Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tiểu luận Chủ nghĩa xã hội khoa học “Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.37 KB, 19 trang )

1.

Đặt vấn đề

Lịch sử phát triển của xã hội có giai cấp là đấu tranh giai cấp. Trong mỗi
thời kỳ chuyển biến cách mạng từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh
tế xã hội khác cao hơn luôn có một giai cấp đứng ở vị trí trung tâm, đó là giai cấp
cách mạng, đóng vai trò là động lực chủ yếu, là lực lượng lãnh đạo quá trình
chuyển biến đó. Giai cấp cách mạng này có sứ mệnh lịch sử là thủ tiêu xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới phù hợp với tiến trình phát triển khách quan của lịch sử.
Trên cơ sở phân tích quy luật kinh tế của sự vận động trong xã hội tư bản
chủ nghĩa, chủ nghĩa Mac - Lênin đã làm sáng tỏ tính tất yếu diệt vong của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự ra đời tất yếu của phương thức cộng sản chủ
nghĩa mà lực lượng duy nhất có sứ mệnh lãnh đạo cuộc cách mạng thực hiện bước
chuyển lịch sử này chính là giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền công nghiệp hiện đại, lực lượng đại
biểu cho sự phát triển của lực lượng sản xuất tiến bộ, cho xu hướng phát triển của
phương thức sản xuất tương lai; do vậy, về mặt khách quan, giai cấp có sứ mệnh
lịch sử lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh xóa bỏ mọi chế độ áp bức bóc lột và
xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Để hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân nhất định
phải tập hợp được các tầng lớp nhân dân lao động, tiến hành cuộc đấu tranh cách
mạng xóa bỏ xã hội cũ và xây dựng xã hội mới về mọi mặt kinh tế, chính trị và văn
hóa, tư tưởng. Đây là một quá trình lịch sử hết sức lâu dài và khó khăn.
Trong giai đoạn hiện nay, công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang
diễn ra trên toàn thế giới, chủ nghĩa xã hội đang ở trong thời kỳ thoái trào, có nhiều
trào lưu, tư tưởng mới, cũng có không ít những điều đưa ra để “bàn lại” về sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Hiện nay vẫn đang là thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới và vẫn còn nhiều biến
động lẫn tiêu cực nên việc làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
trong bối cảnh lịch sử mới đang được đặt ra một cách bức thiết trên cả lý luận và


thực tiễn, do đó em xin chọn đề tài “Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp
công nhân” để làm bài viết thu hoạch của mình.

1


2.

Nội dung

2.1. Phần lý luận
2.1.1. Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp
công nhân
2.1.1.1. Quan niệm về giai cấp công nhân
C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng nhiều thuật ngữ khác nhau: giai cấp vô sản,
giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ dựa vào việc bán sức lao động của mình, lao động
làm thuê ở thế kỷ XIX, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai
cấp công nhân đại công nghiệp... như những cụm từ đồng nghĩa để biểu thị một
khái niệm giai cấp công nhân - con đẻ của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa,
giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện
đại.
a. Giai cấp công nhân trong chế độ tư bản chủ nghĩa
Giai cấp công nhân là giai cấp sản xuất vật chất là chủ yếu, “là sản phẩm” và
“là chủ thể” của nền “đại công nghiệp”; C.Mác viết: “Giai cấp vô sản là do cuộc
cách mạng công nghiệp sinh ra”.
Giai cấp công nhân là giai cấp lao động bằng phương thức công nghiệp; là
lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại, lao động của họ quyết định tồn tại của
xã hội hiện đại và là nguồn gốc của sự giàu có của giai cấp tư sản.
Đặc điểm về sở hữu: công nhân “không có tư liệu sản xuất, buộc phải bán
sức lao động cho nhà tư bản để sống”, phục thuộc vào quá trình sản xuất tư bản

chủ nghĩa; bị bóc lột giá trị thặng dư; có lợi ích cơ bản đối lập với lợi ích của giai
cấp tư sản, đồng thời phù hợp với lợi ích cơ bản của giai cấp, tầng lớp khác; có hệ
tư tưởng riêng là chủ nghĩa Mác-Lênin, trở thành giai cấp tự giác khi có Đảng
Cộng sản, có bản chất quốc tế và bản sắc dân tộc.
b. Giai cấp công nhân trong chế độ tư bản đương đại
Một mặt, giai cấp công nhân vẫn magn bản chất và những đặc điểm truyền
thống: đại diện cho lực lượng sản xuấ tiên tiến nhất, đi đầu đấu tranh chống chủ
nghĩa tư bản hiện đại; vẫn bị bóc lột giá trị thặng dư nặng nề; mang bản chất quốc
tế rõ nét trong toàn cầu hóa kinh tế.
2


Mặt khác, giai cấp công nhân có thêm một số biểu hiện mới do tác động của
sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại và những điều chỉnh của quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa: một bộ phận lớn công nhân được trí tuệ hóa với tri thức và kỹ
năng lao động cao, luôn gắn bó với cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại; ở
một số nước tư bản phát triển một bộ phận công nhân có mức sống trung lưu hóa,
có cổ phần và tham dự vào quá trình chia sẻ lợi nhuận; một bộ phận được lôi kéo
vào nhiều tổ chức ngoài công nhân…
Những biểu hiện mới đó không làm thay đổi địa vị và đặc điểm cơ bản của
giai cấp công nhân. Địa vị của giai cấp công nhân vẫn là lực lượng sản xuất hàng
đầu, giai cấp quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội hiện đại, là giai cấp bị
trị, bóc lột trong xã hội tư bản.
c. Giai cấp công nhân trong chế độ xã hội chủ nghĩa
Giai cấp công nhân trong chế độ xã hội chủ nghĩa cũng là lực lượng sản xuất
hàng đầu, là giai cấp tiên tiến nhất, năng suất lao động cao, đóng góp phần quan
trọng nhất cho tăn trưởng tổng sản phẩm trong nước và là giai cấp đại biểu cho các
dân tộc đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, giai cấp công
nhân trong chế độ xã hội chủ nghĩa có sự khác biệt về chất khi trở thành giai cấp
lãnh đạo dân tộc:

