Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Xây dựng hệ thống hỗ trợ dạy học qua mạng internet chương Các định luật bảo toàn Vật lý 10 nâng cao trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (896.97 KB, 60 trang )

MỤC LỤC
KẾT LUẬN ...............................................................................................................55

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNTT

:

Công nghệ thông tin

ĐC

:

Đối chứng

GDĐT

:

Giáo dục đào tạo

GV

:

Giáo viên

HS


:

Học sinh

KTĐG

:

Kiểm tra đánh giá

PPDH

:

Phương pháp dạy học

SGK

:

Sách giáo khoa

THPT

:

Trung học phổ thông

TN


:

Thực nghiệm

TNSP

:

Thực nghiệm sư phạm
1


TT

:

Truyền thông

MVT

:

Máy vi tính

LLDH

:

Lý luận dạy học


PTDH

:

Phương tiện dạy học

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhân loại đã bước sang những năm đầu của thế kỷ XXI – thế kỷ của sự bùng nổ
thông tin, trí tuệ - thế kỷ mà khoa học kỹ thuật – công nghệ đang xâm nhập vào hầu
hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhiều vấn đề quan trọng của thời đại đang đặt ra
đòi hỏi cần giải quyết trong đó có giáo dục. Làm thế nào để nhận thức và nắm bắt
được tri thức khoa học một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất đó là trách nhiệm vô cùng
quan trọng của quá trình giáo dục.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X của Ban chấp hành Trung Ương Đảng khóa
IX đã khẳng định:
….. “Chất lượng giáo dục còn nhiều yếu kém, khả năng chủ động sáng tạo của học
sinh, sinh viên ít được bồi dưỡng, năng lực thực hành của học sinh, sinh viên còn yếu.
Chương trình, phương pháp dạy và học còn lạc hậu, nặng nề, chưa thật phù hợp .”,
“... ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đổi mới chương trình,
2


nội dung, phương pháp dạy học”, “ phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ
của học sinh, sinh viên ...” [1]
Nhiệm vụ quan trọng đề ra cho các môn học trong trường phổ thông là phải tập
dượt cho học sinh biết phát hiện, đặt ra và giải quyết vấn đề gặp phải trong quá trình
học tập, trong cuộc sống của cá nhân. Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng để các em
vừa nắm được tri thức mới, vừa nắm được phương pháp chiếm lĩnh tri thức mới để học
sinh có thể mau chóng thích ứng với trình độ hiện đại của khoa học kỹ thuật.

Trong những năm gần đây, sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là
công nghệ thông tin và truyền thông đã tác động mạnh mẽ đến việc đổi mới nội dung,
phương pháp, phương thức dạy học. Nhận thức được vai trò quan trọng của công nghệ
thông tin và truyền thông trong dạy học hiện nay, văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ X đã nêu lên định hướng phát triển Giáo dục – Đào tạo 2006 – 2010: “Phát
triển mạnh và kết hợp chặt giữa hoạt động khoa học và công nghệ với giáo dục và đào
tạo để thực sự phát huy vai trò quốc sách hàng đầu, tạo động lực đẩy nhanh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức ...” [2]
Đảng và Nhà nước ta đã xác định công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là mục
tiêu hàng đầu “đến năm 2020 đất nước ta về cơ bản phải trở thành nước công nghiệp”.
[1]
Chỉ thị 22/2005/CT – BGD&ĐT ngày 29 tháng 7 năm 2005 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo về nhiệm vụ của toàn ngành trong năm học 2005 – 2006 đã nêu:
“Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học; tăng cường ứng dụng công nghệ
thông tin trong các hoạt động của nhà trường, nhất là ứng dụng trong giảng dạy, học
tập ...” [4]
Sự kết hợp máy vi tính với hệ thống truyền thông đa phương tiện cùng với
mạng thông tin toàn cầu Internet, Website dạy học đang góp phần đổi mới phương
pháp dạy học, tạo được động cơ, hứng thú học tập cho học sinh. Với Website, người
sử dụng có thể mở rộng kiến thức, ôn tập, kiểm tra đánh giá kết quả học tập, học trực
tuyến, tham gia các diễn đàn để trao đổi kiến thức ... Từ đó giúp cho người dạy thay
đổi phương pháp dạy học của mình theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của
người học, đồng thời người học có thể rèn luyện khả năng tự học, tự nghiên cứu để
chiếm lĩnh tri thức của nhân loại.

3


Website dạy học với sự trợ giúp của máy vi tính và Internet tỏ ra có nhiều thế
mạnh. Chất lượng dạy học với sự trợ giúp của Website đã được khẳng định về mặt lý

luận và thực tiến nhưng cho đến nay những công trình nghiên cứu, tài liệu ... bàn về
phương pháp xây dựng Website dạy học như thế nào để nâng cao chất lượng, đảm bảo
nắm vững kiến thức và phát triển tư duy sáng tạo của học sinh trong dạy học nói chung
và dạy học Vật lý nói riêng còn chưa được quan tâm đúng mức.
Vật lý là môn khoa học thực nghiệm, vì vậy kiến thức vật lý là kết quả của sự
quan sát, thí nghiệm. Ở nước ta, thực tế dạy học các môn khoa học nói chung, vật lý
nói riêng còn mang nặng tính “thông báo, tái hiện”, các phương thức dạy học hiện đại
chưa được chú ý khai thác, sử dụng đúng mức, quá trình dạy học chủ yếu là sự truyền
thụ kiến thức một chiều. Nhiều nội dung vật lý trong chương trình khá trừu tượng,
giảng viên không thể hình thành chỉ bằng suy luận lý thuyết mà phải quan sát, phân
tích hiện tượng, sử dụng thí nghiệm... Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, không phải
bất kỳ thí nghiệm nào cũng có thể thực hiện được. Vì vậy đòi hỏi giáo viên phải có kỹ
thuật thay thế để trực quan hóa các sự kiện, hiện tượng vật lý đó. Với đặc thù riêng của
môn Vật lý thì đổi mới phương pháp dạy học bằng cách áp dụng khoa học kỹ thuật,
đặc biệt là thành tựu của công nghệ thông tin làm phương thức dạy học là rất cần thiết.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn nói trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu
thử nghiệm đề tài:
“Xây dựng hệ thống hỗ trợ dạy học qua mạng internet chương Các định luật
bảo toàn Vật lý 10 nâng cao trung học phổ thông”.
2. Mục tiêu của đề tài
- Hình thành được cơ sở lý luận của việc xây dựng hệ thống hỗ trợ dạy học qua
mạng internet trong dạy học Vật lý ở trường THPT.
- Xây dựng được website hỗ trợ dạy học trực tuyến chương Các định luật bảo
toàn Vật lý 10 nâng cao.
- Xây dựng được quy trình soạn và tiến trình sử dụng bài giảng điện tử dùng để
dạy học tại lớp và ở nhà, cụ thể qua chương các định luật bảo toàn phần Cơ học Vật lý
10 nâng cao.
- Tạo được thư viện điện tử hỗ trợ dạy học chương Các định luật bảo toàn Vật lý
10 nâng cao.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu

