PHẦN I
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Môi trường đang trở thành một vấn đề nan giải mà xã hội quan tâm hiện
nay. Để giải quyết những vấn đề đó cần có những công trình nghiên cứu về xử lý
nhằm giảm thiểu ô nhiễm khi thải ra môi trường góp phần gìn giữ và bảo vệ môi
trường. Ở Việt Nam, quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta trong
những năm gần đây phát triển rất nhanh. Dân số đã tăng lên nhanh chóng đặc
biệt là các khu vực đô thị, các thành phố lớn. Sự gia tăng dân số đã kéo theo việc
sử dụng nước phục vụ cho sinh hoạt, sản xuất, lượng rác thải, khói bụi và tiếng
ồn ngày càng tăng. Ô nhiễm môi trường tại các đô thị đang trở thành một vấn
đề đáng quan tâm.
Thành phố Thái Nguyên, là trung tâm chính trị, kinh tế của khu Việt Bắc
nói riêng, của vùng trung du miền núi Đông Bắc nói chung, là cửa ngõ giao lưu
kinh tế xã hội giữa vùng trung du miền núi với vùng đồng bằng Bắc Bộ. Trải
qua lịch sử 48 năm hình thành và phát triển, bằng những cố gắng nỗ lực của
mình cùng với sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước Thành phố đã đạt
được những thành tựu rất đáng ghi nhận. Ngày 1/9/2010 Thủ tướng Chính phủ
ký Quyết định 1645/QĐ-TTg công nhận thành phố (TP) Thái Nguyên là đô
thị loại I trực thuộc tỉnh Thái Nguyên.
Thành phố Thái Nguyên là nơi đông dân cư và tập trung nhiều trường đại
học. Theo điều tra dân số 01/04/2009 dân số Thành phố Thái Nguyên là hơn 290
nghìn người, dân cư phân bố với mật độ khá cao 1.260 người/km². Tốc độ gia
tăng hàng năm là 0,7 %/năm. Sự gia tăng dân số cùng với tốc độ đô thị hóa
nhanh, đặc biệt là sự tập trung đông dân cư ở các khu trung tâm gây ra sự quá tải
cho môi trường. Những vấn đề vấn đề đang tập trung sự quan tâm chú ý của
nhân dân có thể kể tới đó là sự ô nhiễm môi trường do nước thải sinh hoạt từ các
hộ dân cư, các khu nhà ở, nhà trọ sinh viên, do rác thải từ các hoạt động sinh
1
hoạt và thương mại dịch vụ, tiếng ồn và khói bụi do các hoạt động giao thông,
các cơ sở sản xuất…..
Phường Thịnh Đán là một trong 26 đơn vị hành chính của Thành Phố
Thái Nguyên, có vị trí địa lí thuận lợi cho phát triển kinh tế do nằm gần Trung
tâm Thành Phố. Phường diện tích tự nhiên là 616.18 ha, chiếm 3.48% diện tích
tự nhiên của thành phố Thái Nguyên, đây cũng là một khu vực tập trung khá
đông dân cư và sinh viên của Trường Cao Đẳng Y tế, Cao Đẳng Sư phạm.
Trong những năm qua, quá trình đô thị hóa đã tác động mạnh mẽ đến môi
trường của phường, gây ô nhiễm môi trường không khí, nước, đất ở các mức độ
khác nhau. Ngoài nguyên nhân khách quan (như vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên),
nguyên nhân chủ quan là sự gia tăng của các hoạt động kinh tế-xã hội, dân cư,
thiếu quy hoạch không gian lãnh thổ và thiếu quan tâm trong công tác quản lý
môi trường của các cơ quan quản lý cấp cơ sở.
Do đó cần phải có những biện pháp hữu hiệu, kịp thời để ngăn ngừa, hạn
chế, khắc phục, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, nhất là khi quá trình đô thị hóa
diễn ra ngày càng mạnh, nhằm phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững.
Đây cũng là lý do dể chúng tôi tiến hành đề tài “Đánh giá hiện trạng chất
lượng môi trường khu vực trên địa bàn Phường Thịnh Đán – Thành Phố Thái
Nguyên”
1.2. Mục đích của đề tài
- Điều tra, đánh giá chất lượng môi trường nông thôn tại tổ phường
Thịnh Đán, Thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.
- Thông qua nghiên cứu chuyên đề, nâng cao hiểu biết của người dân về
vấn đề bảo vệ môi trường.
- Đề xuất biện pháp bảo vệ và quản lý môi trường tại địa phương.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học:
+ Nâng cao kiến thức, kĩ năng và rút ra nhiều kinh nghiệm thực tế phục
vụ cho công tác sau này.
2
+ Vận dụng và phát huy các kiến thức đã học tập và nghiên cứu
- Ý nghĩa thực tiễn:
+ Đánh giá được chất lượng môi trường trên địa bàn phường Thịnh Đán,
từ đó rút ra những nhận xét, kết luận làm cơ sở cho các biện pháp quản lý,
bảo vệ môi trường, những định hướng xây dựng phù hợp và đảm bảo sự
cân bằng giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường
+ Nâng cao nhận thức của người dân về vấn đề bảo vệ môi trường làm cơ
sở lý thuyết cho các nhà quản lý, các nhà đầu tư và nghiên cứu.