- Giai cấp công nhân thông qua vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trở
thành người lãnh đạo dân tộc; là cơ sở xã hội quan trọng nhất của chế độ xã hội
chủ nghĩa, đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Quyền làm chủ xã hội của giai cấp công nhân và nhân dân được thực hiện chủ yếu
qua Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Cùng với nhân dân lao động làm chủ và sử dụng những tư liệu sản xuất chủ
yếu. Phương thức phân phối theo lao động và phúc lợi xã hội, nguyên tắc công
bằng, bình đẳng… là những nguyên tắc đảm bảo lợi ích chính đáng của giai cấp
công nhân.
- Giai cấp công nhân là hạt nhân của khối liên minh công – nông – tri thức
và đoàn kết dân tộc.
- Hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là hệ giá trị chủ đạo của đời sống văn
hóa tư tưởng xã hội.
3


2.1.1.2. Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân
Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân là tổ chức lãnh đạo xã
hội thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản để đấu tranh giải phóng mình và
giải phóng toàn xã hội khỏi mọi áp bức, bất công, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây
dựng chủ nghĩa cộng sản.
- Nội dung kinh tế: giai cấp công nhân trở thành lực lượng sản xuất cơ bản
và là giai cấp quyết định tồn tại xã hội hiện đại và qua đó tạo cơ sở vất chất cho sự
ra đời của xã hội xã hội chủ nghĩa.
- Nội dung chính trị: dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp công
nhân cùng với nhân dân lao động tiến hành đấu tranh giành chính quyền, xã lập,
bảo vệ và phát triển chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân.
- Nội dung văn hóa – tư tưởng: giai cấp công nhân đấu tranh với hệ tư tưởng
phi vô sản, xác lập địa vị thống trị của hệ tư tưởng giai cấp công nhân, xây dựng
nền văn hóa và con người mới…

Có thể nói nội dung sứ mệnh của giai cấp công nhân bao gồm bốn sự nghiệp
đó là: sự nghiệp giải phóng giai cấp; sự nghiệp giải phóng xã hội, dân tộc; sự
nghiệp giải phóng người lao động và sự nghiệp giải phóng con người. Đây chính là
nấc thang phát triển trong sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội. Sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân phải được thực hiện trên toàn thế giới và trải qua quá
trình lâu dài, gian khổ, phức tạp, nên phải kiên trì, không nóng vội và quá trình này
được tiến hành qua hai giai đoạn: tập trung lực lượng để giành chính quyền và tập
trung lực lượng để xây dựng chế đội xã hội mới.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, con đường để giai cấp công nhân thực hiện sứ
mệnh lịch sử của mình đó chính là phải tiến hành cuộc cách mạng không ngừng và
triệt để qua hai giai bước:
- Bước thứ nhất: “Giai cấp vô sản chiếm lấy chính quyền nhà nước và biến
tư liệu sản xuất trước hết thành sở hữu nhà nước”.
- Bước thứ hai: “…giai cấp vô sản cũng tự thủ tiêu với tư cách là giai cấp vô
sản, chính vì thế mà nó cũng xóa bỏ mọi sự phân biệt giai cấp và mọi sự đối kháng
giai cấp”; nó lãnh đạo nhân dân lao động thông qua chính Đảng của nó, tiến hành
tổ chức xây dựng xã hội mới – xã hội chủ nghĩa.
4


Hai bước này quan hệ chặt chẽ với nhau, giai cấp công nhân không thực hiện
được bước thứ nhất thì cũng không thực hiện được bước thứ hai nhưng bước thứ
hai là quan trọng nhất để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
2.1.2. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử toàn thế
giới của giai cấp công nhân
Luận thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đã được C.Mác và
Ph.Ăngghen trình bày sâu sắc trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Trong tác
phẩm này các ông đã chỉ rõ các điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân.
- Do địa vị kinh tế - xã hội khách quan: giai cấp công nhân là giai cấp gắn

với lực lượng sản xuất tiên tiến nhất dưới chủ nghĩa tư bản. Và với tính cách như
vậy, nó là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sau khi
giành chính quyền, giai cấp công nhân, đại biểu cho sự tiến bộ của lịch sử, là người
duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây dựng một phương thức sản xuất mới cao
hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
- Giai cấp công nhân, con đẻ của nền sản xuất công nghiệp hiện đại, được rèn
luyện trong nền sản xuất công nghiệp tiến bộ, đoàn kết và tổ chức lại thành một lực
lượng xã hội hùng mạnh. Bị giai cấp tư sản áp bức, bóc lột nặng nề, họ là giai cấp
trực tiếp đối kháng với giai cấp tư sản và xét về bản chất họ là giai cấp cách mạng
triệt để nhất chống lại chế độ áp bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa. Điều kiện sinh hoạt
khách quan của họ quy định rằng, họ chỉ có thể tự giải phóng bằng cách giải phóng
toàn xã hội khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy, họ không mất
gì ngoài xiềng xích và được cả thế giới về mình.
- Địa vị kinh tế - xã hội khách quan không chỉ khiến cho giai cấp công nhân
trở thành giai cấp cách mạng triệt để nhất mà còn tạo cho họ khả năng làm việc đó.
Đó là khả năng đoàn kết thống nhất giai cấp, khả năng đạt tới sự giác ngộ về địa vị
lịch sử của khả năng hành động chính trị để từng bước đạt mục tiêu cách mạng. Đó
là khả năng đoàn kết các giai cấp khác trong cuộc đấu tranh chống tư bản. Đó là
khả năng đi đầu trong cuộc đấu tranh của toàn thể dân lao động và của dân tộc vì
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là khả năng đoàn kết toàn thể giai cấp
vô sản và các dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế theo chủ nghĩa quốc tế vô sản.
5