4


Để đạt được mục tiêu đề ra, đề tài cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về việc sử dụng máy vi tính với hệ thống hỗ trợ dạy
học qua mạng internet.
- Tìm hiểu thực trạng của việc sử dụng máy vi tính và ứng dụng công nghệ
thông tin làm phương tiện dạy học ở trường phổ thông.
- Nghiên cứu nội dung, chương trình chương các định luật bảo toàn Vật lý 10
nâng cao.
- Xây dựng website dạy học và bài giảng điện tử chương các định luật bảo toàn
Vật lý 10 nâng cao.
- Thực nghiệm sư phạm, xử lý số liệu và đánh giá hiệu quả của việc vận dụng
hệ thống hỗ trợ dạy học qua mạng internet trong dạy học Vật lý.
4. Giả thiết khoa học
Hiện nay, dạy học qua mạng internet chưa được nghiên cứu và áp dụng nhiều
trong dạy học, nếu xây dựng và sử dụng hệ thống dạy học qua mạng internet một cách
khoa học sẽ góp phần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tích cực chủ
động học tập của học sinh từ đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học Vật lý ở trường
trung học phổ thông.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng
Hoạt động dạy và học Vật lý ở trường trung học phổ thông với sự hỗ trợ của hệ
thống hỗ trợ dạy học qua mạng internet.
b. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu chương các định luật bảo toàn phần Cơ học vật lý 10 nâng
cao và tiến hành thực nghiệm ở trường trung học phổ thông.
6. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Hiện nay ở trường trung học phổ thông, hoạt động dạy và học với sự hỗ trợ của
hệ thống hỗ trợ dạy học qua mạng internet chưa phát triển, mới chỉ dừng lại ở mức độ

dạy học có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, dùng các phương tiện hiện đại để hỗ trợ
việc dạy thông qua các bài giảng điện tử. Các bài dạy hấp dẫn nhưng vẫn còn tập trung
vào người thầy, lấy người thầy làm trung tâm, học sinh cũng có hoạt động nhưng hiệu
quả chưa cao, chưa lấy học sinh làm trung tâm, chưa chú trọng đến quá trình tự học
của học sinh, các lớp học trực tuyến, các diễn đàn trao đổi giữa những người cùng học
5


với nhau hoặc giáo viên ngay trong lớp học, trắc nghiệm trực tuyến và quản lý quá
trình đào tạo và học tập.
7. Phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Nghiên cứu luật Giáo dục, văn kiện của Đảng, các tạp chí Tin học & Nhà
trường, tạp chí Giáo dục, các tài liệu về ý luận dạy học, phương pháp dạy học Vật lý ...
- Nghiên cứu lý luận của việc sử dụng máy vi tính và những ứng dụng của nó
trong việc góp phần đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng dạy học Vật
lý ở trường trung học phổ thông.
- Nghiên cứu tài liệu về phương tiện dạy học Vật lý, về ứng dụng máy vi tính
với Website trong dạy học và phần mềm hỗ trợ thiết kế Website.
- Nghiên cứu nội dung, chương trình chương các định luật bảo toàn Vật lý 10
nâng cao.
b. Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm
Thiết kế và khai thác sử dụng Website dạy học chương Các định luật bảo toàn
phần cơ học với công cụ đã lựa chọn, cài đặt Website đã thiết kế vào hệ thống máy vi
tính nơi tổ chức thực nghiệm sư phạm.
c. Điều tra thực tế
- Điều tra năng lực sử dụng máy vi tính của giáo viên và học sinh ở trường phổ
thông.
- Điều tra tình hình sử dụng các phương pháp dạy học ở trường phổ thông.
- Khảo sát, tìm hiểu hứng thú học sinh đối với việc sử dụng máy vi tính với hệ

thống hỗ trợ dạy học qua mạng internet và hiệu quả các giờ học có sử dụng phương
tiện dạy học hiện đại này.
d. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Tiến hành thực nghiệm ở trường phổ thông để đánh giá hiệu quả dạy học với sự
hỗ trợ của hệ thống hỗ trợ dạy học qua mạng internet.
e. Phương pháp thống kê toán học
Dùng phương pháp thống kê mô tả và thống kê kiểm định để xử lý kết quả thực
nghiệm sư phạm. Qua đó khẳng định giả thuyết sự khác biệt giữa kết quả học tập của
nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm từ đó khẳng định kết quả nghiên cứu của đề tài.
8. Cấu trúc luận văn
6


Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục luận văn gồm có:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc xây dựng hệ thống hỗ trợ dạy học qua mạng
internet.
Chương 2: Xây dựng và sử dụng hệ thống dạy học qua mạng internet chương Các
định luật bảo toàn Vật lý 10 nâng cao trung học phổ thông.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.

NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÂY DỰNG
HỆ THỐNG DẠY HỌC QUA MẠNG INTERNET
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
1.1.1. Bản chất của quá trình dạy học
Quá trình dạy học là sự thống nhất giữa mục đích, nội dung, phương pháp và
hình thức tổ chức dạy học do nhiệm vụ và tính chất của nhà trường quy định. Giáo dục
THPT nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học
cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông, có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và

hướng nghiệp, có điều kiện lựa chọn hướng phát triển và phát huy năng lực cá nhân,
tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc
sống lao động.[5]
Dạy học tăng cường phát huy tính tự tin, tích cực, chủ động, sáng tạo thông qua
tổ chức thực hiện các hoạt động học tập của học sinh.
1.1.2. Tiêu chí để lựa chọn phương pháp dạy học
7


Sự phát triển mang tính bùng nổ của KHCN thể hiện qua các lý thuyết, các
thành tựu mới và khả năng ứng dụng cao, rộng và nhanh vào thực tế buộc chương
trình sách giáo khoa phải luôn được xem xét, điều chỉnh. Học vấn mà trường THPT
trang bị không thể thâu tóm được mọi tri thức mong muốn, vì vậy phải coi trọng việc
dạy phương pháp, dạy cách chiếm lĩnh tri thức của loài người, trên cơ sở đó mà tiếp
tục học tập suốt đời, mọi người sống trong một xã hội học tập.
Nội dung kiến thức được hình thành và phát triển trong nhà trường phải góp
phần quan trọng để phát triển hứng thú và năng lực nhận thức của HS, cung cấp cho
HS những kỹ năng cần thiết cho việc tự học và tự giáo dục sau này.
Trong điều kiện phát triển của các phương tiện truyền thông, trong bối cảnh hội
nhập, mở rộng giao lưu, HS được tiếp cận nhiều nguồn thông tin đa dạng, phong phú
từ nhiều mặt của cuộc sống, có hiểu biết nhiều hơn, linh hoạt hơn. Ở lứa tuổi này nảy
sinh một yêu cầu và cũng là một quá trình: sự lĩnh hội độc lập các tri thức và phát triển
kỹ năng. Nhưng các phương thức học tập tự lập ở HS nếu muốn được hình thành và
phát triển một cách có chủ định thì cần thiết phải có sự hướng dẫn đồng thời tạo các
điều kiện thuận lợi.
Điều 28 Luật giáo dục đã quy định: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm
của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo
nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem
lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.[3]

Trong thời đại hiện nay, CNTT là tiêu chí về công cụ quan trọng cần thiết để
khai thác khi dạy và học. Do hệ quả của sự tiến bộ nhảy vọt của CNTT mà khối lượng
thông tin và tri thức tăng nhanh, cũng chính CNTT có thể giúp con người xử lý thông
tin nhanh chóng để biến thành tri thức.
Đổi mới PPDH ở trường THPT nên được thực hiện theo các định hướng sau:
- Bám sát mục tiêu giáo dục phổ thông.
-

Phù hợp với nội dung dạy học cụ thể.

-

Phù hợp với đặc điểm lứa tuổi HS.

-

Phù hợp với cơ sở vật chất, các điều kiện dạy học của nhà trường.

