Việt
Nam ” của tác giả Nguyễn Đặng Thị Thu Hương, năm 2007 ;

- Đề tài luận văn “Hiệp định tạo thuận lợi thương mại trong WTO và
vai trò của công tác hải quan tại Việt Nam ” của tác giả Nguyễn Thị Thanh
Hoa, năm 2009.
Trong các công trình nghiên cứu và các đề tài trên chưa có công
trình nào đi sâu nghiên cứu một cách cụ thể về mặt lý luận, thực tiễn của
hoạt động quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Việt Nam kể từ khi Luật đầu tư 2005. Để thực hiện đề tài
này tác giả có tham khảo một số ý tưởng những tài liệu đã được công bố ở
trong nước và khảo sát ở nước ngoài để bổ sung cho phần cơ sở lý luận và
kinh nghiệm trong nội dung đề tài.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích là đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản
lý Nhà nước về Hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam góp phần quản lý tốt, minh bạch đối với hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại Việt Nam thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư
phát triển đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về hải quan.


4
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là công tác quản lý hải quan đối với hoạt động
đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam tập trung nghiên cứu những vấn
đề liên quan đến quản lý hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu tạo tài sản cố
định của dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài và hàng hóa nhập khẩu để gia
công hàng xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài,
phạm vi nghiên cứu tập trung liên quan đến các văn bản pháp lý kể từ khi
Luật đầu tư 2005 ra đời.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để tiếp cận trên ba phương diện: lý luận,

thực tiễn và kinh nghiệm. Luận văn còn sử dụng các phương pháp thống kê,
so sánh, phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, mô hình hóa. Đồng thời có
kế thừa những công trình nghiên cứu liên quan đến công tác quản lý hải
quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn được kết cấu thành ba chương, cụ thể như sau:
Chương I: Quản lý Nhà nước và sự cần thiết quản lý Nhà nước về
Hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Chương II: Thực trạng công tác quản lý Nhà nước về Hải quan đối
với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước về Hải
quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.


5
CHƯƠNG I
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VÀ SỰ CẦN THIẾT QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ HẢI QUAN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
1.1. Quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam
Hoạt động đầu tư là một dạng hoạt động kinh tế, một quá trình chi
tiêu cho các dự án sản xuất, kinh doanh, trong đó các nguồn lực sản xuất
được huy động và sử dụng nhằm làm tăng năng lực sản xuất với mục đích
thu được lợi ích tương lai lớn hơn chi phí ban đầu bỏ ra.
Ngày nay, thuật ngữ đầu tư được sử dụng rất rộng rãi để chỉ tất cả
các hoạt động có sử dụng vốn (tiền) nhằm mục đích thu lợi ích tương lai.
Về phương diện pháp lý, khái niệm đầu tư là: Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ
vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản

nhằm tiến hành các hoạt động đầu tư theo qui định của pháp luật ( Luật
Đầu tư,2005). Tuy nhiên tùy theo góc độ nghiên cứu, tùy góc độ tiếp cận
của các chủ thể nghiên cứu liên quan đến đầu tư mà hoạt động đầu tư được
chia ra các hình thức đầu tư khác nhau như đầu tư phát triển (đầu tư sản
xuất, kinh doanh) và đầu tư chuyển dịch (gửi tiết kiệm, mua cổ phiếu để
bán lại, tích trữ hàng hoá để bán lại,..); đầu tư trong nước và đầu tư nước
ngoài; đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp; v.v....
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những tác động to lớn đến sự phát
triển của thương mại quốc tế. Những tác động này ảnh hưởng không chỉ
đến những nước nhận đầu tư mà ngay cả những nước xuất khẩu tư bản (đầu
tư). Những tác động đó bao gồm: Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo điều kiện
thu hút nguồn nhu cầu mới: Tìm kiếm thị trường mới (nước ngoài ) mới có
những nhu cầu tiềm ẩn cho các sản phẩm của công ty khi mà thị trường
trong nước đã bảo hòa; Đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp thâm nhập vào


6
những thị trường nơi có thể đạt được lợi nhuận cao; Đầu tư trực tiếp nước
ngoài nhằm tăng năng suất: Một công ty có nỗ lực muốn bán sản phẩm ban
đầu của mình tại các thị trường mới có thể làm tăng mức thu nhập cổ phần
của mình do tăng năng suất. Điều này làm giảm chi phí bình quân từng đơn
vị sản phẩm. Công ty càng sử dụng nhiều máy móc thiết bị thì khả năng
này càng có điều kiện thuận lợi để thực hiện; Sử dụng yếu tố nuớc ngoài
trong sản xuất: Các chi phí sử dụng đất đai và lao động có thể khác biệt
nhau rất xa giữa các quốc gia. Các công ty đa quốc gia thường cố gắng thiết
lập việc sản xuất tại địa điểm có giá lao động và đất đai rẻ. Họ thực hiện
việc nghiên cứu thị trường để xác định xem họ có thể thu được lợi nhuận
không từ các chi phí rẻ hơn khi sản xuất ở những thị trường đó; Sử dụng
nguyên liệu nước ngoài: Do các chi phí vận chuyển, một số công ty cố gắng
tránh nhập khẩu nguyên vật liệu từ một đất nước khác, đặt biệt là khi công

