Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Điều tra đánh giá hiện trạng hệ thống trồng địa bàn xã Châu Can, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.09 KB, 32 trang )

Phần I. Mở đầu
1.1. Đặt vấn đê
Việt Nam là một nước đã chuyển sang nền kinh tế thị trường vì vậy
trong nông nghiệp sản xuất đóng góp khoảng 25% GDP và 30% giá trị xuất
khẩu.
Ưu tiên phát triển nền nông nghiệp đã được Đảng và nhà nước ta xác
định là một nhiệm vụ chiến lược quan trọng trong quá trình phát triển đất
nước để từng bước công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Phát triển nông nghiệp theo hướng hàng hóa tạo ra nhiều nông sản có
giá trị xuất khẩu tăng sức cạnh tranh cần phải điều tra và đánh giá hiện trạng
hệ thống cây trồng ở từng vùng sinh thái nông nghiệp ở thành phố Hà Nội nói
chung và xã Châu Can huyện Phú Xuyên nói riêng.
Châu Can là một xã nông nghiệp có vị trí địa lý tương đối thuận lợi,
cách Hà Nội không xa, sản xuất nông nghiệp có trình độ thâm canh cao với
nhiều chủng loại cây trồng khác nhau vì vậy việc điều tra, đánh giá hệ thống
cây trồng t là rất quan trọng và cần thiết.
Hiện tại hệ thống cây trồng của xã chưa được quan tâm đúng mức như
việc chuyển đổi đất đai chưa hợp lý, chưa áp dụng các biện pháp khoa học ky
thuật nên tầng canh tác bị xói mòn, nhiều vùng bị nhiễm phèn, đất chua bạc
màu. Để khắc phục hiện tượng trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Điều tra đánh giá hiện trạng hệ thống cây trồng trên địa bàn xã Châu
Can, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội”.
1.2. Mục đích và yêu cầu của đê tài
1.2.1. Mục đích
Điều tra điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội giai đoạn 2007 – 2010 và hệ
thống cây trồng hiện tại, trên cơ sở đó đề xuất hệ thống cây trồng hợp lý cho
xã Châu Can, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội.

1



1.2.2. Yêu cầu
- Điều tra điều kiện tự nhiên xã hội xã Châu Can, Huyện Phú Xuyên,
thành phố Hà Nội.
- Điều tra hiện trạng hệ thống cây trồng giai đoạn 2007 – 2010.
- Phân tích điểm mạnh, điểm yếu của hệ thống cây trồng 2007 – 2010.
- Đề xuất một số giải pháp cho hệ thống cây trồng mới giai đoạn 2011 –
2015.

2


Phần II: Tổng quan tài liệu nghiên cứu hệ thống cây trồng.
2.1. Một số khái niệm vê hệ thống
2.1.1. Hệ thống cây trồng
Trong nông nghiệp hoạt động trồng trọt vẫn giữ vai trò quan trọng
trong cả nước nói chung và xã Châu Can nói riêng, bên cạnh đó hoạt động
chăn nuôi cũng là ngành khá phát triển nhưng quy mô hộ gia đình và phục vụ
thực phẩm quanh khu vực Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn (Bộ
NN&PTNT, 2003). Như vậy có thể thấy rằng hệ thống trồng trọt (HTTT) là
nền tảng chính giữ vị trí quan trọng trong hệ thống nông nghiệp. HTTT là một
hệ thống phụ trung tâm của hệ thống nông nghiệp, hoạt động của hệ thống
nông nghiệp ảnh hưởng mang tính quyết định đến sự hoạt động của các hệ
thống khác (Nguyễn Tiến Duy, 1995).
Theo Đào Thế Tuấn (1984) hệ thống cây trồng ( HTCT) là thành phần
các giống và loài cây trồng trong mọi hệ sinh thái nông nghiệp (HSTNN)
nhằm tận dụng hợp lý nhất các nguồn lợi tự nhiên kinh tế - xã hội. HTCT là tổ
hợp cây trồng bố trí theo không gian và thời gian với hệ thống biện pháp ky
thuật thực hiện nhằm đạt năng suất cây trồng cao và nâng cao độ phì của đất
(Nguyễn Duy Tính, 1995). HTCT tối ưu không chỉ phụ thuộc vào phần quy
mô và trả lại của sản phẩm cây trồng, giá của chi phí đầu vào bao gồm lao

động, sự kết hợp giữa các phần công việc, sức khỏe của nông dân và chiều
hướng của rủi ro (David, 2003).
Sản xuất nông nghiệp nói chung ngành trồng trọt nói riêng là sử dụng
các loại cây trồng thích hợp với các yếu tố và biện pháp ky thuật để cây sử
dụng năng lượng mặt trời tạo ra sản phẩm mong muốn phục vụ cho cuộc
sống con người. Như vậy, cơ cấu cây trồng có vai trò hết sức quan trọng và
cần thiết, nó là công cụ tốt nhất để đạt được mục đích sản xuất, nó cũng là
biện pháp để thúc đẩy và quyết định nội dung của các biện pháp ky thuật nông

3


nghiệp khác (Bùi Phúc Khánh, 1995). Xác định cơ cấu hợp lý còn là cơ sở để
hoạch định chiến lược phát triển của nông nghiệp cho địa phương.
Việc phát triển kinh tế trong nông nghiệp ở vùng Châu Can, Phú
Xuyên, Hà Nội theo sản xuất nông nghiệp hàng hóa đòi hỏi bố trí cơ cấu cây
trồng hợp lý để sản xuất có hiệu quả cao nhất, đảm bảo an toàn lương thực,
bảo vệ môi trường sinh thái (rừng và nguồn nước) góp phần xóa đói giảm
nghèo thực hiện công nghiệp hóa đất nước vào năm 2020 (Nguyễn Văn
Trường, 1992). Việc xác định và xây dựng hệ thống cây trồng phù hợp với
điều kiện sinh thái của từng vùng là cơ sở để đạt năng suất và sản lượng cây
trồng cao, đồng thời cũng là biên pháp sinh học tốt nhất nhằm khai thác triệt
để mọi nguồn lợi tự nhiên, kinh tế - xã hội mỗi vùng (Lê Thị Bích và cs,
1996).
2.1.2. Quan điểm hệ thống cây trồng theo hướng hàng hóa.
Là những hệ thống sản xuất với mục tiêu chủ yếu là tích lũy làm giàu.
Hoạt động sản xuất mang lại kêt quả cao cho người tiêu dung ít hơn so với
phần để tích lũy. Thông thường các hệ thống này thuộc dạng nông nghiệp đa
canh nhưng phần lớn các ngành sản xuất có hiệu quả kinh tế cao chiếm tỉ
trọng cao trong hệ thống. Hệ thống sản xuất này đòi hỏi đầu tư cao về tiền

vốn, về ky thuật và nguồn lực sản xuất rất lớn, tiềm lực kinh tế vững vàng và
tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội.
Theo Phạm Chí Thành và cộng sự (1996), HTCT hàng hóa bao gồm hệ
thống cây trồng bản địa cộng với tiến bộ ky thuật, sản xuất theo quy mô lớn
và có thị trường tiêu thụ rộng lớn. Đây là cách làm thừa kế cái tốt do dân tích
lũy được. Vì vậy nghiên cứu phát triển hệ thống cây trồng phải đánh giá cho
được hệ thống cây trồng hiện tại. Hiện tại ở đây là những ky thuật đã được
dân thừa nhận, tiến bộ ky thuật là những cái mới, cái chưa từng có ở địa
phương và có tác dụng tăng hiệu quả sản xuất.
2.1.3. Quan điểm hệ thống cây trồng trên cơ sỏ nâng cao hiệu quả kinh tế