Lịch sử thế giới đã chứng minh những kết luận C.Mác, Ph.Ăngghen và
V.I.Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là đúng đắn. Tuy nhiên, cuộc
đấu tranh của giai cấp công nhân nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình
không phải diễn ra một cách bằng phẳng, thuận buồm xuôi gió.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân tuy đang đứng trước những thử
thách hết sức nặng nề, nhưng xem xét toàn cảnh của sự phát triển xã hội, giai cấp

công nhân, lực lượng sản xuất tiến bộ vẫn đang chuẩn bị những tiền đề khách quan
cho thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình dù có trải qua những bước thăng trầm,
quanh co, nhưng nó vẫn tiếp tục diễn ra theo quy luật khách quan của lịch sử.
Đúng là ở những nước tư bản phát triển, đời sống của một bộ phận không nhỏ
trong giai cấp công nhân đã được cải thiện, có thu nhập cao; một bộ phận công
nhân ở các nước trên đã có mức sống “trung lưu hóa”, song điều đó không có
nghĩa là công nhân ở các nước ấy không còn bị bóc lột hoặc bị bóc lột không đáng
kể.
Một thực tế đã, đang và còn tồn tại ngày càng sâu sắc ở các nước tư bản phát
triển, đó là sự bất công, bất bình đẳng và thu nhập càng cách xa giữa giai cấp tư
sản với giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Dù có cố gắng tìm cách “thích
nghi” và mọi biện pháp xoa dịu nhưng giai cấp tư sản không thể khắc phục được
mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Thực tế, cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân vẫn diễn ra ở các nước tư bản chủ nghĩa dưới nhiều hình thức phong phú, với
những nội dung khác nhau.
2.1.3. Điều kiện chủ quan cơ bản để giai cấp công nhân thực hiện sứ
mệnh lịch sử toàn thế giới
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất hiện một cách khách quan, song,
để biến khả năng khách quan đó thành hiện thực thì phải thông qua những nhân tố
chủ quan. Trong những nhân tố chủ quan ấy, việc thành lập ra Đảng Cộng sản
trung thành với sự nghiệp, lợi ích của giai cấp công nhân là yếu tố quyết định nhất
đảm bảo cho giai cấp công nhân có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.

6


2.1.3.1. Sự phát triển của giai cấp công nhân
Ngay từ khi mới hình thành trong xã hội tư bản chủ nghĩa, bản thân giai cấp
công nhân đã không ngừng hoạt động và trưởng thành từng bước về số lượng và
chất lượng.

Về số lượng chẳng những ngày càng tăng lên rất rõ rệt ở tất cả các nước, kể cả
trong "kinh tế tri thức" hiện nay, mà còn đa dạng hơn về cơ cấu các loại công nhân
với nhiều ngành nghề ngày càng phong phú, phát triển, tinh vi hơn. Theo Tổ chức
lao động Quốc tế (ILO) thì: từ năm 1900, toàn thế giới có 80 triệu công nhân; đến
năm 1990, thế giới đã có hơn 600 triệu công nhân và đến 1998 đã có 800 triệu
công nhân...
Về chất lượng, bản thân giai cấp công nhân luôn có sự nâng cao về học vấn,
về khoa học công nghệ và tay nghề; từ hoạt động kinh tế, đấu tranh kinh tế trước
mắt, đã từng bước hoạt động chính trị, đấu tranh chính trị, thông qua các tổ chức
nghiệp đoàn, công đoàn, từng bước có ý thức giai cấp, giác ngộ giai cấp và cao
nhất là dẫn đến hình thành đảng tiên phong là đảng cộng sản. Khi đó, theo chủ
nghĩa Mác-Lênin, giai cấp công nhân đã từ chỗ là “giai cấp tự nó” (tức là chưa có ý
thức giác ngộ giai cấp) đến chỗ là “giai cấp vì nó” (tức giai cấp tự giác).
Vì thế, giai cấp công nhân trở thành cơ sở chính trị căn bản nhất của Đảng
Cộng sản.
2.1.3.2. Sự hình thành và phát triển Đảng của giai cấp công nhân là quy
luật tất yếu
Chỉ khi nào giai cấp công nhân đạt tới trình độ tự giác bằng việc tiếp thu lý
luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin thì phong trào cách mạng
của nó mới thật sự là một phong trào chính trị. Trình độ lý luận đó cho phép giai
cấp công nhân nhận thức được vị trí, vai trò của mình trong xã hội, nguồn gốc tạo
nên sức mạnh và biết tạo nên sức mạnh đó bằng sự đoàn kết, nhận rõ mục tiêu, con
đường và những biện pháp giải phóng giai cấp mình, giải phóng cả xã hội và giải
phóng nhân loại.
Phải có chủ nghĩa Mác soi sáng, giai cấp công nhân mới đạt tới trình độ nhận
thức lý luận về vai trò lịch sử của mình. Sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác vào
phong trào công nhân dẫn đến sự hình thành chính đảng của giai cấp công nhân.
7