ty dự tính sẽ bán thành phẩm ngược lại cho người tiêu dùng nước đó, một
giải pháp khả thi hơn là phát triển việc sản xuất sản phẩm tại một nước mà
nguyên vật liệu có sẵn; Sử dụng công nghệ nước ngoài: Các công ty đa
quốc gia thiết lập ngày càng nhiều các nhà máy ở nước ngoài hay mua lại
các nhà máy hiện hữu của nước ngoài để học hỏi thêm về công nghệ của
các quốc gia khác. Công nghệ này sau đó được sử dụng để cải tiến quy
trình sản xuất tại các nhà máy của các công ty con trên khắp thế giới; Khai
thác các thuận lợi về độc quyền: Các công ty có thể trở nên quốc tế hóa nếu
như họ sở hữu các tiềm lực hay kỹ năng mà các đối thủ cạnh tranh không
bao giờ có. Trong một chừng mực nào đó, công ty sẽ có được thuận lợi hơn
các đối thủ và có thể thu được lợi nhuận từ việc trở nên quốc tế hóa; Đa
dạng hóa ở tầm cỡ quốc tế: Một trong những lý do tại sao các công ty tiến
hành kinh doanh ở tầm cỡ quốc tế là sự đa dạng hóa quá trình sản xuất;
Phản ứng với giá trị thay đối của ngoại tệ: Khi một công ty cho rằng ngoại
tệ của một quốc gia nào đó bị giảm giá, công ty đó có thể tính đến khả năng
đầu tư trực tiếp vào đất nước đó. Do sự giảm giá ngoại tệ, mức phí tổn ban


7
đầu có khả năng thấp. Nếu đồng ngoại tệ đó mạnh lên theo thời gian, thu
nhập được chuyển về công ty mẹ sẽ tăng lên. Một nguyên khác dẫn đến
việc đầu tư trực tiếp là nhằm bù đắp nhu cầu đang thay đổi cho việc xuất
khẩu của công ty do những dao động về tỷ giá hối đoái; Phản ứng với các
kiềm hãm thương mại: Trong một số trường hợp, một công ty đa quốc gia
sử dụng việc đầu tư trực tiếp như là một chiến lược phòng ngự hơn là tấn
công; Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại những thuận lợi về mặt chính
tr: Một số công ty đa quốc gia đóng tại những nước có nền chính trị không
ổn định đang cố gắng phát triển sang những nước ổn định hơn. Mặt khác
khi hoạt động của một công ty đa quốc gia ngày càng mở rộng và đạt được
những thành tựu nhất định về kinh tế đó là cơ sở để có được những thuận

lợi về mặt chính trị.
Vì vậy, quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam. Để có cơ sở nghiên cứu quản lý nhà nước đối với hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài, trước hết đề tài luận văn nghiên cứu
những cơ sở pháp lý liên quan đến cam kết và tình hình thực hiện cam kết
liên quan đến đầu tư khi Việt Nam gia nhập WTO vì đó là cơ sở xây dựng
cơ sở pháp lý của Việt Nam liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam.
1.1.1. Cam kết và tình hình thực hiện các cam kết về đầu tư khi Việt Nam
gia nhập WTO
1.1.1.1 Cam kết và tình hình thực hiện biện pháp đầu tư liên quan đến
thương mại ( TRIMS)
Hiệp định của WTO về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương
mại TRIMS ( Trade Related Investment Measures) đạt được tại vòng đàm
phán Uruquay là cơ chế pháp lý điều chỉnh hoạt động thương mại của dự án
đầu tư, quy định các quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong việc sử
dụng các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại. Mục đích của hiệp


8
định là nhằm xóa bỏ tác động tiêu cực của các biện pháp đầu tư đối với
thương mại hàng hóa, tạo điều kiện thúc đẩy tự do hóa thương mại và đầu
tư nước ngoài.
Nội dung cơ bản của Hiệp định TRIMS là các nước thành viên WTO
không được áp dụng các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại không phù
hợp với nghĩa vụ đối xử quốc gia quy định trong điều III.4 và nghĩa vụ loại bỏ
các hạn chế về định lượng quy định tại điều XI.1 của GATT1994. Cụ thể:
- Điều III của GATT 1994 bao gồm những biện pháp mang tính bắt
buộc hoặc được thực thi thông qua luật trong nước và các quyết định mang