4


HTCT nâng cao hiệu quả kinh tế trên đồng ruộng về số lượng, tỷ lệ,
chủng loại, vị trí và thời điểm nhằm tạo ra sự cộng hưởng các mối quan hệ
hữu cơ giữa các loại cây trồng với nhau để khai thác và sử dụng một các tiết
kiệm nhất và hợp lý nhất các nguồn tài nguyên cho các mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội (Trần Khải, 1994) .
HTCT nâng cao hiệu quả kinh tế là nền nông nghiệp sản xuất nhiều
loại cây con nó ra đời trên cơ sở sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên, lao động
ở Việt Nam rất đa dạng và luôn vận động giữa các vùng với nhau ( Bùi
Huy Đáp, 1996)
2.2. Những nghiên cứu trên thế giới và trong nước
2.2.1. Những nghiên cứu trên thế giới
Theo Flach và CS (1989) thì luân canh cây trồng là trình tự sắp xếp gieo
trồng các loại cây trên cùng một mảnh đất theo mùa vụ của từng loại cây
trồng đó. Luân canh cây trồng được sử dụng quan trọng trong:
- Duy trì độ màu mỡ của đất.
- Ngăn chặn sự gia tăng số lượng của các loài bệnh hại, sâu hại, cỏ dại

trong đất.
- Điều khiển, hạn chế xói mòn.
Nghiên cứu sâu về luân canh cây trồng của tác giả Geurts và cs (1989)
cho rằng do cải tiến phát minh ky thuật công nghệ như sử dụng phân bón,
thuốc trừ sâu, thuốc trừ cỏ nên đã làm giảm phần nào sự cần thiết về luân
canh cây trồng. Tuy nhiên, có một số lượng quan trọng gia tăng trong đất của
các loài bệnh hại và ngưỡng bệnh gây nên do tuyến trùng thì ở đó bắt buộc
phải thực hiện chương trình luân canh cây trồng. Ví dụ: cây củ cải đường và
cây lấy sợi, cây thuốc lá và cây khoai tây là được trồng xen theo chu kỳ 3 – 4
năm. Một số quy định liên quan đến luân canh cây trồng:

5


+ Tiếp tục gieo trồng cây có hạt, cây đậu đỗ sẽ ngăn chặn được nguy cơ
như nói trên (ngoại trừ: vụ lúa khô và ẩm ướt xảy ra sau đó, phần lớn đất phù
sa được bồi hàng năm).
+ Cây trồng họ đậu không được gieo trồng trong trật tự sắp xếp nói trên
cho dù cây họ đậu được gieo trồng bằng hạt hoặc hình thức khác để sử dụng
làm thức ăn chăn nuôi.
+ Những cây trồng thường hay bị bệnh ở rễ thì không nên gieo trồng
vì không thành công. Ví dụ: cây thuốc lá không nên gieo trồng cùng cây
khoai tây.
Theo Geurt và cs (1989) khái niệm xen canh được hiểu là: trong thời kỳ
gieo trồng cây lâu năm như cây cọ dầu và cây cao su người nông dân thường
trồng xen canh cây ngắn ngày (cây trồng thu hoa lợi hay cây trồng lương
thực) sao cho chúng khớp theo nhau. Những cây trồng đó sẽ cung cấp cho
người nông dân nhiều thu nhập trong thời kỳ mà cây trồng lâu năm chưa có
sản lượng. Giai đoạn sau thì những cây trồng xen canh phải được sắp xếp lại
vì tán của chúng đã bao phủ để duy trì sự màu mỡ của đất, ngăn chặn cỏ dại

và quản lý xói mòn đất.
Nghiên cứu lịch sử phát triển nông nghiệp trong đó có sự hình thành và
phát triển của cơ cấu cây trồng theo các giai đoạn khác nhau từ đó chọc lỗ bỏ
hạt đến cày máy, làm đất ở mức hiện đại. Hình thức định canh được xác định
là yếu tố cơ bản và cần thiết để xuất hiện cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp,
hình thức định canh giai đoạn đầu đã xuất hiện cơ cấu cây trồng giản đơn. Thí
dụ ở Châu Âu từ thế kỷ VIII – XVIII trong suốt 1000 năm chế độ luân canh
chu kỳ 3 năm với hệ thống cây trồng là ngũ cốc và bỏ hạt. Năng suất ngũ cốc
trong thời kỳ này chỉ đạt 5 – 6 tạ/ha.
Châu Á là khu vực trồng lúa chủ yếu. Khoảng 90% lúa trên thế giới
được sản xuất ở châu Á. Đất trồng lúa ở châu Á chỉ có một phần rất nhỏ được
tưới còn khoảng 70% còn gieo hạt nhờ nước trời. Trước đây trên đất lúa có

6


tưới thường trồng hai vụ lúa trong năm và trên đất lúa nhờ nước trời thường
được trồng một vụ lúa trong mùa mưa. Vào những năm 1960, các nhà sinh lý
thực vật nhận thấy rằng có một loại giống cây trồng nào đó có khả năng sử
dụng hết các lợi thế tài nguyên thiên nhiên ở một vùng và các nhà nghiên cứu
viện nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI) đã nhận thức rằng các giống lúa nước thấp
cây, lá đứng tiềm năng sản lượng cao chỉ có thể giải quyết vấn đề lương thực
trong một phạm vi hạn chế do đó từ những năm đầu của thập kỷ 70 các nhà
khoa học của các nước Châu Á đã đi sâu nghiên cứu toàn bộ hệ thống cây
trồng cạn, các chế độ trồng xen canh, trồng gối, trồng nối tiếp ngày càng được
nghiên cứu.
Chương trình nghiên cứu nông nghiệp phối hợp toàn Ấn Độ 1960 –
1972 lấy hệ thống thâm canh tăng vụ chu kỳ một năm làm hướng chiến lược
phát triển sản xuất nông nghiệp đã kết luận: “Hệ canh tác dành ưu tiên cho
cây lương thực, chu kỳ một năm 2 vụ cốc (2 vụ lúa nước, hoặc một vụ lúa

nước một vụ lúa mỳ) đưa thêm một vụ đậu đỗ đã đáp ứng được ba mục tiêu:
khai thác tối ưu tiềm năng của đất đai ảnh hưởng tốt tới độ phì nhiêu của đất
trồng và đảm bảo lợi ích của người nông dân”.Ở Đài Loan nghiên cứu giống
cây hoa màu chịu bóng trồng xen trong các cây trồng khác như cây ăn quả:
táo hay các loại cây lấy củ như gừng, nghệ (cây công nghiệp chiếm diện tích
lớn ở Đài Loan), hoa màu chịu hạn trồng mùa khô để đưa vào trồng sau khi
thu hoạch lúa mì. Ở Trung Quốc trên các vùng đất trồng lúa 2 vụ, hệ thống
cây trồng chủ yếu là hai vụ lúa và một vụ lúa mỳ (hoặc đậu hà lan, cải, khoai
lang). Trên các vùng đất lúa một vụ, hệ thống cây trồng thương là một vụ lúa
và một vụ cây trồng cạn.
2.2.2. Những nghiên cứu tại Việt Nam
Nông nghiệp nước ta từ những thời kỳ xa xưa cũng đã có một cơ cấu
cây trồng khá phong phú. Cùng với lúa nước là loài cây lương thực chủ yếu
cơ cấu loại cây trồng đã bao gồm nhiều loại cây trồng có củ (các loại khoai