3
PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở pháp lý
- Luật BVMT Việt Nam - Ngày 29 tháng 11 năm 2005 của Quốc Hội
Nước Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng
đến năm 2020
- Quyết định số 104/2000/QĐ – TTg ngày 25/08/2000 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh
nông thôn đến năm 2020.
- Quyết định của Bộ trưởng Bộ Y Tế số 08/2005/QĐ – BYT ngày
11/03/2005 về việc ban hành tiêu chuẩn vệ sinh đối với các loại nhà tiêu.
- Nghị định số 149/2004/NĐ – CP ngày 27/07/2004 của Chính phủ quy
định về việc cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải
vào nguồn nước.
- Thông tư của Bộ Y Tế số 15/2006/TT – BYT ngày 30/11/2006 hướng
dẫn việc kiểm tra vệ sinh nước sạch, nước ăn uống, nhà tiêu và hộ gia đình.
- Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN 5944-1995) Chất lượng nước - Tiêu chuẩn
chất lượng nước ngầm.
- Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5502:2003 nước cấp sinh hoạt – yêu cầu
chất lượng.
2.2. Cơ sở lý luận
Các khái niệm liên quan
- Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh
con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con
người và sinh vật.
- Thành phần môi trường là yếu tố vật chất tạo thành môi trường như đất,
nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật, hệ sinh thái và các hình thái vật
4
chất khác.
- Hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường trong
lành, sạch đẹp; phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng phó
sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi
trường; khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ đa
dạng sinh học.
- Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện
tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương
lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ
xã hội và bảo vệ môi trường.
- Tiêu chuẩn môi trường là giới hạn cho phép của các thông số về chất
lượng môi trường xung quanh, về hàm lượng của chất gây ô nhiễm trong chất
thải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định làm căn cứ để quản lý và
bảo vệ môi trường.
- Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường không
phù hợp với tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người, sinh vật.
Suy thoái môi trường là sự suy giảm về chất lượng và số lượng của thành phần
môi trường, gây ảnh hưởng xấu đối với con người và sinh vật.
- Sự cố môi trường là tai biến hoặc rủi ro xảy ra trong quá trình hoạt động
của con người hoặc biến đổi thất thường của tự nhiên, gây ô nhiễm, suy thoái
hoặc biến đổi môi trường nghiêm trọng.
- Chất gây ô nhiễm là chất hoặc yếu tố vật lý khi xuất hiện trong môi
trường thì làm cho môi trường bị ô nhiễm.
- Chất thải là vật chất ở thể rắn, lỏng, khí được thải ra từ sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác.
- Chất thải nguy hại là chất thải chứa yếu tố độc hại, phóng xạ, dễ cháy,
dễ nổ, dễ ăn mòn, dễ lây nhiễm, gây ngộ độc hoặc đặc tính nguy hại khác.
- Quản lý chất thải là hoạt động phân loại, thu gom, vận chuyển, giảm
5
thiểu, tái sử dụng, tái chế, xử lý, tiêu hủy, thải loại chất thải.
Phế liệu là sản phẩm, vật liệu bị loại ra từ quá trình sản xuất hoặc tiêu
dùng được thu hồi để dùng làm nguyên liệu sản xuất.
- Sức chịu tải của môi trường là giới hạn cho phép mà môi trường có thể
tiếp nhận và hấp thụ các chất gây ô nhiễm.
- Quan trắc môi trường là quá trình theo dõi có hệ thống về môi trường,
các yếu tố tác động lên môi trường nhằm cung cấp thông tin phục vụ đánh giá
hiện trạng, diễn biến chất lượng môi trường và các tác động xấu đối với môi
trường.
- Thông tin về môi trường bao gồm số liệu, dữ liệu về các thành phần môi
trường; về trữ lượng, giá trị sinh thái, giá trị kinh tế của các nguồn tài nguyên
thiên nhiên; về các tác động đối với môi trường; về chất thải; về mức độ môi
trường bị ô nhiễm, suy thoái và thông tin về các vấn đề môi trường khác.
- Đánh giá môi trường chiến lược là việc phân tích, dự báo các tác động
đến môi trường của dự án chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển trước khi
phê duyệt nhằm bảo đảm phát triển bền vững.
- Đánh giá tác động môi trường là việc phân tích, dự báo các tác động đến
môi trường của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra các biện pháp bảo vệ môi trường
khi triển khai dự án đó.
- Bảo vệ môi trường phải gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế và bảo đảm
tiến bộ xã hội để phát triển bền vững đất nước; bảo vệ môi trường quốc gia phải
gắn với bảo vệ môi trường khu vực và toàn cầu.
- Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn xã hội, quyền và trách nhiệm
của cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân.
- Hoạt động bảo vệ môi trường phải thường xuyên, lấy phòng ngừa là
chính kết hợp với khắc phục ô nhiễm, suy thoái và cải thiện chất lượng môi
trường.
- Bảo vệ môi trường phải phù hợp với quy luật, đặc điểm tự nhiên, văn
6
hóa, lịch sử, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai
đoạn.
- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi trường có
trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại và chịu các trách nhiệm khác theo
quy định của pháp luật.
