Lớp : K46 B-C KH-ĐT
Nhóm 2
GVHD: Ths. Hồ Tú Linh
DANH SÁCH NHÓM
K46B - KHĐT
1. Nguyễn Thị Đoan Trang (NT)
2. Nguyễn Thị Hồng
3. Đậu Thị Mai Phương
4. Đào Thị Phúc Nhi
5. Võ Thanh Hương
K46C - KHĐT
6. Nguyễn Thị Hà Phương
7. Ngô Đình Hoài
Lớp : K46 B-C KH-ĐT
Nhóm 2
GVHD: Ths. Hồ Tú Linh
MỤC LỤC
Lớp : K46 B-C KH-ĐT
Nhóm 2
GVHD: Ths. Hồ Tú Linh
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tăng trưởng kinh tế có vai hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc
gia, nó là điều kiện vật chất cần thiết để đảm bảo cho sự phát triển. Ngày nay, nó
đã trởthành mục tiêu và là động lực của nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là đối với
các nướcđang phát triển.
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế lại phụ thuộc vào các yếu tố nguồn lực và khả
năng huy động, sử dụng các yếu tố đó vào quá trình sản xuất để tạo ra của cải vật chất
cho xãhộiQuá trình đó liên tục được tiếp diễn và tạo thành chu kỳ tái sản xuất với quy
mô ngày càng được mở rộng, đây là cơ sở và cũng chính là kết quả được tích luỹ lại
từ hoạt động đầu tư. Như vậy, đầu tư có tác động trực tiếp đối với tăng trưởng kinh
tếvàphát triển của một nền kinh tế. Kết quả của hoạt động đầu tư là làm gia tăng
năng lực sản xuất, cung
ứng các sản phẩm vật chất, dịch vụ cho nền kinh tế,
thúc đẩy quá trìnhchuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển giao công nghệ, từ đó tạo đà
cho sự tăng trưởng và phát triểnkinh tế.
Kể từ khi bắt đầu đổi mới đến nay, chúng ta luôn đạt được tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao. Điều này thể hiện con đường phát triển đúng đắn mà Đảng và Nhà nước ta
đã lựa chọn. Trên con đường phát triển của mình, chúng ta đã xác định nhiều yếu tố
ảnh hưởng đến tăng trưởng và trong đó yếu tố quan trọng nhất chính là đầu tư. Đã có
rất nhiều nhà kinh tế đã nghiên cứu các mô hình tăng trưởng kinh tế và tác động của
đầu tư. Tuy nhiên, không phải mô hình nào cũng hoàn hảo mà đều ẩn chứa trong đó
những hạn chế và tồn tại. Bởi vậy thật khó để xác định con đường phát triển của đất
nước theo một mô hình cụ thể. Bởi từ lý thuyết đến thực tế luôn là một khoảng cách
khá xa. Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển, duy trì được
mứctăng trưởng cao và ổn định so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, mức
sống người dân được cải
thiện rõ rệt, chất lượng cuộc sống được nâng cao,... Để có
được những thành tựu đó, phải kể đến vai trò đặc biệt quan trọng của đầu tư. Với
những chính sách nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trong và ngoài
nước, Việt Nam đang nâng cao uy tín, vị thế của mình trên trường quốc tế.
Lớp : K46 B-C KH-ĐT
Nhóm 2
GVHD: Ths. Hồ Tú Linh
Tuy nhiên, trong quá trình huy động và sử dụng các nguồn lực cho hoạt động đầu
tư để tạo động lực cho tăng trưởng và phát triển nền kinh tế ở nước ta cũng bộc lộ
nhiều hạn chế, đòi hỏi chúng ta phải có những đánh giá, nhận định đúng về quá trình
thực hiện, rút ra những vấn đề cần phải khắc phục và đề ra biện pháp tổ chức thực hiện
cho phù hợp với tình hình thực tế nhằm đạt được những mục tiêu mong muốn.
Chúng ta chỉ có thể nhìn con đường phát triển của mình dưới các mô hình để từ
đó chỉ ra được những hạn chế dưới góc độ đó. Do đó, để hiểu rõ hơn vấn đề này nhóm
2 đã chọn và nghiên cứu đề tài: "Vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển
kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 2011-2013". Mục đích của đề tài cung cấp các kiến thức
về đầu tư và tăng trưởng- phát triển và qua đó thấy được những hạn chế trong quá
trình tăng trưởng và phát triển kinh tế dưới góc độ các lý thuyết về đầu tư.Do thời gian
nghiên cứu và kiến thức của các thành viên trong nhóm có hạn nên đề tài này còn có
nhiều thiếu sót, chúng em mong nhận được sự góp ý của cô giáo hướng dẫn để đề tài
được hoàn thiện hơn.
2. Đối tượng nghiên cứu
Vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Việt Nam giai đoạn
2011-2013
3.Phương pháp nghiên cứu
- Số liệu thứ cấp
- Phương pháp nghiên cứu: phân tích, thống kê
4.Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Ở quốc giaViệt Nam
- Thời gian: Giai đoạn từ năm 2011-2013.
Lớp : K46 B-C KH-ĐT
Nhóm 2
GVHD: Ths. Hồ Tú Linh
PHẦN II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ: VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ
ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
QUA CÁC LÝ THUYẾT ĐẦU TƯ
1.1.Cơ sở lý luận về vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh
tế qua các lý thuyết đầu tư
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Đầu tư
Theo quan điểm trên góc độ tài chính, thì đầu tư là một chuỗi các hoạt động chi
tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn và sinh lời; Theo
nghĩa rộng và bao quát thì đầu tư là việc sử dụng phối hợp các nguồn lực ở hiện tại
vào một hoạt động nào đó nhằm đạt được một hay một số tập hợp mục đích của nhà
đầu tư trong tương lai.số: 59/2005/QH11, được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 và chínhthức có
hiệu lực từ ngày 01/7/2006 thì: “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng cácloại tài sản
hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầutư theo quy
định của pháp luật”.
Tuỳ theo mục đích và yêu cầu quản lý đối với từng loại hình đầu tư mà người ta
tiến hành phân loại hoạt động đầu tư theo các tiêu chí khác nhau, ví dụ: Nếu theo bản
chất của đối tượng đầu tư, có: đầu tư cho các đối tượng vật chất, đầu tư cho các đối
tượng tài chính, đầu tư cho các đối tượng phi vật chất; Theo cơ cấu tái sản xuất, có đầu
tư chiều rộng, đầu tư chiều sâu;Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả
đầu tư, có: đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật,
đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư, có: đầu tư trực
tiếp, đầu tư gián tiếp. Theo nguồn vốn, có: đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài,...