8


-

Kết hợp giữa việc tiếp thu và sử dụng có chọn lọc, có hiệu quả các

PPDH tiên tiến, hiện đại với việc khai thác những yếu tố tích cực của các PPDH
truyền thống.
-

Tăng cường sử dụng các PTDH, TBDH và đặc biệt lưu ý đến những


ứng dụng của CNTT.[5]
1.1.3. Một số lý luận cơ bản về dạy học tích cực
1.1.3.1. Tính tích cực
Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã hội.
Hình thành và phát triển tính tích cực xã hội là một trong các nhiệm vụ chủ yếu của
giáo dục. Có thể xem tính tích cực như là một điều kiện, đồng thời là kết quả của sự
phát triển nhân cách trong quá trình giáo dục.
1.1.3.2. Tính tích cực học tập
Tính tích cực trong hoạt động học tập là tính tích cực nhận thức, đặc trưng ở
khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức.
Tính tích cực học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như: hăng hái trả lời các câu
hỏi của GV, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn
đề nêu ra; hay thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ rõ; chủ động
vận dụng kiến thức kỹ năng để nhận thức vấn đề mới; tập trung chú ý vào vấn đề đang
học, kiên trì hoàn thành các bài tập, không nản lòng trước những tình huống khó khăn,

Tính tích cực học tập được phân chia thành các cấp độ từ thấp đến cao [5]:
-

Bắt chước: gắng sức làm theo các mẫu đã có của thầy, của bạn.

-

Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề đưa ra, tìm kiếm các cách giải quyết

khác nhau về một vấn đề…
-

Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu.


1.1.3.3. Phương pháp dạy học tích cực
Phương pháp DHTC được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ động, trái với
không hoạt động, thụ động. PPDHTC hướng tới việc tích cực hóa hoạt động nhận thức
của HS, nghĩa là hướng vào việc phát huy tính tích cực, chủ động của người học chứ
không chỉ hướng vào việc phát huy tính tích cực của người dạy.[5]
PPDHTC nhằm giúp HS phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn
luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến thức vào
9


những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn, tạo niềm tin hứng thú
trong học tập.
Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy quyết định cách học,
tuy nhiên, thói quen học tập thụ động của HS cũng ảnh hưởng đến cách dạy của thầy.
Mặt khác cũng có trường hợp HS mong muốn được học theo PPDHTC nhưng GV
chưa đáp ứng được. Do vậy, GV cần phải bồi dưỡng, kiên trì cách dạy theo PPDHTC,
tổ chức các hoạt động nhận thức từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, hình thành
thói quen cho HS.
1.1.3.4. Những dấu hiệu đặc trưng của phương pháp tích cực
- Dạy học tăng cường phát huy tính tự tin, tích cực, chủ động, sáng tạo thông
qua tổ chức thực hiện các hoạt động học tập của HS: trong phương pháp tích cực đối
tượng của hoạt động dạy, đồng thời là chủ thể của hoạt động học được cuốn hút vào
các hoạt động học tập do GV tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những
điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được GV sắp
đặt.
- Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp và phát huy năng lực tự học của
HS: theo cách này, quá trình dạy học cần rèn luyện cho người học có được phương
pháp, kỹ năng, thói quen, ý chí tự học. Qua đó tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội
lực vốn có trong mỗi người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội.

- Dạy học phân hóa kết hợp với học tập hợp tác: theo cách này, lớp học là môi
trường giao tiếp thầy – trò, trò – trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên
con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể,
ý kiến của mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học nâng
mình lên một trình độ mới. Người học được tạo điều kiện tiếp cận nhiều quan điểm
khác nhau về cùng một vấn đề (chứ không phải chỉ một quan điểm áp đặt của người
thầy)
- Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò: theo cách này, GV phải
hướng dẫn HS phát triển kỹ năng tự đánh giá và tham gia đánh giá lẫn nhau để điều
chỉnh cách học (thay cho việc GV giữ độc quyền đánh giá HS)
- Tăng cường khả năng, kỹ năng vận dụng vào thực tế.
- Đem lại niềm vui, tạo hứng thú trong học tập cho HS, đạt hiệu quả cao.

10


Tóm lại, từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, GV không còn đóng
vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức mà trở thành người thiết kế, tổ chức,
hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để HS tự lực chiếm lĩnh nội
dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kỹ năng, thái độ theo yêu cầu của
chương trình. GV thực hiện bài trên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động
viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi hào hứng, tranh luận sôi nổi của HS.
[5]
1.1.4. Một số hình thức tổ chức dạy học tích cực phổ biến hiện nay
1.1.4.1. Dạy học vấn đáp
Vấn đáp (đàm thoại) là phương pháp trong đó GV đặt ra những câu hỏi để HS
trả lời, hoặc có thể tranh luận với nhau và với cả GV, qua đó HS lĩnh hội được nội
dung bài học.
Có ba mức độ: vấn đáp tái hiện, vấn đáp giải thích – minh họa và vấn đáp tìm
tòi.

1.1.4.2. Dạy và học phát hiện và giải quyết vấn đề
Trong dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề, HS vừa nắm được tri thức mới,
vừa nắm được phương pháp chiếm lĩnh tri thức đó, phát triển tư duy sáng tạo, được
chuẩn bị một năng lực thích ứng với đời sống xã hội: phát hiện kịp thời và giải quyết
hợp lý các vấn đề nảy sinh. Dạy và học phát hiện, giải quyết vấn đề không chỉ giới hạn
ở phạm trù PPDH, nó đòi hỏi cải tạo nội dung, đổi mới cách tổ chức quá trình dạy học
trong mối quan hệ thống nhất với PPDH.
1.1.4.3. Dạy và học hợp tác trong nhóm nhỏ
Phương pháp dạy học hợp tác giúp các thành viên trong nhóm chia sẻ các băn
khoăn, kinh nghiệm bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức mới. Bằng cách nói ra
những điều đang nghĩ, mỗi người có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề
nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn
nhau chứ không phải chỉ là sự tiếp nhận thụ động từ GV.
Trong hoạt động nhóm, tư duy tích cực của HS phải được phát huy và ý quan
trọng của phương pháp này là rèn luyện năng lực hợp tác giữa các thành viên trong
nhóm.
1.2. CƠ SỞ CỦA VIỆC SỬ DỤNG INTERNET VÀ WEBSITE TRONG DẠY
HỌC
11


1.2.1. Khái niệm Internet
Internet là sự kết nối của hệ thống các mạng máy tính thông qua các phương
tiện viễn thông trên toàn thế giới như vệ tinh viễn thông, cáp quang, đường điện
thoại... Khả năng truyền tải của những phương tiện này rất lớn, có thể chứa được nhiều
loại thông tin như dữ liệu, hình ảnh, tiếng nói, hình ảnh động...
1.2.2. Khái niệm trang web và website dạy học
Sự phát triển mạnh mẽ của CNTT&TT đã có ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều lĩnh
vực hoạt động của con người. Nói riêng trong giáo dục, một loạt các khái niệm mới đã
xuất hiện và dần trở nên quen thuộc đối với mọi người. Những khái niệm ấy cho đến

nay hầu như vẫn chưa được định nghĩa một cách đầy đủ, chính xác và khoa học. Trong
các công trình nghiên cứu ứng dụng CNTT&TT vào giáo dục hay những sản phẩm của
CNTT&TT dành cho giáo dục ở nước ta, các khái niệm ấy được dùng hoặc là như một
tên gọi mặc nhiên, hoặc là đưa ra khái niệm chỉ dựa vào một vài đặc điểm, thuộc tính
của nó mà chưa lột tả hết ngoại diên và nội hàm của khái niệm. Đó cũng là điều dễ
hiểu, vì rằng sự phát triển của khoa học Tin học có tính bùng nổ và chưa phải đã đạt
đến đỉnh điểm. Do đó, cùng với sự phát triển của Tin học, các khái niệm ấy cũng sẽ
dần được hoàn thiện và chính xác hóa. Hơn nữa, sẽ tồn tại những cách định nghĩa khác
nhau nếu như dựa trên những căn cứ khác nhau.
WWW (world wide web) là một dịch vụ thông tin mới nhất và hấp dẫn nhất
trên Internet, nó dựa trên một kỹ thuật biểu diễn thông tin có tên gọi là “Siêu văn bản”
(HyperText). Trên siêu văn bản, các từ được chọn có thể được mở rộng bất kỳ lúc nào
để cung cấp thông tin đầy đủ hơn về từ đó. Sự mở rộng ở đây thực chất là chúng được
liên kết tới các tài liệu khác (có thể là văn bản, hình ảnh, âm thanh hay tích hợp của
chúng) chứa các thông tin bổ sung. Thuật ngữ WWW được dùng để mô tả dự án và
được công bố lần đầu tiên vào 8/1991 trên nhóm tin alt.hypertext. Từ đó, nhiều nhà
phát triển khai thác đã tham gia vào việc phát triển Web trên các hệ điều hành khác
nhau. Nói một cách chính xác thì WWW không phải là một hệ thống cụ thể mà là một
tập hợp các công cụ tiện ích và các siêu giao diện (Meta Interface) giúp người sử dụng
có thể tạo ra các siêu văn bản và cung cấp cho những người sử dụng khác trên Internet,
ta gọi tắt là công nghệ Web. Công nghệ Web cho phép truy cập và xử lý các trang dữ
liệu đa phương tiện (Hypermedia) trên Internet. Để xây dựng các trang thông tin đa
phương tiện như vậy, Web sử dụng một ngôn ngữ có tên là HTML (HyperText
12