2.3. Cơ sở thực tiễn
2.3.1. Những nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường
2.3.1.1 Ô nhiễm không khí:
Nguồn gây ra ô nhiễm bao gồm hai loại chính là nguồn tự nhiên và nguồn
nhân tạo. Đối với nguồn nhân tạo, chúng rất đa dạng nhưng chủ yếu do các hoạt
động công nghiệp, quá trình đốt cháy các nguyên liệu hóa thạch, hoạt động của
các phương tiện giao thông vận tải và nông nghiệp….
*Do sản xuất công nghiệp : phát sinh chủ yếu từ các ống khói nhà máy, đặc biệt
với các nhà máy chưa có bộ phận xử lý chất thải sau quá trình sản xuất. Tùy
từng loại hình công nghiệp có thể thải ra bụi, khí, và hơi. Lượng thải và mức độ
độc hại rất khác nhau, tùy thuộc vào quy mô công nghiệp cong nghệ áp dụng,
nguyên liệu sử dụng và phương pháp đốt cụ thể.
*Do giao thông vận tải
Nguồn gây ra ô nhiễm do giao thông vận tải sinh ra gần 2/3 khí CO2 và 1/3 khí
CO cùng với khí NO. Đặc điểm nổi bật của các nguồn này là tuy nguồn gây ô
nhiễm tính theo đơn vị phương tiện giao thông vận tải có quy mô nhỏ nhưng lại
tập trung suốt dọc tuyến đường giao thông nên tác hại rất lớn, nguồn gây ô
nhiễm thấp, di động, khả năng khuyếch tán phụ thuộc các chất ô nhiễm phụ
thuộc chủ yếu vào địa hình và kiến trúc các phố hai bên đường. Tại Hà Nội, các
nhà khoa học cho rằng hoạt động giao thông vận tải là một nguồn gây ô nhiễm
rất lớn.
*Do hoạt động sản xuất nông nghiệp:
7
Ô nhiễm do hoạt động sản xuất nông nghiệp chủ yếu do đốt rừng làm rẫy,
làm cho khí CO
2
tăng lên, khí CH
4
tạo ra do sựu phân hủy chất hưu cơ từ các
trang trại chăn nuôi hoặc từ các đống rác xử lý không đúng kỹ thuật.
Bên cạnh đó ô nhiễm môi trường do các hoạt động sản xuất nông nghiệp
còn gây ra bởi các hoạt động phun thuốc bảo vệ thực vật bằng bình phun, vòi
phun, máy bay. Phân gia súc phân hủy, phân bón gây mùi hôi thối tạo điều kiện
cho các loại sinh vật truyền bệnh phát triển như ruồi, nhặng…
*Ô nhiễm không khí trong nhà :
đây là một trong những nguồn gây ô nhiễm ảnh hưởng trực tiếp đến con người,
nguồn gây ô nhiễm trong sinh hoạt chủ yếu là lò sưởi và bếp đun sử dụng các
nhiên liệu như than, củi dầu lửa, khí đốt….Nguồn gây ô nhiễm này tuy nhỏ
nhưng thường gây ô nhiễm cục bộ trong một không gian nhỏ nên có thể để lại
hậu quả lớn và lâu dài. Bên cạnh đó nguồn gây ô nhiễm trong nhà còn có thể kẻ
tới các khí sinh ra từ các nguồn thải sinh hoạt, khói thuốc lá, các hợp chất hữu
cơ bay hơi có nguồn gốc từ các loại sơn và các vật liệu xây dựng. Đặc biệt tại
các khu vực tập trung đông dân cư, diện tích sinh hoạt nhỏ hẹp mức độ ảnh
hưởng tới sức khỏe con người lại càng lớn.
2.3.1.2 Ô nhiễm đất:
Nguyên nhân chủ yếu của ô nhiễm đất là nông dược và phân hóa học
chúng tích lũy dần trong đất qua các mùa vụ. Thứ hai là
việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật trong nông nghiệp đang gây ô nhiễm đất
nghiêm trọng, làm vỡ kết cấu đất, xói mòn đất…
Ô nhiễm đất do nông dược và phân hóa học.Ô nhiễm đất sảy ra chủ yếu ở
nông thôn. Trước hết là do sự bành trướng của kĩ thuật canh tác hiện đại. Nông
nghiệp hiện nay phải sản xuất một lượng lớn thức ăn trong khi đất trồng trọt tính
theo đầu người ngày càng giảm vì dân số tăng và cũng vì sự phát triển thành
phố, kỹ nghệ và những sử dụng phi nông nghiệp. Người ta cần phải thâm canh
hơn, dẫn tới việc làm xáo trộn dòng năng lượng và chu trình vật chất trong hệ
sinh thái nông nghiệp.
8
Phân hóa học chắc chắn đã gia tăng năng suất, nhưng việc sử dụng lặp lại,
với liều rất cao gây ra sự ô nhiễm đất do các tạp chất lẫn vào. Hơn nữa, Ntrat và
photphat rải một cách dư thừa sẽ chảy theo nước mặt và làm ô nhiễm các mực
thủy cấp. Cũng thế, nông dược và vô cơ hay hưu cơ cũng có thể làm ô nhiễm đất
và sinh khối.