Lớp : K46 B-C KH-ĐT
Nhóm 2
GVHD: Ths. Hồ Tú Linh
1.1.1.2. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế được hiểu là sự gia tăng về sản lượng của nền kinh tế
theothời gian. Theo quan điểm của kinh tế học, thì tăng trưởng kinh tế thường chỉ sự
giatăng của giá trị tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc sự gia tăng của giá trị GNP
bình quân đầu người.
Tuy nhiên, để phán ánh chính xác hơn sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia,
người ta thường chỉ tính sản lượng ròng của một nền kinh tế, tức là tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) của nền kinh tế đó.
Như vậy, tăng trưởng kinh tế được tính bằng mức tăng GDP hoặc mức tăng GDP
bình quân đầu người theo thời gian. Điều này có nghĩa là tăng trưởng kinh tế chỉ thể
hiện sự gia tăng về mặt lượng của nền kinh tế theo thời gian.
1.1.1.3. Phát triển kinh tế
Phát triển kinh tế là sự biến đổi kinh tế theo chiều hướng tích cực dựa trên sự
biến đổi cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu của các yếu tố cấu thành của nền kinh tế.
Như vậy, đã có phát triển kinh tế là bao hàm nội dung của sự tăng trưởng kinh tế,
nhưng nó được tăng trưởng theo một cách vượt trội so sự đổi mới về khoa học công
nghệ, do năng suất xã hội cao hơn hẳn và có cơ cấu kinh tế hợp lí và hiệu quả hơn hẳn.
Do đó, khái niệm phát triển kinh tế bao gồm :
+ Trước hết là sự tăng thêm về khối lượng của cải vật chất, dịch vụ và sự tiến bộ
về cơ cấu kinh tế và đời sống xã hội.
+ Tăng thêm qui mô sản lượng và tiến bộ về cơ cấu kinh tế xã hội là hai mặt vừa
phụ thuộc lại vừa độc lập tương đối của lượng và chất.
+ Sự phát triển là một quá trình tiến hóa theo thời gian do những nhân tố nội tại
của nền kinh tế quyết định. Có nghĩa là người dân của quốc gia đó phải là những thành
viên chủ yếu tác động đến sự biến đổi kinh tế của đất nước.
Lớp : K46 B-C KH-ĐT
Nhóm 2
GVHD: Ths. Hồ Tú Linh
+ Kết quả của sự phát triển kinh tế - xã hội là kết quả của một quá trình vận động
khách quan, còn mục tiêu kinh tế xã hội đề ra là thể hiện sự tiếp cận tới các kết quả đó.
Tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế gắn liền với quá trình công nghiệp hóa
và hiện đại hóa của mỗi quốc gia, là bước đi tất yếu của mọi sự biến đổi kinh tế từ thấp
đến cao, theo xu hướng biến đổi không ngừng.
1.1.2. Các lý thuyết về đầu tư
1.1.2.1. Nhấn mạnh vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế
Mô hình Robert Solow (1956) cho rằng việc tăng vốn sản xuất chỉ ảnh hưởng
đến tăng trương kinh tế trong ngắn hạn mà không ảnh hưởng trong dài hạn, tăng
trưởng sẽ đạt ở trạng thái dừng.
Mô hình Sung Sang Park cho rằng: nguồn gốc tăng trưởng là tăng cường vốn
đầu tư quốc gia cho đầu tư con người.
Theo mô hình Tân cổ điển: nguồn gốc của tăng trưởng tùy thuộc vào cách thức
kết hợp 2 yếu tố đầu vào vốn (K) và lao động (L).
Theo quan điểm tăng trưởng của trường pháikinh tế học vĩ mô Keynes – ông tổ
của Lỹ thuyết gia tốc đầu tư nhưng sau này được các nhà khoa học khác bổ sung và
hoàn thiện thêm. Nguyên tắc này phát biểu rằng tốc độ đầu tư chủ yếu do tốc độ thay
đổi sản lượng quyết định. Để sản xuất ra một đơn vị đàu ra cho trước thì cần phải có
một lượng vốn đầu tư nhất định.
Mô hình Harrod – Domar: Đây là mô hình mà xuất phát điểm là đầu tư, thể hiện
mối quan hệ giữa đầu tư và sự gia tăng tổng sản phẩm bằng phương trình:
I = K x Y
Và I = S
Đẳng thức trên chính là điều kiện để đảm bảo cho sự tăng trưởng của tổng sản phẩm.
Trong đó: I là toàn bộ vốn cung ứng cho đầu tư.
S là vốn tiết kiệm hay phần tích lũy trong tổng sản phẩm.
Lớp : K46 B-C KH-ĐT
Nhóm 2
GVHD: Ths. Hồ Tú Linh
Y là phần tăng tổng sản phẩm do đầu tư mang lại.
K là hệ số đảm bảo sự cân bằng của nền kinh tế khi có tăng trưởng.
Mô hình này có ý nghĩa quan trọng trong thời kì đầu của các giai đoạn phát triển
của bất kì một quốc gia nào.Quan điểm chủ yếu của mô hình này là nhấn mạnh đến vai
trò của các yếu tố vốn (vốn là vấn đề chủ yếu nhất để tăng trưởng kinh tế).Các tổ chức
tài chính quốc tế như Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế cũng dựa vào mô hình
này để nhấn mạnh vai trò của viện trợ trong việc bù đắp các chênh lệch về vốn và trao
đổi ngoại thương.
Mặc dù các mô hình kinh tế được đưa ra đều khẳng định vai trò của đầu tư đối
với tăng trưởng kinh tế, nhưng bản thân mô hình cũng có những hạn chế nhất định.