7


thuộc họ ráy như khoai nước, khoai sọ, …), một số cây có sợi như (đay, gai,
dâu tằm…) đã ngày càng được bổ sung phong phú thêm trong quá trình phát
triển sản xuất và xã hội. Như vậy nước ta có một tập đoàn cây trồng khá
phong phú từ các cây trồng có nguồn gốc nhiệt đới đến các cây trồng Á nhiệt
đới và ôn đới. Công tác nghiên cứu về hệ thống cây trồng ở nước ta được thực
sự chú ý và cũng bắt đầu trên đất dốc ở các tỉnh miền núi.
Ở miền núi có tới 2.7 triệu ha đất nông nghiệp (chiếm khoảng 39% đất
nông nghiệp của cả nước) với trên 21 triệu đồng bào các dân tộc hiện đang
sinh sống. Việc nghiên cứu trong những năm gần đây, một số công trình về
nghiên cứu sử dụng, cải tạo đất dốc ở Tây Bắc Việt Nam của Bùi Quang Toản
(1991), Lê Thái Bạt (1991) đã kế thừa các kết quả nghiên cứu của các tác giả
và tổng kết đặc điểm của các loại đất chính ở Tây Bắc và nhấn mạnh việc bố

trí cơ cấu cây trồng phù hợp với tổ hợp các điều kiện tự nhiên ở từng vùng
sinh thái nông nghiệp. Nhiều tác giả đã quan tâm đến vấn đề canh tác trên đất
dốc, đặc biệt là luân canh, xen canh trong hệ thống cây trồng và vấn đề
NLKH… Lê Trọng Cúc (1990) cho rằng trồng xen canh giữa cây lương thực
và cây họ đậu cho sản lượng tổng hợp cao hơn và đóng góp to lớn vào việc
cải thiện điều kiện đất đai. Trong hệ thống cây trồng sắn xen lạc năng suất lạc
đạt 500 – 820 kg/ha, sắn đạt 15-16 tấn/ha và lượng đất tổn thất 20 tấn/ha/năm
trong khi trồng sắn thuần, lượng đất tổn thất lên tới 120-140 tấn/ha. Lạc trồng
xen sắn, tạo cho cây có hàm lượng chlorphyl, đất khô và cường độ quang hợp
cao hơn so với cây trồng thuần, do đó sắn cho năng suất cao hơn. Trồng cây
cốt khí xen cây sắn làm cho cây sinh trưởng tốt hơn rõ rệt, thậm chí còn tốt
hơn trồng sắn xen lạc, trồng sắn xen đỗ tương (Lê Duy Thước 1995).
Các loại cây ngắn ngày thường trồng xen giữa hai hàng cây lâu năm
chưa khép tán hoặc trồng thành đồi dưới tán rừng. Tác giả cũng đã đưa ra mô
hình với hệ thống cây trồng gồm cây lớn (cây ăn quả) chiếm 20% diện tích,
cây nhỏ (cam, quýt, hồng) 10% diên tích, chè xanh 10% diện tích, dứa 10-

8


15% diện tích, các loại cây lương thực (cây có củ hoặc cây có hạt) 40-50%
diện tích (Nguyễn Văn Trương, 1985). Một trong những yếu tố chi phối lớn
để sản xuất nông nghiệp nói chung và bố trí hệ thống cây trồng nói riêng ở
vùng đồi núi là độ dốc các khu vực sản xuất. Nguyễn Văn Trương
(1985,1992) nghiên cứu về hệ thống NLKH đảm bảo năng suất cây trồng, giữ
gìn đất, nước, hạn chế thiên tai và nghiên cứu một hệ sinh thái của Việt Nam
cho rằng:
+ Đất bằng dưới 50 kiến thiết thành ruộng bậc thang trồng hoa màu
ngắn ngày, chịu hạn (như mì, mạch, đậu đỗ, cây có củ) và gieo cấy lúa nước
vụ mùa lợi dụng nước trời. Nơi có nguồn nước có thể trồng cây phòng hộ lâu

năm có tán che.
+ Trên đất dốc vừa (5-100): kiến thiết đồi thành bậc thang để trồng hoa
màu, lương thực, cây công nghiệp ngắn ngày 1-2 vụ/năm. Trồng theo chế độ
canh tác cạn (Dryaming) theo đường đồng mức, tỷ trọng các nhóm cây trồng
trong hệ thống trồng trọt gồm 60-70% cây hoa màu lương thực, cây công
nghiệp ngắn ngày, 20-30% cho cây lớn và 10-15% đất dành cho đường vành
đai và bờ cây chắn đất.
+ Trên đất dốc 15-200 (có nơi lên đến 30): trên đất này ở những nơi đất
có tầng dày khá thường được sử dụng trồng các loại cây dài ngày như chè,
trẩu, măng tây, cây ăn quả (cam, mít bưởi, chanh, dứa, mận) thường trồng xen
với cây họ đậu để phủ đất trồng chống xói mòn. Hệ thống cây trồng trên loại
hình đất này là quần xã thực vật theo kiểu vườn rừng, khoảng 30-40% cây to,
30-40% cây nhỡ, còn lại là bờ cây phòng hộ và mương giữ đất giữ nước.
Nhiều công trình nghiên cứu tổng hợp và chuyên đề về hệ thống cây
trồng đặc biệt là hệ thống cây trồng ở vùng đồi núi (hệ thống canh tác theo đất
dốc), đã được tiến hành nhiều nơi trong và ngoài nước đã có nhiều kết quả
nghiên cứu nhận định. Nhìn chung các tác giả nghiên cứu theo hướng chọn
các hệ thống canh tác có các hệ thống cây trồng phù hợp trên đất dốc với các

9


loại cây vừa đảm bảo kinh tế vừa đảm bảo được độ màu mỡ của đất. Có thể
thấy công trình nghiên cứu áp dụng các biện pháp ky thuật nâng cao hiệu quả
sử dụng đất ruộng một vụ vùng miền núi phía bắc (Lê Quốc Doanh, 2007)
cho thấy bằng con đường chọn giống, che phủ đất có thể tăng vụ với hai công
thức: đậu tương xuân -

lúa mùa giống ngắn ngày lợi nhuận 16.8 triệu


đồng/ha/năm nếu so sánh với làm một vụ lúa lợi nhuận chỉ đạt 8.0 triệu
đồng/ha/năm. Công thức lạc xuân – lúa mùa giống ngắn ngày đạt lợi nhuận
21.2 triệu đồng/ha/năm cao hơn đối chứng là một vụ lúa là 9.6 triệu
đồng/ha/năm. Tuy nhiên, do điều kiện nước ta có nhiều rừng sinh thái với hệ
thống cây trồng khác nhau, những kết quả thu được ở trên chỉ là kết quả bước
đầu phù hợp với từng thời kỳ nhất định. Các mô hình sử dụng đất ở vùng đồi
núi có hiệu quả bền vững đã được nghiên cứu đến nay cho thấy trước hết là
kết quả của việc lựa chọn HTCT phù hợp với yêu cầu vốn rất nghiêm ngặt về
sinh thái, thổ nhưỡng của từng khu vực. Vì vậy, vấn đề chọn hệ thống cây
trồng thích ứng cho từng vùng là một vấn đề ưu tiên hàng đầu hiện nay. Mặt
khác các nghiên cứu của những nhà khoa học nông lâm trong thời gian qua
chủ yếu tập trung vào vùng đồi núi và đất dốc.