Thâm canh không ngừng của nông nghiệp, sử dụng ngày càng nhiều các
chất nhân tạo như phân hóa học và nông dược… làm cho đất ô nhiễm tuy chậm
nhưng chắc, không hoàn lại(irreversible), đất sẽ kém phi nhiêu di.
2.3.1.3Ô nhiễm nước:
*Nguồn nước mặt
Do nhiều lý do khác nhau, các nguồn nước trên Trái đất ngày càng cạn
kiệt. Ước tính có khoảng 1/3 dân số thế giới đang sống trong tình trạng thiếu
nước trầm trọng. Trong khi đó, dân số gia tăng với tốc độ chóng mặt. Quá trình
đô thị hoá, hoạt động sản xuất công nghiệp, nông nghiệp đang khiến cho các
nguồn nước ngày càng bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Nguồn nước bị ô nhiễm đã ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ con người.
Gần 5 triệu người chết hàng năm ở các nước đang phát triển có liên quan đến
vấn đề thiếu nước sạch.
Những chất gây ô nhiễm chủ yếu trong nước là các mầm bệnh sinh ra từ
chất thải của con người (vi khuẩn và vi rút), kim loại nặng và hoá chất từ chất
thải công nghiệp, nông nghiệp. Uống nước đã bị ô nhiễm hoặc ăn thức ăn chế
biến bằng nước nhiễm độc là hình thức phơi nhiễm phổ biến nhất. Ăn cá bắt từ
nguồn nước bị ô nhiễm cũng có thể nguy hiểm vì chúng có thể mang mầm bệnh
và tích luỹ các chất độc hại như kim loại nặng và các chất hữu cơ bền thông qua
quá trình tích luỹ sinh học. Ngoài ra, con người cũng có thể bị ảnh hưởng bởi
cây trồng được tưới bằng nước ô nhiễm hoặc do đất bị nhiễm bẩn bởi các dòng
sông ô nhiễm dâng lên.
*Nước ngầm
Nước ngầm là nguồn nước nằm ở dưới bề mặt lớp đất sỏi và trong những
9
tầng địa chất thấm qua được. Nước ngầm là một nguồn rất quan trọng của nước
sạch, chiếm 97% lượng nước ngọt trên Trái đất. Khoảng 2 tỉ người, cả ở thành
phố và nông thôn đang phụ thuộc vào lượng nước này cho những nhu cầu sống
hằng ngày. Nhưng nguồn nước này giờ đây cũng đang bị ô nhiễm nghiêm trọng
do nhiều lý do khác nhau.
Ở đô thị, các nguồn gây ô nhiễm nước ngầm chính là các bãi chôn lấp rác
thải không hợp vệ sinh. Ngoài ra nước thải từ hoạt động sản xuất công nghiệp,
khai thác khoáng sản đều có khả năng bị rò rỉ và ngấm vào tầng chứa nước nước
ngầm. Hoạt động sản xuất nông nghiệp với việc sử dụng quá nhiều thuốc trừ sâu
và phân bón cũng là nguồn đe doạ lớn đối với nguồn nước ngầm.
Các quá trình hình thành địa chất tự nhiên là nguồn giải phóng kim loại
nặng vào nước ngầm, trong đó phổ biến nhất là ô nhiễm Asen. Một nghiên cứu
mới đây cho thấy nguồn nước ngầm của nhiều quốc gia thuộc khu vực Nam Á
và Đông Nam Á có hàm lượng Asen rất cao. Cao nhất là Băng-la-đét. Hiện có
1/15 dân số nước này đang phải uống nước có hàm lượng Asen cao hơn 5 lần
mức cho phép của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO).
Nước ngầm rất khó xử lý, do đó việc bảo vệ nguồn nước đó là cực kỳ
quan trọng. Một số biện pháp ngăn chặn cơ bản là tăng cường kiểm soát đối với
việc xả thải, xây dựng hệ thống thoát nước hợp vệ sinh. Tuy nhiên, cho đến nay
ở các nước đang phát triển các biện pháp này được tiến hành rất chậm chạp,
trong khi hệ thống nước ngầm đang ngày càng bị nhiễm bẩn nghiêm trọng.
2.4. Thực trạng môi trường trên Thế giới và Việt Nam
2. 4.1. Thực trạng môi trường trên Thế giới
Viện Blacksmith, một tổ chức nghiên cứu môi trường quốc tế có trụ sở tại
New York (Mỹ), vừa công bố danh sách 10 thành phố thuộc 8 nước được coi là
ô nhiễm nhất thế giới năm 2006.
10
Tại các thành phố này, hơn 10 triệu người có nguy cơ bị nhiễm trùng, ung
thư phổi và giảm tuổi thọ. Trẻ em bị lở loét do ảnh hưởng của các chất gây ô
nhiễm môi trường.
10 thành phố này gồm:
+ Thành phố Dzerzhinsk ở Nga, từng là khu vực sản xuất vũ khí hoá học
lớn trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
+ Thành phố Lâm Phần, Trung tâm công nghiệp than đá của Trung Quốc.
+ Thành phố Kabwe ở Zambia, khu vực khai thác mỏ và luyện kim loại,
trong đó có cả chì.
+ Thành phố Haina ở Cộng hoà Dominica, nơi tái chế và nấu chảy pin,
người dân nơi đây có nồng độ chì trong cơ thể rất cao.
