Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với phát triển kinh tế hộ sản xuất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.13 KB, 24 trang )

Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với phát triển kinh tế hộ sản
xuất
1.Tín dụng Ngân hàng
1.1. Khái niệm
1.1. Khái niệm
Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ giao dịch giữa hai
chủ thể, trong đó một bên chuyển giao một lợng giá trị sang cho bên kia sử dụng
trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận đợc phải cam kết hoàn trả với
một lợng giá trị lớn hơn theo thời hạn đã thoả thuận.
TDNH là mối quan hệ tín dụng giữa một bên là Ngân hàng với một bên là
các chủ thể khác trong nền kinh tế, trong đó Ngân hàng đóng vai trò vừa là ngời đi
vay vừa là ngời cho vay. Giá (lãi suất) của khoản vay do Ngân hàng ấn định cho
khách hàng vay là mức lợi tức mà khách hàng phải trả trong suốt khoản thời gian
tồn tại của khoản vay.
Chủ thể tham gia trong quan hệ tín dụng Ngân hàng là Ngân hàng, Nhà n-
ớc, doanh nghiệp và hộ dân c. Đối tợng đợc sử dụng để cho vay ở đây là tiền, nó
không chịu sự giới hạn theo hàng hoá, vận động đa phơng đa chiều. Đây là đặc
điểm khác biệt giữa TDNH với các loại hình tín dụng khác.
Tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất là tín dụng mà một bên chủ thể tín
dụng là Ngân hàng, một bên là các hộ sản xuất
1.2. Các phơng thức cấp tín dụng Ngân hàng
1.2.1. Cho vay trực tiếp từng lần
1.2.1. Cho vay trực tiếp từng lần
Đây là hình thức cho vay phổ biến của Ngân hàng đối với các khách hàng
không có nhu cầu vay vốn thờng xuyên.
Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và giải trình cho Ngân hàng phơng
án sản xuất kinh doanh. Ngân hàng sẽ tiến hành thẩm định phân tích khách hàng
xem có đủ điều kiện và an toàn để cho vay hay không. Nếu Ngân hàng xét thấy
đủ điều kiện sẽ tiến hành kí hợp đồng cho vay, xác định qui mô cho vay, thời hạn
giải ngân, mức lãi suất và các điều kiện ràng buộc khác cần thiết.
Theo từng kì hạn nợ trong hợp đồng, Ngân hàng sẽ tiến hành thu gốc và lãi.


Quá trình khách hàng sử dụng vốn vay, Ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích sử dụng
tiền vay và hiệu quả dự án. Nếu xét thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng Ngân
hàng sẽ huỷ hợp đồng, thu nợ trớc hạn hoặc chuyển nợ quá hạn.
1.2.2. Cho vay theo hạn mức tín dụng
1.2.2. Cho vay theo hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng là mức d nợ vay tối đa đợc duy trì trong một thời hạn
nhất định mà tổ chức tín dụng và khách hàng đã thoả thuận trong hợp đồng tín
dụng.
Đây là nghiệp vụ tín dụng mà theo đó Ngân hàng thoả thuận cấp cho khách
hàng một hạn mức tín dụng. Trong kì khách hàng có thể thực hiện vay - trả nhiều
lần, song d nợ không đợc vợt quá hạn mức tín dụng.
Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phơng án sử dụng tiền vay, nộp
các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoá hoặc dịch vụ, nêu yêu cầu vay và làm
giấy nhận nợ. Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, Ngân
hàng sẽ tiến hành giải ngân cho khách hàng.
Thời hạn cho vay đợc xác định trên hợp đồng tín dụng hoặc trên từng giấy
giấy nhận nợ phù hợp với chu kì sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của
khách hàng, nếu khách hàng kinh doanh tổng hợp thì lựa chọn chu kì kinh doanh
dài nhất hoặc chiếm tỷ trọng lớn nhất để xác định thời hạn cho vay. Thời hạn cho
vay trên giấy nhận nợ có thể không phù hợp với thời hạn hiệu lực của hạn mức tín
dụng.
Cho vay theo hạn mức tín dụng là hình thức cho vay thuận tiện cho những
khách hàng vay mợn thờng xuyên, vốn vay tham gia thờng xuyên vào quá trình
sản xuất kinh doanh.
1.2.3. Cho vay luân chuyển
1.2.3. Cho vay luân chuyển
Là nghiệp vụ cho vay dựa trên sự luân chuyển của hàng hoá. Doanh nghiệp
khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để khách hàng mua
hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc đầu quí ngời vay
phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng sẽ thoả thuận với