10


Phần III: NỘI DUNG VÀ PHƯONG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Nội dung nghiên cứu
3.1.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội của xã Châu Can – Phú Xuyên
– Hà Nội.
Châu Can là một xã có địa hình tương đối bằng phẳng, nên phát triển
nông nghiệp rất thuận lợi nhất là trồng lúa nước. Với hệ thống sông ngòi,
kênh mương dẫn nước hơp lý, rất thuận lợi cho tưới, tiêu và nuôi trồng thủy
sản. Bên cạnh đó còn được sự đầu tư của Đảng và nhà nước, vì vậy ở Châu
Can có một hệ thống giao thông thuận lợi, đường được kiên cố hóa bằng bê
tông, hệ thống đê điều được trải đá vững chắc tránh được các tác hại của thiên
tai lũ lụt .
Tình hình kinh tế ổn định đang trên đà phát triển, đồi sống nhân dân
ngày được nâng cao, số hộ nghèo giảm nhanh và bền vững, hộ giàu ngày càng
tăng. Nền kinh tế sản xuất theo hứng đa dạng theo đà của nền kinh tế thị

trường, cơ cấu các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng nhanh.
3.1.2. Vị trí địa lý
Châu Can là một xã nằm dọc theo trục đường QL1A dài khoảng 2,5km từ
phía bắc đến phía nam và một phần chạy dọc theo con song Nhuệ nên rất
thuận lợi cho giao thông đi lại và phát triển kinh tế:
- Phía Bắc giáp xã Phú Yên – Huyện Phú Xuyên
- Phía Tây giáp xã Đông Lỗ - huyện Ứng Hòa
- Phía Nam giáp xã Duy Minh – Duy Tiên – Hà Nam
- Phía Đông giáp xã Đại Xuyên – Phú Xuyên
*Địa hình

11


- Châu Can là xã thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ nên có địa hình tương
đối bằng phẳng. Ngoài ra Châu can còn có hai sông lớn chảy qua đó là sông
Nhuệ và song Duy Tiên nên rất thuận lợi cho việc cung cấp nước tưới, tiêu.
- Với diện tích tự nhiên 828.6ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 67.1%; và
độ pH trung bình 5,5-6,0; độ dày canh tác từ 18-20cm. địa hình bằng phẳng ,
thành phần cơ giới từ đất thịt nhẹ đến đất thịt trung bình rất phù hợp cho cây lúa
sinh trưởng phát triển cũng một só cây trồng khác như ngô, sđạu tương… . Do
vậy thu nhập của người dân ở Châu Can chủ yếu từ ngành trồng trọt.
3.1.3. Giao thông – thủy lợi
- Giao thông: với vị trị địa lý của xã nằm dọc theo quốc lộ 1A là tuyến
giao thông Bắc Nam, ngoài ra còn có các tuyến giao thông liên xã và các thôn
được bê tông hoá, đã giúp cho việc giao kinh tế, văn hóa trong vùng cũng như
với các vùng khác thuận lợi
- Thủy lợi: Trên địa bàn xã có 2 con sông Nhuệ và sông Duy Tiên chảy
qua, cùng với 6 trạm bơm với công suất lớn và hệ thống mương máng lớn nhỏ
nối với nhau tạo nên hệ thống tưới, tiêu thuận lợi giúp sản xuất ngày càng

phát triển. .
3.1.4. Khí hậu thời tiết
Châu Can là xã nằm trong khu vực đồng bằng bắc bộ nên khí hậu nơi
đây mang đặc trưng của vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Mùa đông lạnh kéo
dài từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10. Nhiệt
độ trung bình hàng năm khoảng 23-24o C. Lượng mưa trung bình khoảng
1400-1600mm/năm, song lượng mưa phân bố không đèu 70% vào mùa mưa,
30% vào mùa khô, vì vậy cần quan tâm đến chế độ làm đất cho cây trồng cạn
và tưới nước giai đoạn cuối của cây vụ đông. Độ ẩm không khí trung bình
trên 80% thuận lợi cho sư sinh trươbg của cây trồng, song cũng tạo điều kiện
cho sâu bệnh phát triển. Với điều kiện khí hậu vừa có nhiệt độ trung bình cao

12


lại có mùa đông lạnh, do vậy hệ thống cây trồng ở dây khá đa dạng phong phú
có trồng các cây có nguồn gốc nhiệt đới, Á nhiệt đới đến ôn đới. Đặc biệt là
rất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp trồng 2 vụ lúa 1 vụ đông.
3.1.5. Tình hình sử dụng đất của xã Châu Can
Trong sản xuất nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu ,đặc
biệt không thể thay thế được . Nó ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu mùa vụ, cơ
cấu cây trồng, từ đó ảnh hưởng đến đời sống người nông dân.
Tình hình sử dụng đất của xã Châu Can thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1: Tình hình sử dụng đất của xã Châu Can
TT
A
I

II
III

IV

Loại đất
Tổng diện tích đất tự nhiên
Đất nông nghiệp
Đất chuyển đổi làm trang trại
Đất 2 lúa
Đất trồng màu
Đất chuyển dùng trường học,

Diện tích (ha)
828.26
555.63
79.36
450.0
26.27
120.41

Tỷ lệ (%)
100
67.08
9.38
54.27
3.17
14.53

giao thông, thủy lợi
Đất thổ cư
35.88
4.33

Đất ao hồ
116.34
14.04
Qua bảng trên ta thấy đất nông nghiệp của xã Châu Can chiếm khoảng

2/3 diện tích đất tự nhiên và chủ yếu là đất trồng 2 vụ lúa. Vì thế cây lúa là
cây trồng đem lại nguồn thu nhập chính cho người nông dân trong xã.
3.1.6. Tình hình kinh tế
Cùng với xu hướng chung của xã hội, của cả nước, UBND xã Châu
Can rất chăm lo đến đời sống của người dân trong xã, nên đã không ngừng
đưa các tiến bộ khoa học ky thuật vào sản xuất nông nghiệp như giống cây
trồng mới, ky thuật thâm canh, công tác bảo vệ thực vật… Từ đó đời sống
nhân dân trong xã ngày càng nâng cao.
3.1.5. Điều kiện kinh tế, dân số và lao động của xã Châu Can
3.1.5.1 Điều kiện kinh tế và cơ cấu kinh tế của xã Châu Can

