Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Đánh giá vai trò của hợp tác xã đối với phát triển kinh tế hộ của các xã viên tại xã nghĩa khánh, huyện nghĩa đàn, tỉnh nghệ an”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.67 KB, 85 trang )

PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã làm thay đổi một cách sâu
sắc vai trò của các tác nhân trong nền kinh tế nông nghiệp. Việt Nam là một
nước nông nghiệp với 70% dân số sống ở nông thôn. Cuộc sống nông dân chủ
yếu dựa vào nền nông nghiệp sản xuất nhỏ, manh mún, tập quán sản xuất còn
mang tính tự phát, tự cung tự cấp. Sản xuất nông nghiệp chưa thực sự phát
huy được lợi thế cạnh tranh của mình đặc biệt là chưa phát huy được lợi thế
của khoa học kỹ thuật trong thời kỳ mở cửa, hội nhập của nền kinh tế toàn
cầu. Chính vì thế, công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn là một
trong những chủ trương lớn của Đảng, đồng thời cũng là một trong những
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và là nội dung cơ bản của quá trình công
nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH - HĐH) đất nước.
Hợp tác xã (HTX) là tổ chức kinh tế tập thể có vai trò đặc biệt quan
trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Khi dất nước bước
vào thời kỳ đổi mới, chuyển nền kinh tế sang hoạt động theo cơ chế thị
trường, HTX cũng được đổi mới cả về nội dung, hình thức hoạt động, biểu
hiện cụ thể ở việc ban hành Luật HTX (năm 1996). Trên cơ sở Nghị quyết
của Đảng và thực tiễn hoạt động của HTX kiểu mới, kỳ họp thứ 4, Quốc hội
khóa XI (ngày 26/11/2003) đã thông qua luật HTX mới (Luật HTX năm 2003
có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2014) với việc chuyển đổi mô hình HTX kiểu
cũ sang mô hình HTX kiểu mới với những đặc trưng cơ bản như: quy mô,
phạm vi hoạt động và thành viên tham gia HTX không còn giới hạn như
trước, mục tiêu của tổ chức HTX kiểu mới đó là trước mắt đáp ứng được nhu
cầu chung về kinh tế - văn hóa - xã hội cho các thành viên, sở hữu tập thể và
sở hữu cá nhân của các thành viên được phân định rõ ràng,… Thực tế đã cho

1



thấy rằng kể từ khi Luật HTX ban hành (3/1996), khu vực kinh tế HTX đã có
những thay đổi rõ nét cả về lượng và chất. Số lượng HTX tuy tăng không
nhiều nhưng đã từng bước cải thiện được về chất, nâng cao hiệu quả hoạt
động, uy tín cũng như vai trò đối với các xã viên và cộng đồng. Theo số liệu
của Liên minh HTX Việt Nam (2009) cho thấy cả nước có 18.104 HTX trong
đó có 8.828 HTX nông nghiệp. Hà Nội là thành phố chiếm số lượng HTX cao
nhất ở khu vực Đồng bằng sông Hồng với 952 HTX nông nghiệp trên tổng số
1.587 HTX.
Ngày nay, HTX đã và đang tồn tại như một hình thức rất phổ biến,
đóng vai trò tích cực trong sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia.
Đồng thời, nó được coi là một tổ chức giữ vai trò quan trọng trong việc hợp
tác, phát triển nông thôn nói chung và nông nghiệp nói riêng. Khác với những
loại hình tổ chức kinh tế khác, HTX còn giữ vai trò quan trọng trong việc đáp
ứng nhu cầu về kinh tế - văn hóa - xã hội cho các xã viên theo nguyên tắc
tương trợ nhằm giúp họ trong quá trình tổ chức sản xuất sao cho có lợi nhất,
cung cấp đầu vào cho những hộ chưa sản xuất hàng hóa và giúp đỡ thêm về
các dịch vụ đầu ra cho các hộ sản xuất hàng hóa, giải quyết việc làm, nâng
cao mức sống, tăng phúc lợi... Tuy nhiên, một số HTX hiện nay hoạt động
chưa mang lại hiệu quả cao như mong đợi của các xã viên. Quy mô các HTX
còn nhỏ, hoạt động còn mang tính phong trào, hình thức, trình độ và năng lực
quản lý còn yếu chưa phát huy được hết vai trò và trách nhiệm đối với các xã
viên thuộc HTX của mình.
Nghĩa Khánh là một xã nông nghiệp thuộc vùng trung du miền núi của
huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An. Tổng diện tích đất tự nhiên là 2731,93 ha,
đất nông nghiệp là 2086,75 ha với tổng số 10280 nhân khẩu. Trong những
năm qua với việc thực hiện nghiêm chỉnh các Nghị quyết, chính sách của
Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế tập thể và HTX, thì xã Nghĩa Khánh
đã có những bước tiến về củng cố và phát triển HTX và đã từng bước chuyển

2



giao được khoa học kỹ thuật vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Nhờ đó,
Đảng bộ và nhân dân HTX Nghĩa Khánh đã đạt được những thành tựu đáng
kể như tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập cho các xã viên, nâng cao
đời sống vật chất tinh thần cho người dân, góp phần vào sự phát triển chung
của toàn xã.
Tuy nhiên việc phát triển và hoạt động của HTX vẫn còn tồn tại những
khó khăn, yếu kém: Mặc dù Nhà nước đã ban hành Nghị định 181/NĐ-CP về
thực hiện Luật đất đai, Nghị định 88/2005 NĐ-CP về chính sách hỗ trợ
khuyến khích phát triển HTX, nhưng HTX vẫn chưa được giải quyết cấp
quyền sử dụng đất thuộc tài sản của HTX, từ đó gây khó khăn không nhỏ cho
hoạt động kinh doanh của HTX, nhất là trong việc thế chấp vay vốn ngân
hàng. Nhận thức về mô hình HTX kiểu mới đối với xã viên và một số cán bộ
nhìn chung chưa được quán triệt đầy đủ. Việc chuyển đổi và thành lập HTX
kiểu mới còn mang nặng tính hình thức, tư duy vẫn còn quen với lối hoạt
động cũ. Cơ sở vật chất còn cũ và thiếu, trình độ cán bộ quản lý HTX bất cập
so với cơ chế quản lí mới, năng lực nắm bắt thông tin và khả năng dự báo thị
trường, sự nhạy bén và linh hoạt để đáp ứng trước những yêu cầu đa dạng,
phức tạp của cơ chế thị trường còn nhiều hạn chế. Từ đó, chưa phát huy được
tối đa sự tham gia của người dân vào quá trình hoạt động phát triển của HTX
cũng như chưa phát huy được hết vai trò của mình đối với các xã viên.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn trên, chúng tôi chọn và nghiên
cứu đề: “ Đánh giá vai trò của hợp tác xã đối với phát triển kinh tế hộ của
các xã viên tại xã Nghĩa Khánh, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Đánh giá thực trạng hoạt động của HTX Nghĩa Khánh, vai trò của HTX
đối phát triển kinh tế hộ của các xã viên, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao vai trò của HTX đối với phát triển kinh tế hộ của các xã viên.