Các nguyên lý về vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng đã tiếp tục được làm rõ qua
các hoạt động thực tiễn. Thực tế cho thấy rằng: mức gia tăng sản lượng của nền kinh
tế phụ thuộc vào sự gia tăng quy mô vốn đầu tư. Vì vậy, việc gia tăng quy mô vốn đầu
tư và sử dụng vốn đầu tư hợp lý là những nhân tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu
quả đầu tư, tăng năng suất nhân tố tổng hợp, tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng CNH-HĐH, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế…do đó, nâng
cao chất lượng tăng trưởng kinh tế.Mối quan hệ giữa đầu tư với tăng trưởng được
mô hình hoá qua công thức:
Mức gia tăng GDP=
Trong đó: Hệ số ICOR là tỷ số giữa quy mô đầu tư tăng thêm
với mức gia tăngsảnlượng,
hay là suất đầu tư cần thiết để tạo ra một sản lượng tăng thêm. Hệ số nàyđược
tínhtoán như sau:
ICOR= =
Nếu đem chia cả tử và mẫu số cho GDP, ta có:
ICOR=
Như vậy, nếu hệ số ICOR không đổi, mức tăng trưởng kinh tế GDP hoàn toàn
phụ thuộc vào quy mô vốn đầu tư.
Lớp : K46 B-C KH-ĐT
Nhóm 2
GVHD: Ths. Hồ Tú Linh
Nhìn chung các mô hình tăng trưởng kinh tế trên được nghiên cứu trên nhiều góc
độ khác nhau nhưng đều có thể ứng dụng và dự báo, phân tích, đánh giá thực trạng
tăng trưởng kinh tế (đói với nền kinh tế thị trường).
Mô hình tăng trưởng kinh tế càng sử dụng nhiều nhân tố để nghiên cứu càng có ý
nghĩa lý luận cao và càng sát với thực tiễn khi ứng dụng chúng vào phân tích, đánh giá
thực trạng tăng trưởng kinh tế.
1.1.2.2. Nhấn mạnh vai trò của đầu tư đối với phát triển kinh tế.
1.1.2.2.1.Mô hình đầu tư tạo điều kiện cho việc phát triển ngành kinh tế mũi
nhọn, từ đó tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Mô hình các giai đoạn phát triển kinh tế của W.Rostow:
Theo ông quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia phải trải qua năm giai đoạn:
xã hội truyền thống, chuẩn bị cất cánh, cất cánh, trưởng thành và mức tiêu dùng cao.
Giai đoạn xã hội truyền thống: sản xuất nông nghiệp giữ vai trò chủ yếu trong
hoạt động kinh tế, năng suất lao động thấp, nhìn chung nền kinh tế không có những
biến đổi mạnh.
Giai đoạn chuẩn bị cất cánh: ngành công nghiệp bắt đầu phát triển, nhu cầu đầu
tư tăng lên đã thúc đẩy sự hoạt động của ngân hàng và sự ra đời của các tổ chức huy
động vốn.
Giai đoạn cất cánh: là giai đoạn trung tâm của sự phát triển trong mô hình các
giai đoạn phát triển kinh tế của W.Rostow. Những yếu tố cơ bản đảm bảo cho sự cất
cánh là: huy động được nguồn vốn đầu tư cần thiết, tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư tăng từ
5% đến 10%, và cao hơn trong thu nhập quốc dân thuần túy (NNP). Ngoài nguồn vốn
huy động trong nước thì nguồn vốn huy động nước ngoài cũng quan trọng không kém.
Đầu tư tạo điều kiện phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, đóng vai trò chủ đạo
trong việc lôi kéo các ngành khác phát triển.
Giai đoạn trưởng thành: tỷ lệ đầu tư đã tăng từ 10% đến 20% thu nhập quốc dân
thuần túy. Đồng thời ở giai đoạn này đã xuất hiện nhiều ngành công nghiệp mới.
Lớp : K46 B-C KH-ĐT
Nhóm 2
GVHD: Ths. Hồ Tú Linh
Giai đoạn tiêu dùng cao: thu nhập bình quân đầu người tăng cao,...
Tóm lại, đầu tư sẽ thúc đẩy tăng trưởng các ngành cụ thể trong từng giai đoạn,
điều đó tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng cao hơn.
1.1.2 2.2.Đầu tư là cú huých từ bên ngoài giúp các nước đang phát triển thoát
khỏi vòng luẩn quẩn của nghèo đói
Mô hình vòng luẩn quẩn của Nurse
Lý thuyết về “cái vòng luẩn quẩn” và “cú huých” từ bên ngoài được nhiều nhà
kinh tế học tư sản đưa ra, trong đó có Paul Anthony Samuelson.Theo ông các nước có
nền kinh tế tăng trưởng thấp thường rơi vào vòng luẩn quẩn.
Lý thuyết cho rằng, để tăng trưởng kinh tế nói chung phải bảo đảm bốn nhân tố
là nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, cơ cấu tư bản và kỹ thuật.
Tiết kiệm và đầu tư thấp
Thu nhập bình quân thấp
Tốc độ tích lũy vốn thấp
Năng suất thấp
Sơ đồ 1-1: Vòng luẩn quẩn của các nước nghèo
Nhân lực ở các nước đang phát triển thường có chất lượng thấp do sức khỏe
không tốt, thiếu dinh dưỡng, tuổi thọ trung bình thấp, bệnh tật, thất nghiệp trá
hình,...Do đó phải tập trung đầu tư cho chương trình xóa nạn mù chữ, trang bị kỹ
thuật, xây dựng bệnh viện, trường học, gửi người ra nước ngoài học tập để mở mang
tri thức, tiếp thu công nghệ,...
Tài nguyên thiên nhiên ở các nước này thường nghèo nàn, chủ yếu là đất nông
nghiệp khoáng sản ít. Vì vậy việc sử dụng đất hiệu quả sẽ làm tăng sản lượng quốc
dân. Muốn vậy phải có chế độ bảo vệ đất đai, đầu tư phân bón canh tác...để tập trung
kích thích làm vốn đầu tư và kỹ thuật.
Lớp : K46 B-C KH-ĐT
Nhóm 2
GVHD: Ths. Hồ Tú Linh
Muốn có tư bản cần có tích lũy vốn. Nhưng do nghèo, năng suất lao động thấp, dẫn
đến thu nhập thấp, chỉ bảo đảm cho dân cư có mức sống tối thiểu, không có tiết kiệm. Do
vậy không có vốn để phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng. Để có tư bản, các nước
này phải vay nước ngoài hoặc trông chờ vào các khoản đầu tư ngoài nước.