V.I. Lênin chỉ ra rằng, Đảng là sự kết hợp phong trào công nhân với chủ nghĩa xã
hội khoa học. Nhưng trong mỗi nước, sự kết hợp ấy là sản phẩm của lịch sử lại
được thực hiện bằng những con đường đặc biệt, tuỳ theo điều kiện không gian và
thời gian. Ở nhiều nước thuộc địa, nửa thuộc địa, chủ nghĩa Mác thường kết hợp
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước thành lập ra đảng cộng sản.
Từ thực tiễn lịch sử ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Chủ nghĩa
Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới
việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930.
Chỉ có Đảng Cộng sản lãnh đạo, giai cấp công nhân mới chuyển từ đấu tranh
tự phát sang đấu tranh tự giác trong mỗi hành động với tư cách một giai cấp tự giác
và thực sự cách mạng. C.Mác đã nhấn mạnh rằng, trong cuộc đấu tranh của mình
chống lại quyền lực liên hiệp của các giai cấp hữu sản, chỉ khi nào giai cấp vô sản
tự mình tổ chức được thành một chính đảng độc lập của mình chống lại quyền lực
liên hiệp của các giai cấp hữu sản, chỉ khi nào giai cấp vô sản tự mình tổ chức
được thành một đảng độc lập với tất cả mọi chính đảng cũ do giai cấp hữu sản lập
ra thì mới có thể hành động với tư cách là một giai cấp được.
2.1.3.3. Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản với giai cấp công nhân
Đảng chính trị là tổ chức cao nhất, đại biểu tập trung cho trí tuệ và lợi ích của
toàn thể giai cấp. Đối với giai cấp công nhân đó là Đảng Cộng sản, chẳng những
đại biểu cho trí tuệ và lợi ích của giai cấp công nhân mà còn đại biểu cho toàn thể
nhân dân lao động và dân tộc.
Cho nên phải có một Đảng chính trị vững vàng, kiên định và sáng suốt, có
đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn thể hiện lợi ích của toàn giai cấp và
toàn bộ phong trào để giai cấp công nhân có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của
mình.
Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội - giai cấp của đảng, là nguồn bổ sung lực
lượng của Đảng, Đảng là đội tiên phong chiến đấu, là bộ tham mưu của giai cấp, là
biểu hiện tập trung lợi ích, nguyện vọng, phẩm chất, trí tuệ của giai cấp công nhân
và của dân tộc. Giữa Đảng với giai cấp công nhân có mối liên hệ hữu cơ, không thể
tách rời. Những Đảng viên của Đảng Cộng sản có thể không phải là công nhân


8


nhưng phải là người giác ngộ về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và đứng
trên lập trường của giai cấp này.
Với một Đảng Cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của Đảng chính là sự lãnh
đạo của giai cấp. Đảng với giai cấp là thống nhất, nhưng Đảng có trình độ lý luận
và tổ chức cao nhất để lãnh đạo cả giai cấp và dân tộc vì thế không thể lẫn lộn
Đảng với giai cấp. Đảng đem lại giác ngộ cho toàn bộ giai cấp, sức mạnh đoàn kết,
nghị lực cách mạng, trí tuệ và hành động cách mạng của toàn bộ giai cấp, trên cơ
sở đó lôi cuốn tất cả các tầng lớp nhân dân lao động khác và cả dân tộc đứng lên
hành động theo đường lối của Đảng nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh của mình, giai cấp công nhân cũng như
mỗi người công nhân cần thường xuyên phấn đấu vươn lên, trưởng thành về các
mặt: tư tưởng, chính trị, lập trường giai cấp, văn hoá, khoa học kỹ thuật, tay nghề...
Các tổ chức nghiệp đoàn, công đoàn, thường xuyên phát triển vững mạnh... cùng
với quá trình phát triển không ngừng của nền sản xuất công nghiệp hiện đại...
2.2. Liên hệ thực tế
2.2.1. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức
2.2.1.1. Sự ra đời và phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam
Là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp
ở Việt Nam, sự xuất hiện của những người công nhân đầu tiên ở Việt Nam gắn liền
với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897) và phát triển thành giai cấp công
nhân Việt Nam trong thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ hai (1924 – 1929). Cùng
với quá trình phát triển cách mạng, giai cấp công nhân Việt Nam sớm trở thành bộ
phận quan trọng của đội ngũ công nhân quốc tế.
Thứ nhất: Giai cấp công nhân Việt Nam sinh ra và lớn lên từ một nước nữa
thuộc địa, nửa phong kiến, vốn có truyền thống yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc,

nên dù vẫn còn non trẻ, nhỏ bé song vẫn sớm trở thành giai cấp duy nhất được lịch
sử và dân tộc thừa nhận, giao phó sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam khi các
phong trào cứu nước trước đó theo lập trường phong kiến đã lỗi thời bị lịch sử đào
thải và lập trường tư bản, tiểu tư bản đều thất bại.