3


1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về HTX, hoạt
động của HTX, vai trò của HTX đối với phát triển kinh tế hộ của các xã viên.
- Đánh giá thực trạng hoạt động cuả HTX Nghĩa Khánh; tình hình kinh
tế hộ của các xã viên; và các vấn đề kinh tế-xã hội có liên quan;
- Đánh giá vai trò của HTX đối với phát triển kinh tế hộ của các xã viên
tại xã Nghĩa Khánh;
- Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả hoạt động
của HTX, ảnh hưởng của HTX đối với phát triển kinh tế hộ của các xã viên;
- Đề xuất giải pháp nâng cao vai trò của HTX đối với phát triển kinh tế
hộ của các xã viên ở HTX Nghĩa Khánh trong những năm tới.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là HTX, hoạt động của HTX, kinh tế
hộ của các xã viên;
- Nghiên cứu hoạt động và vai trò của HTX đối với phát triển kinh tế
hộ của các xã viên;
- Các yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của HTX đối với phát triển kinh tế
hộ của các xã viên, và các vấn đề kinh tế- xã hội có liên quan.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
* Phạm vi về nội dung
Đề tài tập trung đánh giá thực trạng hoạt động của HTX Nghĩa Khánh,
cũng như tình hình phát triển kinh tế hộ của các xã viên; lựa chọn giải pháp
nâng cao vai trò của HTX đối với phát triển kinh tế hộ của các xã viên.
* Phạm vi về không gian
Nghiên cứu được tiến hành tại địa bàn xã Nghĩa Khánh, huyện Nghĩa

Đàn, tỉnh Nghệ An.

4


* Phạm vi về thời gian
- Đề tài thu thập số liệu thứ cấp về tình hình hoạt động của HTX Nghĩa
Khánh trong vòng 3 năm 2012 – 2014;
- Điều tra kinh tế hộ của các xã viên HTX Nghĩa Khánh năm 2014;
- Đề tài được triển khai nghiên cứu từ 15/01/2015 đến 15/05/2015.

5


PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HTX VÀ PHÁT TRIỂN KINH
TẾ HỘ CỦA CÁC XÃ VIÊN
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Một số khái niệm cơ bản
2.1.1.1 Hợp tác
Hợp tác và phân công lao động là quy luật tất yếu của hoạt động sản
xuất, có mối quan hệ biện chứng, tác động tương hộ lẫn nhau và cùng tác
động thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Hợp tác được hiểu là sự hiệp sức, cùng chung sức giúp đỡ lẫn nhau
trong một công việc, một lĩnh vực nào đó và có ý thức của con người nhằm
đạt một mục tiêu nhất định. Hợp tác nảy sinh trong mối quan hệ giữa người
với người. Vì vậy, nó có tính phổ biến và đa dạng về hình thức và trình độ
trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
2.1.1.2 Hợp tác xã
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) định nghĩa: “HTX làsự liên kết của

những người đang gặp phải những khó khăn kinh tế giống nhau, tự nguyện
liên kết lại trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, sử dụng tài sản mà
họ đã chuyển giao vào HTX phù hợp với nhu cầu chung và giải quyết những
khó khăn đó chủ yếu bằng sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm và bằng cách sử
dụng các chức năng kinh doanh trong tổ chức hợp tác phục vụ cho lợi ích vật
chất và tinh thần chung” (ILO, 2002).
Liên minh HTX quốc tế (ICA) đưa ra định nghĩa về HTX: “HTX là một
hiệp hội tự chủ của các cá nhân tự nguyện tập hợp lại nhằm thỏa mãn những
nhu cầu và nguyện vọng chung về kinh tế, xã hội và văn hóa thông qua doanh
nghiệp đồng sở hữu và quản lý dân chủ” (ICA, 1945).

6


“HTX là tổ chức kinh tế tập thế do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân
(sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn,
góp sức lập ra theo quy định của luật này để phát huy sức mạnh tập thể của
từng xã viên tham gia HTX, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt
động sản xuất kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất tinh thần, góp phần
phát triển kinh tế xã hội của đất nước (Quốc hội, 2003).
Theo điều 3 luật HTX được sửa đổi năm 2012: “HTX là tổ chức kinh tế
tập thể, đồng sở hữu, có tư cách phấp nhân, do ít nhất 07 thành viên tự nguyện
thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh,
tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ,
tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý liên hiệp HTX”
(Quốc hội, 2012).
Như vậy, ta có thể hiểu HTX là một tổ chức kinh tế tập thể được các
thành viên thành lập trên cơ sở tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình
đẳng, dân chủ, họ cùng nhau hợp tác thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung.

2.1.1.3 Xã viên
Xã viên là người đồng sở hữu, quản lý hợp tác xã theo nguyên tắc dân
chủ và là người sử đụng dịch vụ của hợp tác xã.
Hợp tác xã không đặt lợi nhuận lên hàng dầu, không mang tính cạnh
tranh, nó trái ngược hoàn toàn với công ty cổ phần mang tính cạnh tranh gắt
gao, đặt lợi nhuận lên hàng đầu.
2.1.1.4 Kinh tế hộ
Kinh tế hộ gia đình là một loại hình kinh tế tương đối phổ biến và được
phát triển ở nhiều nước trên thế giới. Nó có vai trò rất quan trọng trong việc
phát triển kinh tế, nhất là trong nông nghiệp. ở Việt Nam, kinh tế hộ gia đình
lại càng có ý nghĩa to lớn, bởi vì nước ta bước vào nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường trên nền tảng gần 80% dân số

7


đang sinh sống ở nông thôn và điểm xuất phát để tạo cơ sở vật chất tiến hành
công nghiệp hóa, hiện đại hóa lại đi từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất
nông nghiệp, quản lý theo kế hoạch hóa tập trung, bao cấp.
- Khái niệm về kinh tế nông hộ:
GS. Frank Ellis (1988) cho rằng kinh tế nông hộ khác những người làm
kinh tế khác trong nền kinh tế thị trường ở 3 yếu tố: đất đai, lao động, vốn
“Kinh tế nông hộ là một hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền kinh tế xã
hội. Các nguồn lực đất đai, tư liệu sản xuất, vốn, lao động được góp chung,
chung một ngân sách, ngủ chung một mái nhà, ăn chung, mọi quyết định
trong sản xuất kinh doanh và đời sống đều do chủ hộ phát ra”
Từ khái niệm trên đã thống nhất những vấn đề cơ bản của kinh tế nông
hộ đó là: Kinh tế hộ nông dân là đơn vị hoạt động của xã hội, làm cơ sở cho
phân tích kinh tế; các nguồn lực (đất đai, tư liệu sản xuất, vốn sản xuất, sức
lao động…) cùng được góp vào thành nguồn vốn chung, cùng chung một

ngân sách; cùng chung sống dưới một mái nhà, ăn chung, mọi người đều
hưởng phần thu nhập và mọi quyết định đều dựa trên ý kiến chung của mọi
thành viên trong gia đình có cùng chung một ngân sách.
2.1.1.5 Kinh tế hộ xã viên
Kinh tế hộ xã viên được dựa trên nền tảng của kinh tế hộ gia đình, là
đơn vị hoạt động của xã hội, làm cơ sở cho phân tích kinh tế; các nguồn lực
(đất đai, tư liệu sản xuất, vốn sản xuất, sức lao động…).
Trong đó có một thành viên tham gia vào hợp tác xã, góp vốn vào vào
hợp tác xã, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của luật này để
phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia HTX, cùng giúp nhau
thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh và nâng cao đời
sống vật chất tinh thần, góp phần phát triển kinh tế xã hội.