tính hành chính hoặc các điều kiện mà chỉ khi tuân thủ các điều kiện này
với được hưởng một ưu đãi nào đó và biện pháp này qui định:
+ Doanh nghiệp phải mua hoặc sử dụng các sản phẩm có xuất xứ
trong nước hoặc từ một nguồn cung cấp trong nước, dù yêu cầu đó được
xác định theo sản phẩm nhất định, theo số lượng hoặc giá trị sản phẩm hoặc
theo tỷ lệ về số lượng hoặc giá trị của sản xuất trong nước;
+ Doanh nghiệp chỉ được mua hoặc sử dụng các sản phẩm nhập khẩu
được giới hạn trong một tổng số tính theo số lượng hoặc giá trị sản phẩm
nội địa mà doanh nghiệp này xuất khẩu.
- Khoản 1, Điều XI của GATT 1994 bao gồm những biện pháp mang
tính bắt buộc hoặc được thực thi thông qua luật trong nước và các quyết định
mang tính hành chính hoặc các điều kiện mà chỉ khi tuân thủ với các điều kiện
này mới được hưởng một ưu đãi nào đó và biện pháp này hạn chế:
+ Việc doanh nghiệp nhập khẩu sản phẩm để sử dụng cho hoặc liên
quan đến sản xuất trong nước dưới hình thức hạn chế chung hoặc hạn chế
trong một tổng số liên quan đến số lượng hoặc giá trị sản xuất trong nước
mà doanh nghiệp đó xuất khẩu;
+ Việc doanh nghiệp nhập khẩu sản phẩm để sử dụng cho hoặc liên
quan đến sản xuất trong nước bằng cách hạn chế khả năng tiếp cận đến
nguồn ngoại hối liên quan đến nguồn thu ngoại hối của doanh nghiệp này;


9
+ Việc doanh nghiệp xuất khẩu hoặc bán để xuất khẩu các sản phẩm,
mặc dù được qui định dưới hình thức sản phẩm cụ thể hay dưới hình thức
số lượng hoặc giá trị sản phẩm hoặc theo một tỷ lệ về số lượng hoặc giá trị
sản xuất trong nước của doanh nghiệp.
Vì vậy, để thực hiện Hiệp định TRIMS, Việt Nam cam kết sẽ loại bỏ
hoàn toàn các biện pháp không phù hợp với Hiệp định ngay từ thời điểm
gia nhập WTO. Cụ thể Việt Nam cam kết loại bỏ các biện pháp sau: Yêu

cầu về nội địa hóa đối với dự án sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy và các mặt
hàng cơ khí, điện, điện tử; cấp ưu đãi về thuế nhập khẩu theo tỷ lệ nội địa
hóa đối với các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp hàng cơ khí, điện, điện tử và
phụ tùng ô tô; yêu cầu về đầu tư phải gắn với phát triển nguồn nguyên liệu
trong nước đối với dự án đầu tư nước ngoài chế biến các sản phẩm sữa, dầu
thực vật, mía đường, gỗ…
Kết quả là kể từ khi gia nhập WTO, Việt Nam đã thực hiện được hầu
hết tất cả các yêu cầu mà Hiệp định TRIMS đặt ra, các quy định mà Việt
Nam đưa ra mang tính bảo đảm đầu tư cao, các nhà đầu tư chỉ căn cứ vào
khả năng, nhu cầu thị trường, thị trường nội địa, thị trường ngoài nước mà
thực hiện đầu tư, không bị ràng buộc bởi yếu tố khác. Điều này quy định cụ
thể trong điều 8 liên quan đến mở cửa thị trường, đầu tư liên quan đến
thương mại trong Luật đầu tư năm 2005 đó là mở cửa thị trường đầu tư phù
hợp với lộ trình đã cam kết; không bắt buộc nhà đầu tư phải thực hiện các
yêu cầu sau đây: Ưu tiên mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ trong nước hoặc
phải mua hàng hóa, dịch vụ từ nhà sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ nhất
định trong nước; xuất khẩu hàng hóa hoặc xuất khẩu dịch vụ đạt một tỷ lệ
nhất định; hạn chế số lượng, giá trị, loại hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu
hoặc sản xuất, cung ứng trong nước; nhập khẩu hàng hóa với số lượng và
giá trị tương ứng với số lượng và giá trị hàng hóa xuất khẩu hoặc phải tự
cân đối ngoại tệ từ nguồn xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu; đạt
được tỷ lệ nội địa hóa nhất định trong hàng hóa sản xuất.
1.1.1.2. Cam kết và tình hình thực hiện hiệp định GATS