Các nước đang phát triển có trình độ ký thuật rất kém, nhưng có lợi thế và có thể
bắt chước về công nghệ của các nước đi trước. Đây là con đường hiệu quả để nắm bắt
được khoa học, công nghệ hiện đại, quản lý và kinh doanh vì mục tiêu phát triển.
Nhìn chung ở các nước đang phát triển, bốn nhân tố trên rất khan hiếm và việc
kết hợp chúng đang gặp trở ngại lớn, khó khăn càng tăng thêm trong cái “vòng luẩn
quẩn” của sự nghèo khổ.
CungCầu
Đầu tư thấp
Năng lực sản
Thu hập thấp
Tích lũy thấp
Đầu tư thấp
Động lực ĐT thấp
Thu nhập thấp
Tiêu dùng thấp
xuất thấp
Sơ đồ 1-1: Vòng luẩn quẩn của Nurse
Đầu tư nước ngoài là cú huých bên ngoài giúp kinh tế thoát khỏi vòng luẩn quẩn
và tiếp tục tăng trưởng. Như vậy để phát triển phải có “cú huých từ bên ngoài” . Đây là
tác động kép lên cả cung và cầu. Điều này có nghĩa là phải có đầu tư nước ngoài vào
các nước đang phát triển. Muốn vậy phải tạo ra các điều kiện thuận lợi nhằm kích
thích tích cực đầu tư của tư bản nước ngoài. Đây chính là vai trò của đầu tư nước
ngoài đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế của các nước đang phát triển.
1.1.2.3. Nhấn mạnh vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
Mô hình của Robert Sollow:
Mô hình Harrod - Domar chỉ ra được sự tăng trưởng là do kết quả tương tác giữa
tiết kiệm và đầu tư. Tuy vậy trên thực tế thì tăng trưởng kinh tế có thể xảy ra không
Lớp : K46 B-C KH-ĐT
Nhóm 2
GVHD: Ths. Hồ Tú Linh
phải do tăng đầu tư, hoặc ngược lại nếu đầu tư không có hiệu quả vẫn có thể dẫn đến
không có sự tăng trưởng. Trong trường hợp đầu tư có hiệu quả thì sự gia tăng tỷ lệ tiết
kiệm cũng chỉ có thể tạo nên gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn chứ
không thể đạt được trong dài hạn.
Năm 1956, dựa trên tư tưởng thi trường tự do của lý thuyết Tân cổ điển, Robert
Sollow đã xây dựng nên mô hình tăng trưởng Sollow.
Nếu như mô hình Harrod – Domar chỉ xét đến vai trò của vốn sản xuất (thông
qua tiết kiệm và đầu tư) đối với tăng trưởng thì Sollow đã đưa thêm lao động và tiến
bộ công nghệ vào mô hình tăng trưởng.
Hàm sản xuất Cobb – Douglas giản đơn:
Y = Kα.L(1-α)
Trong đó: Y, K, L lần lượt là sản lượng, vốn và lao động.
Mô hình tăng trưởng Harrod – Domar, ta đã có: I = s.Y (với I là đầu tư của nền
kinh tế; s là tỷ lệ tiết kiệm quốc gia).
Chia cả 2 vế phương trình trên cho L, ta có mức đầu tư bình quân một công nhân:
i = s.Y
Tại mỗi thời điểm, quy mô vốn đầu tư là yếu tố quyết dịnh sản lượng của nền
kinh tế, nhưng vốn có thể thay đổi theo thời gian, dẫn đến tăng trưởng kinh tế. Mô
hình Sollow xác định hai lực lượng tác động tới sự thay đổi quy mô vốn là đầu tư (làm
tăng lượng vốn) và khấu hao (làm giảm lượng vốn).
Thay đổi lượng vốn = Đầu tư – Khấu hao
Với quy mô dân số nhất định, giả sử tỷ lệ khấu hao vốn sản xuất là một số δ
không đổi, tức là mức khấu hao bình quân công nhân là δ.k, ta có:
∆k = i - δ.k
Trong đó∆klà sự thay đổi lượng vốn giữa năm nay và năm khác.
Lớp : K46 B-C KH-ĐT
Nhóm 2
GVHD: Ths. Hồ Tú Linh
k càng cao thì đầu tư và sản lượng càng cao, nhưng đồng thời k càng cao thì mức
khấu hao càng lớn.
Mô hình Sollow có cách tiếp cận độc đáo khi nó xuất phát từ mô hình Cobb –
Douglas, nó chỉ ra vai trò của các nguồn lực đầu vào: Vốn lao động đối với tăng
trưởng kinh tế nhưng đặt trong điều kiện tiến bộ không ngừng của khoa học công
nghệ; đo lường tính toán được chính xác tỷ lệ phần trăm đóng góp các nguồn lực đầu
vào trong tăng trưởng kinh tế với tiến bộ khoa học thay đổi theo thời gian.
1.2.Cơ sở thực tiễn về vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển
kinh tế
Tăng trưởng kinh tế có vai hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc
gia, nó là điều kiện vật chất cần thiết để đảm bảo cho sự phát triển. Ngày nay, nó
đã trở thành mục tiêu và là động lực của nhiều quốc gia trên thế giới như Hàn Quốc,
Nhật Bản, Trung Quốc...
Hàn Quốc – vốn từng được biết đến là một trong những nước nông nghiệp
nghèo nhất thế giới đã tiến hành phát triển kinh tế một cách nỗ lực . Trong vòng chưa
đầy bốn thập kỷ, Hàn Quốc đã đạt được điều gọi là “Kì tích sông Hàn” – một quá trình
phi thường làm chuyển đổi căn bản nền kinh tế Hàn Quốc, đánh dấu một bước ngoặt
trong lịch sử dân tộc.
Sử dụng xuất khẩu làm động lực tăng trưởng và đóng góp nhiều cho sự chuyển
đổi hoàn toàn nền kinh tế của quốc gia này. Dựa trên chiến lược này, nhiều chương
trình phát triển được thực hiện thành công. Kết quả là từ năm 1962 đến 2008, Tổng
Sản phẩm Quốc nội (GDP) của Hàn Quốc tăng từ 2,3 tỷ đô-la Mỹ lên tới 928,7 tỷ đôla Mỹ và Tổng Thu nhập Quốc gia (GNI) bình quân đầu người tăng vọt từ 87 đô-la lên
khoảng 19,231 đô-la Mỹ. Những con số ấn tượng này cho thấy rõ tầm quan trọng của
thành công mà các chương trình kinh tế này mang lại.