8


2.1.2 Đặc trưng và nguyên tắc hoạt động của HTX
2.1.2.1Đặc trưng của HTX
Một là, hợp tác xã nông nghiệp là tổ chức liên kết kinh tế tự nguyện của
những nông hộ, nông trại có chung yêu cầu về những dịch vụ cho sản xuất
kinh doanh và đời sống của mình mà bản thân từng nông hộ không làm được
hoặc làm nhưng kém hiệu quả.
Hai là, cơ sở thành lập của hợp tác xã là dựa vào việc cùng góp vốn của
các thành viên và quyền chủ hoàn toàn bình đẳng giữa các xã viên theo
nguyên tắc mỗi xã viên một phiếu biểu quyết không phân biệt lượng vốn góp
ít hay nhiều.
Ba là, mục đích kinh doanh của hợp tác xã là nhằm trước hết dịch vụ
cho xã viên, đáp ứng đủ và kịp thời số lượng, chất lượng của dịch vụ, đồng
thời cũng phải tuân theo nguyên tắc bảo toàn và tái sản xuất mở rộng vốn
bằng cách thực hiện mức giá và lãi suất nội bộ thấp hơn giá thị trường.

Bốn là, hợp tác xã thành lập và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện,
dân chủ và cùng có lợi.
Năm là, hợp tác xã là một tổ chức liên kết kinh tế chỉ liên kết những xã
viên thực sự có nhu cầu, có mong muốn không lệ thuộc vào nơi ở và cũng chỉ
liên kết ở những dịch vụ cần thiết và đủ khả năng quản lý kinh doanh. Như
vậy trong mỗi thôn, mỗi xã có thể cùng tồn tại nhiều loại hình hợp tác xã có
nội dung kinh doanh khác nhau, có số lượng xã viên không như nhau, trong
đó một số nông hộ, trang trại đồng thời là xã viên của một số hợp tác xã.
Sáu là, nông hộ trang trại xã viên vừa là đơn vị kinh tế tự chủ trong hợp
tác xã vừa là đơn vị kinh tế cơ sở hoạt động kinh doanh và hạch toán độc lập.
Do vậy, quan hệ giữa hợp tác xã và xã viên vừa là quan hệ liên kết, giúp đỡ
nội bộ vừa là quan hệ giữa hai đơn vị kinh doanh có tư cách pháp nhân độc
lập. Cơ chế liên kết của hợp tác xã cần phản ánh được mối quan hệ phức tạp
đó.

9


Bảy là, từ những đặc trưng trên có thể rút ra đặc trưng bản chất của hợp
tác xã là: Hợp tác xã là tổ chức kinh tế liên kết cơ sở của các nông hộ và nông
trại, mang tính chất vừa tương trợ giúp đỡ, vừa kinh doanh.
2.1.2.2 Nguyên tắc hoạt động của HTX
Theo Luật HTX (2003), quy định hoạt động của HTX theo 4 nguyên
tắc ( Quốc hội, 2003):
1. Tự nguyện: mọi cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có đủ điều kiện theo
quy định của Luật hợp tác xã, tán thành Điều lệ hợp tác xã đều có quyền gia
nhập hợp tác xã; xã viên có quyền ra hợp tác xã theo quy định của Điều lệ
hợp tác xã;
2. Dân chủ, bình đẳng và công khai: xã viên có quyền tham gia quản
lý, kiểm tra, giám sát hợp tác xã và có quyền ngang nhau trong biểu quyết;

thực hiện công khai phương hướng sản xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối
và những vấn đề khác quy định trong Điều lệ hợp tác xã;
3. Tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi: hợp tác xã tự chủ và tự
chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh; tự quyết định về
phân phối thu nhập.
4. Hợp tác và phát triển cộng đồng: xã viên phải có ý thức phát huy
tinh thần xây dựng tập thể và hợp tác với nhau trong hợp tác xã, trong cộng
đồng xã hội; hợp tác giữa các hợp tác xã trong nước và ngoài nước theo quy
định của pháp luật.
Theo Luật HTX năm 2012 thì hoạt động của HTX được thực hiện theo
7 nguyên tắc sau (Quốc hội,2012):
1. Cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân tự nguyện thành lập, gia nhập, ra
khỏi HTX, HTX tự nguyện thành lập, gia nhập, ra khỏi liên hiệp HTX.
2. HTX, liên hiệp HTX kết nạp rộng rãi thành viên, HTX thành viên.
3. Thành viên, HTX thành viên có quyền bình đẳng, biểu quyết ngang
nhaukhoong phụ thuộc vốn góp trong việc quyết định tổ chức, quản lý và hoạt

10


động của HTX, liên hiệp HTX, được cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời
chính xác về hoạt động sản xuất, kinh doanh tài chính, phân phối thu nhập và
những nội dung khác theo quy định của điều lệ.
4. HTX, liên hiệp HTX tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của
mình trước pháp luật.
5. Thành viên, hợp tác xã thành viên và hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã
có trách nhiệm thực hiện cam kết theo hợp đồng dịch vụ và theo quy định của
điều lệ. Thu nhập của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được phân phối chủ yếu
theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên, hợp tác xã thành viên
hoặc theo công sức lao động đóng góp của thành viên đối với hợp tác xã tạo

việc làm.
6. Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi
dưỡng cho thành viên, hợp tác xã thành viên, cán bộ quản lý, người lao động
trong hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và thông tin về bản chất, lợi ích của hợp
tác xã, liên hiệp hợp tác xã.
7. Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã chăm lo phát triển bền vững cộng
đồng thành viên, hợp tác xã thành viên và hợp tác với nhau nhằm phát triển
phong trào hợp tác xã trên quy mô địa phương, vùng, quốc gia và quốc tế.
2.1.3 Vai trò, nhiệm vụ và chức năng của HTX
2.1.3.1 Vai trò của HTX
Kinh tế tập thể với nòng cốt là HTX có vai trò quan trọng trong phát
triển kinh tế xã hội đất nước nói chung và đối với các xã viên nói riêng. HTX
luôn được Đảng và Nhà nước khuyến khích phát triển và được khẳng định
trong các Nghị quyết đại hội của Đảng là một thành phần kinh tế quan trọng,
không chỉ đóng góp cho tăng trưởng kinh tế mà còn phát huy vai trò toàn diện
về văn hoá, chính trị, xã hội, “cùng với kinh tế nhà nước dần trở thành nền
tảng của nền kinh tế quốc dân”, “hiệu quả kinh tế của kinh tế tập thể trên cơ