+ Thành phố Ranipet ở Ấn Độ, nơi hơn ba triệu người bị ảnh hưởng bởi
chất thải từ các xưởng thuộc da.
+ Thành phố Chernobyl ở Ukraine, một khu vực nổi tiếng bởi thảm hoạ
phóng xạ 20 năm trước.
+ Thành phố Mayluu-Suu ở Kyrgyzstan.
+ Thành phố La Oroya ở Peru.
+ Thành phố Norilsk ở Nga.
+ Thành phố Rudnaya ở Nga.
Theo báo cáo của Viện này, các khu vực ô nhiễm nhất thế giới là những
khu vực hẻo lánh cách xa thủ đô và các khu du lịch của các nước. Những nước
có các thành phố bị ô nhiễm môi trường, phần lớn là các nước đang phát triển,
thiếu các biện pháp kiểm soát ô nhiễm, cộng thêm sự thiếu hiểu biết của chính
quyền địa phương và sự bất lực của người dân trong việc giải quyết các tình
trạng ô nhiễm.
Cũng theo báo cáo, đa số ô nhiễm của các khu vực này xuất phát từ chì
không được kiểm soát, mỏ than hoặc các nhà máy sản xuất vũ khí hạt nhân chưa
được lọc sạch. Ô nhiễm môi trường ở những thành phố này gây ảnh hưởng
nghiêm trọng tới sức khoẻ người dân và gia tăng nạn nghèo đói. Những nơi bị
11
ảnh hưởng nặng nề nhất của ô nhiễm môi trường là nơi con người sinh sống có
tuổi thọ thấp nhất, trẻ sơ sinh bị khuyết tật, tỉ lệ hen trẻ em trên 90% và chậm
phát triển trí tuệ.
Nghiên cứu do các cơ quan của Liên hiệp quốc tiến hành cho thấy khoảng
20% trường hợp chết sớm trên toàn thế giới là do các nhân tố ô nhiễm môi
trường gây nên.
*Tại Chernobyl, báo cáo ước tính 5,5 triệu người vẫn bị đe doạ bởi vật
liệu phóng xạ tiếp tục thấm vào mạch nước ngầm và đất cách đây 20 năm sau
thảm hoạ nổ nhà máy điện hạt nhân.
*Người dân ở Lâm Phần, trung tâm tỉnh Sơn Tây, nơi chuyên khai thác
than của Trung Quốc, thường bị viêm phế quản, viêm phổi, ung thư phổi do chất
lượng không khí kém.
*Khoảng 300.000 người ở Dzherzhinsk (thuộc Nga), một khu vực sản
xuất vũ khí hoá học trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, tuổi thọ chỉ bằng một nửa
so với dân của các nước giàu nhất. Tuổi thọ của đàn ông ở Dzherzhinsk là 47 và
của phụ nữ là 42.
Trên thực tế, Viện Blacksmith đã tham gia các chương trình khắc phục
tình trạng gây ô nhiễm môi trường ở 5 trong số 10 thành phố nói trên có môi
trường bị ô nhiễm. Trước hết là lắp đặt các nhà máy lọc nước, đồng thời tiến
hành giáo dục mọi người, đặc biệt là trẻ em, tích cực tham gia các hoạt động bảo
vệ môi trường, thực hiện các biện pháp khắc phục có hiệu quả tình trạng ô
nhiễm nói trên trong điều kiện có thể.
Theo cảnh báo của Viện Blacksmith, ngoài 10 thành phố trên bị coi là ô
nhiễm nhất thế giới, còn có 25 thành phố khác trên toàn cầu cần sớm triển khai
nhanh các hoạt động bảo vệ môi trường.
*Ô nhiễm nước:
Các mầm bệnh trong nước ô nhiễm có thể gây ra hàng loạt các bệnh liên
quan đến đường ruột, đặc biệt nguy hiểm và có thể gây tử vong đối với trẻ em và
những người có thể trạng nhạy cảm. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho biết ô
12
nhiễm nguồn nước là một trong những nguyên nhân gây tử vong lớn nhất trong
số các vấn đề về môi trường. Những chất độc tích luỹ trong cá và các loại thức
phẩm khác ít có nguy cơ gây độc cấp tính nhưng lại có thể để lại hậu quả lâu dài.
Vấn đề ô nhiễm nguồn nước mặt hiện đang diễn ra với hầu hết các con
sông lớn ở các nước đang phát triển, điển hình như Trung Quốc và Ấn Độ. Quá
trình công nghiệp hoá, đô thị hoá một cách ồ ạt đã khiến cho nguồn nước cung
cấp cho sinh hoạt hằng ngày của người dân trở nên tồi tệ. Theo dự đoán, trong
một vài thập kỷ tới, có tới 2/3 dân số thể giới sẽ phải sống trong cảnh thiếu
nước.
Trong thời gian qua, các quốc gia cũng đã có nhiều nỗ lực trong việc giải
quyết vấn đề ô nhiễm nước mặt, tuy nhiên kết quả mang lại còn hạn chế. Ấn Độ
đã tốn hàng trăm triệu rupi cho kế hoạch Hành động sống Hằng thực hiện từ
những 1980 nhằm giảm ô nhiễm trên dòng sông này, nhưng hầu như không
mang lại kết quả.