Đạt được Hiệp định Tự do Thương mại với Mỹ, Hàn Quốc giờ đây hy vọng sẽ khai
thác các hiệp ước hợp tác hai bên cùng có lợi với các đối tác thương mại. Điều này sẽ mở
Lớp : K46 B-C KH-ĐT
Nhóm 2
GVHD: Ths. Hồ Tú Linh
đường cho Hàn Quốc tiến tới hội nhập vào nền kinh tế thế giới một cách thực sự. Một
trong những cách để Hàn Quốc có vai trò tích cực trên trường quốc tế là phải có nhiều
hơn nữa các công ty Hàn Quốc đầu tư và tham gia vào các liên doanh ở nước ngoài.
Nhật Bản
Các công ty Nhật Bản đã đầu tư 22,8 tỷ USD vào Singapore, Thái Lan,
Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam trong năm ngoái, cao gấp gần 3 lần so
với mức đầu tư vào thị trường Trung Quốc, đối tác thương mại lớn nhất của Nhật Bản.
Việc giá nhà đất và chi phí lao động đang tăng cao của Trung Quốc đã buộc các
công ty Nhật chuyển hướng sang khai thác thị trường các quốc gia Đông Nam Á khác,
những nơi có giá lao động rẻ hơn nhiều.
Tuy nhiên, ông Masahito Tasuda, Giám đốc điều hành JETRO, lại cho rằng tình
hình đầu tư từ các doanh nghiệp Nhật Bản đã cho thấy sự thay đổi về mặt cấu trúc,
không phải chỉ bởi chi phi phí lao động ở Trung Quốc, mà còn bởi những bất hòa
chính trị giữa hai nước. Qua đó, ta thấy rằng vấn đề chính trị cũng là một trong những
nhân tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư.
Năm 2012, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc đã ký một thỏa thuận thúc đẩy
và bảo vệ đầu tư giữa ba nước. Đây được xem như là công cụ pháp lý đầu tiên thúc
đẩy và bảo vệ đầu tư ba bên, được coi là hòn đá tảng, đặt cơ sở cho việc hướng tới khu
vực mậu dịch tự do (FTA). Thỏa thuận này đi vào hiệu lực từ hôm 17/5/2014.
Giới phân tích cho rằng, vừa ở gần nhau về vị trí địa lý, vừa có quy mô thương
mại và giá trị mậu dịch lớn, nếu Trung - Nhật - Hàn ký FTA thì sẽ tác động lớn tới nỗ
lực đẩy mạnh hợp tác kinh tế của cả khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Theo Quỹ
Tiền tệ Quốc tế (IMF), ba nước này chiếm 22% dân số, 19,6% GDP và 17,5% kim
ngạch thương mại toàn cầu trong 2010.
Lớp : K46 B-C KH-ĐT
Nhóm 2
GVHD: Ths. Hồ Tú Linh
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG
- PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011-2013
2.1.Tình hình đầu tư ở Việt Nam trong giai đoạn 2011-2013
2.1.1. Đầu tư trong nước
Vốn đầu tư xã hội/GDP năm 2011 đạt 33.3, thấp hơn kế hoạch đã đề ra 40%, là
nguyên nhân góp phần làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế trong năm. Cùng với đó,lãi
suất chưa giảm nhiều, nhu cầu ngoại tệ và sức ép tỷ giá cuối năm còn lớn, nhiều doanh
nghiệp còn rất khó khăn. Hệ quả là mức tăng trưởng kinh tế của năm 2011 chỉ đạt
5,89%, thấp hơn so với chỉ tiêu điều hành là 6%.
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng nhanh, giai đoạn 2011-2013 ước đạt trên 117
nghìn tỷ đồng, tăng 4,2 lần so với giai đoạn 2006-2010; riêng năm 2013 dự kiến đạt
trên 58 nghìn tỷ đồng, tăng 51% so với kế hoạch, tăng hơn 24 nghìn tỷ so với năm
2012 và tăng gấp 2,3 lần so với năm 2011.
2.1.2. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
Thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) là một hoạt động kinh tế đối ngoại
quan trọng của Việt Nam.Không chỉ có lợi thế môi trường đầu tư hấp dẫn, Việt Nam
còn đang nỗ lực viết tiếp câu chuyện thành công trong việc thu hút FDI bằng cam kết
mạnh mẽ cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, coi khu vực kinh doanh có vốn đầu
tư nước ngoài là bộ phận quan trọng cấu thành nền kinh tế, đồng thời xem FDI là một
nhân tố quyết định để tái cơ cấu nền kinh tế và tăng sức mạnh cạnh tranh quốc
gia.Năm 2013, vốn FDI vào Việt Nam đạt hơn 22 tỷ USD, tăng trên 35% so với năm
2012. Những con số trên chứng minh Việt Nam đã và đang trở thành điểm đến hấp
dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI vẫn có xu hướng tăng lên. Năm
2011, số vốn đăng kí là 15,6 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 11 tỷ USD; các con số tương
Lớp : K46 B-C KH-ĐT
Nhóm 2
GVHD: Ths. Hồ Tú Linh
ứng của năm 2012 là 16,3 tỷ USD và 10,1 tỷ USD; năm 2013 là 21,6 tỷ USD và 11,5
tỷ USD.
Theo cục đầu tư nước ngoài, Bô kế hoạch và đầu tư,tính đến ngày 20/11/2013,cả
nước có 1175 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư vào Việt Nam với tổng vốn
đăng kí là 13,779 tỷ USD (tăng 73,3% so với cùng kì năm 2012) với 446 dự án đăng kí
tăng vốn đầu tư với tổng vốn đăng kí tăng them là 7,036 tỷ USD (tăng gần 27%).Trong
18 ngành, lĩnh vực các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào, trong đó lĩnh vực công
nghiệp chế biến,chế tạo là lĩnh vực thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư nước
ngoài với 557 dự án đầu tư đăng kí mới, tổng số vốn cấp mới và tăng them là 16,078
tỷ USD, chiếm 77,2% tổng vốn đã đăng kí.Lĩnh vực sản xuất và phân phối điện,khí,
nước, điều hòa đứng thứ 2 với tổng vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm là 2,031 tỷ USD,
chiếm 9,8% tổng vốn đăng kí.