11


sở quan điểm toàn diện, cả kinh tế - chính trị - xã hội, cả hiệu quả của tập thể
và của các thành viên” (Nghị quyết Hội nghị TW 5 Khoá IX).
* Vai trò kinh tế
Như chúng ta đã thấy khu vực kinh tế hợp tác, HTX không phải là khu
vực đem lại lợi nhuận cao và đóng góp lớn cho tăng trưởng kinh tế, vì mục
tiêu hoạt động của khu vực này không đơn thuần chạy theo lợi nhuận mà là
giúp đỡ cho các thành viên phát triển là chủ yếu. Tuy vậy, so với kinh tế hộ
thì kinh tế hợp tác, HTX vẫn có vai trò nổi trội hơn về mặt kinh tế đối với xã
viên, đó là:

- HTX đã có những đóng góp quan trọng trong việc cung cấp hàng hoá
và dịch vụ cho xã viên và cộng đồng, hỗ trợ người lao động có cơ hội tham
gia vào quá trình phát triển kinh tế của bản thân họ trong điều kiện cụ thể
từng nơi, từng cộng đồng mà nếu không có HTX thì họ sẽ gặp khó khăn quá
sức vượt qua. Thực tế đã chứng minh, thông qua hình thức hợp tác này, họ đã
tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn hỗ trợ của Nhà nước và các
tổ chức kinh tế, xã hội đối với họ.
- Thông qua HTX, các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ, giống
mới... đã được chuyển giao một cách có hiệu quả đến hộ xã viên; công tác
chống úng, hạn, chống và phòng ngừa sâu bệnh cho sản xuất của kinh tế xã
viên thông qua HTX có hiệu quả hơn so với từng xã viên thực hiện.
- HTX hỗ trợ kinh tế hộ và các thành viên khác phát triển: Lịch sử phát
triển kinh tế, xã hội trên thế giới đã chứng minh rằng, sự phát triển nền kinh tế
thị trường đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau nhưng về mặt cơ cấu và tổ
chức kinh tế thì trong mỗi giai đoạn đều tồn tại rõ nét 3 khu vực kinh tế khác
nhau: khu vực kinh tế tư nhân; khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế
hợp tác mà HTX là nòng cốt. HTX ra đời với mục đích ban đầu là giúp đỡ lẫn
nhau giữa những người nghèo để cùng tồn tại trước sức ép cạnh tranh của khu
vực kinh tế tư nhân. HTX ra đời và phát triển không phá vỡ kinh tế hộ gia

12


đình mà tách dần một số công việc mà nếu làm ở gia đình thì không có lợi
bằng HTX.
- HTX không chỉ hỗ trợ kinh tế hộ trên cơ sở các tính chất của nó mà
còn là trung gian tiếp nhận sự hỗ trợ của Nhà nước đối với các hộ nông dân
và những người lao động nghèo. Các hệ thống hạ tầng sau khi được xây dựng
được Nhà nước giao cho HTX khai thác, sử dụng để phục vụ cho sự phát triển
nông nghiệp, nông thôn; bảo tồn và phát triển các nghề truyền thống cũng như

phục vụ đời sống của cộng đồng dân trong vùng.
Như vậy, có thể khẳng định HTX là tổ chức được ra đời và tồn tại để hỗ
trợ kinh tế hộ gia đình và các thành viên khác phát triển, phục vụ lợi ích của
các cộng đồng dân cư và người lao động nghèo, đặc biệt là các cộng đồng dân
cư nông thôn.
- Phát triển kinh tế HTX góp phần quan trọng vào phát triển nền kinh
tế quốc dân: Lịch sử phát triển kinh tế, xã hội của nhiều quốc gia ở các giai
đoạn khác nhau cũng đã cho thấy: Kinh tế HTX không phải là khu vực chính
để tạo ra nhiều lợi nhuận và tăng trưởng kinh tế mà là khu vực có vai trò, vị
trí quan trọng trong giải quyết việc làm đảm bảo đời sống cho đông đảo người
lao động, tạo ra sự ổn định xã hội và làm thuận lợi cho tăng trưởng và phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia.
* Vai trò văn hóa - xã hội
- Bên cạnh những đóng góp về mặt kinh tế, HTX tiếp tục khẳng định
vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề văn hóa - xã hội ở địa
phương. Nhờ tích cực chuyển sang tổ chức phát triển các ngành nghề mới,
khôi phục các ngành nghề truyền thống, gắn nông nghiệp với công nghiệp và
dịch vụ, nhiều HTX ở nông thôn đã tạo việc làm, tăng thu nhập và đảm bảo
đời sống ổn định cho trên hàng nghìn xã viên và người lao động, tạo điều kiện
phát triển kinh tế cho cả hộ nghèo và các loại hộ khác, cải thiện đời sống cho
nhân dân, góp phần xoá đói, giảm nghèo, từ đó giảm sức ép xã hội về trợ cấp

13


xã hội, thất nghiệp và giảm tệ nạn xã hội… làm giảm sức ép của quá trình đô
thị hoá, tham gia tích cực vào việc thực hiện đường lối của Đảng về công
nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới,
phát triển cộng đồng dân cư, thắt chặt tình làng, nghĩa xóm.
- Thông qua HTX đã phát huy tinh thần tương thân, tương ái trong việc

giúp nhau xoá đói giảm nghèo. Đây là một vấn đề vừa có tính kinh tế - xã hội
vừa mang ý nghĩa chính trị sâu sắc. HTX quan tâm đến đời sống vật chất và
tinh thần của xã viên thực hiện một số công việc có tính chất xã hội thông qua
những việc làm cụ thể: thăm hỏi lúc ốm đau, thai sản, tặng quà nhân dịp lễ tết,
hiếu hỉ, một số HTX còn tổ chức được những đợt tham quan, du lịch, nghỉ
mát cho xã viên và người lao động hàng năm. Ngoài việc thực hiện các nghĩa
vụ thuế đối với Nhà nước, các HTX đều tích cực tham gia phục vụ nhiệm vụ
chính trị, đóng góp kinh phí vào các phong trào của địa phương.
- HTX tạo điều kiện phát huy dân chủ ở cơ sở thông qua việc thực hiện
nguyên tắc quản lý dân chủ trong nội bộ HTX, phát huy tính cộng đồng của
dân cư ở làng xã; HTX là môi trường giáo dục tinh thần tập thể, ý thức cộng
đồng cho mỗi thành viên tham gia.
- Thông qua HTX, sức sản xuất xã hội được tập hợp lại để cùng phát
triển. Kinh tế hợp tác, HTX rất phù hợp với những đơn vị, cá thể còn yếu kém
cả về vốn và năng lực sản xuất. Có thể nói, HTX đã huy động được nguồn lực
vật chất cũng như tinh thần năng động, sáng tạo, sức lao động của một bộ
phận dân cư nhằm đóng góp có hiệu quả hơn vào sự phát triển chung của xã
hội.
2.1.3.2 Nhiệm vụ của HTX
Tham gia xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
chương trình phát triển hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã;