9


Thứ hai: Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc,
vừa mới lớn lên đã tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng của giai cấp công nhân
quốc tế, nhanh chóng trở thành lực lượng chính trị tự giác thống nhất, được chủ
tịch Hồ Chí Minh giáo dục đã sớm giác ngộ mục tiêu cách mạng triệt để.
Thứ ba: Giai cấp công nhân nước ta xuất thân từ nông dân lao động, bị thực
dân phong kiến bóc lột, bần cùng hóa nên có quan hệ máu thịt với giai cấp nông
dân và các tầng lớp lao động khác. Qua thử thách của cách mạng, liên minh đã trở
thành động lực và là cơ sở vững chắc cho khối đại đoàn kết dân tộc.
Thứ tư: Từ khi trở thành giai cấp cầm quyền, giai cấp công nhân Việt Nam
luôn phát huy bản chất cách mạng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, luôn là lực
lượng đi đầu và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp công nhiệp hóa, hiện đại
hóa xây dựng và phát triển nền kinh tế công nghiệp và nền kinh tế tri thức hiện đại.
Thứ năm: Quá trình “tri thức hóa” giai cấp công nhân diễn ra mạnh mẽ, từng
bước hình thành giai cấp công nhân tri thức Việt Nam. Việc hình thành giai cấp
công nhân tri thức không có nghĩa là sự bổ sung vào lực lượng giai cấp công nhân
có trình độ cao mà còn là giai cấp công nhân được điều khiển những công nghệ tự
động hóa của nền kinh tế tri thức.
Vậy sự ra đời và phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam có ảnh hưởng
đến quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân nước ta trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2.2.1.2. Quan niệm mới về giai cấp công nhân Việt Nam và sứ mệnh lịch
sử của họ trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với

kinh tế tri thức
Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã
nêu ra quan niệm mới về giai cấp công nhân nước ta và sứ mệnh lịch sử của họ.
“Giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển,
bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các
loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp hoặc sản xuất kinh doanh và
dịch vụ có tính chất công nghiệp”.
“Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: Là giai cấp lãnh đạo
cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện
cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng
10


chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh;
lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ tri thức dưới sự lãnh đạo của Đảng”.
2.2.2. Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
2.2.2.1. Về số lượng, cơ cấu
Trong thời gian qua, số lượng công nhân Việt Nam có xu hướng tăng nhanh
theo quy mô nền kinh tế. Khởi đầu công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đội
ngũ công nhân nước ta có khoảng 5 triệu người. Đến cuối năm 2005, số lượng
công ở nước ta là 11,3 triệu người, chiếm 13,5% dân số, 26,46% lực lượng lao
động xã hội. So với năm 1995, tổng số công nhân tăng 2,14 lần. Năm 2012, cả
nước có hơn 12,3 triệu công nhân trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp và cơ
sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Công nhân thuộc các doanh nghiệp nhà nước có xu hướng giảm do sự sắp
xếp lại cơ cấu.
Bảng 2.1. Sự biến động số doanh nghiệp nhà nước và số lượng công nhân
trong doanh nghiệp nhà nước qua các năm

Năm
1986
1995
2005
2009
Số doanh nghiệp
14.000
7.090
3.935
3.369
Số công nhân (triệu người)
3
1,77
1,84
1,74
Qua bảng ta thấy đội ngũ công nhân trong doanh nghiệp nhà nước có xu
hướng giảm, nhưng đây lại là lực lượng nòng cốt của giai cấp công nhân nước ta.
- Công nhân thuộc các thành phần kinh tế ngoài nhà nước và các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh do số lượng các doanh nghiệp này
tăng nhanh. Năm 1995, có hơn 430 nghìn công nhân làm việc trong các thành phần
kinh tế ngoài nhà nước. Năm 2009, con số này lên tới 5.266,5 nghìn công nhân,
trong đó kinh tế tập thể 261,4 nghìn, kinh tế tư nhân 571,6 nghìn; các loại khác
4.433,5 nghìn. Trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, đến cuối năm 2009 có
1.919,6 nghìn người và tính đến hết năm 2011, con số này là 1,6 triệu lao động.
- Công nhân lao động ở nước ngoài cũng là bộ phận quan trọng tạo nên sự
lớn mạnh của giai cấp công nhân Việt Nam. Tính đến tháng 6/2008, tổng số lao
động và chuyên gia Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài trên 500 nghìn người.
11



Bộ phận này được tiếp xúc và làm việc trong môi trường công nghiệp hiện đại, có
điều kiện học tập, rèn luyện chuyên môn, tay nghề, nâng cao tác phong công
nghiệp.
Công nhân làm việc trong các ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 70,9%,
ngành dịch vụ và thương mại chiếm 24,3%, các ngành khác chiếm 4,8%. Riêng các
cơ sở kinh tế cá thể, công nhân chủ yếu làm việc trong các lĩnh vực dịch vụ và
thương mại chiếm 66,7%, 33,33% làm việc trong lĩnh vực công nghiệp và tiểu thủ
công nghiệp.
Hiện tượng thay đổi việc làm, nghề nghiệp của công nhân nước ta cũng có
chiều hướng gia tăng. Sự thay đổi nơi làm việc cũng diễn ra thường xuyên ở tất cả
các thành phần kinh tế. Đặc biệt, công nhân lao động khu vực kinh tế ngoài nhà
nước có tỷ lệ thay đổi nơi làm việc rất lớn.
Giai cấp công nhân Việt Nam chiếm tỷ lệ không lớn so với dân số cả nước
nhưng hằng năm đóng góp khoảng 50% tổng sản phẩm xã hội và bảo đảm hơn
60% ngân sách nhà nước.
2.2.2.2. Chất lượng giai cấp công nhân
Trình độ học vấn của công nhân trong tất cả các khu vực kinh tế có xu
hướng được nâng lên: năm 1985, tỷ lệ công nhân có học vấn trung học phổ thông
là 42,5% thì năm 2003 tăng lên 62,2%, năm 2005 tăng lên 69,3%. Tuy nhiên, so
với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và so với trình độ công
nhân ở các nước trong khu vực và thế giới thì trình độ học vấn của công nhân nước
ta còn thấp. Mặt khác, lực lượng công nhân có trình độ học vấn cao phân bố không
đồng đều, thường tập trung ở một số thành phố lớn và một số ngành kinh tế mũi
nhọn.
Trình độ nghề nghiệp của công nhân tuy đã được nâng cao, nhưng nhìn
chung chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Năm 1996, số công nhân chưa qua đào
tạo nghề là 45,7%, năm 2005 là 25,1%. Trình độ chuyên môn, tay nghề của công
nhân các loại hình doanh nghiệp năm 2005 như sau: lao động có trình độ từ cao
đẳng trở lên chiếm 16,1%, lao động có trình độ trung cấp chiếm14,6%, công nhân
kỹ thuật chiếm 28,1%, lao động không được đào tạo chiếm 41,2%. Năm 2010, số