2.1.3. Đầu tư ranước ngoài
Những năm vừa qua, làn song đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh
nghiệp Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ. Theo số liệu báo cáo của Cục Đầu tư nước
ngoài-Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư, tích lũy kế đến 20/12/2012, có 712 dự án của doanh
nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đăng kí đạt 12,4 tỷ
USD. Trong toàn năm 2013, các công ty của Việt Nam đã đầu tư ra nước ngoài và các
vùng lãnh thổ ngoài Việt Nam tổng cộng 4,4 tỷ đô la. Con số này vượt xa mức 1.5 tỷ
đô la hồi năm 2012.
Đến nay, Việt Nam đã đầu tư vào 60 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong năm
2012, có 75 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký 1,3 tỷ
USD tại 28 quốc gia và vùng lãnh thổ. Lũy kế đến hết năm 2012, vốn thực hiện ước
đạt khoảng 3,8 tỷ USD. Riêng năm 2012 vốn thực hiện đạt khoảng 1,2 tỷ USD, tăng
28% so với năm 2011. Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hoạt động đầu tư ra
nước ngoài đã từng bước đi vào nề nếp, có một số dự án đã bước đầu thành công và đã
chuyển lợi nhuận về nước.
Lớp : K46 B-C KH-ĐT
Nhóm 2
GVHD: Ths. Hồ Tú Linh
2.2. Tình hình tăng trưởng và phát triển kinh tế của Việt Nam trong giai
đoạn 2011-2013
2.2.1. Tăng trưởng kinh tế
Theo giá so sánh năm 2010, GDP năm 2011 tăng 6,24%, năm 2012 tăng 5,25%
và năm 2013 tăng 5,42%. Bình quân 3 năm, GDP tăng 5,6%/năm. Tuy chưa đạt kế
hoạch đề ra ban đầu cũng như chỉ tiêu đã điều chỉnh, song đây là mức tăng có thể chấp
nhận được và có phần cao hơn chút ít so với mức bình quân của các nước ASEAN
(5,1%/năm trong thời kỳ 2011-2013, theo IMF). Tuy nhiên, điều rất lo ngại là, khu vực
sản xuất vật chất có xu hướng giảm dần tốc độ tăng trưởng (Bảng 1).
Bảng 1: Tăng trưởng 6 tháng đầu năm 2010-2013, % tăng GDP giá 2010 so với
cùng kì năm trước:
2010
2011
2012
2013
GDP
6,2
5,9
4,9
4,9
Nông nghiệp
3,6
4,0
2,4
1,9
Lâm nghiệp
4,7
4,4
5,0
5,2
Thủy sản
4,3
3,4
4,8
2,3
Công nghiệp
5,9
7,8
6,2
5,2
Xây dựng
10,7
-0,2
2,0
5,1
Dịch vụ
7,1
6,2
5,3
5,9
Khách sạn và nhà hàng
8,0
7,0
6,5
8,8
Kinh doanh tài sản & dịch vụ tư vấn
5,0
3,5
0,6
1,8
Trong đó:
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Mặc dù tăng trưởng kinh tế trong 3 năm qua đạt tỷ lệ thấp (bình quân chỉ
tăng,52%/năm) nhưng trong điều kiện cụ thể với tình hình kinh tế thế giới trì trệ thì
Lớp : K46 B-C KH-ĐT
Nhóm 2
GVHD: Ths. Hồ Tú Linh
đây là mức tăng trưởng thành công của Việt Nam. Kinh tế có dấu hiệu phục hồi vào
năm2013 và có thể tạo đà tăng trưởng cho những năm tiếp theo. Năm 2013, Chính phủ
thực hiện quyết liệt tái cơ cấu nền kinh tế; Tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước
(DNNN); Xử lý nợ DN, nợ xấu của các ngân hàng thương mại đã đạt được những kết
quả khả quan. Đáng chú ý, kết thúc năm 2013, tổng số các DN đăng ký thành lập mới
đạt 76.955 DN, tăng 10,1% so với năm 2012. Qua đó có thể thấy, đã có dấu hiệu của
sự phục hồi kinh tế, đây là tiền đề tạo đà tăng trưởng trong hai năm cuối của kế hoạch
2011- 2015.
Những hạn chế, yếu kém
Nhìn vào tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 3 năm (2011 – 2013) chỉ đạt
5,52% so với chỉ tiêu Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ XI là 7,0 - 7,5% và Nghị
quyết số 01/2011 của Quốc hội khóa VIII điều chỉnh mức tăng trưởng là 6,5- 7,0%/
năm thì mức tăng trưởng trên còn thấp hơn rất nhiều. Như vậy, nhiệm vụ còn lại của 2
năm tiếp theo là hết sức nặng nề.
Giá trị gia tăng của ba ngành kinh tế cơ bản là ngành Công nghiệp, Xây dựng và
Dịch vụ trong những năm qua còn quá thấp so với chỉ tiêu đề ra: Giá trị gia tăng bình
quân trong 3 năm của ngành Công nghiệp, Xây dựng đạt 5,9%/năm, trong khi chỉ tiêu
kế hoạch là 7,8 – 8%/năm. Cùng với đó, ngành dịch vụ tăng bình quân là 6,59%/năm
so với chỉ tiêu kế hoạch là 7,8 – 8%/năm. Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng tổng sản
phẩm trong nước GDP) năm 2012 là 5,25%, không những thấp hơn nhiều so với chỉ
tiêu kế hoạch mà còn là năm có mức tăng trưởng thấp nhất trong vòng 14 năm qua.
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém
Thứ nhất, từ cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu năm 2008 – 2009 đến
nay, kinh tế thế giới vẫn sụt giảm, tăng trưởng chậm. Báo cáo của Quỹ Tiền tệ quốc tế
(IMF) cho thấy, tăng trưởng GDP của kinh tế thế giới năm 2011 đạt 3,9%; năm 2012
(3,2%); năm 2013 (2,9%). Các nước mới nổi và đang phát triển đạt 6,2% (năm 2011);
Lớp : K46 B-C KH-ĐT
Nhóm 2
GVHD: Ths. Hồ Tú Linh
4,9% (năm 2012) và ước đạt 4,5% (năm 2013). Những chỉ số trên đã ảnh hưởng không
nhỏ đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Năm 2011, GDP của Việt Nam đạt 5,89%; Năm 2012 mức tăng trưởng giảm
xuống còn 5,25%; Năm 2013, mức tăng đạt 5,42%, cao hơn so với năm 2012 nhưng
thấp hơn so với 2011. Với mức tăng trưởng này, nhiệm vụ của 2 năm còn lại trong kế
hoạch 2011 - 2015 là khá nặng nề.