14


Tập hợp ý kiến, nguyện vọng của các thành viên để phản ánh, kiến nghị
và đề xuất với Chính phủ và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về chính
sách, pháp luật có liên quan; phối hợp tham gia xây dựng các văn bản pháp luật;
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên;
Tuyên truyền, vận động các cơ sở kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ, các

hộ gia đình, các cơ sở sản xuất nhỏ và vừa phát triển hợp tác xã, liên hiệp hợp
tác xã. Tổng kết và phổ biến kinh nghiệm của các hợp tác xã điển hình tiên
tiến, tổ chức các phong trào thi đua trong hệ thống Liên minh;
Tổ chức các hoạt động hỗ trợ, tư vấn, cung cấp dịch vụ cho các thành
viên về pháp lý, đầu tư, khoa học công nghệ, thông tin, tài chính, tín dụng, thị
trường và các lĩnh vực khác;
Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong hệ thống Liên minh;
cán bộ quản lý, xã viên và người lao động trong các hợp tác xã và các thành
viên khác;
Chủ trì hoặc tham gia triển khai thực hiện các chương trình, dự án và
các hoạt động dịch vụ công có mục tiêu phát triển hợp tác xã và liên hiệp hợp
tác xã;
Tổ chức các hoạt động kinh tế vì mục tiêu phát triển Liên minh và hỗ
trợ thành viên;
Tham gia các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, phát triển
quan hệ hợp tác với các tổ chức ở các nước; tiếp nhận và tổ chức thực hiện
các chương trình, dự án hỗ trợ, các khoản viện trợ để phát triển hợp tác xã và
liên hiệp hợp tác xã;
Thực hiện các nhiệm vụ khác do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao.
2.1.3.3 Chức năng của HTX
Đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên;
Tuyên tuyền, vận động phát triển hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã;

15


Hỗ trợ và cung cấp các dịch vụ cần thiết cho sự hình thành và phát triển
của các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và thành viên;
Tham mưu với Đảng, nhà nước trong quá trình xây dựng và thực hiện
các chủ trương, chính sách pháp ỉuật về phát triển kinh tế tập thể;

Đại diện cho các thành viên trong quan hệ hoạt động phối hợp với các
tổ chức trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
2.1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc phát huy vai trò của HTX
2.1.4.1 Các yếu tố bên trong
- Trình độ và năng lực của cán bộ HTX: Trình độ và năng lực của các
cán bộ HTX có một tầm ảnh hưởng quan trọng trong việc phát huy vai trò của
HTX đối với xã viên, nhất là trong điều kiện cơ chế thị trường như hiện nay,
đòi hỏi các HTX cần phải có đội ngũ cán bộ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có
khả năng quản lý, có bản lĩnh chính trị và khả năng nhạy bén với cơ chế thị
trường. Khi trình độ cán bộ quản lý HTX yếu kém, lúng túng trong điều hành
công việc sẽ dẫn đến hiệu quả hoạt động của HTX thấp, từ đó ảnh hưởng đến
vai trò của HTX trong việc phát triển và thúc đẩy kinh tế hộ, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và ảnh hưởng đến đời sống của các xã viên.
- Khả năng nhận thức của xã viên trong HTX: Xã viên trong HTX phải
đảm bảo cả về số lượng và chất lượng. Số lượng và chất lượng phải cân đối
với nhau. Khả năng nhận thức của xã viên tốt sẽ đảm bảo được hoạt động của
HTX cũng như quá trình hướng dẫn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật diễn ra
thuận lợi và đạt được kết quả cao.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật của HTX: Hệ thống trang thiết bị, cơ sở hạ
tầng có vai trò quan trọng đối với các hoạt động dịch vụ trong HTX. Đây là
nhóm nhân tố cần thiết để đảm bảo cho hoạt động dịch vụ của HTX diễn ra
bình thường và có hiệu quả. Cơ sở vật chất kỹ thuật của HTX tốt thì khả năng
tiếp cận của các xã viên sẽ tốt, từ đó sẽ nâng cao năng suất lao động, tăng hiệu
quả sản xuất của các xã viên nói riêng và của cả HTX nói chung.

16


- Điều kiện về vốn của HTX: Đây là nhân tố không thể thiếu và có ảnh
hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động của HTX. Vốn lớn thể hiện tiềm lực kinh

tế, khả năng hoạt động và cung ứng dịch vụ của HTX. Nếu có vốn lớn sẽ đảm
bảo được các hoạt động dịch vụ nông nghiệp như cung ứng đầu vào, đầu ra,…
cho các hộ xã viên được tốt; HTX có thể mở rộng quy mô hoạt động, thu hút
thêm nhiều xã viên tham gia, giải quyết vấn đề việc làm cho người dân. Vốn
lớn, HTX có thể quan tâm nhiều hơn đến đời sống văn hóa - xã hội của các xã
viên bằng cách tăng cường thăm hỏi đời sống,…Bên cạnh vấn đề về vốn, vấn
đề sử dụng vốn cũng là một nhân tố không nhỏ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt
động của các HTX. Vốn lớn, nhưng sử dụng vốn không hợp lý, sẽ gây lãng
phí và không hiệu quả.
- Quy mô hoạt động của HTX: Quy mô hoạt động của HTX được thể
hiện trên nhiều góc độ khác nhau: Có thể là quy mô về số lượng các loại hình
dịch vụ, nếu các loại hình dịch vụ nhiều, khả năng đáp ứng cho nhu cầu sản
xuất của các hộ xã viên sẽ được đáp ứng, giảm thiểu rủi ro. Ngoài ra, quy mô
hoạt động của HTX còn được thể hiện ở số lượng xã viên, quy mô vốn, diện
tích đất đai,…Các nhân tố trên đều ảnh hưởng đến sự phát triển của HTX nói
chung và ảnh hưởng đến vai trò của HTX đối với kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của từng hộ xã viên nói riêng.
- Cách thức tổ chức quản lý HTX: Cách thức tổ chức quản lý của HTX
có hợp lý thì sẽ giúp HTX tránh được tình trạng lãng phí nguồn lực. Thực tế
cho thấy, ở những HTXcó bộ máy tổ chức gọn nhẹ thì sẽ giúp tiết kiệm được
chi phí tiền lương, các hoạt động quản lý sẽ không chồng chéo, tập trung
được nguồn lực để phát triển cơ sở vật chất, đáp ứng được nhu cầu về kinh tế
- xã hội - văn hóa cho các xã viên.
2.1.4.2 Các yếu tố bên ngoài
- Yếu tố môi trường tự nhiên: Các hoạt động dịch vụ của HTX nông
nghiệp gắn liền với hoạt động sản xuất nông nghiệp, các yếu tố tự nhiên