Markup Language). HTML cho phép đọc và liên kết các kiểu dữ liệu khác nhau trên
cùng một trang thông tin.
Như vậy, trang Web (web page) là trang tin trên mạng Internet. Nội dung thông
tin được diễn tả một cách sinh động bằng văn bản, đồ họa, ảnh tĩnh, ảnh động, phim,

âm thanh, tiếng nói… Mỗi trang Web được đánh dấu bằng một địa chỉ để phân biệt với
các trang khác và giúp mọi người truy cập đến. Bảng Web (Website) là tập hợp các
trang web được liên kết lại với nhau xuất phát từ một trang gốc (Home page), hay còn
gọi là trang xuất phát, trang đầu tiên. Mỗi bảng Website có một địa chỉ riêng và đó
cũng chính là địa chỉ của trang gốc hay trang xuất phát.
Để thực hiện được việc truy nhập, liên kết các tài nguyên thông tin khác nhau
theo kỹ thuật siêu văn bản, WWW sử dụng khái niệm URL (Uniform Resource
Locator), đây là một dạng tên để định danh duy nhất cho một tài liệu hoặc một dịch vụ
trong Web. Cấu trúc của URL gồm các thành phần thông tin như: giao thức Internet
được sử dụng, vị trí của server (domain name), tài liệu cụ thể trên server (path name)
và có thể có thêm các thông tin định dạng khác.
Ví dụ: URL của một tài liệu Web
http:
Giao

//www.elmvn.net
Domain name của

/vincent/index.html
Tài liệu trên Server

Trong đó: http (Hypertext Transfer Protocol) là một giao thức truyền thông sử
dụng cho Web (Web còn có thể chấp nhận các giao thức Internet khác như ftp, gopher,
WAIS,…). Với địa chỉ URL, Web cho phép truy nhập tới các tài nguyên thông tin từ
các dịch vụ khác của Internet ở trên Server khác nhau.
Xuất phát từ khái niệm của Website ở trên, ta có thể hiểu Website dạy học là một
PTDH (dưới dạng phần mềm trên máy tính), được tạo ra bởi các siêu văn bản (là các
tài liệu điện tử như bài giảng, Sách giáo khoa, Sách giáo viên, Sách bài tập,…) trên đó
bao gồm một tập hợp các công cụ tiện ích và các siêu giao diện (trình diễn các thông tin
Multimedia: văn bản, âm thanh, hình ảnh), để hỗ trợ việc dạy và học, cung cấp cho

những người sử dụng khác trên mạng các máy tính.
1.2.3. Vai trò của Internet và xu hướng dạy học hiện nay
Kể từ khi chính thức có mặt tại Việt Nam cách đây gần 12 năm (từ 11/1997 đến
5/2009), Internet đã ngày càng thể hiện được vai trò to lớn của mình trong mọi mặt đời
sống, đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Việc ứng dụng những thành tựu
13


mới nhất về khoa học và công nghệ, cụ thể là Internet vào công cuộc dạy và học ở Việt
Nam, nhằm thích ứng với sự phát triển của giáo dục thời đại trong bối cảnh kinh tế tri
thức phát triển mạnh mẽ như hiện nay đang trở thành một trong những mục tiêu quan
trọng hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, để thực hiện được điều này
không hề đơn giản mà cần phải có sự chung tay giúp sức của toàn xã hội. Ý thức được
điều đó, ngày càng có nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực viễn thông chú
trọng đến việc ứng dụng CNTT và Internet vào lĩnh vực giáo dục, với mong muốn
đem lại hiệu quả cao cho sự nghiệp dạy và học tại Việt Nam, góp phần Internet hóa
giáo dục tại Việt Nam trong thời gian sớm nhất.
Nhiều năm nay, toàn ngành giáo dục chúng ta hầu như dồn mọi nguồn lực và
sức lực vào công cuộc cải cách, trước hết là về nội dung, và cùng với nội dung là về
phương pháp, cách thức đào tạo. Tất cả là nhằm hướng tới việc đào luyện nên những
con người ngày một thích ứng hơn với thời cuộc vốn luôn không ngừng đổi thay. Phải
nói là mọi nỗ lực của chúng ta đã thu được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, nếu
thật sự nghiêm khắc mà nói, thì đó mới chỉ là những kết quả bước đầu, còn cách rất xa
với đòi hỏi của công cuộc đổi mới và nhất là mong mỏi của chúng ta. Thiết nghĩ, khâu
mắc chính cần tập trung tháo gỡ nằm ở quan niệm dạy học, vì hầu như ai cũng biết
rằng, chính quan niệm sẽ quyết định hành động của con người. Điều này đặc biệt đúng
với sự nghiệp đào tạo đầy ý thức của chúng ta.
Việc dạy và học trong nhà trường chúng ta hiện giờ nên điều chỉnh, thay đổi ra
sao?
Trước nay, mục tiêu dạy và học ở nhà trường Việt Nam được xác định rõ ràng

trên ba phương diện chính yếu là giáo dưỡng, giáo dục và rèn luyện kỹ năng. Trong
bài viết này, tôi chỉ xin bàn tới mục tiêu thứ nhất. Giáo dưỡng tức là nhằm giúp học
sinh, sinh viên trau dồi tri thức về tự nhiên, xã hội và con người. Phương châm chỉ đạo
ở đây là: tri thức phải cơ bản, toàn diện, hiện đại, phù hợp và hệ thống. Nội dung
chương trình các cấp học, bậc học phải nhằm hướng tới mục tiêu đó. Phương pháp dạy
và học của thầy và trò cũng vậy. Từ đó tiêu chí đánh giá trên phương diện giáo dưỡng
cũng rất rõ rệt. Thầy có hiểu biết sâu rộng về chuyên môn, chuyên ngành mình phụ
trách và biết cách truyền thụ những tri thức sâu rộng đó đến người học hay không? Trò
có hiểu đúng, đủ, sâu những tri thức sâu rộng mà người thầy có ý định truyền đạt hay