nhau về phơng thức vay, hạn mức tín dụng, lãi suất và phơng thức trả lãi, các
nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể đợc thoả
thuận trong một năm hoặc vài năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là
thời hạn để Ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách hàng và quyết định có
cho vay nữa hay không tuỳ mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng cũng nh
tình hình tài chính của Ngân hàng.
Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến Ngân hàng các chứng từ hoá đơn nhập
hàng và số tiền cần vay. Ngân hàng sẽ cho vay và trả tiền cho ngời bán. theo hình
thức này, giá trị hàng hoá mua vào (có hoá đơn, hợp pháp, hợp lệ đúng đối tợng)
đều là đối tợng đợc Ngân hàng cho vay; thu nhập bán hàng đều là nguồn để chi trả
cho Ngân hàng. Tuy nhiên Ngân hàng có thể chỉ cho vay với một tỉ lệ nhất định
tuỳ theo khối lợng và chất lợng quan hệ nợ nần của ngời vay. Các khoản phải thu
và cả hàng hoá trong kho của khách hàng trở thành vật đảm bảo cho khoản vay
Cho vay luân chuyển thờng áp dụng đối với các doanh nghiệp thơng nghiệp
hoặc các doanh nghiệp sản xuất có chu kì tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả
thờng xuyên với Ngân hàng.
Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho các khách hàng. Thủ tục vay chỉ
cần thực hiện một lần cho nhiều lần vay. Khách hàng đợc đáp ứng nhu cầu vốn kịp
thời, vì vậy việc thanh toán cho ngời cung cấp sẽ nhanh gọn. Song nếu nh doanh
nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ thì Ngân hàng sẽ gặp khó
khăn trong việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không đợc qui định rõ
ràng.
Cho vay luân chuyển dựa trên sự luân chuyển của hàng hoá nên cả Ngân
hàng lẫn doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lu chuyển hàng hoá để dự
đoán dòng ngân quĩ trong thời gian tới., từ đó xác định một thời hạn cho vay hợp
lý nhất.
1.2.4. Cho vay trả góp
1.2.4. Cho vay trả góp
Cho vay trả góp là hình thức tín dụng mà theo đó Ngân hàng cho phép
khách hàng trả gốc và lãi làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho

vay trả góp thờng đợc áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho
tài sản cố định, hàng lâu bền, hoặc đối với các khoản cho vay tiêu dùng. Số tiền
trả mỗi lần đợc đợc tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ của khách hàng
(thờng là từ khấu hao và thu nhập sau thuế của dự án, hoặc thu nhập hàng kì của
ngờ tiêu dùng).
Ngân hàng thờng cho vay trả góp đối với ngời tiêu dùng thông qua hạn mức
nhất định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho ngời bán về số hàng hoá mà khách hàng
đã mua trả góp. Các cửa hàng bán nhận tiền ngay sau khi bán hàng từ phía Ngân
hàng và làm đại lý thu tiền cho Ngân hàng, hoặc khách hàng trả trực tiếp cho cửa
hàng. Đây là hình thức tín dụng tài trợ cho ngời mua (qua đó đến ngời bán) nhằm
khuyến khích tiêu thụ hàng hoá
Cho vay trả góp thờng rủi ro cao do khách hàng thờng thế chấp bằng hàng
hoá mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của ngời vay.
Nếu ngời vay mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút thì khả năng thu nợ của Ngân
hàng cũng bị ảnh hởng. Chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thờng là
cao nhất trong khung lãi suất cho vay của Ngân hàng.
1.2.5. Cho vay thấu chi
1.2.5. Cho vay thấu chi
Cho vay thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó Ngân hàng cho phép ngời
vay đợc chi trội (vợt) số d tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất
định trong một khoảng thời gian xác định. Giới hạn này gọi là hạn mức thấu chi.
Đây là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn không
có tài sản đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp và cá nhân song chỉ chủ yếu
cấp cho các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn.
Để đợc thấu chi khách hàng phải làm đơn xin Ngân hàng hạn mức thấu chi
và thời gian thấu chi (khách hàng có thể phải trả phí cam kết cho Ngân hàng).
Trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể kí séc, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ
sác... vợt quá số d tiền gửi để chi trả (song trong hạn mức thấu chi). Khi khách
hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi Ngân hàng sẽ tiến hành thu nợ gốc và lãi.
Số lãi mà khách hàng phải trả:

Lãi = Lãi suất thấu chi *Thời gian thấu chi * Số tiền thấu chi
1.2.6. Cho vay gián tiếp
1.2.6. Cho vay gián tiếp
Cho vay gián tiếp là hình thức Ngân hàng cho khách hàng vay thông qua
các tổ chức trung gian. Đó là các tổ, đội, hội, nhóm nh nhóm sản suất, Hội nông
dân, Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ...Các tổ chức này thờng liên kết các thành
viên theo một mục đích riêng, song chủ yếu là để hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền
lợi cho mỗi thành viên. Vì vậy, việc phát triển kinh tế, làm giàu, xoá đói giảm
nghèo luôn đợc các trung gian rất quan tâm.
Trong phơng thức cho vay này Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của
hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian nh thu nợ, phát tiền vay...Tổ chức
trung gian cũng có thể đứng ra tín chấp cho các thành viên vay, hoặc các thành
viên trong nhóm bảo lãnh cho một thành viên vay. Điều này rất thuận tiện khi ng-
ời vay không có hoặc không đủ tài sản thế chấp. Tuy nhiên để các tổ chức trung
gian hoạt động có hiệu quả thì các tổ chức trung gian cũng bị mất chi phí, vì vậy
nhân hàng phải trích một phần thu nhập cho các tổ chức trung gian.
Ngân hàng cũng có thể cho vay thông qua các ngời bán lẻ các sản phẩm
đầu vào của quá trính sản xuất. Việc cho vay theo cách này hạn chế ngời vay sử
dụng tiền sai mục đích.
Cho vay gián tiếp thờng áp dụng đối với thị trờng có nhiều món vay nhỏ,
ngời vay phân tán, cách xa Ngân hàng. Trong trờng hợp nh vậy cho vay thông qua
trung gian có thể tiết kiệm chi phí cho vay (phân tích, giám sát, thu nợ...)
Cho vay thông qua trung gian nhằm giảm bớt rủi ro, chi phí của Ngân hàng,
tuy nhiên nó cũng bộc lộ những khiếm khuyết. Nhiều trung gian đã lợi dụng vị thế
của mình và nếu Ngân hàng không kiểm soát tốt sẽ tăng lãi suất cho vay để cho
vay lại, hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên khác cho riêng mình. Các nhà bán
lẻ có thể lợi dụng để bán hàng kém chất lợng hoặc bán với giá đắt cho ngời vay
vốn.
1.3. Các hình thức đảm bảo đối với tín dụng Ngân hàng.
Trong nhiều trờng hợp, Ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có tài sản đảm