10
Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS ( General Agreement
on Trade in Services) là một bộ phận không thể tách rời trong hệ thống
pháp lý của WTO. Mục đích chính của GATS là tạo ra khuôn khổ pháp lý
cho tự do hóa thương mại dịch vụ. Hiệp định gồm có 29 điều và 8 phụ lục,

bao gồm ba phần: văn bản chính của hiệp định nêu ra những nghĩa vụ và
quy định chung, phần phụ lục bao gồm các quy định được áp dụng cho các
lĩnh vực khác nhau và các cam kết cụ thể của các nước nhằm đảm bảo mở
cửa thị trường nội địa, kể cả những chỉ dẫn đối với trường hợp các nước
tạm thời từ bỏ nguyên tắc không phân biệt đối xử, nền tảng của điều khoản
tối huệ quốc.
Hiệp định điều chỉnh thương mại tất cả các loại dịch vụ. GATS được
áp dụng cho tất cả các loại dịch vụ được trao đổi trên thế giới, chẳng hạn
như các dịch vụ ngân hàng, viễn thông, du lịch, các dịch vụ chuyên
nghiệp ... Hiệp định cũng định nghĩa 4 phương thức trao đổi dịch vụ: Một
nước cung ứng dịch vụ cho một nước khác (chẳng hạn các cuộc gọi quốc
tế), được gọi tên chính thức là “cung ứng dịch vụ qua biên giới” (hay
“phương thức 1” theo ngôn từ của WTO); người tiêu dùng hoặc doanh
nghiệp sử dụng dịch vụ tại một nước khác (ví dụ như du lịch), được gọi tên
chính thức là “tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài” (“phương thức 2”); doanh
nghiệp nước ngoài lập chi nhánh hoặc công ty con tại một nước nhằm cung
ứng dịch vụ tại nước đó (chẳng hạn các giao dịch của ngân hàng nước
ngoài tại một nước), được gọi tên chính thức là “hiện diện thương mại”
(“phương thức 3”); các cá nhân rời khỏi một nước để sang cung ứng dịch
vụ tại một nước khác (ví dụ như hoạt động của người mẫu thời trang hoặc
nhà tư vấn), được gọi tên chính thức là “hiện diện của tự nhiên nhân”
(“phương thức 4”).
Như vậy trong 4 phương thức cung cấp dịch vụ trên thì phương thức
cung cấp dịch vụ qua hiện diện thương mại có vai trò quan trọng và có mối
liên hệ trực tiếp đến đầu tư nước ngoài. Hiện diện thương mại được hiểu là
việc thành lập và duy trì pháp nhân để cung cấp dịch vụ hoặc cung cấp dịch


11
vụ thông qua việc mở chi nhánh hoặc văn phòng đại diện. Ngoài ra, phương

thức cung cấp dịch vụ thứ 4 cũng có liên quan đến đầu tư nước ngoài. Tuy
nhiên GATS không phải là hiệp định đầu tư, chỉ quy định vấn đề tiếp cận
thị trường của nhà đầu tư nước ngoài, không có các điều khoản về khuyến
khích và bảo hộ đầu tư như các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư
song phương, không quy định trình tự và thủ tục để nhà đầu tư nước ngoài
tiếp cận các cơ chế giải quyết tranh chấp.
Cam kết chung hay cam kết nền trong các biểu cam kết dịch vụ là
cam kết áp dụng với tất cả các ngành, phân ngành dịch vụ thuộc Biểu cam
kết dịch vụ. Khi gia nhập WTO, Việt Nam đã đưa ra cam kết đối với 11
ngành dịch vụ (bao gồm 155 phân ngành dịch vụ). Các ngành dịch vụ mà
Việt Nam cam kết là: (i) Dịch vụ kinh doanh; (ii) Dịch vụ thông tin; (iii)
Dịch vụ xây dựng và các dịch vụ liên quan; (iv) Dịch vụ phân phối; (v)
Dịch vụ giáo dục; (vi) Dịch vụ môi trường; (vii) Dịch vụ tài chính; (viii)
Dịch vụ y tế và xã hội; (ix) Dịch vụ du lịch; (x) Dịch vụ văn hóa, giải trí và
thể thao; (xi) Dịch vụ vận tải, do đó, cam kết nền sẽ áp dụng đối với tất cả
các ngành/phân ngành dịch vụ này.
Nội dung đầu tiên trong phần cam kết nền liên quan tới hình thức
pháp lý của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cụ thể cho phép các
doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài được cung cấp dịch vụ tại Việt Nam
dưới các hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh,
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Tuy nhiên, hình thức cụ thể tại từng
ngành, phân ngành dịch vụ cũng như lộ trình thực hiện sẽ căn cứ vào cam
kết trong từng ngành, phân ngành cụ thể tuy nhiên chưa cam kết cho phép
các doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài được lập chi nhánh, trừ trong một số
dịch vụ cụ thể mà chỉ cho phép các nhà đầu tư, các nhà cung cấp dịch vụ
nước ngoài được thiết lập chi nhánh trong các phân ngành sau: dịch vụ
pháp lý, dịch vụ máy tính và các dịch vụ liên quan, dịch vụ tư vấn quản lý,
dịch vụ liên quan đến tư vấn quản lý, dịch vụ xây dựng, dịch vụ nhượng