14


không? Đó đồng thời là cơ sở để xem xét đóng góp của nhà trường đối với xã hội.
Thành bại của một nền giáo dục phần chính cũng tuỳ thuộc vào điều đó.
Vì vậy, trước hết là việc dạy của thầy. Đã là thầy thì phải hơn trò về tri thức,
hơn một cái đầu. Để truyền thụ tri thức có hiệu quả, người truyền thụ phải có niềm tin
khoa học, phải tin vào điều mình nói. Càng tin càng có sức thuyết phục người học.
Trong khi hiểu biết của người thầy vốn rất có giới hạn. Chính khoa học còn có giới
hạn kia mà! Nghịch lý bắt đầu hé lộ. Nên sử lý như thế nào ở đây? Một mặt, chính
người thầy không được phép nghi ngờ những gì có ý định nói với người học nơi giảng
đường. Mặt khác, điều này mới thật đáng lưu tâm, người thầy không nên coi những gì
mình nói ra là chân lý tuyệt đối. Nhất là không được phép nghĩ rằng mình biết được
mọi thứ, hiểu được mọi điều, thậm chí hiểu biết mọi thứ mọi điều đến ngọn ngành. Rất
nhiều lĩnh vực nằm ngoài nhận thức của chúng ta. Đó là chuyện bình thừơng. Không
phải thầy là biết được hết. Và không phải khi không biết một điều gì là không xứng
đáng làm thầy. Cần ghi nhớ lời dạy chí lý của Đức Khổng Tử: Biết thì bảo là biết,
không biết thì bảo là không biết, ấy mới là người biết.
Thêm nữa, nghề dạy học cùng với nghề y, rất cần kinh nghiệm. Càng hành nghề
lâu càng có điều kiện thấu nghề, lành nghề, tinh nghề. Ưu thế thật rõ. Nhưng nếu

không biết giới hạn, ỷ lâu năm, rất dễ rơi vào kinh nghiệm chủ nghĩa. Cuộc sống lại
luôn đổi thay. Cuộc sống hiện đại lại càng đổi thay nhanh hơn. Tri thức hiện đại phát
triển đôi khi đến chóng mặt. Sự thoả mãn phải được xem là lực cản lớn nhất đối với
người thầy. Phương châm học mãi, học suốt đời đối với nghề dạy học hoá ra là một
đòi hỏi tự bên trong của nghề, nó góp phần chính tạo ra ý nghĩa tồn tại đích thực của
người thầy trong việc thực hiện chức phận cao cả của mình.
Đi cùng với việc dạy là việc học. Cần có sự thay đổi những thói quen ăn sâu
trong hành động, những thành kiến bám sâu trong đầu óc. Học sinh phải trọng thầy.
Đó là một trong những đạo lý gốc gác. Nhưng trọng không có nghĩa là xem những
điều thầy truyền giảng toàn là chân lý, lại là chân lý tuyệt đối, chân lý vĩnh hằng. Cần
biết hoài nghi khoa học. Cần biết đặt ra những câu hỏi ở cả những nơi tưởng chỉ toàn
điều hay lẽ phải, ở cả những người được xem là hiểu biết uyên thâm. Nếu không thế,
ta chỉ tạo ra những con vẹt bắt chước giỏi giang. Khi đụng phải thực tế sống động,
chưa từng gặp ở giảng đường vì chưa được thầy dạy (những điều này tiếc thay lại
nhiều vô kể), người ta phải chịu bó tay. Cần hoài nghi (hoài nghi khoa học, cố nhiên)
15


không chỉ ở bài giảng của thầy mà cả những trang giáo khoa, giáo trình, những tập
chuyên khảo, chuyên luận do những nhà sư phạm, những học giả uy tín viết ra. Ở đó
không chỉ toàn những cái đúng, cái mới. Còn biết bao cái lỗi thời cần được hiện đại
hoá, biết bao khiếm khuyết cần được bổ sung. Sự bổ sung và sự hiện đại hóa này là
liên tục, là thường xuyên. Như vậy, người học, người đọc chỉ nên coi những tài liệu
trên là những gợi ý. Bổ ích, quý giá đến đâu cũng chỉ là những gợi ý. Quyết không
được xem đó là những thánh kinh. Mê tín trong khoa học theo ý nghĩa ấy là phi khoa
học, là phản khoa học. “Không có cái đúng, chỉ có cái tự thân”, nhà phê bình danh
tiếng người Mỹ H. Bloom đã nói như vậy.
Trong thời đại ngày nay, sự phát triển của khoa học – công nghệ (KH–CN) đã
ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động của mỗi con người, từ kinh tế – xã hội đến văn hoá
truyền thống, tạo nên những đặc điểm mới của thời đại, theo đó vấn đề đổi mới giáo

dục đang diễn ra trên qui mô toàn cầu, tạo nên những thay đổi sâu sắc trong giáo dục,
từ quan niệm về chất lượng giáo dục, đến quá trình tổ chức và hệ thống giáo dục.
Với sự phát triển nhanh của KHCN, dẫn đến kết quả là xuất hiện nhanh, nhiều
những tri thức, những kĩ năng và những lĩnh vực nghiên cứu mới, đồng thời những tri
thức cũ trở nên lỗi thời, lạc hậu, nảy sinh mâu thuẫn giữa khối lượng thông tin với
trình độ, thời gian, sức lực của người học quá tải.
Trước những thay đổi ấy nếu con người không tiếp cận được với những tri thức
mới, những hiểu biết mới, họ sẽ trở nên nhanh chóng lạc hậu với thời cuộc và bị đào
thải. Xã hội hiện đại đòi hỏi con người phải nhạy bén với cái mới, nhanh chóng tiếp
cận và nắm bắt các thành tựu KHCN hiện đại. Để giải quyết vấn đề này, giáo dục phải
tiếp cận được những thành tựu mới nhất của KHCN bằng cách chọn lọc nội dung, đổi
mới phương pháp dạy học và ứng dụng các phương tiện dạy học hiện đại để giúp cho
người học trong một thời gian ngắn có thể thu nhận được một lượng thông tin lớn.
Vấn đề đổi mới giáo dục hiện nay đang trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Để
làm được việc lớn đó, chúng ta phải thực sự cầu thị, chuyển biến từ cái nhỏ nhất: đó là
cải tiến, đổi mới phương pháp dạy học trong từng bài học, trong từng giờ học, làm cho
quá trình dạy của Thầy và học của Trò đạt hiệu quả cao nhất trong điều kiện có thể có.
Mạng máy tính, Internet, website đã được ứng dụng trong giáo dục ở nhiều
nước, đây vừa là môi trường thông tin vừa là diễn đàn trao đổi, hợp tác có tính tương
tác mạnh. Nhiều công trình nghiên cứu khoa học giáo dục, những thư viện tranh ảnh,
16


video clip, những thí nghiệm mô phỏng, những vấn đề về nội dung, PPDH... đã được
đưa lên website giáo dục của nhiều quốc gia phát triển, sẽ trở thành những cơ sở hiện
thực hoá việc ứng dụng CNTT và TT trong giáo dục ở các nước chậm và đang phát
triển. Nghiên cứu ứng dụng CNTT và TT trong giáo dục ở nước ta hiện nay, đặc biệt
là việc sử dụng MVT với Multimedia, mạng Internet, website... cũng chính là xác định
con đường để đi đến sự hội nhập trong xu thế toàn cầu hoá nhiều lĩnh vực.
1.2.4. Ưu điểm của dạy học qua mạng internet

- Giáo viên có thể giao tiếp với tất cả các đối tượng: đồng nghiệp, học sinh, cấp
trên và các đối tượng với nhau bằng email.
- Việc giảng dạy không những có thể diễn ra trên lớp mà có thể diễn ra ở bất cứ
lúc nào và bất cứ ở đâu.
- Việc học của học sinh có thể được cá nhân hóa với sự giúp đỡ của học sinh
bằng cách trao đổi trực tiếp với giảng viên mà không ngại bị đánh giá.
- Việc truy cập Internet thường xuyên có thể trang bị thêm cho học sinh các kỹ
năng khác như tiếp cận và xử lý thông tin, giải quyết vấn đề, hợp tác, sáng tạo, các kỹ
năng về công nghệ và ngoại ngữ nói chung.
- Việc truy cập Internet cũng tạo cho giáo viên và học sinh niềm say mê, hứng
thú trong học tập và giảng dạy, giúp cho họ có thêm động cơ học tập.
- Học sinh có thể chủ động trong việc xây dựng lộ trình học tập của mình và có
thể mở rộng hoặc giới hạn mối quan tâm của mình.
- Internet là công cụ tuyệt vời trong việc giúp học sinh hành khả năng làm việc và
nghiên cứu độc lập.
- Giáo viên có thể liên kết nhiều ngành, kiến thức, kỹ năng và thái độ trong một
bài giảng có sử dụng Internet.
- Học sinh có thể làm việc theo nhóm, độc lập hay kết hợp với nhiều thành viên
bên ngoài lớp học, thành phố thậm chí quốc gia để có thể thực hiện việc học tập của
mình.
1.2.5. Khả năng ứng dụng và tiêu chí đánh giá website dạy học
1.2.5.1. Khả năng ứng dụng của website dạy học
1.2.5.1.1. Sử dụng Website tạo môi trường tương tác để người học làm quen với MVT
và Internet