lao động có trình độ đại học trở lên là 5,7 %, cao đẳng là 1,7 %, trung cấp là 3,5 %,
12


dạy nghề 3,8 %. Tình trạng mất cân đối trong cơ cấu lao động kỹ thuật khá lớn.
Nhiều doanh nghiệp có thiết bị công nghệ cao nhưng lại thiếu công nhân lành
nghề. Đặc biệt, chỉ có 75,85% công nhân đang làm những công việc phù hợp với
ngành nghề đào tạo. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới năng suất, chất lượng
sản phẩm, gây lãng phí trong đào tạo nghề.
Độ tuổi bình quân của công nhân nước ta nhìn chung trẻ, nhóm công nhân từ
18 đến 30 tuổi chiếm 36,4%, đặc biệt trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
công nhân dưới 25 tuổi chiếm 43,4%, từ 26-35 tuổi chiếm 34,7%, từ 36-45 tuổi
chiếm 14%. Hầu hết công nhân được tiếp cận với kinh tế thị trường nên năng động,
thích ứng nhanh với công nghệ hiện đại.

Biểu đồ 2.1. Tuổi nghề của công nhân Việt Nam
2.2.2.3. Đời sống, việc làm của công nhân lao động
a. Việc làm cho công nhân lao động
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, giải pháp
đầu tư phát triển sản xuất, giải quyết việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, do
quy mô nền kinh tế nhỏ, trình độ phát triển, sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta
còn yếu so với khu vực và thế giới nên tỷ lệ thất nghiệp còn ở mức cao.
Theo số liệu của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, năm 2009, cả nước có
83% số công nhân có việc làm thường xuyên ổn định, còn 12% việc làm không ổn
định và 2,7% thường xuyên thiếu việc làm. Chỉ có khoảng 21% doanh nghiệp
ngoài nhà nước đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho công nhân và trích nộp
kinh phí công đoàn.
b. Thu nhập của công nhân lao động
Mức lương của người lao động hiện nay về cơ bản không đáp ứng được nhu
cầu sinh hoạt tối thiểu của bản thân, chứ chưa nói đến việc tích lũy hay chăm lo

cho con cái... Nhà nước đã từng bước thực hiện lộ trình tăng lương tối thiểu, thậm
chí có quy định về mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm ở các loại
hình doanh nghiệp (Nghị định số 70/2011/NĐ-CP). Tuy nhiên, mức tăng thường
không theo kịp tốc độ tăng giá của thị trường.
13


Năm 2010, tiền lương của người lao động trong các loại hình doanh nghiệp
tăng 10,3% so với năm 2009 nhưng chỉ số giá sinh hoạt tăng 11,75%, nên việc tăng
lương không có tác dụng nhiều trong việc cải thiện đời sống công nhân, đặc biệt là
công nhân ở các khu công nghiệp, khu chế xuất. Trong khi đó, phần lớn các chủ
doanh nghiệp vẫn đang lấy mức lương tối thiểu để trả lương cho người lao động,
chưa thật sự quan tâm đến việc xây dựng thang, bảng lương. Ngoài ra, các chủ
doanh nghiệp còn bớt một phần lương của người lao động chi cho các khoản phụ
cấp như ăn trưa, tiền hỗ trợ đi lại, thưởng...
c. Nhà ở của công nhân
Do nhiều nguyên nhân khác nhau, hầu hết các tỉnh, thành phố lớn, các khu
công nghiệp, khu chế xuất không xây nhà lưu trú cho công nhân. Số người lao
động trong các khu công nghiệp khoảng 1,6 triệu người, trong đó, chỉ có 20% số
người có chỗ ở ổn định. Đa số người lao động ngoại tỉnh làm việc tại các khu công
nghiệp đều phải thuê nhà trọ, với điều kiện vệ sinh, môi trường không bảo đảm.
Thực hiện Quyết định số 66/2009/QĐ-TTg ngày 24-4-2009 của Thủ tướng
Chính phủ về Cơ chế, chính sách phát triển nhà ở cho người lao động trong các
khu công nghiệp, các tỉnh, thành phố đã đăng ký 110 dự án nhà ở cho người lao
động tại các khu công nghiệp giai đoạn 2010 - 2015. Tuy nhiên, theo Thanh tra
Chính phủ, đến nay, các dự án nhà ở cho công nhân tại các khu công nghiệp đều
chậm tiến độ so với yêu cầu, trong số 27 dự án đã được khởi công xây dựng mới có
9 dự án hoàn thành.
Trong quy hoạch phát triển các khu công nghiệp phần lớn chưa tính tới nhu
cầu về chỗ ở, nhà trẻ, trường học cho gia đình người lao động. Một số nơi xây nhà