12
quyền thương mại, dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ, dịch vụ ngân hàng, một
số dịch vụ chứng khoán.
Ngoài ra, các doanh nghiệp nước ngoài cũng được lập văn phòng
đại diện tại Việt Nam, tuy nhiên các văn phòng đại diện này không được
phép tham gia các hoạt động sinh lời trực tiếp.
Việt Nam cũng cam kết các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
sẽ được phép thuê đất để thực hiện dự án đầu tư của mình. Tuy nhiên, thời
hạn thuê đất phải phù hợp với thời hạn hoạt động của các doanh nghiệp
này, được quy định trong giấy phép đầu tư. Thời hạn thuê đất sẽ được gia
hạn khi thời gian hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
được cơ quan có thẩm quyền gia hạn.
Đối với việc đầu tư dưới hình thức mua cổ phần, trong cam kết nền
đã đưa ra cam kết về việc nhà đầu tư nước ngoài được tham gia góp vốn
dưới hình thức mua cổ phần tại các doanh nghiệp Việt Nam. Theo đó, tổng
mức vốn cổ phần do các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ trong một doanh
nghiệp không vượt quá 30%, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam quy định
khác. Hiện nay, đối với các doanh nghiệp đã niêm yết đã cho phép các nhà
đầu tư nước ngoài được nắm giữ không quá 49% (trừ ngành ngân hàng).
Trong phần cam kết nền, cam kết cho phép các nhà quản lý, chuyên
gia, giám đốc điều hành, chuyên gia của các doanh nghiệp nước ngoài được
nhập cảnh, lưu trú và làm việc tại hiện diện thương mại (liên doanh, chi
nhánh, v.v) của các doanh nghiệp này tại Việt Nam trong một khoảng thời
gian nhất định. Việt Nam cũng cho phép người chào bán dịch vụ, người
chịu trách nhiệm thành lập hiện diện thương mại, nhà cung cấp dịch vụ theo
hợp đồng (đối với dịch vụ máy tính và dịch vụ tư vấn kỹ thuật) được nhập
cảnh và cung cấp dịch vụ tại Việt Nam.
Với những cam kết trên, sau 1 năm kể từ ngày gia nhập, Việt Nam
cam kết sẽ bãi bỏ hạn chế 30% cổ phần nước ngoài. Đối với các
ngành/phân ngành khác đã cam kết, mức cổ phần do nhà đầu tư nước ngoài

nắm giữ sẽ phù hợp với mức mà họ được phép đầu tư trực tiếp. Áp dụng


13
nguyên tắc trên, theo cam kết dịch vụ, kể từ ngày 1/1/2009 cho phép các
nhà đầu tư nước ngoài được lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tại
Việt Nam để cung cấp dịch vụ nghiên cứu thị trường. Do đó, các nhà đầu tư
nước ngoài cũng được quyền mua 100% cổ phần của các doanh nghiệp
cung cấp dịch vụ này.
1.1.1.3. Cam kết và tình hình thực hiện hiệp định các khía cạnh thương mại
liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ TRIPS
Hiệp định TRIPS ( Trade Related Aspects of Intellectual Property
rights) là Hiệp định đa phương chi tiết, đầy đủ về sở hữu trí tuệ quy định
các thành viên WTO phải thiết lập hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ đầy đủ, có
hiệu quả theo bốn tiêu chuẩn tối thiểu nhất định về: Nguyên tắc đối xử
quốc gia và nguyên tắc bảo hộ; đối tượng bắt buộc phải được bảo hộ và
mức độ phạm vi bảo hộ các đối tượng đó bao gồm: quyền tác giả và các
quyền liên quan đến quyền tác giả, sáng chế, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu,
kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp, chỉ dẫn địa lý, quyền
chống cạnh tranh không lành mạnh; hệ thống bảo đảm thực thi và thời hạn
thực hiện các tiêu chuẩn đó.
Hiệp định TRIPS không trực tiếp quy định các vấn đề về đầu tư
nhưng các quy định liên quan đến tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu, cơ chế thực
thi trong nước và cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế liên quan đến quyền
sở hữu trí tuệ tác động đến hoạt động đầu tư nước ngoài, bảo đảm cho
những sáng chế của nhà đầu tư nước ngoài được bảo hộ góp phần hoàn
thiện môi trường đầu tư tại các nước tiếp nhận đầu tư và làm cho các nhà
đầu tư yên tâm khi tiến hành đầu tư.
Trở thành thành viên của WTO, Việt Nam cam kết thực hiện đầy đủ
Hiệp định về các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương

mại (TRIPs) của WTO ngay sau khi gia nhập. Chính phủ Việt Nam đã có
những nỗ lực quan trọng trong suốt những năm qua để những quy định và
luật pháp của Việt Nam về sở hữu trí tuệ phù hợp với Hiệp định TRIPS.
Chính phủ Việt Nam đã xem xét, chỉnh sửa các luật lệ và quy định hiện tại