13


Bảng 2: chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn 2007 – 2010 (%)
Chỉ tiêu
Nông , lâm, thủy sản
Công nghiệp – TTCN - XDCB
Thương mại – dịch vụ

2007
57.57
12.45
29.98


2008
2009
2010
55.68
51.45
50.10
14.75
16.15
21.98
29.57
32.40
27.92
(Nguồn UBND xã Châu Can)

Châu Can là một xã phía Nam thành phố Hà Nội,có điều kiện tự nhiên
tương đối thuận lợi, được chia thành 9 thôn bao gồm Lễ Thượng, Bài Lễ, Cầu
Giẽ, Quán, Cổ Châu, Tư Can, Trung, Nội, Nghĩa Lập. Các thôn được nối với
nhau băng hệ thống đường xá thuận lợi, đường được bê tông hóa kiên cố,.
Nhân dân trong xã chủ yếu làm nghề nông, hiện nay với sự chuyển dịch của
nền kinh tế thị trường nên bộ mặt chung về nền kinh tế có nhiều thay đổi. Số
hộ kinh doanh trên toàn xã tăng mạnh từ năm 2006 tới nay, với các mặt hang
kinh doanh vô cùng đa dạng :như quần áo, tạp hóa, giầy dép…ngoài ra phát
triển nghề phụ cũng được chú trọng như nghề mộc, nghề dày da, mây che đan,
đan lưới. Đã và đang mang lại thu nhập lớn cho người dân.
• Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, các ngành công
nghiệp tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, thương mại đều tăng. Lĩnh vực nông
lâm thủy sản giảm (bảng 2).
Nguyên nhân của sự thay đổi trên là do tốc độ phát triển công nghiệp
hóa, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng cơ bản tăng nhanh so với phát triển các

nganh nông lâm ngư nghiêp.
* Thực trạng phát triển các ngành :
- Ngành nông, lâm, thủy sản : nét nổi bật trong thời gian qua là việc
sản xuất lương thực tăng đáng kể,về giá trị thực nhưng so với các ngành
khác thì ngành nông, lâm, ngư nghiệp và chăn nuôi tăng. Tổng sản lượng

14


lúa ngày càng tăng dần, từ 5143 tấn năm 2007 tăng lên 5300 năm
2010.bình quân lương thực đầu người 265 kg/ năm 2007 lên 294 kg/năm
2010. Trong sản xuất lương thực thì lúa chiềm 85 %-88% tổng sản lượng
còn lại là ngô và khoai tây.
+ Trồng cây phòng hộ (bóng mát)
Trong các năm qua phong trào trồng cây nơi công cộng như trên các
trục giao thông, nơi công sở, bãi ven sông…trong xã giảm mạnh nguyên
nhân là do mội số người dân trong xã chưa ý thức được ý nghĩa và lợi ích của
trồng cây.

chua nhận thức được trồng cây để cải tạo tiểu vùng khí hậu, làm

sạch môi trường, làm tăng giá trị thu nhập cho tập thể và xã viên. Ngoài ra
còn có những quan niệm lạc hậu như trồng cây ảnh hưởng đến đất cấy lúa,
ảnh hưởng tới giao thong nội đồng, nên không hưởng ứng hoặc còn có những
hành vi bẻ cành, chặt cây làm cho diện tích cây phòng hộ, cây bóng mát
không tăng và còn bị giảm. Do đó phong trào trồng cây lấy gỗ , cây ăn quả là
rất ít chỉ trồng được 10500 cây. Năm 2007 là 5000 cây,tới năm 2010 trồng
khoảng 10500 cây.
- Chăn nuôi : chăn nuôi phát triển mạnh trên địa bàn toàn xã. Nhưng do
dịch bệnh xảy ra đã làm giảm số lượng đàn gia súc gia cầm tại một số thời

điểm như năm 2003, 2005:
Tổng đàn trâu bò hàng năm có khoảng 90_100 con mục đích chăn nuôi
chủ yếu là cung cấp thực phẩm là chính, còn một phần bổ sung cho sức kéo
phục vụ cho làm đất, đàn lợn từ 11000 đến 13000 con, tổng lượng thịt hang
năm đạt từ 650- 700 tấn, giá trị trên 20 tỷ đồng,
Về chăn nuôi gia cầm ngày càng phong phú về chủng loại: vịt siêu
trứng, gà vườn, gà công nghiệp, ngan lấy trứng chất lượng ngày càng cao.
Hàng năm đẵ chăn nuôi được 40000-50000 con các loại đã cung cấp hang
ngàn tấn thực phẩm và hang triệu quả trứng mang lại thu nhập cho xã viên
hàng trục tỷ đồng. Ngoài ra chăn nuôi thủy sản cũng khá phát triển, các giống

15


cá mới lớn nhanh đã thay thế các giống cá cũ, các diện tích tận dụng thùng
đào, ao rãnh phục vụ cho sản xuất. thuỷ sản được HTX tận thu giao khoán
thầu tăng nguồn thu hàng năm là 149.061.900 đồng
* Xây dựng cơ bản – nạo vét nội đồng.
Hang năm trước khi bước vào mùa vụ sản xuất, do điều kiện thời tiết
nắng, hạn, HTX đã tiến hành nạo vét khơi thong dòng chảy các mương máng
vào các trạm bơm với khối lượng 500m 3. để phục vụ tưới tiêu, ngoài ra để
giao thong nội đồng được tốt hơn HTX đã đầu tư dải đất đá với khối lượng là
2939 m3.sửa chữa, nâng cấp.
Việc sửa chữa thường tập trung vào mùa khô, HTX cho tu sửa nâng
cấp hệ thống mương máng tưới, tiêu và giao thông nội đồng để thực hiện cơ
giới hóa vào sản xuất theo nghị quyết của đại hội HTX nhiệm kỳ 2006-2010
đã đề ra, tiến hành khảo sát, xây dựng kế hoạch tu sửa, nạo vétm đắp mới,
xây cống mới hang năm từ 5-6 cống, đào đắp từ 9000-11000 m3 ,tổ chức vớt
bèo,dọn cỏ các mương máng đản bảo tưới tiêu thuận lợi khối lượng từ 2000022000 m2 Tổng giá trị đầu tư xây dựng, nạo vét nội đồng hàng năm từ 450500 triệu đồng. Hiện nay công trình đang đưa vào sử dụng tốt.
3.1.5.2. Tình hình dân số và lao động xã Châu Can

* Tình hình dân số
Năm 2010 số dân của xã là 9255 nhân khẩu, mật độ dân số trung bình
1548,5 người /km2. Trong đó số người trong độ tuổi lao động là 4750 người ,
lao động trẻ chiếm 51.324 % dân số toàn xã, đây là một tỷ lệ rất có lợi tới tình
hình phát triển chung của thành phố.
* Lao động việc làm và mức sống.
Măc dù lực lượng lao động nhiều, nhưng tỷ lệ người có trình độ tay
nghề cao lại thấp. Tỷ lệ người có trình độ học vấn cao từ cao đẳng, đại học trở
lên của xã Châu Can tương đối cao so với mặt bằng chung toàn huyện Phú
Xuyên và cả nước. Bình quân đạt 21 người/ 1000 dân. Trong khi đó toàn