bảo khi nhân tín dụng Ngân hàng. Lí do là khách hàng luôn phải đối đầu với rủi ro
trong kinh doanh, có thể mất khả năng trả nợ cho Ngân hàng do thu nhập từ hoạt
đông kinh doanh giảm sút mạnh. Những biến cố không mong đợi đó có thể gây
cho Ngân hàng những tổn thất lớn. Chính vì vậy, trừ những khách hàng có uy tín
cao, phần lớn khách hàng phải có tài sản đảm bảo khi nhận tín dụng của Ngân
hàng. Đặt yêu cầu phải có tài sản đảm bảo, Ngân hàng muốn có nguồn trả nợ thứ
hai khi nguồn thứ nhất là thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh không đảm
bảo trả nợ. Có nhiều hình thức đảm bảo đối với tín dụng Ngân hàng


Phân loại theo tính chất an toàn, Ngân hàng chia tài sản đảm bảo thành
Phân loại theo tính chất an toàn, Ngân hàng chia tài sản đảm bảo thành


hai loại.
hai loại.
-
Loại 1
Loại 1, Là các tài sản thuộc sở hữu hoặc sử dụng lâu dài của khách hàng,
hoặc đảm bảo của bên thứ ba cho khách hàng của Ngân hàng (bảo lãnh). Những
đảm bảo này không đợc hình thành từ chính từ chính khoản tín dụng của Ngân
hàng. Đảm bảo loại 1 có thể có giá trị lớn hơn, nhỏ hơn hoặc bằng giá trị của
khoản tín dụng tuỳ theo dự đoán của Ngân hàng về độ rủi ro. Các khoản tín dụng
dựa trên tài sản đảm bảo loại 1 thờng đảm bảo an toàn cho Ngân hàng, song gây
khó khăn cho cả Ngân hàng lẫn khách hàng trong việc định giá, bảo quản, làm
cho thời gian phân tích tín dụng bị kéo dài.
- Loại 2
- Loại 2, Là những tài sản đợc hình thành từ nguồn tài trợ của Ngân hàng
(đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay). Ví dụ, Ngân hàng cho khách hàng
vay tiền để mua một chiếc xe máy thì chiếc xe máy hình thành từ vốn vay sẽ trở

thành đảm bảo loại 2. Đây là biện pháp cuối cùng để Ngân hàng có thể hạn chế
việc ngời vay bán tài sản hình thành từ vốn vay. Tuy nhiên, khi ngời vay không
trả đợc nợ thì phần lớn các tài sản này đều giảm giá, khó bán. Do đó tải sản đảm
bảo loại hai thờng không đảm bảo cho Ngân hàng thu đủ gốc và lãi nếu khách
hàng mất khả năng thanh toán. Tài sản loại 2 thờng áp dụng cho những khách
hàng mà tài sản loại 1có ít hoặc không thể trở thành tài sản đảm bảo của Ngân
hàng và thờng đợc áp dụng đối với những khách hàng có uy tín đối với Ngân
hàng.


Phân loại tài sản đảm bảo theo hình thức vật chất.
Phân loại tài sản đảm bảo theo hình thức vật chất.
Thứ nhất:
Thứ nhất:

đảm bảo bằng hàng hoá trong kho (nh nguyên, nhiên vật liệu
sản phẩm...). Nếu Ngân hàng có kho bãi riêng hoặc có phơng thức bảo quản thích
hợp thì đây là hình thức rất thuận lợi cho khách hàng và Ngân hàng. Các nhân tố
tác động đến việc chấp nhận hàng hoá làm đảm bảo cho khoản vay:
+ Khả năng kiểm soát hàng hoá đảm bảo
+ Khả năng kiểm soát hàng hoá đảm bảo. Nếu hàng đảm bảo thuộc kho
ngời vay, hoặc kho ngời vay thuê, Ngân hàng phải nắm quyền kiểm soát việc bán
hàng hoá đó; nếu không Ngân hàng phải có kho để cất giữ hàng đảm bảo. Ngân
hàng phải nắm giữ hàng hoặc giấy tờ lu kho để đảm bảo ngời vay không mang
thế chấp cho Ngân hàng khác hoặc rút ra bán. Ngân hàng cũng cần xem xét xem
những hàng hoá đảm bảo này đã là hàng hoá đảm bảo cho các khoản vay ở các tổ
chức tín dụng khác hay cha. Khi có nhu cầu vay, ngời vay phải trình đơn cho
Ngân hàng kiểm soát hàng hoá trong kho (sau khi trừ đi hàng hoá đảm bảo nợ
khác, hàng kém phẩm chất, hàng hoá đợc tài trợ bằng nguồn vốn tự có...). Do đó
chỉ khoảng 70-80% của phần còn lại mới là đối tợng cho vay của Ngân hàng.