17



không những chi phối cả quá trình sản xuất nông nghiệp mà còn ảnh hưởng
đến hoạt động dịch vụ của HTX. Ở mỗi địa phương, mỗi vùng kinh tế - xã hội
khác nhau thì hoạt động dịch vụ của mỗi HTX cũng khác nhau. Sự kiểm soát
các yếu tố này là rất khó, thông qua ảnh hưởng đến các hoạt động dịch vụ của
HTX, nó có ảnh hưởng gián tiếp đến hiệu quả sản xuất của các xã viên.
- Yếu tố về kinh tế xã hội: HTX là sản phẩm khách quan của quá trình
phát triển kinh tế. Kinh tế hàng hóa càng phát triển, thì nhiều yếu tố của quá
trình sản xuất, phạm vi của một hộ sẽ không đảm đương được. Điều đó đòi
hỏi hoạt động dịch vụ của HTX phải phát triển để giải quyết được sự khó
khăn, thiếu hụt của người nông dân. Thông qua hoạt động cung ứng dịch vụ
của mìnhcác HTX đã nâng cao lợi ích về kinh tế - văn hóa - xã hội cho các xã
viên. Giúp cho các hộ xã viên phát triển.
- Yếu tố về văn hóa truyền thống: Truyền thống văn hóa Việt Nam luôn
tôn trọng và đề cao tính cộng đồng làng xã, tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn
nhau trong quá trình sản xuất và đời sống. Chính truyền thống này là cơ sở để
HTX thực hiện vai trò phát triển nền văn hóa của một cộng đồng sản xuất
giỏi, lối sống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa các xã viên trong HTX.
- Yếu tố về khoa học - công nghệ: Cùng với sự phát triển của nền kinh
tế, quá trình chuyển giao khoa học - kỹ thuật cho nông nghiệp, nông thôn
ngày càng được đẩy mạnh. Nó là cơ sở để HTX thực hiện vai trò nâng cao
hiệu quả sản xuất của các hộ xã viên, thúc đẩy kinh tế hộ phát triển. Đồng
thời, quá trình này diễn ra nhanh hay chậm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, phân công lại lao động
trong nông nghiệp.
- Yếu tố thuộc về chủ trương chính sách: Đây là nhóm nhân tố thuộc về
sự giúp đỡ, tạo điều kiện của Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã hội. Sự ảnh
hưởng của nhóm yếu tố này được thể hiện chủ yếu thông qua Luật HTX,và
các chính sách ưu đãi,…Đó là những quyền của các xã viên nhận được, nghĩa

18



vụ của HTX phải làm và những cơ chế chính sách ưu đãi của Nhà nước đối
với khu vực kinh tế HTX được quy định rõ ràng trong bộ luật HTX (1996),
sửa đổi (2003 và 2012),... Đó chính là cơ sở để HTX hình thành và thực hiện
vai trò của mình.
2.1.5 Ý nghĩa của việc nâng cao vai trò của HTX đối với phát triển kinh tế
hộ của các xã viên
Nâng cao vai trò của HTX có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với phát
triển kinh tế hộ của các xã viên không chỉ về kinh tế mà còn cả về đời sống
văn hóa, xã hội. Nâng cao vai trò của HTX đối với phát triển kinh tế hộ của
các xã viên trước hết sẽ là động cơ thúc đẩy hoạt động sản xuất của các hộ tốt
hơn. Người dân sẽ được đáp ứng đầy đủ hơn về nhu cầu trong sản xuất và
sinh hoạt. Với khả năng đáp ứng đầy đủ các dịch vụ đầu vào, đầu ra, làm đất,
thủy nông, bảo vệ thực vật,… với giá cả hợp lý và đảm bảo chất lượng sẽ giúp
các xã viên đảm bảo quá trình sản xuất diễn ra thuận lợi, tăng năng suất, phát
triển kinh tế hộ. Ngoài ra, người dân sẽ có cơ hội làm việc nhiều hơn khi tham
gia vào các hoạt động của HTX, tăng thu nhập góp phần cải thiện mức sống.
Nâng cao vai trò của HTX đối với phát triển kinh tế hộ của các xã viên
sẽ góp phần phát triển một cộng đồng mang tính đoàn kết, tương thân tương
ái, chia sẻ giúp đỡ lẫn nhau trong đời sống cũng như trong sản xuất. Các
thành viên sẽ có cơ hội hợp tác, giao lưu học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, cùng
nhau phát triển sản xuất. Ngoài ra, đời sống của các xã viên cũng sẽ được
quan tâm một cách đầy đủ và đồng bộ hơn thông qua những cuộc thăm hỏi
gia đình khó khăn, ốm đau, thai sản,…. Từ đó sẽ góp phần củng cố niềm tin
của xã viên vào hoạt động cũng như định hướng của HTX.
Như vậy, nâng cao vai trò của HTX sẽ là động lực để thúc đẩy các xã
viên thực hiện sản xuất kinh doanh có hiệu quả và nghiêm túc hơn, đời sống
của xã viên được quan tâm cũng như sự tin tưởng và ủng hộ của họ đối với
HTX cũng sẽ tăng lên. Giúp xã hội sử dụng hợp lý và tiết kiệm nguồn lực,


19


góp phần xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn phục vụ công cuộc CNH - HĐH
nông thôn nói riêng và cả nước nói chung.
2.2 Cơ sở thực tiễn của đề tài
2.2.1 Thực trạng phát triển HTX ở một số nước trên thế giới
2.2.1.1 HTX nông nghiệp Hoa Kỳ
HTX ở Hoa kỳ phát triển được là nhờ ban đầu họ thông qua việc bán
nông sản, rồi sau đó mở rộng sang mua, rồi chế biến thực phẩm. Cho tới trước
năm 1936, HTX tham gia vào ngành chế biến các sản phẩm từ sữa bò, rồi tiếp
theo là bán gia súc và ngũ cốc, tiếp tới là bán hoa quả. Những nhà sản xuất
hoa quả ở California tổ chức ra 1 HTX mua bán ở quy mô bang. Họ sử dụng
đại bộ phận số hoa quả thu hoạch được và tạo ra những thương hiệu rất riêng
như: Cam Sunkist, Mận khô Sunsweet, Nho khô Sunmaid. Những nhà nuôi
gia súc thì tổ chức ra HTX bán buôn, cho tới trước năm 1926 họ đã nắm được
16% thị phần. Vào năm 1930, ở Minnesota va Wisconsin HTX đã sản xuất ra
hơn nửa lượng bơ kem, ở Chicago và Philadenphia 70 – 90% lượng sữa bò là
do HTX bán ra.
Cùng với sự phát triển của thương mại hóa công nghiệp, nhà nông có thể
mua hạt giống và phân bón ở bên ngoài. Tuy nhiên việc mua vào thông qua
HTX năm 1913 là chưa đầy 2% vậy mà năm 1935 đã lên tới 12% trên tổng
lượng giao dịch. Hơn nữa, nhà nông vẫn thường mua giống và phân bón tại hãng
với một giá mà nhà sản xuất tùy tiện đặt ra thì nay có thể mua thông qua HTX.
Kinh nghiệm này đã đưa đến việc đáp ứng đầy đủ các nhu cầu khác ở nông thôn,
ví dụ như việc cung cấp điện và điện thoại thông qua HTX công ích.
Chính phủ đã thành lập Ủy ban Marketing như là một phương tiện đánh
giá việc ổn định giá cả nông sản và cắt giảm số nông sản dư thừa thông qua
các HTX hiện có. Sau đại chiến thế giới lần thứ 2, ở rất nhiều nước, HTX là