16


huyện là 19 người. Lao động trên địa bàn xã có trình độ chuyên môn , nghiệp
vụ chiếm tỷ lệ 18,54%. Nhìn chung, tư duy về nghề và học nghề chưa ngang
tầm với yêu cầu dịch vụ cơ cấu chuyển dịch kinh tế trong cơ chế kinh tế thị
trường cũng như trong công nghiệp hóa, hiên đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Đến nay, mức sống của người dân của xã còn thấp so với các xã khác.
Địa phương đã có nhiều cố gắng tạo công ăn việc làm cho nhân dân theo
chương trình vay vốn giải quyết việc làm, thành lập các hợp tác xã dịch vụ,…
Đã giải quyết được hàng trăm lao động có thêm việc làm trong giai đoạn tới
nếu thực hiện tốt công tác chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên quy mô mở rộng,
mở rộng nhiều mô hình thâm canh, luân canh để đạt được mục tiêu sản xuất
nông nghiệp đạt giá trị 50 triệu đồng/ha canh tác/năm, đồng thời giải quyết
được việc làm tại địa phương nâng cao được số người có công ăn việc làm
của xã,góp phần phát triển kinh tế ổn định chính trị xã hội nhất.
• Nhân khẩu, trình độ văn hóa và lực lượng lao động.

17



Bảng 3 : số nhân khâu, số người trong tuổi lao động và phân loại theo ngành sản xuất chính
SỐ HỘ, NHÂN KHẨU, SỐ NGƯỜI TRONG TUỔI LAO ĐỘNG VÀ PHÂN LOẠI HỘ THEO NGÀNH SẢN
XUẤT CHÍNH NGUỒNG THU NHẬP LỚN NHẤT TRONG 12 THÁNG QUA TÍNH ĐẾN 01/07/2006
Đơn vị: Châu Can Mã số ĐV: 10 348
TT

Chỉ tiêu

1

Tổng số nhân khẩu
(ng)
Só người trong độ
tuổi LĐ
Tổng số hộ
Hộ nông nghiệp
Hộ lâm nghiệp
Hộ thủy sản
Hộ công nghiệp
Hộ xây dựng
Hộ thương nghiệp
Hộ vận tải
Hộ dịch vụ khác
Hộ khác
Phân loại hộ theo
thu nhập lớn nhất
Từ Nông – Lâm và
Thủy sản

Từ Công nghiêpXây dựng
Từ các ngành dịch
vụ
Từ nguồn khác

2
3
3.1
3.2
3.3
3.4
3.5
3.6
3.7
3.8
3.9
4
4.1
4.2
4.3
4.4

Toàn xã
Số

lượng cấu
%

Lễ thượng
Số


lượng cấu
%

Bài lễ
Số

lượng cấu
%

Cầu giẽ
Số

lượng cấu
%

Quán thôn
Số

lượng cấu
%

Chia theo các thôn
Cổ châu
Tư can
Số

Số

lượng cấu lượng cấu

%
%

Trung thôn
Số

lượng cấu
%

Nội thôn
Số

lượng cấu
%

Nghĩa lập
Số

lượng cấu
%

8703

440

2011

449

308


1645

1604

459

438

1349

4665

272

1056

247

160

915

823

222

227

743


2262
1011
0
175
489
114
128
40
153
152

100
44.7
0
7.8
21.6
5.0
5.6
1.8
6.8
6.7
100

102
32
0
14
21
29

4
1
1
0

100
31.4
0
13.8
20.6
28.5
3.9
0.9
0.9
0
100

604
293
0
63
113
4
41
17
13
60

100
48.5

0
10.4
18.7
0.7
6.7
2.9
2.2
9.9
100

112
23
0
1
13
3
24
8
37
2

100
20.5
0
0.9
11.6
2.6
21.4
7.2
3.3

2.8
100

79
39
0
3
22
0
4
0
7
4

100
49.3
0
3.9
27.9
0
5
0
8.9
5
100

408
181
0
10

124
29
4
3
40
17

100
44.3
0
2.4
30.5
7.1
0.9
0.7
9.8
4.3
100

419
143
0
29
128
21
24
6
23
45


100
34.1
0
7
30.5
5
5.8
1.4
5.4
10.8
100

108
50
0
15
9
13
6
1
14
0

100
46.3
0
13.9
8.3
12
5.6

0.9
13
0
100

115
39
0
8
33
10
5
0
5
15

100
33.9
0
7
28.7
8.7
4.3
0
4.4
13
100

315
211

0
32
26
5
16
4
13
8

100
66.9
0
10.2
8.3
1.6
5
1.3
4.2
2.5
100

1163

50.9

46

45

356


58.9

24

21.4

42

53

191

46.8

172

41.0

64

59

47

40.9

221

70


609

27.8

50

49.2

117

19.4

15

13.4

22

27.8

153

37.5

149

35.6

23


21.4

43

37.4

37

11.8

312

13.2

6

5.8

71

11.8

70

62.5

11

14.2


47

11.5

53

12.5

8

7.6

10

8.7

36

11.5

178

8.1

0

0

60


9.9

3

2.7

4

5

17

4.2

45

10.8

13

12

15

13

21

18



Số nhân khẩu, trình độ văn hóa của lực lượng lao động là yếu tố cơ bản
quyết định khả năng tham gia các hoạt động sản xuất để phát triển kinh tế
nông hộ. Ngoài ra độ tuổi trung bình của chủ hộ cho phép dụ đoán tính trẻ,
mức độ năng động và mạnh dạn của chủ hộ trong thực hiện việc chuyển đổi
cơ cấu cây trồng, chuyển cơ cấu kinh tế của nông hộ.
Kết quả điều tra nông hộ cho thấy: về trình độ văn hóa cũng như độ
tuổi trung bình của chủ hộ cho thấy : về trình độ văn hóa cũng như độ tuổi lao
động của thôn Cổ Châu có trình độ văn hóa cao nhất.
Về nhân khẩu : cũng như tình hình chung ở các vùng trong huyện số
nhân khẩu trong toàn thôn cổ Châu cao hơn so với số nhân khẩu toàn huyện.
3.1.5.3 Cơ sở vật chất phục vụ cho sản xuất
Hoạt động sản xuất nông nghiệp trên địa bàn xã ngày càng được trang
bị bằng các máy móc, tiến tới hiên đại hóa nông nghiệp. Các máy thường
dùng trong sản xuất nông nghiệp như: ô tô, công nông, máy cày, máy phụt,
máy tuốt, máy xay sát, máy nghiền…vv. Ngoài ra trong chế biến các sản
phẩm công nghiệp có rất nhiều loại máy móc hộ trợ: máy cưa, máy sẻ,
khoan… Bên cạnh đó là hệ thống đường xá được bê tông hóa kiên cố, những
đoạn đường được trải nhựa. Đây là điều kiện thúc đẩy quá trình hiện đại hóa
nền nông nghiệp trong nước nói chung và trên địa bàn xã nói riêng.
Các hoạt động khuyến nông phù hợp, đó là đưa các tiến bộ mới vào sản
xuất các mô hình cấy lúa theo trương trình 3 giảm 3 tăng, đưa các giống lúa
lai vào gieo trồng. Nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp.