17


Những công cụ đào tạo đa truyền thông và phương pháp mô phỏng tương tác
của hệ thống Hypermedia đã tạo ra cho Web những khả năng đáp ứng các yêu cầu của

người sử dụng. Những phương pháp học tập thành nhóm trên mạng làm cho người học
năng động hơn, có tác động qua lại tích cực hơn. Vai trò của GV hướng dẫn là rất quan
trọng, mỗi GV phụ trách một nhóm HS phân theo lớp. HS thực hành và thực hiện các
hoạt động của lớp học dưới sự hướng dẫn của GV nhưng với hình thức liên lạc, trao
đổi thông tin với nhau một cách chủ động thông qua thảo luận hoặc trao đổi thông qua
Internet.
1.2.5.1.2. Sử dụng Website như công cụ hỗ trợ giảng dạy
GV có thể sử dụng trang web trình bày bài giảng với những tính năng đa
phương tiện (văn bản, âm thanh, hình ảnh,…) làm cho bài giảng sinh động hơn.
Những hiện tượng khó quan sát, những TN khó thực hiện do các lý do kỹ thuật và tài
chính, GV có thể đưa ra các đoạn băng hình vào Web để giúp người học tiếp cận với
các phương tiện hiện đại mà với điều kiện của một trường phổ thông, thậm chí các
trường đại học trong nước khó thể thực hiện được. Thông qua Web, GV cũng có thể
kiểm soát việc học tập của người học qua những lần truy cập vào trang Web, hoặc các
phần mềm kiểm tra trên Web.
1.2.5.1.3. Sử dụng Website như công cụ hỗ trợ học tập
Qua việc xây dựng trang web học tập một nội dung, một chương, thậm chí cả
chương trình học một môn học. Người học tự học tập thông qua web với các trình tự
giảng dạy được lập sẵn hoặc người học làm việc với máy tính có sự trợ giúp của GV,
giúp cho người học có thói quen học tập tự chủ. Thông qua các trang web kiểm tra,
người học còn có thể tự đánh giá khả năng của mình. Ngoài ra, người học còn học
được cách điều khiển web, đây cũng là một yếu tố quan trọng trong việc truy tìm
thông tin trên Internet của HS – SV mà sẽ được sử dụng rộng rãi trong tương lai.
1.2.5.1.4. Sử dụng Website như công cụ quản lý học tập
Các chương trình ứng dụng có khả năng kiểm soát việc sử dụng web của HS –
SV (ví dụ: các chương trình kiểm tra việc truy cập web, kiểm tra và lưu trữ kết quả,
…). Các ứng dụng trên Web có khả năng cung cấp thông tin chọn lọc, chính xác,
khách quan góp phần tạo nên những quyết định kịp thời, đúng đắn. Điều này càng trở
nên quan trọng hơn khi lượng thông tin ngày càng lớn, phức tạp và vượt quá khả năng
bao quát của GV.

18


1.2.5.2. Tiêu chí đánh giá Website dạy học
Qua thực tiễn xây dựng và sử dụng Website dạy học, theo chúng tôi các tiêu chí
để đánh giá chất lượng của một Website dạy học gồm có:
Các tiêu chí về mặt khoa học: Tiêu chí này thể hiện ở tính chính xác về nội
dung khoa học chứa đựng trong Website. Các nội dung trong Website phải đáp ứng
tính đa dạng phong phú (tài liệu học tập và các tài liệu tra cứu), phù hợp với chương
trình đào tạo, kiến thức và khả năng tiếp thu của người học. Các thuật ngữ khoa học,
các khái niệm, định nghĩa… phải chính xác và nhất quán với giáo trình hiện hành, các
nội dung trong Website phải nhằm thực hiện mục đích dạy học đề ra.
Các tiêu chí về LLDH: Website dạy học phải thực hiện được các chức năng
LLDH mà phần mềm đảm nhận, phải thực hiện đầy đủ các giai đoạn của QTDH, từ
khâu củng cố trình độ xuất phát, hình thành tri thức mới, ôn tập, hệ thống hoá kiến
thức cho đến kiểm tra đánh giá kiến thức của người học. Có sự phối hợp giữa lý
thuyết, thực tiễn và các PPDH với sự hỗ trợ của Website. Tính chuẩn mực trong
Website cho phép GV chủ động về kiến thức và phương pháp tổ chức lớp học. Các
BGĐT trong Website phải thể hiện được tiến trình của một giờ học.
Các tiêu chí về mặt sư phạm: Website DH phải thể hiện được tính ưu việt về
mặt tổ chức DH so với hình thức lớp - bài truyền thống. Tính ưu việt của Website DH
so với các phần mềm DH khác là khai thác triệt để khả năng hỗ trợ, truyền tải thông
tin đa dạng, trực quan hoá các hiện tượng, quá trình Vật lý,... kích thích động cơ học
tập, tính tích cực và khả năng sáng tạo của người học. Thông qua việc trình bày kiến
thức một cách trực quan, dễ hiểu với các chương trình mô phỏng giúp người học đào
sâu nội dung học tập. Các tài liệu trong Website phải giúp người học khắc sâu kiến
thức đã lĩnh hội, rèn luyện khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, mở rộng nội
dung kiến thức đã học và đi sâu vào bản chất vấn đề nghiên cứu.
Các tiêu chí về mặt kỹ thuật: Giao diện trên màn hình thân thiện, cấu trúc site rõ
ràng, các đối tượng phải được sắp xếp hợp lí phù hợp với tiến trình của một giờ học,

có hệ thống liên kết, điều hướng và chỉ dẫn rõ ràng. Khả năng tương tác, cập nhật
thông tin nhanh chóng, thuận tiện, chính xác và thể hiện được tính mở. Việc sử dụng
các tương tác âm thanh, màu sắc phải khéo léo, không nên lạm dụng khả năng trình
diễn thông tin dưới dạng hình ảnh của máy tính. Đặc biệt Website phải dễ sử dụng,

19


phần mềm thiết kế ổn định và có khả năng thích ứng cao với các thế hệ máy tính và
các hệ điều hành.
1.2.5.3. Những hạn chế khi sử dụng Website dạy học
Không có phương pháp, PTDH vạn năng, nó có thể tốt cho người này, mục đích
này nhưng chưa hẳn đã tốt với người khác và mục đích khác. Với vai trò là PTDH hiện
đại, Website dạy học tỏ ra có nhiều ưu thế nổi trội. Tuy nhiên, cần hiểu rằng nó không
phải là “chìa khóa vạn năng”, và dù phát triển đến mức độ nào cũng không thể thay
thế vai trò của người GV. Như vậy phải khẳng định rằng Website dạy học là một
PTDH đa năng chứ không phải vạn năng, vì vậy trong QTDH phải biết sử dụng một
cách hợp lý để phát huy tối đa những thế mạnh và hạn chế những yếu điểm của nó.
Sau đây là những hạn chế khi sử dụng Website làm PTDH và phương án khắc phục
chúng:
-