14
cho phù hợp với các quy định của Hiệp định TRIPS. Tuy nhiên, Việt Nam
vẫn đang trong quá trình tiến hành cải cách hệ thống luật pháp đối với việc
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nhằm bảo đảm những quyền này được thực thi
một cách hiệu quả. Luật Sở hữu trí tuệ đã được Quốc hội thông qua vào
29/11/2005 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/7/2006. Ngày 22 tháng 9 năm
2006, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành các Nghị định quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành Luật Sở hữu trí tuệ, cụ thể là: Nghị định số
103/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và

hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công
nghiệp; Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ; Nghị
định số 106/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định xử phạt
vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp.
Nội dung cam kết cụ thể thể hiện qua các tiêu chuẩn về nội dung bảo
hộ như sau: Bản quyền tác giả; nhãn hiệu, bao gồm cả nhãn hiệu dịch vụ;
chỉ dẫn địa lý, bao gồm cả tên gọi xuất xứ hàng hoá; kiểu dáng công
nghiệp; sáng chế...
1.1.2. Chính sách liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
của Việt Nam.
Để triển khai thực hiện các hiệp định song phương và đa phương liên
quan đến hoạt động đầu tư và trước thực tế các văn bản quy định về đầu tư

được ban hành sau thời gian thực hiện có nhiều vấn đề còn thiếu nhất quán
đặc biệt trong các quy định còn có sự phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư
và các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đã hạn chế việc
huy động và phát huy các nguồn lực cũng như yêu cầu của sự nghiệp đổi
mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động hội nhập kinh tế,
Việt Nam đã ban hành chính sách liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài của Việt Nam đó là Luật Đầu tư năm 2005 được Quốc hội Việt
Nam thông qua ngày 29/11/2005, có hiệu lực từ 01/07/2006 gồm 10


15
chương và 89 điều được xây dựng trên cơ sở của Luật Đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước và có phạm vi áp
dụng thống nhất và mở rộng hơn cụ thể phạm vi điều chỉnh quy định về
hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh; quyền và nghĩa vụ của nhà
đầu tư; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; khuyến khích và
ưu đãi đầu tư; quản lý nhà nước về đầu tư tại Việt Nam và đầu tư từ Việt
Nam ra nước ngoài và đối tượng áp dụng là nhà đầu tư trong nước và nhà
đầu tư nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam và
đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài, tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động
đầu tư.
Trên cơ sở Luật đầu tư 2005, chính sách liên quan đến hoạt động đầu
tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam thể hiện qua các văn bản dưới luật
khác như Nghị định 78/2006/NĐ-CP quy định về đầu tư trực tiếp nước
ngoài, Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ qui định
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư, Nghị định
101/2006/NĐ-CP quy định về việc đăng ký lại, chuyển đổi và đăng ký đổi
giấy chứng nhận đầu tư của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư và các Nghị định,
Thông tư, văn bản hướng dẫn của các Bộ, ngành đối với hoạt động đầu tư

trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đã thể hiện sự thay đổi thực sự trong
quan điểm của Chính phủ về việc tạo lập môi trường pháp lý công bằng,
minh bạch hơn cho tất các các nhà đầu tư, thể hiện thái độ tích cực của Việt
Nam trong việc cải thiện môi trường kinh doanh, môi trường đầu tư của
Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
1.1.3. Nội dung và chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu
tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Nội dung quản lý nhà nước về đầu tư được quy định tại điều 71
chương VII Nghị định 08/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ qui
định và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư bao gồm:


16
-Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
chính sách về đầu tư phát triển để huy động và điều tiết các nguồn lực cho
đầu tư phát triển;
- Ban hành, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các chính
sách, pháp luật liên quan đến hoạt động đầu tư; xây dựng các tiêu chuẩn
quy phạm kỹ thuật liên quan đến hoạt động đầu tư; giám sát việc ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến đầu tư; tổng hợp, kiến nghị
hoặc huỷ bỏ các văn bản pháp luật không còn phù hợp hoặc do các cấp ban
hành không đúng thẩm quyền hoặc có nội dung không phù hợp;
- Thực hiện quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế, đàm phán, ký kết
các điều ước quốc tế liên quan đến hoạt động đầu tư theo quy định pháp
luật về điều ước quốc tế;
- Quản lý nhà nước về hoạt động xúc tiến đầu tư; xây dựng hệ thống
thông tin quốc gia phục vụ hoạt động đầu tư;
- Cấp, điều chỉnh, thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư; quản lý thống
nhất hoạt động đăng ký đầu tư và cấp Giấy chứng nhận đầu tư;
- Kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện các quy định của pháp

luật đầu tư đối với hoạt động quản lý nhà nước về đầu tư và hoạt động của
nhà đầu tư;
- Hướng dẫn, hỗ trợ nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư và giải quyết
những vướng mắc, yêu cầu của nhà đầu tư trong quá trình hoạt động đầu tư;
- Đánh giá tác động và hiệu quả kinh tế vĩ mô của hoạt động đầu tư;
- Phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước các cấp trong quản lý
hoạt động đầu tư;
- Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ tăng cường năng lực quản lý đầu tư
cho hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư các cấp;
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo của các tổ chức, cá nhân liên quan đến
hoạt động đầu tư theo thẩm quyền. Khen thưởng các tổ chức, cá nhân có