19


Bảng 4. Cơ sở vật chất phục vụ cho sản xuất của xã Châu Can
Chỉ tiêu

Thôn

Bài lễ
Cầu giẽ
Lễ thượng
Quán thôn
Cổ châu
Tư can
Thôn trung
Thôn nội
Nghĩa lập

Mấy cày
(chiếc/thôn)

Công nông
(Chiếc/thôn)

06
03
04
02
03
03
02
03
03

05
03

02
0
03
02
0
0
02

Máy cưa
(chiếc/thôn)

Máytuốt lúa
Máy sát gạo
(Chiếc/thôn) (Chiếc/thôn)

15
04
07
04
02
03
05
08
02
01
04
01
06
12
03

16
09
04
03
06
02
02
05
02
05
08
03
(Nguồn UBND xã Châu Can)

3.2. Điêu tra xu hướng sản xuất nông nghiệp giai đoạn 2007 – 2010
3.2.1. Diện tích, năng suất, sản lượng cây trồng chủ yếu của xã.
Tổng diện tích gieo cấy hàng năm trung bình biến động từ 10. 296,24ha
– 11161,10 ha ; vụ xuân gieo cấy vụ xuân là 450.48 ha, vụ mùa gieo cấy
450.81 ha. Diện tích trồng cây vụ đông là 333.334 – 364.81 ha. Trong đó chủ
lực là cây đậu tương với diện tích gieo trồng hàng năm là 277.77 – 296.34
ha,còn lại là ngô, dưa chuột, bầu bí.
Bảng 5. Hiện trạng giống cây trồng xã Châu Can
Loại cây trồng
Lúa
Ngô
Đậu tương
Bầu, bí
Lạc

Tên giống cây trồng


Năng suất
(tạ/ha)
Nhị ưu 838, Q5, KD18, nếp
63.5
LVN10, LVN14, P11
54
DK03, DT96, DT84
21.3
Bí xanh, F1-125, Bí đỏ
221,5
L12, Seu, gié
40
( Nguồn UBND xã Châu Can )

Qua bảng 4.9 cho thấy hiện có nhiều loại cây trồng ngắn ngày phổ biến
là lúa, đậu tương, ngô, lạc, bầu bí. Năng suất của lúa đạt 63.5 tạ/ha, ngô đạt
54 tạ /ha, đậu tương 21.3 tạ/ha, lạc 40 tạ ha. Đây là mức năng suất khá cao so
với các vùng sản xuất trong huyện.

20


• Cơ cấu giống lúa
Giống là yếu tố quan trọng quyết định trực tiếp đến năng suất của cây
trồng và hiệu quả sản xuất của hệ thống cây trồng, thời gian sinh trưởng và
đặc điểm sinh vật học của từng giống có quan hệ chặt chẽ với việc bố trí công
thức luân canh.
Vấn đề cơ cấu giống cây trồng là yếu tố rất quan trọng trong sản xuất nông
nghiệp. Nó quyết định năng suất, chất lượng, sản lượng của cây trồng. Nên xã

Châu Can đã luôn bố trí những cây trồng có tính thích ứng với địa phương
cao làm cây trồng chủ lực.
Bảng 6: Cơ cấu giống lúa của xã Châu Can từ năm 2006 – 2010
Cơ cấu
giống trong
năm
Vụ xuân
Lai 838
KD
Nếp+giống
khác
Vụ mùa
KD
Q5
Nếp+giống
khác

2006
DT Tỷ
(ha) lệ
(%)
450 100
90 20
315 70
45 10

Từ năm 2006 – 2010
2007
2008
2009

2010
DT Tỷ DT Tỷ DT Tỷ DT Tỷ
(ha) lệ (ha) lệ (ha) lệ (ha) lệ
(%)
(%)
(%)
(%)
450 100 450 100 450 100 450 100
180
40 225 50 220
50 270
60
225
50 180 40 135
30
90
20
45
10
45 10
90
20
90
20

450 100
270 60
135 30
45 10


450
225
180
45

100
50
40
10

450 100
225 50
135 30
90 20

450
225
90
135

100
50
20
30

450
270
45
135


100
60
10
30

(Nguồn: HTX Châu Can)
Qua bảng trên ta thấy cơ cấu các giống lúa thay đổi theo từng năm,
từng giống trồng thích hợp với thời vụ cho hiệu quả kinh tế cao. Ví dụ: Lúa
lai 838 ở vụ xuân được tăng dần theo từng năm (năm 2006 có 20% đến năm
2010 là 60%). Còn những giống không phù hợp thì được bố trí ngày một giảm
như giống khang dân 18 vụ xuân (năm 2006 là 70% - năm 2010 là 20%).

21


Giống Q5 vụ mùa (năm 2006 là 30% đến năm 2010 còn 10%).
Được sự chỉ đạo của phòng nông nghiệp huyên Phú Xuyên cùng với
sự lãnh đạo của Đảng ủy , ủy Ban xã Châu Can. Đặc biệt là sự chỉ đạo trực
tiếp của Ban quản lý HTX nông nghiệp Phú Nghĩa xã Châu Can- Phú
Xuyên- Hà Nội. lên năng xuất sản lượng lúa của xã nhưng năm qua không
ngừng tăng lên và ổn định. Góp phần cải thiên đời sống nhân dân trong xã.
Được thể hiện qua bảng:
Bảng 7: Năng suất sản lượng lúa của xã Châu Can từ năm 2007 – 2010
Năm

Diện tích (ha)

2007
2008
2009

2010

450
450
450
450

Năng suất
Sản lượng (tấn)
(tấn/ha)
13.7
6075
13.8
6165
14.0
6365
14.5
6510
( Nguồn UBND xã Châu Can cung cấp )

Qua bảng số liệu trên cho ta thấy năng suất, sản lượng của xã Châu Can
không ngừng tăng (Năm 2007 năng suất lúa là 13.7 tấn /ha/năm sản lượng lúa
6075 tân/năm. Năng suất lúa năm 2010 là 14.5 tấn/ha/năm , sản lượng lúa là
6510 tấn /năm. Đạt được kết quả này là sự áp dụng tiến bộ khoa học ky thuật
vào sản xuất như đua các giống mới có tiềm năng năng suất cao, chống chịu
sâu bệnh tốt , chịu thâm canh, cơ cấu giống cây trồng thích hợp, quy trình
thâm canh phù hợp và nhất là công tác bảo vệ thực vật được chú trọng. Nên
đã cho năng suất , sản lượng lúa bình quân cả năm không ngừng tăng cao góp
phần năng cao đời sống nhân dân trong xã.
* Lượng phân bón cho lúa trong các năm 2007 – 2010

Phân bón là yếu tố quan trong và rất cần thiết cho sự sinh trưởng và
phát triển của cây lúa. Vì thế HTX Châu Can đã xây dựng quy trình ky thuật
và liều lượng bón cho cây lúa qua cá năm sau:
Bảng 8: Mức độ phân bón cho lúa của xã Châu Can (tạ/ha)