Thực tiễn cho thấy, sử dụng Website có sẵn nhiều khi còn tuỳ thuộc vào sự

hiểu biết của một số người. Về mặt kiến thức mặc dù đã được chuẩn hóa, tuy nhiên
nếu xét về góc độ sư phạm thì chưa hẳn đã có giá trị cao. Vì vậy có thể phù hợp với
người này nhưng lại không thể áp đặt cho người khác. Đây là hạn chế lớn khi sử dụng
Website dạy học được thiết kế sẵn. Khi sử dụng Website dạy học nếu GV không hiểu
chủ đích của nhà thiết kế sẽ dễ xa rời định hướng của bài học, còn người học khi độc
lập sử dụng Website để học tập có thể có hiện tượng “nhảy cóc” giữa các nội dung của

bài học, người học có thể chỉ đọc những phần mình thích mà bỏ qua những phần khác,
hoặc chỉ tìm những thông tin có sẵn để giải quyết yêu cầu của GV. Để khắc phục
những hạn chế này, khi xây dựng Website cần chú ý tới các yêu cầu sư phạm đồng
thời có hướng dẫn sử dụng cụ thể, còn người sử dụng phải thực hiện các yêu cầu đó
một cách chặt chẽ và tự giác.
- Các Website được cài đặt và sử dụng trên MVT vì vậy nó cũng có những hạn
chế như khi sử dụng MVT làm PTDH. Ngoài ra còn có nhược điểm: bảo mật dữ liệu,
các kết nối bị hỏng hóc bất thường,…có thể làm mất dữ liệu. Bên cạnh đó, tốc độ
MVT cũng như đường truyền Internet cũng ảnh hưởng ít nhiều nhất là việc tải các mô
phỏng Vật lý, các hình ảnh động,…
- Khi người học học tập độc lập với Website cài đặt trên MVT sẽ hạn chế về
mặt giao tiếp giữa GV và người học. GV không phải là người trực tiếp dẫn dắt, hướng
dẫn người học từng bước cụ thể do vậy không thu được những ý kiến phản hồi từ
20


người học. Khi sử dụng Website dạy học với nhiều nội dung phong phú dễ dẫn dắt
người học xa rời định hướng của bài giảng GV đang dạy. Mặt khác, những liên kết và
rẽ nhánh phong phú của Website đòi hỏi GV phải có kiến thức bao quát rộng, phải
theo dõi tất cả các liên kết có ích cũng như các liên kết làm sai lệch trọng tâm kiến
thức. Vì vậy, GV sẽ rất khó thực hiện một giáo án cố định như cách thức tổ chức dạy
học truyền thống.
- Trong Website dạy học việc kiểm tra, đánh giá thường bằng hình thức trắc
nghiệm khách quan. Ngoài những ưu thế nổi trội thì cũng có những hạn chế: kết quả
kiểm tra GV nhận được từ người học thường là cuối cùng, những lí luận, phép tính trung
gian hầu như không được giới thiệu, vì vậy GV không phát hiện được sai sót trong quá
trình tư duy của người học, còn người học không được rèn luyện khả năng trình bày, để
khắc phục GV cần phối hợp với hình thức kiểm tra tự luận.
- Hiện trạng thiết bị CNTT và trình độ Tin học của GV phần lớn chưa đủ khả
năng triển khai sử dụng Website đồng bộ. Thực tế cho thấy đa số GV phổ thông chưa sử

dụng thành thạo MVT và chưa có sự đầu tư thời gian cho lĩnh vực này nhất là các
trường ở vùng sâu, vùng xa. Để khắc phục các ban ngành có liên quan cần có chính sách
hỗ trợ đầu tư thích đáng. Nên tổ chức các lớp đào tạo tin học định kỳ về ứng dụng
CNTT vào dạy học cho GV, tăng thời lượng giảng dạy chuyên đề tin học ứng dụng cho
SV các ngành sư phạm.
Trên đây là một số hạn chế khi sử dụng Website làm PTDH. Tuy nhiên nếu biết
sử dụng hợp lý thì có thể khắc phục đáng kể các hạn chế trên.
1.2.6. Hình thức triển khai website trong dạy học Vật lý
Căn cứ vào thực trạng về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học của nhà trường để có
thể tiến hành cài đặt và khai thác Website dạy học dưới các hình thức:
- Cài đặt Website trên các máy tính cá nhân của HS.
- Cài đặt Website lên máy chủ của hệ thống mạng cục bộ trong trường.
- Đưa Website lên mạng Internet để phổ biến Website trên toàn thế giới.
Trong điều kiện hiện nay khi mà hầu như các trường học đều có hệ thống
phòng máy thì một giải pháp công nghệ mới, đơn giản, không qua tốn kém là: hệ
thống mạng đào tạo đa phương tiện (multimedia Education Networrk System HiClass).

21


Với hình thức dạy học này GV điều khiển một hệ thống máy tính được kết nối
với nhau và kết nối với máy chủ, từ màn hình máy chủ GV điều khiển, quan sát toàn
bộ hoạt động của người học. Mọi hoạt động của GV trên màn hình máy tính cùng với
lời nói của GV đều có thể chuyển tải tới người học, vì vậy GV có thể thuyết trình
BGĐT, giao nhiệm vụ học tập… trên máy chủ còn người học tiếp nhận mọi thông tin
nhận được từ máy tính cá nhân của mình. Trong quá trình học tập người học có thể
trao đổi ý kiến của mình với GV thông qua micro và headphone (tai nghe) khi GV
nhận được tín hiệu từ máy tính.
Các kết quả nghiên cứu về hệ thống giáo dục đa chức năng này cho thấy: HiClass
là một sự đổi mới quan trọng về PTDH, nó cho phép tạo ra môi trường DH hiệu quả cao

với tính năng tương tác hai chiều giữa GV và người học, cùng khả năng truyền thông đa
phương tiện với sự hấp dẫn của âm thanh, hình ảnh. Nó là điều kiện khá lí tưởng cho
việc thực hiện các yêu cầu của một QTDH và của các PTDH hiện đại, có thể sử dụng để
DH tất cả các bộ môn, đặc biệt là các môn khoa học thực nghiệm như vật lý. Môi trường
học tập Multimedia với công nghệ HiClass sẽ là cơ sở tốt nhất để khai thác khả năng hỗ
trợ của Website trong QTDH.
Khai thác các tính năng hỗ trợ của Website DH cũng như tính khả thi của việc
triển khai ứng dụng trong thực tiễn thì mỗi hình thức triển khai đều có những thế mạnh
và hạn chế nhất định. Tuỳ thuộc vào điều kiện và mục đích sử dụng để lựa chọn hình
thức triển khai phù hợp và mang lại hiệu quả cao nhất.
1.3. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG INTERNET
TRONG DẠY HỌC VẬT LÝ
1.3.1. Vai trò của Internet trong dạy học vật lí ở trường THPT
Ngày nay, việc ứng dụng CNTT trong dạy - học các môn học nói chung và môn
Vật lý nói riêng trong nhà trường phổ thông trở nên khá phổ biến bởi tính năng vượt
trội của CNTT trong việc cung cấp, chia sẻ các nguồn tư liệu phong phú, tạo được môi
trường ảo thể hiện các hình ảnh trực quan mà khó có phương tiện dạy học nào có thể
có được.
Hiện nay, nguồn tư liệu trên Interrnet ngày càng phong phú. Theo chủ trương của
Bộ giáo dục và đào tạo, nguồn học liệu mở sẽ phát triển trong thời gian tới. Do đó,
hình thành được kĩ năng khai thác thông tin trên Internet sử dụng các trang tìm kiếm
phục vụ cho việc giảng dạy là nhiệm vụ cấp bách với mỗi giáo viên.
22


Việc khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên trên mạng internet hiện nay rất
được các thầy cô và học sinh quan tâm. Các nguồn tài nguyên đó bao gồm sách điện
tử, đề thi, tư liệu, hình ảnh, giáo án, phần mềm, ...
1.3.2. Moodle công cụ đắc lực của việc hỗ trợ dạy học qua mạng Internet
1.3.2.1. Giới thiệu hệ thống quản lý học tập của Moodle