Thứ hai, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta
chậm được hoàn thiện; Nhiều bất cập, thiếu đồng bộ, chưa tạo ra được môi trường
kinh doanh bình đẳng, lành mạnh, cải cách hành chính chậm và còn nhiều hạn chế, thủ
tục hành chính rườm rà, tiêu cực còn lớn. Đặc biệt là nạn tham nhũng chưa được đẩy
lùi, vẫn còn lãng phí lớn trong chi tiêu công.
Thứ ba, quản lý nhà nước về kinh tế đã có nhiều chuyển biến tích cực, song đạt
hiệu quả chưa cao. Chưa tập trung được các nguồn lực, chưa phát huy được các tiềm
năng của nền kinh tế; quản lý kinh tế vĩ mô chưa hiệu quả.
Thứ tư, hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN gặp rất nhiều khó khăn, đặc
biệt là hoạt động kém hiệu quả của các DNNN. So với năm 2012, các DN đăng ký
thành lập mới năm 2013 tăng 10,1% nhưng tổng số vốn đăng ký lại giảm 14,7%; Số
DN giải thế hoặc ngừng hoạt động tăng 11,9% so với năm 2012.
Thứ năm, nợ xấu tại các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2012 tăng bình quân
3,91%/tháng, năm 2013 mặc dù có giảm nhưng vẫn ở mức 2,52%/tháng. Năm 2012,
nợ xấu đạt 8,82% tổng mức tín dụng của nền kinh tế, tương đương khoảng 250.000 tỷ
đồng, đến cuối năm 2013 mức nợ xấu giảm xuống còn 4,62%, tương đương khoảng
140.000 tỷ đồng và dự kiến đến hết năm 2015 có thể xử lý hết nợ xấu ngân hàng.
Thứ sáu, nợ công tăng cao, đầu tư toàn xã hội giảm. Nợ công Việt Nam tăng dần
qua các năm và là một trong những quốc gia có mức nợ công cao của châu Á. Năm
2011, tỷ lệ nợ công so với GDP là 54,9%, giảm 0,9% so với năm 2010 (56,8%), nhưng
Lớp : K46 B-C KH-ĐT
Nhóm 2
GVHD: Ths. Hồ Tú Linh
năm 2012 tỷ lệ nợ công đã đạt mức 55,7% và năm 2013 là 56,2%. Mặc dù, tỷ lệ nợ
công vẫn nằm trong mức an toàn (không quá 65%) nhưng đây là vấn đề đáng quan
tâm, ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng kinh tế.
2.2.2. Phát triển kinh tế
Qua 3 năm thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (2011 - 2015), Việt
Nam đã đạt được những thành công nhất định như duy trì được tốc độ tăng trưởng
kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát ở mức thấp. Tuy nhiên, nền kinh tế
vẫn còn nhiều lĩnh vực chuyển biến chậm, chưa vững chắc, nhất là công nghiệp và
nông nghiệp. Do đó, Chính phủ đang nỗ lực quyết tâm tháo gỡ khó khăn cho nền kinh
tế với nhiều giải pháp đồng bộ trong giai đoạn 2014 - 2015.
Nguồn: internet
Đầu năm 2011, tình hình kinh tế thế giới có nhiều diễn biến phức tạp: lạm phát
tăng, giá dầu thô, giá nguyên vật liệu cơ bản đầu vào của sản xuất, giá lương thực,
thực phẩm và giá vàng trên thị trường thế giới tiếp tục xu hướng tăng cao đã tác động
không nhỏ đến nền kinh tế trong nước.
Trước tình hình đó, ngày 24/02/2011, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số /
2011/NQ-CP về các nhóm giải pháp chủ yếu để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm, cấp
bách hiện nay là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.
Lớp : K46 B-C KH-ĐT
Nhóm 2
GVHD: Ths. Hồ Tú Linh
Nhờ những điều chỉnh chính sách kịp thời của Chính phủ theo hướng tăng cường ổn
định kinh tế vĩ mô, nền kinh tế đã có những chuyển biến theo hướng ổn định hơn
nhưng nhìn chung vẫn còn rất nhiều khó khăn. Tuy lạm phát có xu hướng giảm trong
nửa cuối của năm 2011 nhưng tính chung cả năm vẫn cao khi chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) tăng 18,13%, cao hơn mục tiêu cuối năm đề ra là 18%.
Biểu đồ 1: CPI của Việt Nam qua 10 năm từ năm 2004-2013
Nguồn số liệu: Tổng cục thống kê
Vốn đầu tư xã hội/GDP năm 2011 đạt 33,3% thấp hơn kế hoạch đã đặt ra 40% là
nguyên nhân góp phần làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế trong năm. Cùng với đó,
lãi suất chưa giảm nhiều; nhu cầu ngoại tệ và sức ép tỷ giá cuối năm còn lớn; nhiều
doanh nghiệp (DN) còn rất khó khăn... Hệ quả là mức tăng trưởng kinh tế của cả năm
2011 chỉ đạt 5,89%, thấp hơn so với chỉ tiêu điều hành là 6%.
Bước sang năm 2012, kinh tế - tài chính của Việt Nam tiếp tục bị ảnh hưởng bởi
sự bất ổn của kinh tế thế giới, do khủng hoảng tài chính và nợ công ở châu Âu chưa
được giải quyết. Suy thoái tại khu vực đồng Euro cùng với khủng hoảng tín dụng và
tình trạng thất nghiệp gia tăng, khiến cho hoạt động sản xuất và thương mại toàn cầu
bị tác động mạnh, giá cả hàng hóa diễn biến phức tạp. Những bất lợi từ sự sụt giảm của
kinh tế thế giới đã ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống dân cư
trong nước. Thị trường tiêu thụ hàng hóa bị thu hẹp, hàng tồn kho ở mức cao, sức mua
Lớp : K46 B-C KH-ĐT
Nhóm 2
GVHD: Ths. Hồ Tú Linh
trong dân giảm. Tỷ lệ nợ xấu ngân hàng ở mức đáng lo ngại. Nhiều doanh nghiệp(DN),
nhất là DN nhỏ và vừa phải thu hẹp sản xuất, dừng hoạt động hoặc giải thể.