22


Chỉ tiêu
Loại phân
Phân chuồng
Phân U rê
Phân Lân

2007
5.4 – 8.1
1.08 - 1.62
2.7 – 3.24

Năm
2008
2009
2010
5.4 – 8.1
5.4 – 8.1
5.4 – 8.1
1.08 - 1.62 1.35 – 1.89 1.62 – 2.16
2.7 – 3.24 2.7 – 4.05 2.7 – 4.05

Ghi chú

Tạ/ha
Tạ/ha
Ta/ha

Qua bảng số liệu trên ta thấy mức độ bón phân ngày càng được chú
trọng hơn để đảm bảo cung cấp đầy đủ cân đối các yếu tố dinh dưỡng , tạo
điều kiện cho cây lúa sinh trưởng phát triển tốt hơn.
* Tình hình sâu bệnh hại từ năm 2006 – 2010
Qua điều tra tìm hiểu tình hình sâu bệnh hại trên lúa của xã Châu Can
từ năm 2006 – 2010 cụ thể như sau:
Bảng 9: Tình hình sâu bệnh chính gây hại lúa từ năm 2006-2010 tại xã
Châu Can
TT

Các loại sâu
bệnh gây hại
2006
1
Sâu đục thân
++
2
Sâu cuốn lá
++
3
Bọ xít đen
+
4
Rày
++
5

Bệnh đạo ôn
+
6
Bệnh khô vằn
++
7
Bệnh bạc lá
++
8
Bệnh đốm sọc
+
9
Bệnh đốm nâu
+
10 Bệnh tiêm lửa
+
11 Bệnh hoa cúc
+
(Nguồn: HTX Châu Can)

Mức độ gây hại trong các năm
2007
2008
2009
++
+++
+
++
++
++

++
+
+
++
++
++
++
++
+
+++
+++
+++
+
++
+++
++
++
+
++
+
+
+
+
+
+
+
+

2010
++

+++
++
+++
++
+++
++
++
++
+
+

Qua bảng trên cho thấy mức độ gây hại của các đối tượng trong các
năm thường khác nhau, từ mức độ nặng đến nhẹ. Nhưng riêng đối với bệnh
khô vằn thì mức độ gây hại của chúng trong các năm đều ở mức độ gây hại
nặng là phổ biến.
3.2.2. Một số giống cây trồng sử dụng phổ biến tại xã Châu Can

23


Hiện nay trên địa bàn xã có rất nhiều loại cây trồng, trong đó cây lúa
vẫn chiếm một diện tích khá lớn khoảng 85%. Các cây trồng như ngô, lạc,
đậu tương, các loại rau màu khác chiếm một diên tích khá nhỏ khoảng 15%.
Diện tích trồng cây ăn quả và cây lâu năm hiện chưa được chú trọng cho nên
diện tích nhỏ hẹp, độ che phủ hàng năm bị giảm dần, cân bằng sinh thái bị
phá vỡ.
Các cây trồng phổ biến là bạch đàn, phi lao, là những cây trồng với số
lượng lớn. Được trồng nhiều trên các diện tích kênh mương máng tưới tiêu,
một phần nhỏ trồng ở các trang trại, diện tích vườn ươm. Nói về cây bóng mát
được trồng nhiều là bàng, lim , xà cừ...tăng độ che phủ bề mặt hàng năm lên

gần 2% nhưng diện tích này chỉ tập chung nhiều trồng ở các trường học, các
khuôn viên nhỏ hẹp.
Với nền kinh tế thị trường hiện nay bà con nhân dân trong xã cũng chú
trọng nhập và trồng nhưng loại cây trồng có giá trị kinh tế cao như: mít cao
sản, bưởi diễn, hồng xoài... thu nhập hàng trăm triệu đồng năm. Nhìn chung
cây trồng trên địa bàn xã đa dạng nhưng do diện tích đất nông nghiệp ngày
càng thu hẹp nên để mở rộng diện tích cây trồng là rất khó đòi hỏi phải có quy
hoạch tổng thể và có tính chất lâu dài của huyện.
3.3 Một số gải pháp phát triển hệ thống cây trồng giai đoạn 2011-2015
3.3.1 Giải pháp về giống
Trong những nhiệm kỳ tới, hàng vụ hàng năm chúng ta đều gieo trồng
đạt và vượt kế hoạch đề ra. Cỏ cấu giống lúa được đổi mới và đã được khẳng
định được bộ giống có năng suất cao, chất lượng phù hợp, và ổn định trên
đồng đất Châu Can như những giống lúa lai nhị ưu 838, nếp mộc tuyền, nghi
hương, đậu tương DT 84. Ngoài việc xác định cơ cấu giống lúa , mùa vụ, ban
quản trị còn làm tốt công tacs tuyên truyền , phổ biến các quy trình ky thuật
thâm canh,chỉ đạo tổ ky thuật làm tốt việc điều tra. Dự tính dụ báo các đối

24


tượng sinh vật gây hại, ra thoongbaos kịp thời phòng trừ đạt hiệu quả hạn chế
thấp nhất thiệt hại do các đối tượng sâu, bệnh hại gây ra.
3.3.2 Giải pháp về phân bón
Tình hình sử dụng phân bón hiện nay trên địa bàn xã còn nhiều bất
cập. Nhất là hiện nay lượng phân hưu cơ để sử dụng bón cho lúa rất thiếu
do các hộ chăn nuôi sử dụng các mô hình tiên tiến như: làm bể biogas, mô
hình vườn ao chuồng. Do đó để thay thế cho lượng phân thiếu hụt đó cần
bón cho cây trồng các loại phân vi sinh, ngâm ủ các loại lá cây, rơm dạ làm
phân bón cho cây.

Tập huấn cho bà con nông dân các ky thuật mới về cách bón phân thay
thế cho những phương pháp cổ truyền, lạc hậu. bón cân đối cho cây trồng.
Hạn chế rưả trôi sói mòn đất, làm tăng năng suất cây trồng.
Luân canh cây trồng với các cây họ đậu làm tằng độ phì cho đất, tỗng
hợp được các chất hưu cơ do quá trình cố định đạm của vi khuẩn nốt sần.
3.3.3 Giải pháp về dồn điền đổi thửa
Thực hiện chính sách dòn điền đổi thửa cuả nhà nước, cánh đồng 50
triêu. Được sự lãnh đạo của Đảng ủy, hội đồng nhân dân xã năm 2003 toàn
HTX đã dồn diền dổi thửa thành công toàn diện tích cáy lúa, những diện tích
đất trũng sâu đã đổi sang mô hình trang trại như các thôn Tư Can, Thôn Bai
Lễ, Thôn Nội với diện tích 79.36 ha. Quy hoạch tổng thể diện tích toàn xã tới
năm 1020.
3.3.4 Giải pháp về vốn
Chính sách của Đảng và nhà nước hỗ trợ vốn và cho nông dân vay vốn
là rất thiết thực đem lại nguồn vốn kịp thời cho người dân sản xuất. Người
dân có thể vay vốn từ ngân hàng phát triển nông nghiệp nông thôn, các nguồn
vốn dải ngân làm điện nước, các nguồn vốn do nông dân tự đóng góp, các dự
án về cấp nước sạch... Dải ngân hàng năm cho nông dân vay vốn hàng trục tỷ

25


×