Hiện nay có nhiều các hệ thống quản lý học tập LMS (Learning Management
System) mã nguồn mở như BlackBoard, Atutor, Itias, LRN, … Trong đó Moodle đang
được ứng dụng rộng rãi tại nhiều trường học, nhiều công ty tổ chức của nhiều nước
trên thế giới.
Moodle (Modular Object - Oriented Dynamic Learning Environment) được sáng
lập năm 1999 bởi Martin Dougiamas, người tiếp tục điều hành và phát triển chính của
dự án. Do không hài lòng với hệ thống LMS/LCMS thương mại WebCT trong trường
học Curtin của Úc, Martin đã quyết tâm xây dựng một hệ thống LMS mã nguồn mở
hướng tới giáo dục và người dùng hơn.
Moodle nổi bật là hướng giáo dục, được thiết kế dựa trên triết lý giáo dục tốt, là
nền tảng cho dạy học trực tuyến. Một điểm nữa là Moodle có cộng đồng rất đông đảo,
thường xuyên đóng góp ý kiến và tài chính để nâng cao chất lượng phần mềm. Một tổ
chức có quyền truy cập hoàn toàn mã nguồn và có thể thay đổi nếu cần thiết. Thiết kế
có tính mô đun, giúp dễ dàng tạo các khóa học mới, đưa nội dung giúp học viên tham
gia nhiệt tình hơn.
Điều đáng mừng là hiện tại Việt Nam đã thành lập cộng đồng Moodle, sẵn sàng
cung cấp hỗ trợ miễn phí bằng tiếng Việt cho các trường học và cơ sở đào tạo, tại địa
chỉ website: />1.3.2.2. Tại sao lựa chọn Moodle
1.3.2.2.1. Mã nguồn mở miễn phí
Cụm từ “mã nguồn mở” đã trở thành một thuật ngữ trong công nghệ phần mềm.
Nó đã làm thay đổi lớn sự phát triển và kinh doanh ứng dụng máy tính. Tuy nhiên ý
tưởng thật đơn giản, mã nguồn mở nghĩa là ai cũng có quyền xem, đánh giá và sửa
phần mã chương trình của phần mềm sao cho phù hợp với mục đích và yêu cầu sử
dụng, nếu nó hay hơn, tiến bộ hơn, bạn có thể gửi cho các người khác cùng sử dụng
thông qua đánh giá của cộng đồng.
23


Moodle sử dụng công nghệ mà nguồn mở do đó dễ tùy biến sao cho phù hợp
với mục đích sử dụng mà đặc biệt là miễn phí. Đồng thời, khi sử dụng công nghệ mã

nguồn mở, chúng ta sẽ không phải chạy theo công ty sản xuất ứng dụng một khi họ
thay đổi công nghệ. Với mô hình mở như Moodle, cho phép bạn trao đổi trực tiếp với
chính cộng đồng phát triển phần mềm, góp ý kiến và yêu cầu chỉnh sửa nếu có ý tưởng
hay.
1.3.2.2.2. Nguyên lý giáo dục của Moodle
Sự thành công của Moodle lý do không chỉ là về mặt công nghệ như thiết kế, kỹ
thuật, lập trình mà dựa rất nhiều vào cách tiếp cận sự phạm đúng đắn. Dưới đây là triết
lý giáo dục của Moodle.
Việc thiết kế và phát triển Moodle được định hướng bởi một triết lý cụ thể về
vấn đề học tập, có thể gọi là “Giáo dục mang tính xã hội” (Social Constructionist
Pedagogy).
Phần dưới đây sẽ giải thích 4 quan điểm chính của phương pháp này thông qua
4 thuật ngữ.
- Xu hướng xây dựng (Constructivism)
Quan điểm rằng con người luôn tích cực xây dựng kiến thức mới khi họ tương
tác với môi trường của họ.
Mọi thứ HS đọc, nghe, nhìn, cảm thấy và sờ sẽ tác động tới các kiến thức đã có
trước đây của họ và nếu có thể nó sẽ tạo kiến thức mới cho họ. Kiến thức sẽ được tăng
cường khi HS có thể sử dụng nó trong môi trường rộng hơn.
Điều này không thể nói rằng HS không thể học mọi thứ từ việc đọc một trang
web hoặc xem một bài văn, hiển nhiên là có thể, nó chỉ ra rằng sẽ có nhiều cách hơn là
một cách chuyển tải thông tin từ một người thông minh tới một người khác.
- Cơ cấu xây dựng (Constructionism)
Quan niệm này khẳng định rằng học tập sẽ có hiệu quả đặc biệt khi tự xây dựng
một thứ gì đó để người khác đóng góp, đánh giá. Nó có thể ở bất kỳ một dạng nào từ
một câu nói hoặc một bài viết trên mạng Internet, tới các thứ phức tạp hơn như vẽ,
phần mềm.

24



Ví dụ, HS có thể đọc bài học trong SGK một vài lần và quên vào ngày hôm sau,
nhưng nếu cho HS thử và giảng giải các ý tưởng này cho HS khác đó bằng ngôn ngữ
riêng của bạn, hoặc tạo các slide trình chiếu để giảng giải các ý tưởng này thì có thể
khẳng định là HS đó sẽ hiểu rõ hơn về nó. Đây là nguyên nhân tại sao truyền thống bắt
HS ghi chép trong các giờ lên lớp, thậm chí có khi HS không bao giờ đọc nó.
- Xây dựng xã hội (Social Constructivism)
Quan niệm này mở rộng các ý tưởng ở trên và để thực hiện các quan điểm trên
rằng nhóm HS thành một nhóm mang tính xã hội xây dựng kiến thức bổ sung cho
nhau, hợp tác tạo một “nền văn hóa nhỏ” chia sẻ các vấn đề có cùng ý tưởng. Khi một
kiến thức được đưa vào “nền văn hóa” này, như đề cập ở trên, mọi người sẽ được và sẽ
phải học mọi lúc sao cho trở thành một bộ phận của “nền văn hoá” đó. Tuy nhiên,
trong “nền văn hóa” đó cũng sẽ xuất hiện nhiều trình độ khác nhau.
- Kết hợp và phân chia (Connected and Separate)
Quan niệm này nhìn sâu hơn vào động cơ thúc đẩy của mỗi cá nhân trong một
cuộc thảo luận. Hành vi phân chia (Separate) xuất hiện khi một ai đó có xu hướng bảo
vệ ý kiến của riêng họ, sử dụng logic để tìm lỗ hổng trong các ý kiến của đối thủ. Hành
vi kết hợp (Connected) là cách tiếp cận lý luận của người khác dựa trên sự cố gắng
nghe và đặt câu hỏi để hiểu và tiếp nhận vấn đề của người khác. Hành vi xây dựng
(Constructed) chỉ hành vi của một người sử dụng cả hai cách tiếp cận trên để xây dựng
và phản biện vấn đề, họ có thể chọn một trong hai cách tùy tình huống cụ thể.
Trong việc xây dựng cộng đồng học tập thì việc phát huy sự liên kết rất quan
trọng, không những chỉ giúp mang mọi người gần nhau hơn mà còn là cơ hội để kiểm
tra lại các kiến thức mình có.
Theo đó, các nhà xây dựng Moodle đã tích hợp cho nó những khả năng tuyệt vời,
xứng đáng được đánh giá là một “trung tâm học tập” trong khi hầu hết các hệ thống
học tập khác là một “trung tâm công cụ”.
1.3.2.2.3. Tính cộng đồng
Moodle có một hệ thống cộng đồng trên mạng to lớn. Những người đang sử
dụng và phát triển Moodle bất kỳ ai cũng có thể gia nhập vào cộng đồng này và tham

gia vào khóa học sử dụng Moodle tại .
25


×