17
thành tích trong hoạt động đầu tư hoặc xử lý vi phạm đối với các tổ chức,
cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật.
Chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài của các Bộ, ngành như sau:
1.1.3.1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Theo quy định tại khoản 2 điều 81 Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 Bộ
Kế hoạch và Đầu tư chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý
nhà nước về hoạt động đầu tư cụ thể:
- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
xây dựng và rà soát các văn bản pháp luật, chính sách về đầu tư. Hướng
dẫn, phổ biến, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp
luật về đầu tư. Ban hành các mẫu văn bản liên quan đến thủ tục đầu tư để
áp dụng trong phạm vi cả nước.
- Tổ chức, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương xây dựng, tổng
hợp trình Chính phủ về quy hoạch, kế hoạch đầu tư phát triển; quy hoạch
tổng thể quốc gia về phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế.

- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
trong việc lập danh mục dự án quốc gia thu hút vốn đầu tư trình Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt; tham mưu về việc bổ sung quy hoạch đối với dự án
đầu tư thuộc thẩm quyền chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ không nằm
trong quy hoạch; có ý kiến với cơ quan cấp Giấy chứng nhận đầu tư về sự
cần thiết của dự án đầu tư thuộc thẩm quyền chấp thuận của Thủ tướng
Chính phủ mà thuộc lĩnh vực chưa có quy hoạch để trình Thủ tướng Chính
phủ chấp thuận.
-Thẩm tra các dự án đầu tư quan trọng quốc gia và dự án đầu tư khác
theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
- Thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động xúc tiến đầu tư; xây dựng
chương trình, kế hoạch và tổ chức thực hiện chương trình quốc gia về vận


18
động xúc tiến đầu tư; phối hợp với các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh trong việc tổ chức hoạt động xúc tiến đầu tư; đặt đại diện tổ chức xúc
tiến đầu tư tại nước ngoài; thực hiện quản lý quỹ xúc tiến đầu tư quốc gia.
- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành đàm phán và trình Chính phủ
ký kết hoặc tham gia các điều ước quốc tế liên quan đến hoạt động đầu tư;
thực hiện hợp tác quốc tế về hoạt động đầu tư.
- Tổ chức hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, tăng cường năng
lực quản lý đầu tư cho hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư các
cấp.
- Phối hợp với Tổng cục Thống kê tổ chức hoạt động thống kê về
đầu tư theo quy định của pháp luật về thống kê; tổ chức, xây dựng hệ thống
thông tin quốc gia phục vụ hoạt động đầu tư.
- Phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương giải quyết các vấn đề phát
sinh trong quá trình hình thành, triển khai và thực hiện dự án đầu tư.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động đầu tư.

- Kiểm tra, giám sát, thanh tra hoạt động đầu tư theo thẩm quyền;
xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát liên ngành đối với hoạt
động đầu tư; kiểm tra việc cấp, điều chỉnh, thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư
của cơ quan cấp Giấy chứng nhận đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư và
Nghị định này; kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các quy hoạch đã được cấp
có thẩm quyền phê duyệt trong quá trình đầu tư.
- Định kỳ 6 tháng, hàng năm, tổng hợp tình hình hoạt động đầu tư và
báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
1.1.3.2. Bộ Tài chính
Quyền hạn và trách nhiệm của Bộ Tài chính đối với hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam được quy định tại điều 73 Nghị định
108/2006/NĐ-CP cụ thể:
- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan trong việc xây dựng
pháp luật, chính sách hỗ trợ và ưu đãi đầu tư; hướng dẫn trình tự, thủ tục về
hỗ trợ và hưởng ưu đãi đầu tư thuộc thẩm quyền.


19
- Cấp phép hoạt động đối với dự án trong lĩnh vực thuộc thẩm quyền;
kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của các dự án đã cấp phép.
- Thẩm tra và có ý kiến bằng văn bản về các vấn đề liên quan đến tài
chính, bảo lãnh về tài chính của Chính phủ đối với dự án đầu tư thuộc thẩm
quyền chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ và dự án thuộc lĩnh vực đầu tư
có điều kiện.
- Tổ chức kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về tài
chính, kế toán, thuế và hải quan liên quan đến hoạt động đầu tư.
- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh giải quyết các khó khăn, vướng mắc của nhà đầu tư trong lĩnh vực
thuế, phí và lệ phí, thủ tục hải quan, quản lý tài chính và hoạt động tài chính
khác.