Trung Quốc mặc dù đã cải thiện đáng kể chất lượng nước ở sông Hoàng
Phố chảy qua thành phố Thượng Hải bằng khoản đầu tư hàng tỉ USD trong 20
năm cùng với việc đóng cửa các cơ sở gây ô nhiễm nhưng hoạt động công
nghiệp và sự phát triển đô thị lại đang gây ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước
sông Dương Tử, con sông lớn nhất quốc gia này.
Một thực tế cho thấy, các chương trình phục hồi chất lượng nước mặt là
có thể thực hiện được nhưng rất tốn kém. Và điều đó dường như đồng nghĩa với
việc những người dân nghèo sống xung quanh các lưu vực bị ô nhiễm vẫn tiếp
tục phải ăn uống và sinh hoạt bằng những nguồn nước chết người đó.
*Ô nhiễm không khí:
Nguyên nhân chủ yếu của IAP ở các nước đang phát triển là do việc đốt
than và các chất đốt sinh học (gỗ, phân động vật và rơm rạ) để nấu ăn, sưởi ấm
và chiếu sáng. Hơn 50% dân số thế giới dùng năng lượng để đun nấu theo cách
13
này, hầu hết họ đều sống ở các nước nghèo.
Trong khi đa số người dân ở các nước có thu nhập cao đã chuyển sang
dùng các sản phẩm từ dầu mỏ và điện để đun nấu, thì ở các nước đang phát triển
như Trung Quốc, Ấn Độ và các nước Châu Phi cận Sahara, tới 80% các gia đình
ở thành phố và hơn 90% các hộ dân ở nông thôn vẫn đun nấu bằng các nguồn
nhiên liệu truyền thống này.
Nhiên liệu sinh học được đốt chủ yếu bằng các bếp thô sơ, do đó chúng
thường không được đốt cháy hoàn toàn. Điều này vừa gây ra sự lãng phí nguyên
liệu vừa gây ô nhiễm không khí. Cùng với hệ thống thông gió không đảm bảo đã
làm cho hàm lượng bụi và khói độc trong nhà cao, rất có hại cho sức khoẻ con
người. Trong đó những người bị ảnh hưởng nhiều nhất là phụ nữ - những người
thường xuyên nấu ăn và trẻ nhỏ thường xuyên được địu trên lưng mẹ.
Sự đốt cháy nguyên liệu sinh học tạo thành các hạt. Các hạt với đương
kính nhỏ hơn 10 micro (PM10) và đặc biệt nhỏ hơn 2.5 micro (PM2.5) có thể
xuyên sâu vào phổi. Cục Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ (EPA) đã khuyến cáo rằng
hàm lượng trung bình 24giờ của PM10 không nên vượt quá 150 µg/m3. Trong
khi đó, nếu đun nấu với nguyên liêu sinh học truyền thống hàm lượng PM10
trong không khí trong nhà có thể đạt từ 300 đến 3000 µg/m3, cao gấp hơn 20 lần
lượng cho phép. Thậm chí vào thời điểm đun nấu con số này có thể lên tới
30.000 µg/m3, gấp 200 lần hàm lượng cho phép.
IAP gây ra 3 triệu ca tử vong mỗi năm và là nguyên nhân cho 4% căn
bệnh trên toàn thế giới, tập trung chủ yếu ở các nước có thu nhập thấp.
Hàng trăm, nhiều chương trình đã được thực hiện trên toàn thế giới để
giảm thiểu mối đe doạ bởi IAP. Phần lớn chúng đều tập trung vào việc giới thiệu
những loại bếp sử dụng nhiên liệu hiệu quả hơn. Tuy nhiên, trong những năm tới
những nỗ lực này cần được bổ sung bằng những cách tiếp cận toàn diện hơn bao
gồm cải thiện hệ thống lưu thông gió, thay đổi cách sống và một loạt các giải
pháp truyền thông khác.
2.4.2. Hiện trạng môi trường ở Việt Nam
14
Nước ta thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá và đương nhiên là kéo
theo đô thị hoá. Theo kinh nghiêm của nhiều nước, tình hình ô nhiễm môi
trường cũng gia tăng nhanh chóng. Nếu tốc độ tăng trưởng GDP trong vòng 10
năm tới tăng bình quân khoảng 7%/năm, trong đó GDP công nghiệp khoảng 8-
9%/năm, mức đô thị hoá từ 23% năm lên 33% năm 2000, thì đến năm 2010
lượng ô nhiễm do công nghiệp có thể tăng lên gấp 2,4 lần so với bây giờ, lượng
ô nhiễm do nông nghiệp và sinh hoạt cũng có thể gấp đôi mức hiện nay.
Trong quá trình phát triển, nhất là trong thập kỷ vừa qua, các đô thị lớn
như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, đã gặp phải nhiều vấn đề môi trường ngày
càng nghiêm trọng, do các hoạt động sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, giao
thông vận tải và sinh hoạt gây ra. Tại thành phố Hồ Chí Minh có 25 khu công
nghiệp tập trung hoạt động với tổng số 611 nhà máy trên diện tích 2298 ha đất.