ở cho người lao động thì lại thiếu đồng bộ với việc xây dựng kết cấu hạ tầng xã
hội.
d. Đời sống văn hóa của công nhân
Những năm gần đây, các doanh nghiệp đã từng bước đáp ứng nhu cầu văn
hóa tinh thần của người lao động. Tuy nhiên, ở hầu hết các khu công nghiệp, khu
chế xuất chưa tạo ra những điều kiện bảo đảm sinh hoạt văn hóa cho công nhân.
Theo kết quả điều tra xã hội học tại Bình Dương, có đến 71,8% công nhân
không có điều kiện để đến rạp chiếu phim, 88,2% không đi xem ca nhạc, 84,7%
14


không đi xem thi đấu thể thao, 95,3% chưa từng đến sinh hoạt tại các câu lạc bộ,
91,8% không bao giờ đến các nhà văn hóa tham gia các hoạt động vui chơi giải trí,
văn hóa tinh thần, 89% giải trí bằng tivi, 82,4% bằng nghe đài, chỉ có 1,2% sử
dụng internet. Nguyên nhân của tình trạng trên là do công nhân không có thời gian,
kinh phí và các khu công nghiệp cũng không có cơ sở vật chất để đáp ứng nhu cầu
sinh hoạt tinh thần của họ.
e. Điều kiện làm việc
Nhìn chung, điều kiện làm việc của công nhân chưa được bảo đảm. Nhiều
công nhân phải làm việc trong môi trường bị ô nhiễm nặng như nóng, bụi, tiếng ồn,
độ rung vượt tiêu chuẩn cho phép. Điều đó đã tác động xấu đến sức khoẻ người lao
động, gây ra các bệnh nghề nghiệp.
2.2.2.4. Ý thức, tâm trạng chính trị
Hiện nay, công nhân nước ta năng động trong công việc, nhanh chóng tiếp
thu những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại và đã bắt đầu hình thành ý thức
về giá trị của bản thân thông qua lao động. Vị thế giữa công nhân lao động trong
doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước không còn cách biệt
nhiều. Tâm lý lấy lợi ích làm động lực là nét mới đang dần trở thành phổ biến
trong công nhân. Sự quan tâm hàng đầu của công nhân là việc làm, thu nhập tương
xứng với lao động. Mong muốn nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, có đủ việc

làm, có được sức khoẻ, được bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng…
2.2.3. Những hạn chế của giai cấp công nhân Việt Nam trong công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế
- Giai cấp công nhân không những bất cập so với yêu cầu phát triển chung
của thời đại mà đang thực sự bất cập với chính yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp của công nhân lao
động còn thấp so với yêu cầu phát triển đất nước và đang mất cân đối nghiêm trọng
trong cơ cấu lao động kỹ thuật giữa các bộ phận công nhân. Rõ nét nhất là tình
trạng thiếu nghiêm trọng chuyên gia kỹ thuật, nhà quản lý giỏi, công nhân có trình
độ tay nghề cao.
- Đời sống vật chất, tinh thần của công nhân chưa được đảm bảo, môi trường
làm việc độc hại, quyền lợi không được giải quyết một cách thỏa đáng... đã dẫn
15


đến các cuộc đình công. Các cuộc đình công tự phát ngày càng gia tăng với tính
chất gay gắt, phức tạp. Theo Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, năm 2011, cả
nước xảy ra 981 cuộc đình công, tăng hơn 2,3 lần so với năm 2010, tập trung chủ
yếu ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Nguyên nhân chủ yếu là do người sử
dụng lao động không thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của pháp luật như không
trả lương đúng bảng lương đã đăng ký, tự ý thay đổi định mức lao động, sa thải
công nhân vô cớ, không đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đầy đủ cho công
nhân...
- Ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp của một bộ phận công nhân
còn yếu. Ý thức chính trị, nhận thức về luật pháp của công nhân còn hạn chế. Tỷ lệ
đảng viên, đoàn viên công đoàn trong công nhân lao động còn thấp.
- Vai trò của tổ chức Đảng và các đoàn thể trong các doanh nghiệp chưa đáp
ứng được sự phát triển nhanh chóng về số lượng, cơ cấu của giai cấp công nhân.
Công tác phát triển đảng trong công nhân chậm. Ở hầu hết các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân đều không muốn hoặc không quan

tâm đến việc xây dựng các tổ chức Đảng. Hoạt động của Đoàn Thanh niên, tổ chức
công đoàn còn mang tính hình thức. Nhiều tổ chức công đoàn chưa thực sự đứng
về phía người lao động, bởi cán bộ công đoàn do doanh nghiệp trả lương, làm việc
không chuyên trách dưới sự lãnh đạo quản lý trực tiếp của chủ doanh nghiệp.