lực lượng mạnh mẽ nhất nên đã trở thành khu vực HTX có quyền ngự trị

20


tuyệt đối, song việc thành lập Uỷ ban Marketing là bằng chứng chứng tỏ sự
nhất thể hóa giữa Nhà nước và HTX, và ở Hoa Kỳ việc này đã sớm bắt đầu.
Những năm trở lại đây, các HTX mới được hình thành, song đây là các
HTX có mục đích và khôi phục lại cộng đồng nông thôn nên chúng bắt đầu
được gọi với những cái tên như “làn sóng mới” của HTX hay HTX của “thế
hệ mới” hay HTX “giá trị gia tăng”.[15]
Nhờ có các HTX mới với mục đích khôi phục cộng đòng nông thôn đa
dạng hóa nhiều loại sản phẩm nông nghiệp mà thu nhập của nông thôn tăng
lên, nhiều việc làm trong vùng được tạo ra. Ở North Dakota, từ năm 1990 –
1994 thu nhập ròng trên mỗi đầu người tăng 11%, số việc làm trong lĩnh vực
chế tạo tăng 3.500 phần việc, trong khi dân số là 4.000 người. Các HTX mới
này đang rất thu hút sự chú ý với tiêu điểm là liệu chúng có mở rộng hình
thành phong trào mang tính toàn quốc hay không?
2.2.1.2 HTX nông nghiệp của Nhật Bản
Nhật Bản là một nước công nghiệp và dịch vụ phát triển, tuy nhiên họ
vẫn chú trọng vào phát triển nông nghiệp với việc thành lập các HTX nông
nghiệp đa chức năng có vai trò quan trọng đối với các xã viên như sau:
- Cung cấp DV hướng dẫn nhằm giáo dục, hướng dẫn nông dân trồng
trọt, chăn nuôi cũng như giúp họ hoàn thiện kỹ năng quản lý hoạt động sản
xuất. Thông qua các cố vấn của mình, các HTX nông nghiệp đã giúp nông
dân trong việc lựa chọn chương trình phát triển nông nghiệp theo khu vực; lập
chương trình sản xuất cho nông dân,… Họ cung ứng hàng hoá cho xã viên
trên toàn quốc theo đơn đặt hàng và theo giá thống nhất và hợp lý.
- Các HTX không đặt lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu mà chủ yếu là trợ
giúp nông dân. Các hình thức giao dịch giữa HTX với nông dân khá linh hoạt.

Nông dân có thể ký gửi hàng hoá cho HTX, HTX sẽ thanh toán cho nông dân
theo giá bán thực tế với một mức phí nhỏ; nông dân cũng có thể gửi HTX bán
theo giá họ mong muốn và HTX lấy hoa hồng. Ngoài ra, họ đã đề nghị nông

21


dân sản xuất theo kế hoạch với chất lượng và tiêu chuẩn thống nhất với nhau
và ưu tiên bán cho HTX. Về phần mình, HTX định tỷ lệ hoa hồng thấp. Các
HTX tiêu thụ nông sản theo quy mô lớn, không chỉ ở chợ địa phương mà
thông qua liên đoàn tiêu thụ trên toàn quốc.
- HTX nông nghiệp cung cấp tín dụng cho các xã viên của mình và
nhận tiền gửi của họ với lãi suất thấp. Các khoản vay có phân biệt: cho xã
viên khó khăn vay với lãi suất thấp.
- HTX nông nghiệp còn sở hữu các phương tiện sản xuất nông nghiệp
và chế biến nông sản để tạo điều kiện giúp nông dân sử dụng các phương tiện
này hiệu quả nhất, hạn chế sự chi phối của tư nhân. Các loại phương tiện
thuộc sở hữu HTX thường là: Máy cày cỡ lớn, phân xưởng chế biến, máy
bơm nước,…
- Các HTX còn là diễn đàn để nông dân kiến nghị Chính phủ các chính
sách hợp lý cũng như tương trợ lẫn nhau giữa các HTX và địa phương. Ngoài
ra, các HTX nông nghiệp Nhật Bản còn tiến hành các nhiệm vụ giáo dục xã
viên tinh thần HTX thông qua các tờ báo, phát thanh, hội nghị, đào tạo, tham
quan ở cả ba cấp HTX nông nghiệp cơ sở, tỉnh và Trung ương.
Như vậy, có thể thấy rằng HTX nông nghiệp Nhật Bản đã phát triển từ
các đơn vị đơn năng đến ngày nay trở thành các đơn vị đa năng dịch vụ mọi
mặt cho cho nhu cầu của nông dân và tổ chức liên kết qui mô lớn toàn quốc.
Họ vẫn tôn trọng mô hình kinh tế nông hộ và chỉ thay thế hộ nông dân và tư
thương ở khâu nào HTX tỏ ra có ưu thế hơn hẳn trong tương quan với mục
tiêu hỗ trợ nông dân.