Trong giai đoạn này nhiều DN gặp khó khăn dẫn đến phá sản hoặc tạm dừng, thu
hẹp sản xuất, công ăn việc làm, thu nhập của người lao động bị ảnh hưởng. Số lượng
DN giải thể, phá sản, ngừng hoạt động năm 2012 là 54.261. Để ổn định kinh tế vĩ mô,
tháo gỡ khó khăn cho các DN, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, ngày
07/01/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 02/NQ-CP về một số giải pháp tháo
gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu. Những giải
pháp này tập trung vào miễn, giảm, gia hạn nộp thuế cho các DN nhằm giúp DN vượt
qua khó khăn. Với việc ban hành, triển khai thực hiện Nghị quyết 13/NQ-CP của
Chính phủ kịp thời đã giúp kiểm soát được CPI của năm 2012 tăng 6,81%, thấp hơn
nhiều so với mức tăng 18,13% năm 2011 và 11,75% năm 2010; lãi suất ngân hàng
giảm dần. Tăng trưởng trong các lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt cao hơn so
với kế hoạch. Điểm nổi bật là lần đầu tiên trong năm 2012 Việt Nam xuất siêu, đạt
mức 780 triệu USD.
Mặc dù đã hạ mục tiêu tăng trưởng kinh tế xuống mức “hợp lý” 6% nhưng tăng
trưởng kinh tế cả năm 2012 chỉ đạt 5,03%. Tổng phương tiện thanh toán tăng 22,4%
trong khi dư nợ tín dụng cả năm chỉ tăng 8,91%. Chỉ số hàng tồn kho ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo tăng; Tồn kho bất động sản và nợ xấu vẫn ở mức cao; khu
vực DN, động lực chính tạo ra của cải, vật chất, việc làm gặp nhiều khó khăn; áp lực
lạm phát và nguy cơ bất ổn kinh tế vĩ mô còn lớn; lãi suất, nợ xấu vẫn còn cao; sản
xuất kinh doanh còn nhiều khó khăn.
Đời sống của người dân, nhất là đối tượng chính sách, người nghèo, người lao
động có thu nhập thấp vẫn còn khó khăn. Tình hình kinh tế dự báo vẫn còn nhiều
thách thức. Nhận thức rõ được những khó khăn tiềm ẩn, năm 2013, Chính phủ đã trình
Quốc hội và ban hành Nghị quyết số31/2012/QH13 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội năm 2013, với mục tiêu tổng quát là: “Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô; lạm phát
thấp hơn, tăng trưởng cao hơn năm 2012. Đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược
gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Bảo đảm an sinh xã
Lớp : K46 B-C KH-ĐT
Nhóm 2
GVHD: Ths. Hồ Tú Linh
hội và phúc lợi xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Tăng cường quốc phòng, an ninh và bảo đảm ổn định chính trị - xã hội. Tạo nền tảng
phát triển vững chắc hơn cho những năm tiếp theo”.
Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát tiếp tục được kiểm soát, đến tháng
11/2013 CPI tăng 5,5%. Tăng trưởng tín dụng đến cuối tháng 11/2013 đạt 9%. Mặt
bằng lãi suất giảm, lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 7 - 9%/năm.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu 11 tháng đầu năm 2013 ước đạt 121 tỷ USD, tăng
16,2% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 39,9 tỷ
USD, tăng 3,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 81,2 tỷ USD,
tăng 23,5%.
Biểu đồ 2: Kim ngạch xuất khẩu 10 nhóm hàng lớn nhất tháng 01/2012 và tháng
01/2013
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Số liệu thống kê hải quan cho thấy trị giá xuất khẩu hàng hóa của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong kỳ này đạt 3,71 tỷ USD, tăng
26,2% so với kỳ trước, qua đó nâng tổng kim ngạch xuất khẩu trong tháng đầu năm
Lớp : K46 B-C KH-ĐT
Nhóm 2
GVHD: Ths. Hồ Tú Linh
2013 của nhóm các doanh nghiệp này lên 6,66 tỷ USD, tăng 67,9% so với năm trước
và chiếm 58% tổng trị giá xuất khẩu của cả nước.
Tính đến hết kỳ 2 tháng 1/2013, tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước đạt gần
10,7 tỷ USD, tăng 8,5% so với tháng 12/2012 và tăng 53,7% so với cùng kỳ năm 2011.
Lớp : K46 B-C KH-ĐT
Nhóm 2
GVHD: Ths. Hồ Tú Linh
Biểu đồ 3: Kim ngạch nhập khẩu 10 nhóm hàng lớn nhất Tháng 01/2012 và
tháng 1/2013
Nguồn: Tổng cục Hải
quan
Trị giá nhập khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp FDI trong kỳ này đạt 3,08 tỷ
USD, tăng 13,4% so với kỳ 1 tháng 1/2013, qua đó nâng tổng kim ngạch nhập khẩu
của nhóm các doanh nghiệp này tháng đầu tiên năm 2013 lên 5,79 tỷ USD, tăng 59,2%
so với cùng kỳ năm 2011 và chiếm 54,1% tổng trị giá nhập khẩu của Việt Nam.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu trong 11 tháng đầu năm 2013 ước đạt 121,1 tỷ
USD, tăng 16,5% so với cùng kỳ năm 2012, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt
52,2 tỷ USD, tăng 6%; Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 68,9 tỷ USD, tăng 26%.
Vốn FDI trong 11 tháng đầu năm nay vào Việt Nam cả đăng ký cấp mới và tăng thêm
là 20,82 tỷ USD, tăng 54,2% so với cùng kỳ năm ngoái.
Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn nhiều lĩnh vực chuyển biến, tăng trưởng còn
chậm, chưa vững chắc, nhất là công nghiệp và nông nghiệp. Lạm phát tuy đã được
kiểm soát nhưng nguy cơ tiềm ẩn còn cao. Sản xuất kinh doanh vẫn gặp nhiều khó
khăn, nợ xấu tuy đã giảm xuống so với trước nhưng vẫn còn ở mức cao. Tiêu thụ hàng