+ Tính thị tr
+ Tính thị tr
ờng của hàng hoá đảm bảo.
ờng của hàng hoá đảm bảo. Ngân hàng quan tâm đến tính ổn định
giá trị thị trờng của hàng hoá đảm bảo. Những hàng hoá làm đảm bảo phải là hàng
hoá dễ bán và có giá cả ổn định.
+ Khả năng bảo quản, định giá hàng đảm bảo.
+ Khả năng bảo quản, định giá hàng đảm bảo. Điều này xuất phát từ một số
đặc thù riêng biệt của một số hàng hoá là đòi hỏi kĩ thuật bảo quản cao, nếu
không sẽ giảm giá. Do vậy Ngân hàng chỉ chấp nhận hàng hoá ít chịu ảnh hởng
của yếu tố môi trờng
Tất cả các hàng hoá phải đợc bảo hiểm. Bảo hiểm sẽ tránh cho Ngân hàng
những tổn thất lớn khi khi hàng bị cháy, trộm cớp, hoặc các thiên tai khác.
Thứ hai
Thứ hai

.

Đảm bảo bằng tài sản cố định. Trong hình thức đảm bảo này thì
nhà máy, trang thiết bị sản xuất và phơng tiện vận chuyển, cây con, quyền sử dụng
đất, rừng... đều có thể trở thành tài sản đảm bảo cho Ngân hàng. Đảm bảo bằng
đất đai rất phức tạp vì khách hàng phải đăng kí với Sở địa chính, hoặc các cơ quan
có thẩm quyền về việc chuyển nhợng hoặc thế chấp cho Ngân hàng. Các nhân tố
tác động đến việc chấp nhận các tài sản cố định làm đảm bảo cho các khoản tài
trợ bao gồm:
+ Quyền sở hữu hợp pháp hoặc quyền thuê lâu dài
+ Quyền sở hữu hợp pháp hoặc quyền thuê lâu dài. Điều này ảnh hởng
đến việc chấp nhận tài sản làm vật thế chấp bởi vì tài sản cố định phải đợc bán khi
cần thiết do đó liên quan đến quyền sử dụng hoặc quyền sở hữu của tài sản và khả
năng chuyển nhợng tài sản đó. Ngân hàng cũng quan tâm đến tranh chấp, di chúc

cũng nh các qui định của pháp luật đối với tài sản đảm bảo.
+ Tính thị tr
+ Tính thị tr
ờng của tài sản đảm bảo:
ờng của tài sản đảm bảo: Giá cả của tài sản cố định thờng
có những giai đoạn thay đổi rất lớn. Máy móc đã lắp đặt, vận hành thờng bị giảm
giá rất lớn so với giá trị còn lại. Nhiều loại tài sản cố định bị tác động mạnh bởi
hao mòn vô hình. Bên cạnh đó nhiều loại tài sản cố định có giá trị thờng xuyên
gia tăng nh cây trồng, vật nuôi. Ngân hàng thờng phải nghiên cứu những tính chất
này để định tỉ lệ tài trợ hợp lý vừa đảm bảo an toàn cho Ngân hàng hàng vừa đáp
ứng nhu cầu vốn của khách hàng.
+ Bảo hiểm
+ Bảo hiểm: Ngân hàng thờng yêu cầu khách hàng phải mua bảo hiểm đối
với tài sản cố định làm đảm bảo cho khoản tài trợ.
Thứ ba
Thứ ba