Theo kết quả tính toán, hoạt động của các khu công nghiệp này cùng với 195 cơ
sở trọng điểm bên ngoài khu công nghiệp, thì mỗi ngày thải vào hệ thống sông
Sài Gòn - Đồng Nai tổng cộng 1.740.000 m3 nước thải công nghiệp, trong đó có
khoảng 671 tấn cặn lơ lửng, 1.130 tấn BOD5 (làm giảm nhu cầu ôxy sinh hoá),
1789 tấn COD (làm giảm nhu cầu ôxy hoá học), 104 tấn Nitơ, 15 tấn photpho và
kim loại nặng. Lượng chất thải này gây ô nhiễm cho môi trường nước của các
con sông vốn là nguồn cung cấp nước sinh hoạt cho một nội địa bàn dân cư rộng
lớn, làm ảnh hưởng đến các vi sinh vật và hệ sinh thái vốn là tác nhân thực hiện
quá trình phân huỷ và làm sạch các dòng sông. .
Các loại ô nhiễm thường thấy tại các đô thị Việt Nam là ô nhiễm nguồn
nước mặt, ô nhiễm bụi, ô nhiễm các khí sulfure, cacbonic, nitrit, ô nhiễm chì
(Pb), chất thải rắn (trong sinh hoạt, bệnh viện). Giáo sư Lâm Minh Triết (Đại
học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh) trong buổi hội thảo “Bảo vệ môi trường
và phát triển bền vững ở Việt Nam” đã nhấn mạnh: nồng độ các chất ô nhiễm
trong nước mặt thường rất cao như là chất rắn lờ lững, nhu cầu ôxy sinh hoá,
nhu cầu ôxy hoá học, nitơrit, nitơrat... gấp từ 2-5 lần, thậm chí tới 10-20 lần trị
số tiêu chuẩn cho phép đối với nguồn nước mặt loại B, chỉ số E Côli vượt tiêu
15
chuẩn cho phép hàng trăm lần. Ngoài các chất ô nhiễm hữu cơ trên, môi trường
nước mặt đô thị ở một số nơi còn bị ô nhiễm kim loại nặng và chất độ hại như là
chì, thuỷ ngân, asen, clor, phenol...
* Môi trường nước
Về ô nhiễm không khí, ngoài tác động của sản xuất công nghiệp, hoạt
động giao thông vận tải cũng là nguồn thải rất quan trọng. Chỉ tính riêng ở thành
phố Hồ Chí Minh, hàng năm các phương tiện vận tải trên địa bàn thành phố tiêu
thụ khoảng 210.000 tấn xăng và 190.000 tấn dầu Dizel. Như vậy đã thải vào
không khí khoảng 1100 tấn bụi, 25 tấn chì, 4200 tấn CO2, 4500 tấn NO2,
116000 tấn CO, 1,2 triệu tấn CO2, 13200 tấn Hydrocacbon và 156 tấn Aldehyt.
Chính vì thế, tại nhiều khu vực trong các đô thị có nồng độ các chất ô nhiễm lên
khá cao. Tại Hà Nội, vào nhưng năm 1996-1997 ô nhiễm trầm trọng đã xảy ra ở
xung quanh các nhà máy thuộc khu công nghiệp Thượng Đình với đường kính
khu vực ô nhiễm khoảng 1700 mét và nồng độ bụi lớn hơn tiêu chuẩn cho phép
khoảng 2-4 lần; xung quanh các nhà máy thuộc khu công nghiệp Minh Khai –
Mai Động, khu vực ô nhiễm có đường kính khoảng 2500 mét và nồng độ bụi
cũng cao hơn tiêu chuẩn cho phép 2-3 lần. Cũng tại khu công nghiệp Thượng
Đình, kết quả đo đạc các năm 1997-1998 cho thấy nồng độ SO2 trong không khí
vượt tiêu chuẩn cho phép 2-4 lần.
Năm 1990 Việt Nam mới có khoảng 500 đô thị lớn nhỏ, đến năm 2000 đã
tăng tới 694 đô thị các loại, trong đó có 4 thành phố trực thuộc Trương ương, 20
thành phố trực thuộc tỉnh, 62 thị xã và 563 thị trấn. Dân số đô thị Việt Nam năm
1990 là khoảng 13 triệu người (chiếm tỷ lệ 20%), năm 1995 tỷ lệ dân số đô thị
chiếm 20,75%, năm 2000 chiếm 25%, dự báo đến năm 2010 tỷ lệ dân số đô thị ở
Việt Nam chiếm 33%, năm 2020 chiếm 45%. Sự phát triển các đô thị cùng với
việc gia tăng tỷ lệ dân số đô thị gấp áp lực rất lớn đến môi trường đô thị. Bên
cạnh sự phát triển mạnh ngành công nghiệp một mặt góp phần rất lớn vào sự
phát triển kinh tế nhưng lại gây ảnh hưởng môi trường nghiêm trọng
16
Vấn đề đầu tiên phải kể đến về hiện tượng môi trương sống của người dân
ở các vùng nông thôn Việt Nam đang bị tàn phá nghiêm trọng là nước sạch và
vệ sinh môi trường (VSMT) nông thôn.
Nếu như chúng ta quan niện nước sạch chỉ đơn giản la nước mưa, nước
giếng khoan qua sư lý bằng bể lọc đơn giản chứ không phải nước sạch như đã
được xử lý ở các thành phố lớn thì tỉ lệ ngươi dân nông thôn, nhất là khu vực
miền núi còn rất thấp.