2.2.1.3 HTX nông nghiệp tại Thái Lan
Các HTX nông nghiệp Thái Lan được thành lập để giúp những xã viên
cùng nhau làm ăn, giúp đỡ nhau trong những lúc khó khăn cũng như tạo cho
có cuộc sống tốt đẹp hơn với những hoạt động chính:

22


- Cung cấp vốn cho xã viên: Thông qua sự trợ giúp của Chính phủ,
ngân hàng nông nghiệp và HTX nông nghiệp, các tổ chức và các cơ quan cho
vay khác, xã viên HTX có thể vay vốn với lãi suất thấp và thời hạn ưu đãi
thích hợp cho việc kinh doanh hoặc sản xuất của họ. Vốn vay được chia thành
ba loại: ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Hiện nay, có 38,9% HTX tham gia
những hoạt động kinh doanh này.
- Thúc đẩy việc tiết kiệm: HTX nông nghiệp thúc đẩy việc tiết kiệm bởi
vì tích luỹ có nghĩa là cải thiện đời sống của xã viên. Tiền tiết kiệm cũng có
thể được sử dụng vào hoạt động kinh doanh, có lợi cho cả HTX và xã viên.
Hiện tại, các xã viên đều gửi tiết kiệm hoặc tiền ký quỹ cố định trong HTX.
- Mua, bán các sản phẩm: Việc mua, bán các mặt hàng phục vụ cho
sản xuất nông nghiệp, máy móc phục vụ nông nghiệp, giống, phân bón,…tạo
thuận lợi cho các xã viên vì nó giúp họ giảm chi phí sản xuất cũng như chi
tiêu cần thiết trong gia đình. Họ được đảm bảo giá cả công bằng và chất
lượng khi mua, bán thông qua HTX.
- Bán nông sản: Một điều quan trọng trong kinh doanh của HTX nông
nghiệp Thái Lan là tập trung các sản phẩm của xã viên làm cho họ có lợi thế
khi bán các sản phẩm của mình. Xã viên có thể bán được sản phẩm với mức
giá cả hợp lý và đảm bảo cân đong, đo đếm chính xác. Trong những năm gần
đây, chế biến thực phẩm đang được giới thiệu đến xã viên để giúp họ tăng
thêm thu nhập, ví dụ như: xưởng xay xát và đóng hộp hoa quả.
- Các dịch vụ mở rộng và phát triển nông nghiệp: HTX cung cấp các

dịch vụ khuyến nông cho xã viên với mức phí phù hợp, dựa trên nguyên tắc
cùng nhau chia sẻ. Các dịch vụ đó là cày bừa, cải tạo đất, tưới tiêu, hướng dẫn
về nông nghiệp…
2.2.1.4 HTX ở Hàn Quốc
Hầu hết các HTXDVNN ở Hàn Quốc đều là các HTX đa chức năng
hoạt động chủ yếu trên các lĩnh vực sau:

23


- Hoạt động cung ứng vật tư và hàng tiêu dùng cho nông dân: Để đảm
bảo cho xã viên có đủ vật tư thiết yếu giá rẻ, đúng thời gian và đảm bảo chất
lượng, Liên đoàn HTX Hàn Quốc (NACF) chịu trách nhiệm cung cấp phân,
thuốc, máy công cụ, giống,… phục vụ quá trình sản xuất nông nghiệp diễn ra
tốt nhất.
- Hoạt động tiếp thị, tiêu thụ nông sản: Với mục tiêu là cầu nối giữa xã
viên, nông trại với người tiêu dùng NACF đã thiết lập các trung tâm buôn
bán, phân phối nông sản để nâng cao khả năng cạnh tranh và bảo vệ thị
trường. Các kênh tiếp thị được tổ chức tại các trung tâm tiêu dùng quan trọng
với các tổ hợp thương mại, kho tang hiện đại, cửa hàng bán buôn bán lẻ và
chợ nông dân.
- Hoạt động chế biến nông sản của HTX: Để tăng giá trị nông sản, tạo
thu nhập và việc làm cho dân cư nông thôn và tăng khả năng cạnh tranh của
hàng nông sản, NACF hiện điều hành 153 nhà máy chế biến nông sản hiện
đại qui mô lớn trên toàn quốc. Trong đó có 14 nhà máy chế biến rau, 13 nhà
máy làm dưa kim chi, 12 nhà máy chế biến gạo, 12 nhà máy chế biến nước
uống,...
- Hoạt động tín dụng ngân hàng: NACF điều hành cả hệ thống ngân
hàng nông nghiệp và các quỹ tín dụng ở HTX để giúp người dân có thể vay
vốn, và để giúp nông dân có thế chấp để vay tiền từ ngân hàng, NACF mở

dịch vụ bảo hiểm tín dụng. Phần lớn tiền huy động được đầu tư trở lại cho
nông dân phục vụ buôn bán và đầu tư. .
- Hoạt động bảo hiểm: NACF hiện đang áp dụng 10 chính sách bảo
hiểm cho nông dân, 25 chính sách bảo hiểm nhân thọ, và 8 chính sách bảo
hiểm khác. Tiền lãi được đầu tư trở lại, phục vụ phúc lợi xã viên, 7800 học
sinh được nhận học bổng, hơn 67 ngàn người được khám chữa bệnh miễn phí.
Ngoài ra HTX còn hỗ trợ xây dựng như 262 thư viện, 507 trung tâm tư vấn
nông thôn, 573 nhà văn hóa, 499 hội trường cưới...

24


Như vậy, ở Hàn quốc, quá trình hình thành hệ thống HTX mới - hỗ trợ
dịch vụ cho nông dân - trên thực tế đã phát triển nhanh và ngày càng đáp ứng
được nhu cầu tăng lên của nông dân. Chính phủ Hàn quốc đã quyết định đúng
khi biết trước sự cần thiết phải thiết lập hệ thống HTX hỗ trợ dịch vụ cả đầu
vào và đầu ra cho nông dân.
2.2.2 Tình hình phát triển HTX ở Việt Nam
* Quá trình phát triển: Quá trình hình thành và phát triển của HTX ở
Việt Nam đã trải qua hơn 50 năm với nhiều bước thăng trầm trong lịch sử.
Bước vào cơ chế thị trường, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế cùng với
việc gia nhập WTO, phong trào HTX ở nước ta phải đối mặt với nhiều thách
thức để có thể tồn tại và phát triển. Chính vì thế, Đảng và Nhà nước đã có sự
quan tâm, đưa ra nhiều chủ trương, chính sách hỗ trợ phát triển khu vực kinh
tế HTX.
- Từ 1959 đến 1986: Kinh tế kế hoạch - thời kỳ bao cấp
Trước đổi mới (từ khi HTX đầu tiên ra đời năm 1959 đến năm 1986),
phong trào HTX đã cải thiện một bước đời sống của nhân dân, đổi mới bộ mặt
của nông thôn, xây dựng hạ tầng phục vụ sản xuất. HTX được thành lập
không dựa trên nhu cầu hợp tác thực tế mà theo quyết định hành chính Nhà

nước, vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, đề cao gần như
tuyệt đối sở hữu tập thể và sản xuất tập thể; sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản
xuất và vai trò kinh tế hộ, kinh tế cá thể bị xem nhẹ.
- Từ năm 1986 đến nay
Từ sau năm 1986, phong trào HTX bắt đầu thoái trào trong bối cảnh
nền kinh tế Việt Nam chuyển sang kinh tế thị trường. HTX cũ bị tê liệt, tan rã
hoặc tự phát chuyển đổi thích nghi với môi trường mới, nhất là HTX nông
nghiệp. Vai trò tự chủ của kinh tế hộ gia đình được khẳng định, kinh tế tư
nhân được khuyến khích phát triển và doanh nghiệp Nhà nước được đổi mới,
cùng với sự ra đời của các văn bản pháp luật liên quan (Luật Kinh tế, Luật

25


×