:

Đảm bảo bằng hợp đồng chi trả của bên thứ ba. Nhiều khách
hàng kí hợp đồng bán hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ (ví dụ khách hàng nhận
thầu cung cấp xây dựng, dịch vụ...) và nhận về hợp đồng thanh toán. Hợp đồng
thanh toán là cam kết của ngời thứ ba về việc sẽ thanh toán số tiền trong thời hạn
nhất định với những điều kiện cụ thể cho khách hàng. Hợp đồng này có thể trở
thành đảm bảo cho khách hàng để nhận tài trợ của Ngân hàng. Các nhân tố ảnh h-
ởng đến là :
+ Khả năng chi trả của ng
+ Khả năng chi trả của ng
ời thứ ba
ời thứ ba: Việc tài trợ cho khách hàng dựa trên

các hợp đồng chi trả đã chuyển trọng tâm phân tích tuín dụng từ phía khách hàng
sang ngời thứ ba. Tình hình tài chính, uy tín, tính sòng phẳng trong thanh toán là
những yếu tố để Ngân hàng cân nhắc. Ví dụ Ngân hàng thờng dễ chấp nhận hợp
đồng bảo hiểm của các công ty bảo hiểm có tên tuổi.
+ Khả năng thực hiện hợp đồng với ng
+ Khả năng thực hiện hợp đồng với ng
ời thứ ba của khách hàng.
ời thứ ba của khách hàng. Nếu
ngời cung cấp hàng hoá và dịch vụ hoặc ngời mua không có khả năng thực hiện
hợp đồng cam kết thì bên thanh toán sẽ không thực hiện cam kết thanh toán.
+ Các cam kết có khả năng chuyển nh
+ Các cam kết có khả năng chuyển nh
ợng:
ợng: Nếu khách hàng đã chuyển
nhợng cam kết cho ngời khác thì Ngân hàng rất khó thu hồi nợ, vì vậy Ngân hàng
phải xem xét khả năng chuyển nhợng các cam kết. Ví dụ, Ngân hàng đề phòng có
những hợp đồng bảo hiểm ngắn hạn, nắm quyền sở hữu hợp pháp bằng cách yêu
cầu công ty bảo hiểm viết giấy chuyển nhợng...
Thứ t
Thứ t


:
:

Đảm bảo bằng chứng khoán: Các chứng khoán có thể đợc xem là
tài sản đảm bảo cho khoản vay. Các tài sản tài chính này rất thuận tiện đối với
Ngân hàng do phần lớn Ngân hàng đều có nghiệp vụ quản lý và kinh doanh chứng
khoán. Các nhân tố ảnh hởng đến việc sử dụng chứng khoán làm đảm bảo.
+ Tính an toàn của chứng khoán

+ Tính an toàn của chứng khoán: Ngân hàng quan tâm đến tình hình tài
chính, uy tín của các tổ chức sở hữu chứng khoán, tức là ngời chi trả các chứng
khoán. Các chứng khoán của Chính phủ, các tổ chức tài chính lớn, hoặc các công
ty lớn thờng dễ đợc Ngân hàng chấp nhận đảm bảo và tài trợ với tỉ lệ cao. Ngân
hàng không chấp nhận đảm bảo bằng chứng khoán của chính khách hàng.
+ Tính thị tr
+ Tính thị tr
ờng (tính thanh khoản).
ờng (tính thanh khoản). Các chứng khoán thờng xuyên trao
đổi trên thị trờng đợc Ngân hàng u tiên nhận làm đảm bảo so với các chứng khoán
ít trao đổi. Nhiều loại chứng khgoán giá cả bị ảnh hởng bởi tệ nạn đầu cơ, do vậy

×