1.1.3.3. Bộ Công thương
- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan trong việc xây dựng
pháp luật, chính sách về thương mại liên quan đến hoạt động đầu tư.
- Cấp phép hoạt động đối với dự án trong lĩnh vực thuộc thẩm quyền;
kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của các dự án đã cấp phép.
- Thẩm tra và có ý kiến bằng văn bản về các vấn đề liên quan đến
hoạt động thương mại của dự án đầu tư thuộc thẩm quyền chấp thuận của
Thủ tướng Chính phủ và dự án thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện; công bố
các điều kiện cam kết liên quan đến đầu tư trong các điều ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên.
- Tổ chức kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động thương mại liên
quan đến hoạt động đầu tư.
- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh giải quyết các khó khăn, vướng mắc liên quan đến hoạt động
thương mại của dự án đầu tư.
1.1.3.4. Ủy ban nhân dân tỉnh


20
- Căn cứ vào quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phối hợp với các
Bộ, ngành liên quan lập và công bố Danh mục dự án thu hút đầu tư tại địa
phương; tổ chức vận động và xúc tiến đầu tư.
- Chủ trì tổ chức việc đăng ký đầu tư, thẩm tra và cấp Giấy chứng
nhận đầu tư và điều chỉnh, thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư, quyết định
chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư trước thời hạn đối với các dự án đầu
tư thuộc thẩm quyền.
- Thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với dự án đầu tư trên
địa bàn ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và khu
kinh tế theo các nội dung chủ yếu sau:
+ Theo dõi, giám sát, kiểm tra việc thực hiện mục tiêu đầu tư quy

định tại Giấy chứng nhận đầu tư, tiến độ góp vốn và triển khai dự án đầu tư;
giám sát, kiểm tra việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính, quan hệ lao động
tiền lương, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động và người sử
dụng lao động, hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, bảo vệ môi
trường sinh thái; chủ trì hoặc tham gia cùng các Bộ, ngành thực hiện thanh
tra các dự án đầu tư trên địa bàn;
+ Tổ chức thực hiện việc giải phóng mặt bằng; cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất và giám sát việc sử dụng đất;
+ Giải quyết các khó khăn, vướng mắc của nhà đầu tư; kiến nghị Thủ
tướng Chính phủ hoặc các Bộ, ngành có liên quan giải quyết những vấn đề
vượt thẩm quyền;
+ Đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư trên địa bàn.
- Chỉ đạo lập quy hoạch chi tiết xây dựng khu công nghiệp, khu chế
xuất và phê duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng khu công nghiệp, khu chế
xuất theo quy định của pháp luật về xây dựng.
- Định kỳ hàng quý, 6 tháng và hàng năm, chủ trì, phối hợp với Ban
Quản lý tổng hợp để báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư về hoạt động đầu tư
trên địa bàn.
1.1.3.5. Một số cơ quan ngành khác


21
Liên quan đến quản lý nhà nước về đầu tư còn có một số Bộ quản lý
ngành khác như Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Khoa học và Công nghệ,
Bộ Xây dựng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam với quyền hạn và trách
nhiệm cơ bản sau:
- Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các Bộ, ngành liên quan
trong việc xây dựng pháp luật, chính sách liên quan đến hoạt động đầu tư.
- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan trong việc xây dựng
và ban hành pháp luật, chính sách, tiêu chuẩn quy phạm kỹ thuật và hướng

dẫn thực hiện.
- Trình Chính phủ ban hành các điều kiện đầu tư đối với lĩnh vực đầu
tư có điều kiện thuộc ngành kinh tế - kỹ thuật.
- Xây dựng quy hoạch, kế hoạch, danh mục dự án thu hút vốn đầu tư
của ngành; tổ chức vận động, xúc tiến đầu tư chuyên ngành.
- Công bố công khai quy hoạch, kế hoạch, tiêu chuẩn kỹ thuật, điều
kiện đầu tư, danh mục dự án thu hút vốn đầu tư của ngành.
- Thẩm tra và có ý kiến bằng văn bản về khả năng đáp ứng điều kiện mà
dự án đầu tư phải đáp ứng đối với các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền chấp
thuận của Thủ tướng Chính phủ và dự án thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện.
- Kiểm tra, thanh tra, giám sát chuyên ngành việc đáp ứng các điều
kiện đầu tư và quản lý nhà nước đối với các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền.
- Chủ trì, phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và các Bộ, ngành
liên quan và giải quyết các khó khăn, vướng mắc của dự án đầu tư trong
lĩnh vực thuộc chuyên ngành quản lý của mình.
1.2. Sự cần thiết của công tác quản lý Nhà nước về hải quan đối với
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
1.2.1. Tính tất yếu của công tác quản lý Nhà nước về hải quan đối với
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, yêu cầu tạo thuận lợi
trong bối cảnh toàn cầu hóa thương mại đã trở thành xu thế tất yếu cho quá
trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia trong đó việc thu hút đầu tư nhất là


×