Tình trạng ô nhiễm môi trường nước tác động trực tiếp đến sức khỏe, là
nguyên nhân gây các bệnh như tiêu chảy, tả, thương hàn, giun sán… các bệnh
này gây suy dinh dưỡng, thiếu máu, kém phát triển gây tử vong nhất ở trẻ em.
Có đến 80% trường hơp bị tiêu chảy la do thiếu nước sạch, VSMT kém. Có thể
thấy, nguyên nhân gây ra tinh trạng ô nhiễm môi trường và nguồn nước ỏ nông
thôn do các nguyên nhân cơ bản sau :
Đầu tiên phải kể đến tình trạng sử dụng hóa chất trong nông nghiệp nhu
phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật một cách tràn nan mà không có kiêm soát.
Nhìn chung lượng phân bón hóa học ở nước ta sử dụng còn ở mức trung
bình cho 1(ha) gieo trồng, bình quan 80-90 kg/ha (cho lúa la 150-180 kg/ha) , so
với Ha Lan 758 kg/ha, Nhật 430 kg/ha, Hàn Quốc 467 kg/ha, Trung Quốc 390
kg/ha.tuy nhiên việc sử dụng này lại gây sức ép đến môi trường nông nghiệp và
nông thôn với 3 lý do: sử dụng không đúng kỹ thuật nên hiệu lực phân bón thấp;
bón phân không cân đối; nặng về sử dụng phân đạm; chất lượng phân không
đảm bảo, các loại phân bón N-P-K, hưu cơ vi sinh, hưu cơ khoang do các cơ sở
nhỏ lẻ sản xuất trôi nổi trên thị trường không đảm bảo chất lượng đăng ký, nhãn
mác bao bì nhái, dóng gói không đúng khối lượng đang là áp lực chính cho
ngươi nông dân và môi trường đất.
Ngoài ra, ở miền Bắc Việt Nam còn tồn tại tâp quán sử dụng phân bác,
phân chuồng tươi vao canh tác. Ở ĐBSCL, phân tươi được coi la nguồn thức ăn
cho cá, gây ô nhiễm môi trường đất, nước và ảnh hưởng đến sức khỏe con
người.
17
Thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) gồm: Thuốc trừ sâu; thuốc trừ nấm; thuốc
trừ chuột; thuốc trừ bệnh; thuốc trừ cỏ. Các loại này có đặc điểm là rất độc với
mọi sinh vật; Tồn dư lâu dài trong môi trương đất – nước gây ra ô nhiễm; Tác
dụng gây độc không phân biệt, nghĩa gây chết tất cả các sinh vật co hại va có lợi
trong môi trường đất, nước.
Hiên nay, nước ta chua sản xuất đươc thuốc BVTV ma phải nhập khẩu
đê gia công hoặc nhập khẩu thuốc thành phẩm bao gói lớn để sang chai đóng gói
nhỏ tại các nhà máy trong nước.
Nguyên nhân tình trạng trên là do việc quản lý thuốc
BVTV còn nhiều bất cập và gặp nhiều khố khăn. Hàng năm khoảng 10% thuốc
được nhập lậu theo đường tuyển ngạch. Số này rất đa dạng và chủng loại, chất
lượng không đảm bảo ma vẫn lưu hành trên thị trường. thứ 2 la việc sử dụng còn
tùy tiện, không tuân thủ các yêu càu kĩ thuật theo nhãn mác, không đảm bảo
thời gian cách ly của từng loại thuốc. Thứ ba là do một lượng lớn thuốc BVTV
tồn đọng tại các kho thuốc cũ, hết lien hạn sử dụng còn nằm rải rác tại các tỉnh
thành trên cả nước. Theo trung tâm công nghệ xử lý môi trường, cán bộ tư lệnh
hóa học (2004), trong khoảng hơn 300 tấn thuốc BVTV có nhiều chất nằm
trong 12 chất ô nhiễm hưu cơ khố phân hủy. Va cuối cùng la viêc bảo quản
thuốc BVTV trong nhà, trong bếp và trong chuồng nuôi gia súc.
Nguyên nhân thứ hai gây ô nhiễm môi trường ở nông thôn là do chất thải
rán từ các làng nghề và sinh hoạt của người dân. Hiện cả nước có khoảng 1.450
lang nghề, phân bố ở 58 tỉnh thành và đông đúc nhất là khu vực đồng bằng
Sông Hồng, vốn la cái nôi của làng nghề truyền Bình va Bắc Ninh, … trong đó
các làng nghề có quy mô nhỏ, trình độ sản xuất thấp, thiết bị cũ và công nghệ
lạc hậu chiếm phần lớn (trên 70%). Do đó, đã và đang nẩy sinh nhiều vấn dề
nông thôn, tác động xấu đến lượng môi trường đất, nước, không khí và sức khỏe
của người dân làng nghề.kêt quả phan tích chất lượng nước thải của làng nghè
dệt nhuộm tại Thái Bình cho thấy, đa số các chỉ tiêu phân tích đều vượt tiêu
chuẩn cho phép, đặc biệt la BOD
5
COD đều vượt tiêu chuẩn từ 2-5 lần.
18