2.2.4. Một số giải pháp để phát triển giai cấp công nhân Việt Nam trong
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế
Để xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh, đáp ứng
yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, cần thực hiện tốt một số giải
pháp sau:
- Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân lao động, đặc biệt là
người lao động ở các khu công nghiệp, khu chế xuất. Bao gồm:
+ Thực hiện chính sách tiền lương bảo đảm đời sống cho người lao động và
có tích lũy từ tiền lương; đồng thời, mở rộng cơ hội cho công nhân mua cổ phần
trong doanh nghiệp, nhằm góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và
tiến bộ, giảm thiểu tranh chấp lao động và đình công trong doanh nghiệp. Các cơ
16


quan chức năng nhà nước và tổ chức công đoàn cần tăng cường công tác kiểm tra,
thanh tra để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, xử
lý nghiêm các doanh nghiệp vi phạm quyền lợi của người lao động. Xây dựng và
thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp
đối với người lao động.
+ Có chính sách cụ thể giải quyết nhà ở cho người lao động. Khi phê duyệt
các khu công nghiệp, khu chế xuất, cần yêu cầu dành quỹ đất tương xứng để xây
dựng nhà ở và các công trình thuộc kết cấu hạ tầng xã hội cho công nhân. Cần có
chính sách ưu đãi thích đáng cho doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà ở tại các KCN
như chính sách ưu đãi về tiền sử dụng đất, miễn giảm thuế, vay vốn ưu đãi, hỗ trợ
hạ tầng…

+ Nâng cao chất lượng đời sống tinh thần cho công nhân. Nhà nước cần thể
chế hóa các quy định, xác định trách nhiệm rõ ràng đối với các cấp chính quyền,
các doanh nghiệp trong việc chăm lo xây dựng đời sống văn hóa cho người lao
động. Có các chính sách ưu đãi cho các nhà đầu tư xây dựng các dịch vụ văn hóa,
thể thao, chăm sóc sức khỏe cho người lao động.
- Nâng cao chất lượng đào tạo nghề, phát triển đội ngũ công nhân có trình độ
cao, làm chủ được khoa học công nghệ, có kỹ năng lao động, tác phong công
nghiệp, ý thức kỷ luật. Cần kịp thời bổ sung, sửa đổi, xây dựng chính sách đào tạo
và đào tạo lại công nhân; tạo điều kiện cho họ tự học tập nâng cao trình độ; điều
chỉnh, bổ sung quy hoạch mạng lưới các cơ sở dạy nghề gắn với các ngành, các
vùng kinh tế trọng điểm. Khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế dành kinh phí thích đáng và thời gian cho đào tạo, đào tạo lại công nhân.
- Xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật liên quan
đến việc đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân. Xây dựng,
hoàn thiện các chính sách, pháp luật về lao động, việc làm, đời sống, nâng cao thể
chất cho công nhân. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Nhà nước, tổ chức
công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác trong doanh nghiệp, có chế tài xử
lý nghiêm các tổ chức và cá nhân vi phạm chính sách, pháp luật. Khuyến khích, tạo
điều kiện cho người lao động chủ động học tập nâng cao nhận thức, nắm bắt những
quy định cơ bản về quyền và nghĩa vụ của mình trong quan hệ lao động, giúp họ tự
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng trong trường hợp cần thiết.
17


- Tăng cường vai trò của các cấp uỷ Đảng, Đoàn Thanh niên và đặc biệt là
của Công đoàn trong việc nâng cao đời sống, đảm bảo quyền lợi cho công nhân
nhất là công nhân ở các khu công nghiệp, khu chế xuất. Tăng tỷ lệ tham gia của
công nhân trong cơ cấu tổ chức chính trị - đoàn thể ở doanh nghiệp, nhất là tổ chức
Công đoàn để tăng cường tính đại diện cho lợi ích của công nhân.


3. Kết luận
Giai cấp công nhân là một sản phẩm của lịch sử, nó ra đời và phát triển cùng
với sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại. Do địa vị kinh tế, xã hội và nhiều
nhân tố chủ quan nên giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử toàn thế giới đó là xóa
bỏ áp bức, bóc lột giành lấy chính quyền từ tay tư bản chủ nghĩa để xây dựng nên
xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Có tiền đề lý luận dẫn đường là hệ thống tư tưởng của chủ nghĩa Mác –
Lênin, với đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản, lịch sử cũng đã chứng minh
giai cấp công nhân là lực lượng nòng cốt, lãnh đạo quần chúng nhân dân đấu tranh
làm cuộc cách mạng triệt để.
Giai cấp công nhân hiện nay mặc dù không bị bóc lột tàn nhẫn như trước,
một số bộ phận công nhân đã nắm giữ tài sản và không còn “trần như nhộng” tuy
nhiên điều kiện sinh sống, làm việc của đại đa số công nhân vẫn còn nhiều khó
18


khăn, so với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì giai cấp công nhân
Việt Nam còn nhiều hạn chế. Hầu hết công nhân chỉ quan tâm đến công việc và thu
nhập chứ không mấy ý thức về chính trị nên có thể họ không hề biết đến sứ mệnh
của mình và thực tế thì giai cấp công nhân vẫn chưa hoàn thành sứ mệnh lịch sử
toàn thế giới. Vì vậy, Đảng Cộng sản – đội tiên phong đại diện cho giai cấp công
nhân cần phải có các chính sách cải thiện và nâng cao điều kiện làm việc, đời sống
vật chất, văn hóa, tinh thần của giai cấp công nhân; đẩy mạnh hoạt động quần
chúng, phong trào, thành lập, tổ chức công đoàn cho công nhân sinh hoạt và nâng
cao trình độ nhận thức để giác ngộ, phát huy vai trò của giai cấp công nhân trong
sự nghiệp đấu tranh chung của giai cấp và nhân dân lao động trên thế giới vì hòa
bình, tiến bộ xã hội toàn thế giới.

19




×